Mục lục
Trang
Lời mở đầu
2
Kết cấu đề tài
4
Chương I: Cơ sở lý luậnTDNH và kế toán cho vay trong hệ thống ngân hàng
5
1.1. TDNH và vai trò của TDNH trong nền kinh tế quốc dân
5
1.2. Sự cần thiết của TDNH đối với sự phát triển của KT ngoài QD
8
1.3. Vai trò nhiệm vụ của kế toán ngân hàng
12
1.4. Các phương thức cho vay chứng từ tài khoản kế toán nghiệp vụ cho vay ngoài quốc doanh
15
1.5. Quy trình kế toán cho vay ngoài quốc doanh
24
Chương II: Thực trạng công tác kế toán cho v
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1217 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề kế toán cho vay ngoài quốc doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ay ngoài quốc doanh tại NHNo & PTNT Quảng Bình
30
2.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh tại NHNo & PTNT Quảng Bình
30
2.2. Tình hình thực hiện kế toán cho vay ngoài quốc doanh tại NHNo & PTNT Quảng Bình
41
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao công tác kế toán cho vay ngoài quốc doanh tại NHNo & PTNT Quảng Bình
56
3.1. Thực hiệ đôn đốc thu hồi nợ và lãi phù hợp với thực trạng từng khoản vay
56
3.2. Phương pháp cho vay
57
3.3. Khuyến khích khách hàng vay chuyển khoản qua ngân hàng
57
3.4. Phương pháp xử lý nợ, nợ quá hạn
58
3.5. Phạt chậm trả đối với khoản "Lãi chưa thu"
58
3.6. áp dụng tin học trong kế toán cho vay
60
3.7. Nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên ngân hàng để đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong cơ chế thị trường
61
Kết luận
62
Lời nói đầu
Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nền kinh tế Việt nam chuyển sang giai đoạn phát triển mạnh đó là giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của nhà nước. nền kinh tế nhiều thành phần bắt đầu được chú trọng, quan tâm và phát triển mạnh mẽ đã làm thay đổi cục diện nền kinh tế theo chiều hướng tốt.
Kinh tế ngoài quốc doanh là một trong những thành phần kinh tế của nền kinh tế Việt nam, đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự thành công ấy. Tuy nhiên bất kỳ một doanh nghiệp nào (dù là quốc doanh hay ngoài quốc doanh) muốn tiến hành sản xuất kinh doanh để tồn tại và phát triển đều cần phải có vốn. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn mới được hình thành, mặc dù thành phần kinh tế này có rất nhiều tiềm năng để phát triển nhưng quy mô còn nhỏ bé và không đủ vốn để tự đối đầu trực tiếp với thương trường, họ không đủ vốn để đổi mới công nghệ sản xuất, mở rộng thị trường và phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong khu vực kinh tế này.
Ngân hàng đầu tư vốn cho các thành phần kinh tế tạo những điều kiện thuận lợi nhất, họ hoạt động trên mọi lĩnh vực kinh tế. Ngân hàng đã góp phần rất lớn trong việc tạo ra một vị trí phát triển mới cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thông qua hoạt động tín dụng. Gắn liền với hoạt động cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là công tác kế toán cho vay ngoài quốc doanh.
Nhờ nghiệp vụ kế toán cho vay ngân hàng sẽ quản lý tốt tài sản tiền vốn của ngân hàng trong hoạt động kinh doanh, tiền tệ. Đồng thời cũng quản lý tốt tài sản, tiền vốn của khách hàng thông qua những số liệu ghi chép phản ánh kịp thời, chính xác.
Công tác kế toán cho vay liên quan đến nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc doanh. Đặc biệt là kế toán cho vay ngoài quốc doanh với thao tác nghiệp vụ chính xác, đầy đủ, nhanh gọn góp phần thực hiện nhanh chóng công tác giải ngân, theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng vốn và tính toán được hiệu quả công tác tín dụng của ngân hàng. Đồng thời đáp ứng đầy đủ nhu cầu thiếu vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tạo một thế phát triển mới cho thành phần kinh tế này trong công cuộc phát triển kinh tế chung của cả nước.
Do thời gian hạn chế, tìm hiểu thực tế còn ít. sau đây tôi xin tập trung phân tích công tác kế toán cho vay ngoài quốc doanh trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Nông nghiệp Quảng Bình. Tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài "Một số vấn đề kế toán cho vay ngoài quốc doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Bình".
B - Kết cấu của đề tài:
Ngoài lời mở đầu và kết luận
Chương 1: Cơ sở về lý luận TDNH và KT cho vay trong hệ thống Ngân hàng.
Chương 2: Thực tế công tác kế toán cho vay ngoài quốc doanh tại NHNO&PTNT Quảng bình
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác kế toán cho vay ngoài quốc doanh tại NHNO Quảng bình
Chương I
Cơ sở về lý luận TDNH và kế toán cho vay trong hệ thống ngân hàng.
1.1 Tín dụng ngân hàng và vai trò của Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế quốc doanh:
Tín dụng ngân hàng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định được quay trở lại với người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn ban đầu.
* Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng là các đơn vị kinh tế, các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội.
1.1.1 Tín dụng ngân hàng đáp ứng vốn để duy trì quá trình tái sản xuất đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế:
Do quá trình tái sản xuất xã hội là thường xuyên, liên tục nên nhu cầu về vốn cũng nảy sinh thường xuyên với mức độ ngày càng cao. Trong khi đó lại có những cá nhân, tổ chức... có một lượng tiền nhàn rỗi tạm thời trong một thời gian nhất định. Đây là một mâu thuẩn cần giải quyết sao cho cả hai bên đều có lợi: Bên cần vốn thì được vay vốn với chi phí thấp, bên có vốn thì thu lợi từ khoản vốn ấy. Hoạt động Tín dụng ngân hàng ra đời đã biến các phương tiện tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thành những phương tiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Động viên nhanh chóng vật tư lao động các nguồn lực sẵn có khác đưa vào sản xuất, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, lưu thông, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng. Mặt khác việc cung ứng vốn một cách kịp thời của tín dụng ngân hàng đã đáp ứng được như cầu về vốn lưu động, vốn cố định của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.
Việc phân phối lại vốn tín dụng đã góp phần cung ứng và điều hoà vốn trong nền kinh tế, khiến cho quá trình sản xuất, kinh doanh được tiến hành một cách trôi chảy. Tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Thông qua tín dụng, các nguồn vốn nhàn rỗi được tập hợp và toàn bộ nguồn vốn đó được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này khiến đầu tư cho nền kinh tế được mở rộng, góp phần nâng cao sản lượng trong sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế.
1.1.2 Tín dụng ngân hàng là công cụ mạnh mẽ thúc đẩy quá trình tập hợp vốn và tập hợp sản xuất:
Tín dụng thông qua việc thực hiện hoạt động đi vay để cho vay đã làm nhiệm vụ đưa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Điều này được thể hiện ở việc tín dụng thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các cá nhân, tổ chức cho vay và đầu tư phát triển kinh tế.
Nguồn vốn tín dụng đó được hình thành từ: Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (nguồn vốn khấu hao được tiến hành một cách dần dần, các khoản phải trả nhưng chưa trả, phải nộp nhưng chưa nộp mà doanh nghiệp đang nắm giữ...) nguồn vốn tiết kiệm từ dân cư, nguồn vốn tiền tệ của những người kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ & ngân hàng... thông qua hoạt động tín dụng các nguồn vốn được tích tụ, tập hợp từ đó đáp ứng nhu cầu thiếu vốn cho các đối tượng vay.
Bên cạnh đó việc sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn phải đáp ứng những nhu cầu sau: Sản phẩm, hàng hóa có chất lượng cao, hình thức đẹp, giá cả hợp lý. . . điều này đòi hỏi các dịch vụ phải đổi mới công nghệ sản xuất, đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh... từ đó thúc đẩy nhu cầu về vốn ngày càng tăng lên. Để giải quyết vấn đề này một cách nhanh chóng và có hiệu quả thì Tín dụng ngân hàng là công cụ quan trọng nhất.
Tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế mà còn giúp các doanh nghiệp phát huy được thế mạnh về kỹ thuật, lao động... của mình.
Tuy nhiên, quá trình đầu tư tín dụng không rải đều cho mọi chủ thể có nhu cầu mà việc đầu tư được thực hiện một cách tập hợp chủ yếu vào những dự án có khả thi và có hiệu quả. Đầu tư tập trung tránh rủi ro và thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.
1.1.3 Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế:
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là cho vay có hoàn trả và có lợi tức. Ngân hàng huy động vốn của doanh nghiệp khi họ có vốn nhàn rỗi và cho vay khi họ cần vốn bổ sung cho sản xuất kinh doanh. Khi sử dụng vốn vay của ngân hàng, doanh nghiệp phải tôn trọng mọi điều kiện ghi trong hợp đồng tín dụng, trả nợ vay đúng hạn cả gốc và lãi. Do đó thúc đẩy các doanh nghiệp tìm mọi biện pháp tăng hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí, tăng vòng quay vốn... để tạo điều kiện nâng cao doanh lợi cho doanh nghiệp. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tự vươn lên thông qua các hoạt động của mình, một trong những hoạt động khá quan trọng là hạch toán kinh tế.
Quá trình hạch toán kinh tế là quá trình quản lý đồng vốn sao cho có hiệu quả. Để quản lý đồng vốn có hiệu quả thì hạch toán kinh tế phải giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn để nó được sử dụng đúng mục đích, tạo ra doanh lợi cho doanh nghiệp. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện hơn nữa quá trình hạch toán của đơn vị mình.
1.1.4 Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá, luân chuyển tiền tệ, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và kiểm soát lạm phát:
Qua quá trình cho vay khối lượng tiền trong lưu thông được tăng lên và khi ngân hàng thu nợ thì khối lượng tiền trong lưu thông giảm đi. Như vậy trong hoạt động động tín dụng ngân hàng (thu hút vốn và cho vay) sẽ làm tăng (giảm) khối lượng tiền trong lưu thông, từ đó góp phần điều tiết khối lượng tiền của toàn bộ nền kinh tế.
Thông qua công cụ lãi suất, hạn mức tín dụng mà ngân hàng sử dụng để làm thay đổi khối lượng tiền vay, từ đó điều tiết được khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiểm soát được lạm phát. Bởi Tín dụng ngân hàng khi điều tiết được khối lượng tiền tức là góp phần khống chế khối lượng tiền vừa đủ so với nhu cầu lưu thông hàng hoá nhờ đó kiểm soát được giá cả. Khi giá cả tăng nhanh ngân hàng thường tăng lãi suất cho vay để giảm khối lượng cho vay, giảm khối lượng tiền trong lưu thông đồng thời kiểm soát được lạm phát.
1.2 Sự cần thiết của Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh:
1.2.1 Đặc điểm của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh:
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có những đặc thù riêng cụ thể.
Thứ nhất: ở nước ta hiện nay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh hầu hết là các đơn vị trẻ, ngành nghề kinh doanh phong phú dễ tiếp nhận và nhạy bén với kỹ thuật mới. Do vậy nó cần phải được phát triển và giữ một vị trí quan trọng trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta.
Thứ hai: Với thị trường lao động rộng lớn, giá nhân công rẽ mạt, do vậy các thành phần kinh tế này rất có lợi thế về kinh nghiệm làm ăn, truyền thống sản xuất của người lao động, nó thừa hưởng thành quả và sự phù hợp với xu thế phát triển của các đơn vị kinh tế trên thế giới và chủ trương đổi mới cơ cấu kinh tế ở nước ta.
Thứ ba: Việc sắp xếp lại các dịch vụ nhà nước đã chuyển dịch một tỷ lệ đáng kể "chất xám" từ khu vực nhà nước sang khu vực kinh tế tư nhân. Hơn thế nữa, nội lực năng động trong phương thức phân phối thu nhập sẽ tạo kênh dòng chảy các cán bộ quản lý giỏi, lao động kỹ thuật cao từ các doanh nghiệp nhà nước về các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh. Nó tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế này phát triển.
Thứ tư: Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Nhưng thành phần này mang tính chất "tự thân vận động". Do vậy mục đích của nó là cạnh tranh có hiệu quả để đạt lợi nhuận cao bằng mọi thủ đoạn trong sản xuất, kinh doanh.
Thứ năm: Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có tính sở hữu, tư hữu, hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn liền với người sản xuất, bộ máy gọn nhẹ, năng động.
Qua các đặc điểm của nền kinh tế ngoài quốc doanh ta thấy nó rất phù hợp với sự phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. Nếu nhà nước có một chính sách và một môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế này phát triển thì họ sẽ đóng góp một tỷ trọng đáng kể cho tăng trưởng GDP trong cả nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giảm tệ nạn xã hội trong nền kinh tế.
1.2.2 Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh:
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng với các đường lối đổi mới đúng đắn kịp thời, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã có chỗ đứng bình đẳng so với kinh tế quốc doanh. Do vậy nó đã và đang phát huy thế mạnh sẵn có để góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. Vị trí quan trọng của nó đã được khẳng định trong cơ cấu phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Vai trò của nó được thể hiện ở các mặt cụ thể sau:
+ Kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang đóng góp cho nền kinh tế một khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn, đa dạng phong phú, chất lượng cao, tạo quỹ tiêu dùng và xuất khẩu.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang có nhiều đóng góp đáng kể cho nền kinh tế đất nước, góp phần tạo thế cân đối quỹ hàng hoá cho các địa phương trong cả nước mà đồng thời còn là nguồn lực chính tạo ra sản phẩm xuất khẩu, tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước.
+ Kinh tế ngoài quốc doanh giải phóng mọi năng lực sản xuất và đối thủ cạnh tranh với thành phần kinh tế quốc doanh, giúp cho sự phát triển của nền kinh tế ngày càng sôi động.
Kinh tế ngoài quốc doanh có những đặc điểm về tính sở hữu cao, bộ máy sản xuất kinh doanh rất năng động, nhạy bén, hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn liền với người sản xuất, họ đều có mục đích vì quyền lợi của chính cá nhân mình, ít gia đình, ít người thân... đó là điều kiện giúp cho kinh tế ngoài quốc doanh phát huy được mọi tiềm năng. Mặt khác nền kinh tế thị trường sẽ hoạt động có hiệu quả mang lại lợi ích tốt nhất cho người tiêu dùng và cho xã hội khi và chỉ khi có cạnh tranh. Có cạnh tranh thì người sản xuất mới chú trọng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh hơn để làm thế nào sản phẩm của mình sản xuất ra được thị trường chấp nhận và tiêu thụ được. Với đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo điều kiện để kinh tế ngoài quốc doanh tiết kiệm chi phí sản xuất, tìm kiếm mặt hàng mới, khai thác thị trường mới, luôn nhanh nhạy xoay chuyển tình thế kịp thời phù hợp với nhu cầu thị trường, đưa ra những sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp giá cả hợp lý. Những nhân tố trên là những nhân tố đầy sức hấp dẫn đối với quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
+ Kinh tế ngoài quốc doanh tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Hiện nay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu xã hội ngày càng tăng lên, bởi vì thu nhập trong dân cư ngày càng tăng thì nhu cầu về sinh hoạt của nhân dân ngày càng lớn. Để đáp ứng được nhu cầu xã hội, về phía các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh họ luôn phải tăng cường mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng là để tăng nguồn thu cho chính các đơn vị và nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
+ Kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang giải quyết một số vấn đề nan giải, đó là vấn đề công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Từ đó ta thấy rằng: Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh là một giải pháp hữu hiệu cho việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
1.2.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh:
Xuất phát từ đặc điểm và vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh cho thấy khu vực kinh tế này có một tiềm năng rất lớn. Tuy nhiên xem xét một cách toàn diện thì kinh tế ngoài quốc doanh còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại cần phải giải quyết.
Kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta là một khu vực kinh tế mới được vực dậy và đang ở thời kỳ khởi đầu của sự phát triển, cho nên vẫn còn tồn tại của cơ chế cũ, phát triển kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta bộ phận lớn là được khôi phục lại và thành lập thêm các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã . . .
Để phát huy tính năng động trong kinh doanh, khai thác tối da nguồn lực sẵn có trong khu vực kinh tế này, nhà nước cần hỗ trợ cho họ để tạo điều kiện cho họ phát triển lành mạnh. Một giải pháp hữu hiệu nhất đó là đầu tư vốn hỗ trợ cho khu vực kinh tế này qua kênh tín dụng ngân hàng. Từ đó đã khẳng định vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vai trò này được thể hiện trên các mặt sau:
+ Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh theo mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước.
Bất kỳ một đơn vị nào để tiến hành sản xuất kinh doanh được thì cũng cần phải có vốn, và cũng vậy đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ra đời và phát triển thực hiện quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng cũng cần có một nguồn vốn đủ để mua sắm tài sản cố định, tài sản lưu động và các chi phí khác. Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức để cạnh tranh và phát triển trong nền kinh tế thị trường và để phân tán những rủi ro trong kinh doanh. Các thành phần kinh tế này thường phải huy động thêm nguồn từ bên ngoài, nguồn vốn quan trọng nhất để bổ sung vốn cố định và vốn lưu động cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đó là nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
+ Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế giúp cho các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, ứng dụng khoa học kỹ thuật... Thông qua các khoản tín dụng ngân hàng thương mại. Như vậy tín dụng trở thành người trợ thủ đắc lực cho các đơn vị này trong việc thỏa mãn cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội kinh doanh, các đơn vị này cần phải mở rộng sản xuất, gia tăng lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, khi cơ hội sản xuất không còn vốn thì ngân hàng sẽ cho vay.
Nguồn này ngân hàng huy động từ nhiều nơi khác nhau, như huy động từ dân cư, các tổ chức kinh tế trong nước, ngoài nước. . .
+ Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu của chính phủ là phát triển kinh tế đa thành phần, phát huy vai trò của Tín dụng ngân hàng để đạt được mục tiêu đổi mới, cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế ngoài quốc doanh góp phần đưa nền kinh tế nước ta lên một vị trí mới. Đặc biệt là nguồn vốn tín dụng để giúp các đơn vị có điều kiện thuận lợi mở rộng sản xuất kinh doanh, để theo kịp, hoà nhập vào kinh tế thế giới.
1.3 Vai trò nhiệm vụ của Kế toán ngân hàng:
Hạch toán kế toán là khoa học quản lý, nghiên cứu quá trình tái sản xuất xã hội thông qua sự hình thành và vận động của tài sản (vốn) trong nền kinh tế xã hội. Do vậy, đối tượng của hạch toán kinh tế nói chung và Kế toán ngân hàng nói riêng đều là vốn cũng như sự vận động của nó trong nền sản xuất xã hội. Nghiên cứu Kế toán ngân hàng cũng chính là sự nghiên cứu về vốn và sự vận động của nó, đồng thời cũng thấy rõ được tầm quan trọng của kế toán ngân hàng trong hoạt động của ngân hàng nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng.
1.3.1 Vai trò của kế toán ngân hàng:
Kế toán ngân hàng là hệ thống thông tin phản ánh hoạt động của ngân hàng. Kế toán ngân hàng cung cấp những số liệu về huy động vốn, sử dụng vốn, thu nhập, chi phí, lợi nhuận của từng loại nghiệp vụ và của toàn bộ ngân hàng. Qua đó ta có thể thấy được ngân hàng hoạt động có hiệu quả hay không? đồng thời cũng thấy được triển vọng của ngân hàng để từ đó ra những quyết định kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý tài sản.
Hầu hết các nghiệp vụ của kế toán ngân hàng đều liên quan đến các ngành kinh tế khác vì thế kế toán ngân hàng không chỉ phản ảnh tổng hợp hoạt động của bản thân ngân hàng mà còn phản ảnh tổng hợp hoạt động của nền kinh tế thông qua quan hệ tiền tệ, tín dụng... giữa ngân hàng với các đơn vị tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thông qua các hoạt động của mình, kế toán ngân hàng giúp cho các giao dịch trong nền kinh tế được tiến hành một cách kịp thời, nhanh chóng và chính xác hơn. Những số liệu do kế toán ngân hàng cung cấp là những chỉ tiêu thông tin kinh tế quan trọng giúp cho việc chỉ đạo điều hành hoạt động kinh doanh ngân hàng và làm căn cứ cho việc hoạt động, thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và chỉ đạo hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
1.3.2 Nhiệm vụ của kế toán ngân hàng:
Để phát huy đầy đủ vai trò của mình, kế toán ngân hàng có các nhiệm vụ sau đây:
- Kế toán ngân hàng ghi nhận, phản ảnh chính xác, đầy đủ kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh thuộc về hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng theo đúng pháp lệnh kế toán thống kê của nhà nước và các thể lệ, chế độ kế toán ngân hàng. Trên cơ sở đó để bảo vệ an toàn tài sản của bản thân ngân hàng cũng như tài sản của toàn xã hội bảo quản tại ngân hàng.
- Kế toán ngân hàng phân loại nghiệp vụ tổng hợp số liệu theo đúng phương pháp và theo những chỉ tiêu nhất định nhằm cung cấp thông tin một cách kịp thời phục vụ lãnh đạo thực thi chính sách quản lý và chỉ đạo hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Kế toán ngân hàng giám sát quá trình sử dụng tài sản (vốn) nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các loại tài sản thông qua kiểm soát trước, các nghiệp vụ bên nợ và bên có ở từng đơn vị ngân hàng cũng như toàn bộ hệ thống, góp phần tăng cường kỹ luật tài chính, cũng cố chế độ hạch toán kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Kế toán ngân hàng tổ chức giao dịch phục vụ khách hàng một cách khoa học, văn minh. Giúp đỡ khách hàng nắm được những nội dung cơ bản của kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng nói chung và kỹ thuật nghiệp vụ kế toán nói riêng góp phần thực hiện chiến lược khách hàng của ngân hàng.
1.3.3 Nhiệm vụ của kế toán cho vay ngoài quốc doanh:
Ngoài việc phải thực hiện các nhiệm vụ kế toán của ngân hàng nói chung, kế toán cho vay phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Kế toán cho vay thực hiện việc ghi chép phản ánh đầy đủ, kịp thời, chính xác các nghiệp vụ phát sinh trong quá trình cho vay, thu nợ, thu lãi của ngân hàng.
- Tính và thu lãi đầy đủ, chính xác để đảm bảo thu nhập cho ngân hàng.
- Kế toán cho vay có trách nhiệm quản lý toàn bộ hồ sơ cho vay của khách hàng bao gồm hồ sơ pháp lý (hồ sơ chứng minh về đảm bảo tiền vay) và hồ sơ vay vốn; theo dõi chặt chẽ kỳ hạn nợ để thu hồi nợ và lãi kịp thời.
- Kế toán cho vay phối hợp với bộ phận tín dụng quản lý các khoản cho vay đem lại hiệu quả cao của mỗi món vay: cụ thể kế toán cho vay cung cấp thông tin chính xác, kịp thời số liệu về những món đã quá hạn, đến hạn, sắp đến hạn để cán bộ tín dụng có kế hoạch đôn đốc thu hồi nợ kịp thời đồng thời cung cấp cho lãnh đạo quản lý, điều hành có hiệu quả.
- Kế toán cho vay phản ánh kịp thời, đầy đủ chính xác số liệu cho vay để bảo đảm vốn sản xuất kinh doanh cho các tổ chức kinh tế và theo dõi chặt chẽ kỳ hạn nợ, hạch toán thu nợ kịp thời, tạo điều kiện tăng nhanh vòng quay vốn của tín dụng.
- Giám sát tình hình cho vay và thu nợ, thông qua việc kiểm soát chứng từ cho vay, thu nợ, từ đó phản ánh vào sổ sách thích hợp với tình hình cho vay và thu nợ kịp thời giúp lãnh đạo ngân hàng có kế hoạch, phương hướng đầu tư tín dụng ngày càng cao, có hiệu quả hơn.
- Bảo vệ tài sản của ngân hàng: Ngân hàng đầu tư một khối lượng lớn vốn tín dụng vào các ngành kinh tế, do đó để theo dõi chặt chẽ, kế toán cho vay phải kiểm soát chính xác các chứng từ có liên quan đến cho vay, thu nợ nhằm hạch toán kịp thời, đúng lúc tránh thất thoát vốn của nhà nước.
Như vậy, kế toán cho vay cùng các nghiệp vụ kế toán ngân hàng khác thông qua hoạt động của mình giúp ngân hàng vừa thực hiện được chức năng kinh doanh, vừa cung ứng được vốn cho nền kinh tế. Với vai trò quan trọng đó, hệ thống kế toán ngân hàng nói chung và kế toán cho vay nói riêng cần phải được hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của ngành ngân hàng trong nền kinh tế.
1.4 Các phương thức cho vay, chứng từ và tài khoản kế toán nghiệp vụ cho vay ngoài quốc doanh:
1.4.1 Phương thức cho vay:
Phương thức cho vay là cách tính toán cho vay - thu nợ dựa vào tính chất, đặc điểm và cách xác định đối tượng vay. Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và tổ chức kinh tế, tư nhân, cá thể bao gồm tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn, tín dụng dài hạn. Tín dụng ngắn hạn nhằm bổ sung vốn lưu động cho các đơn vị, cá nhân vay có đủ vốn để thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống; tín dụng trung, dài hạn nhằm cung cấp vốn đầu tư cơ bản hoặc cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất của các tổ chức sản xuất, kinh doanh. Mỗi loại tín dụng có nội dung kinh tế, yêu cầu nghiệp vụ riêng. Do đó kế toán cho vay cũng đòi hỏi có nghiệp vụ thích hợp.
Việc áp dụng phương thức cho vay nào vào đặc điểm kinh doanh nhu cầu vốn của khách hàng, một phương thức cho vay khoa học phải đảm bảo các nguyên tắc tín dụng đồng thời theo sát được quá trình chu chuyển của vốn vay. Nói một cách khác, phương thức cho vay phải đảm bảo việc cho vay và thu nợ luôn gắn liền với sự vận động của đối tượng vay, của từng đơn vị.
1.4.1.1 Phương thức cho vay từng lần:
Phương thức cho vay từng lần áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu đề nghị vay vốn từng lần, khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên. Mỗi lần vay vốn, khách hàng và ngân hàng làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng. Phương thức cho vay từng lần là phương pháp phổ biến có thể áp dụng để cho vay đối với tất cả các đối tượng vay vốn thuộc mọi thành phần kinh tế (nhưng chủ yếu vẫn là khách hàng thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh), phương thức này được tiến hành theo yêu cầu của người sử dụng vốn vay đối với từng khách hàng riêng biệt. Không có sự liên hệ phụ thuộc giữa các món vay của mỗi khách hàng.
ưu nhược điểm của phương thức cho vay từng lần:
- ưu điểm: Phương thức này là linh hoạt trong quá trình sử dụng vốn của ngân hàng. Khi nào khách hàng có nhu cầu vay vốn, ngân hàng mới xem xét đáp ứng (mỗi lần vay ngân hàng đều định thời hạn cho khoản vay đó, đến thời hạn trả nợ người vay phải có trách nhiệm trả nợ ngân hàng), do đó qua phương thức cho vay này ngân hàng kiểm tra chặt chẽ được từng món vay, tính toán được hiệu qủa kinh tế của từng đối tượng cho vay, từ đó đảm bảo khả năng an toàn vốn cho ngân hàng, cụ thể là mỗi món vay ngân hàng, khách hàng thỏa thuận được mức phát tiền vay cụ thể, hạn trả cuối cùng, bằng cách đó ngân hàng mới tính được hiệu quả kinh tế của khoản vay. Với phương pháp cho vay này, ngân hàng có thể lập kế hoạch được nguồn vốn của mình bằng cách thông qua việc định kỳ hạn nợ cho mỗi món vay, từ đó ngân hàng có kế hoạch cho vay các khoản tiếp theo một cách chính xác để tránh tình trạng ứ đọng vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn.
- Nhược điểm: Cho vay từng lần là thủ tục rườm rà, phức tạp, gây khó khăn cho người vay. Mỗi lần vay tiền, người vay phải làm đơn xin vay gửi tới ngân hàng xem xét quyết định cho vay; khách hàng đều phải làm đầy đủ các thủ tục giấy tờ. Việc định kỳ hạn nợ đối với các món vay còn mang tính chủ quan của con người, đặc biệt là khi đối tượng cho vay là các thiết bị, vật tư hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại.
Nếu đối tượng vay vốn có vòng quay nhanh thì doanh nghiệp sẽ sử dụng món vay đó vào nhiều mục đích mà ngân hàng kiểm soát được, điều này sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau gây ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ, ảnh hưởng đến nguồn vốn của ngân hàng.
1.4.1.2 Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng (HMTD):
Cho vay theo HMTD là cách thức cho vay bằng cách ngân hàng xác định cho khách hàng của mình một HMTD trong một khoảng thời gian nhất định để làm căn cứ cho việc phát tiền vay. Trong phạm vi HMTD, thời hạn hiệu lực của HMTD, mỗi lần rút tiền vay kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng.
Phương thức này áp dụng cho khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín trong quan hệ tín dụng với ngân hàng nông nghiệp. Ngân hàng nơi cho vay cùng khách hàng ký HĐTD, thỏa thuận HMTD duy trì trong thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Trong phạm vi HMTD, thời hạn hiệu lực của hợp đồng TD, mỗi lần rút vốn vay, khách hàng lập giấy nhận nợ tiền vay kèm các chứng từ phù hợp với hợp đồng tín dụng đã ký.
Như vậy trách nhiệm của kế toán phải theo dõi chặt chẽ dư nợ của tài khoản cho vay để dư nợ của tài khoản cho vay không vượt quá HMTD đã ký kết trong kỳ: Mỗi lần nhận tiền vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ thanh toán thích hợp như séc thanh toán, ủy nhiệm chi... để nhận tiền vay chuyển khoản thanh toán cho đơn vị đối tác. Kế toán sau khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ thanh toán sẽ tiến hành các nghiệp vụ cần thiết. Đến kỳ hạn nợ, kế toán sẽ tiến hành tính lãi theo tích số, đồng thời tiến hành trích từ tài khoản tiền gửi của khách hàng để trả nợ cho ngân hàng. Nếu hết thời hạn khách hàng không thực hiện như đã cam kết trong HĐTD thì kế toán sẽ chuyển số tiền vay còn lại sang tài khoản nợ quá hạn và bảo cán bộ cho vay cùng phối hợp giải quyết theo chế độ hiện hành.
ưu, nhược điểm của phương thức cho vay theo HMTD:
ưu điểm:
Khi áp dụng phương thức này, thủ tục vay đơn giản, nhanh chóng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho khách hàng. Khách hàng chỉ cần làm hợp đồng vay vốn lần đầu còn mỗi lần sau, đơn vị không phải làm đơn xin vay cũng như HĐTD... Chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ kế toán thích hợp như khách hàng lập giấy nhận tiền vay kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong HĐTD để nhận tiền vay. Kế toán ngân hàng sau khi kiểm soát tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ và đối chiếu với HMTD, nếu đủ điều kiện thì căn cứ vào chứng từ để hạch toán phát tiền vay. Do đó phương thức cho vay này rất thuận lợi cho khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên.
Thông qua phương thức cho vay này, ngân hàng có thể kiểm soát được các khoản thu nhập khác của khách hàng, từ đó biết tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng tương đối chính xác đặc biệt là khả năng tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng. Từ đó ngân hàng có những quyết định đúng đắn trong những lần cho vay tiếp theo.
Nhược điểm:
+ Trong hợp đồng cho vay theo HMTD, ngân hàng cùng khách hàng thỏa thuận HMTD, duy trì thời hạn nhất định, tức là ngân hàng phải luôn duy trì một số vốn nhất định để sẵn sàng giải ngân cho người vay làm cho ngân hàng bị động trong sử dụng vốn, nếu khoản vay lớn có thể dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn của ngân hàng. Điều này bất lợi cho ngân hàng bởi đó là những khoản vốn chết đã không đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà ngân hàng còn phải trả lãi huy động cho những khoản vốn đó.
+ Sự quản lý có lúc không chặt chẽ của kế toán cho vay đ._.ể cho khách hàng vay vượt HMTD đã thỏa thuận dẫn đến thu hồi nợ vay khó khăn.
+ Về phía khách hàng không phải lúc nào cũng có sự quản lý khắc khe của ngân hàng đối với mọi khoản thu nhập của họ.
+ Phương thức cho vay theo HMTD chỉ được áp dụng cho vay đối với những khách hàng phải có đủ tín nhiệm với ngân hàng, phải có nhu cầu vốn thường xuyên, khả năng tài chính tốt, trình độ quản lý đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong cơ chế thị trường, sản xuất kinh doanh ổn định . . . Mặt khác trong điều kiện kinh tế như hiện nay, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, việc kinh doanh gặp nhiều khó khăn, sự cạnh tranh gay gắt... do đó các doanh nghiệp khó có đủ khả năng để thỏa mãn các điều kiện của phương thức cho vay này. Nên hiện nay, các ngân hàng chủ yếu áp dụng phương thức cho vay từng lần.
1.4.2 Chứng từ kế toán cho vay ngoài quốc doanh:
Chứng từ sử dụng:
Chứng từ kế toán là những giấy tờ đảm bảo về mặt pháp lý các khoản cho vay của ngân hàng. Mọi sự tranh chấp về các khoản vay hay trả nợ đều phải giải quyết trên cơ sở các chứng từ kế toán cho vay, đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh sử dụng các loại chứng từ gốc và chứng từ ghi sổ như sau:
+ Chứng từ gốc:
Chứng từ gốc là những căn cứ quan trọng để tính toán và hạch toán toàn bộ số tiền vay và thu nợ của khách hàng. Bao gồm đơn xin vay, hợp đồng tín dụng, khế ước vay tiền hoặc đơn xin vay kiêm giấy nhận nợ. Trong đó khế ước vay tiền và đơn xin vay kiêm giấy nhận nợ trong phương thức cho vay từng lần (cho vay theo món là loại chứng từ có giá trị pháp lý về khoản vay của ngân hàng).
Ngoài ra còn có các giấy cam kết thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh bằng tài sản cũng như là những chứng từ gốc về tài sản đảm bảo và là căn cứ để hạch toán tài khoản ngoại bảng.
+ Chứng từ ghi sổ:
Là chứng từ dùng trong thanh toán như séc lĩnh tiền mặt trong trường hợp vay bằng tiền mặt. Các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như ủy nhiệm chi, séc, thanh toán trong trường hợp cho vay bằng chuyển khoản.
Đối với phương thức cho vay theo hạn mức, khi cho vay không phải lập khế ước vay tiền, chỉ phải ký hợp đồng tín dụng thì tính pháp lý của các khoản vay được thể hiện ngay trên chứng từ phát tiền vay như séc lĩnh tiền mặt, ủy nhiệm chi... cũng như hàng tháng tiến hành đối chiếu xác nhận nợ theo số dư các tài khoản cho vay theo hạn mức trên sổ hạch toán chi tiết.
Các giấy tờ trong quan hệ tín dụng đòi hỏi phải có đầy đủ tính pháp lý được thể hiện trên các chứng từ kế toán cho vay là các yếu tố xác định quyền chủ thể cho vay của ngân hàng, chỉ rõ người chịu trách nhiệm nhận nợ và cam kết trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng.
Cán bộ kế toán cho vay là người chịu trách nhiệm thực hiện công việc: kiểm tra hồ sơ cho vay theo danh mục quy định; hướng dẫn khách hàng mở tài khoản tiền vay; làm thủ tục phát tiền vay theo lệnh của giám đốc hoặc người được ủy quyền; hạch toán nghiệp vụ cho vay, thu nợ, chuyển nợ quá hạn; lưu giữ hồ sơ theo quy định.
1.4.3 Tài khoản dùng trong kế toán cho vay:
+ Tài khoản nội bảng:
Tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay thuộc tài sản có của ngân hàng (nghiệp vụ bên có), tài khoản dùng để ghi chép, phản ánh toàn bộ số tiền cho vay của ngân hàng đối với người mình đi vay, đồng thời cũng ghi chép, phản ánh số tiền người vay trả nợ ngân hàng theo những kỳ nhất định.
ứng với phương thức cho vay từng lần là tài khoản cho vay thông thường.
ứng với phương thức cho vay theo HMTD là tài khoản cho vay theo HMTD.
1.4.3.1 Tài khoản cho vay từng lần:
Khi các đơn vị, tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, tư nhân có nhu cầu vay vốn và đủ điều kiện vay vốn và được ngân hàng cho vay thì kế toán ngân hàng sẽ mở cho mỗi người vay một tài khoản cho vay thích hợp (tài khoản phân tích).
Tài khoản cho vay từng lần kết thúc như sau:
Bên nợ: - Ghi số tiền ngân hàng thực cho khách hàng vay.
Bên có: - Ghi số tiền khách hàng đã trả nợ ngân hàng.
- Ghi số tiền chuyển nợ quá hạn (nếu có).
Dư nợ: - Phản ánh số tiền người vay còn nợ NH đến một thời điểm nào đó.
1.4.3.2 Tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng:
Tùy theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng, ngân hàng sẽ cho khách hàng vay theo 2 tài khoản (tài khoản cho vay theo hạn mức và tài khoản tiền gửi thanh toán) hoặc cho vay theo một tài khoản (tài khoản tín dụng vốn lưu động, không mở tài khoản tiền gửi thanh toán)
Kết cấu của từng hình thức tài khoản cho vay theo hạn mức như sau:
- Đối với khách hàng mở 2 tài khoản: tài khoản cho vay theo hạn mức và tài khoản tiền gửi thanh toán. Quá trình hạch toán cho vay, thu nợ được thực hiện trên tài khoản cho vay theo hạn mức với kết cấu như sau:
Bên nợ: Ghi số tiền ngân hàng cho vay theo hạn mức đã ký kết.
Bên có: Ghi số tiền ngân hàng thu nợ trên cơ sở tiền bán hàng hay các khoản thu nhập khác nộp vào.
Dư nợ: Phản ánh số tiền khách hàng còn nợ ngân hàng (dư nợ cao nhất bằng HMTD).
Trường hợp hết dư nợ mà khách hàng vẫn nộp tiếp các khoản thu của mình cho ngân hàng thì kế toán sẽ hạch toán vào tài khoản thời gian thanh toán.
- Đối với những khách hàng vào theo 1 tài khoản (tài khoản tín dụng vốn lưu động), thì quá trình hạch toán cho vay, thu nợ đều được thực hiện trên tài khoản này. Tài khoản này vừa mang tính chất tài khoản cho vay vừa mang tính chất tài khoản tiền gửi thanh toán. Do vậy, tài khoản này có thể dư nợ hoặc dư có.
Kết cấu của tài khoản tín dụng vốn lưu động như sau:
Bên nợ: Phản ánh toàn bộ số tiền chi trả của đơn vị vay bao gồm cả khoản chi thuộc đối tượng cho vay của ngân hàng cũng như các khoản chi trả không thuộc đối tượng vay của ngân hàng.
Bên có: Phản ánh toàn bộ thu nhập của khách hàng vay.
Dư nợ: Phản ánh số tiền khách hàng (đơn vị vay) nợ ngân hàng.
Dư có: Phản ánh số tiền đơn vị gửi tại ngân hàng.
Trong quan hệ tín dụng giữa người vay và ngân hàng không phải bao giờ người vay cũng trả nợ ngân hàng đúng kỳ hạn. Trường hợp đến hạn trả người vay không đủ khả năng trả nợ và cũng không đựơc ngân hàng cho gia hạn nợ thì số nợ đó phải chuyển sang tài khoản nợ quá hạn để theo dõi thu hồi với mức lãi suất cao hơn lãi suất cho vay bình thường.
Kết cấu tài khoản nợ quá hạn:
Bên nợ: Ghi số tiền cho vay đã quá hạn từ tài khoản cho vay chuyển sang.
Bên có: Ghi số tiền thu nợ quá hạn hoặc số tiền được điều chỉnh lại chuyển sang tài khoản cho vay.
Dư nợ: Thể hiện số nợ quá hạn chưa thu.
Các tài khoản cho vay, nợ quá hạn đều được mở theo từng loại nợ (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) và theo từng đơn vị để theo dõi.
+ Tài khoản ngoại bảng:
Hiện nay, do các ngân hàng nước ta các hình thức cho vay còn nhiều hạn chế về mặt pháp lý và nó chứa đựng nhiều rủi ro gây thất thoát vốn cho ngân hàng. Cho nên các ngân hàng thương mại thường tiến hành cho vay có tài sản đảm bảo.
Trong việc hạch toán nội bảng kế toán cũng mở thêm tài khoản ngoại bảng để theo dõi các tài sản dùng để đảm bảo cho các món vay của khách hàng. Tài khoản ngoại bảng được hạch toán căn cứ vào phiếu nhập, xuất tài sản, có kết cấu như sau:
Bên nhập: Phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hoặc giấy tờ tài sản nhập kho bảo quản.
Bên xuất: Phản ánh giá trị tài sản hoặc giấy tờ tài sản xuất kho trả lại cho khách hàng khi thu hết nợ.
Còn lại: Phản ánh giá trị tài sản hoặc giấy tờ tài sản ngân hàng còn đang giữ của khách hàng.
Đối với các khoản lãi chưa thu phát sinh (lãi treo) kế toán không nhập lãi vào gốc mà hạch toán vào tài khoản ngoại bảng “lãi treo” để tiếp tục truy thu.
Bên nhập: Phản ánh số lãi treo đến hạn truy thu.
Bên xuất: Phản ánh số lãi treo đã truy thu.
Còn lại: Phản ánh số lãi treo chưa thu được.
Việc mở chi tiết của các tài khoản đều có thể được ký hiệu theo mã số thích hợp của các tài khoản cấp III, cấp IV và cấp V của các ngân hàng thương mại.
1.5 Quy trình kế toán cho vay, ngoài quốc doanh
1.5.1 Quy trình kế toán cho vay, thu nợ đối với cho vay từng lần.
1.5.1.1 Kế toán giai đoạn cho vay:
Mỗi lần vay tiền, người vay làm đơn xin vay gửi tới ngân hàng để trình bày lý do xin vay. Đây là căn cứ để ngân hàng xem xét, tính toán, quyết định cho vay. Nếu khoản vay được giám đốc ký duyệt cho vay thì bộ phận tín dụng chuyển hồ sơ cho bộ phận kế toán thực hiện nghiệp vụ hạch toán kế toán, thanh toán. Bộ phận kế toán kiểm soát lại và hướng dẫn người vay lập các chứng từ kế toán nhận tiền vay. Trường hợp khách hàng dùng đơn xin vay kiêm giấy nhận nợ thì không phải lập khế ước vay tiền, khi lập khế ước vay tiền hay đơn xin vay kiểm giấy nhận nợ thì phải lập đủ số liên qui định và ghi đầy đủ các yếu tố trên mẫu in sẵn để đảm bảo tính pháp lý của chứng từ cho vay.
Trường hợp khoản cho vay phát tiền vay làm nhiều lần thì không nhất thiết mỗi lần phát tiền vay phải lập khế ước vay tiền riêng, mà có thể lập một khế ước cho cả khoản vay đó, quá trình phát tiền vay sẽ được theo dõi ở mặt sau của khế ước. Sau khi hoàn thành các thủ tục giấy tờ cho vay theo đúng qui định, kế toán căn cứ vào các chứng từ để hạch toán:
Bên nợ TK: cho vay của khách hàng( TK cho vay thông thường)
Bên có TK: tiền mặt tại quỹ( TK: 1011) nếu cho vay bằng tiền mặt.
hoặc TK: Tiền gửi của người thụ hưởng nếu cho vay bằng các khoản.
Hoặc TK: Thanh toán qua lại giữa các ngân hàng( bù trừ) nếu người thụ hưởng có tài khoản ở các ngân hàng khác.
Riêng với món vay có giá trị tài sản thế chấp cầm cố, kế toán sẽ ghi nhập vào tài khoản ngoại bảng “tài sản thế chấp cầm cố”
1.5.1.2 Kế toán giai đoạn thu nợ, thu lãi:
Sổ chi tiết cho vay của từng đơn vị vay vốn do kế toán viên giữ và theo dõi. Khế ước vay tiền hay đơn xin vay tiền kiêm giấy nhận nợ sau khi hoàn thành phát tiền vay sẽ được lưu trong hồ sơ vay vốn của người vay để theo dõi thu tiền nợ. Khế ước trong hồ sơ vay vốn phải được sắp xếp một cách khoa học nhằm theo dõi chặt chẽ kỳ hạn nợ, nhằm thu nợ, thu lãi kịp thời khi đến hạn.
Một trong những đặc điểm của phương thức cho vay từng lần là mỗi lần cho vay đều phải xác định thời hạn trả. Đến hạn người vay phải có trách nhiệm trả nợ ngân hàng, nếu đến kỳ hạn trả nợ người vay không trả đủ nợ cho ngân hàng thì kế toán chủ động trích tài khoản tiền gửi của người vay để thu hồi nợ.
Nếu tài khoản tiền gửi của người vay đã hết số dư và khoản vay đó không được ngân hàng gia hạn nợ thì kế toán làm thủ tục chuyển nợ quá hạn.
Các bút toán phản ánh khi thu nợ:
* Thu cả gốc và lãi cùng một thời điểm thì kế toán ghi.
Nợ TK: tiền mặt hoặc TKTG của người vay (phần gốc và lãi).
Có TK: cho vay của người vay (phần gốc)
Có TK: thu nhập của ngân hàng (tiểu khoản thu lãi cho vay) phần lãi.
Thu gốc và lãi của món vay không cùng thời điểm.
Trường hợp này kế toán cho vay sẽ thu lãi hàng tháng theo số dư nợ tài khoản cho vay (theo phương pháp tích số).
Do vậy việc thu nợ và thu lãi sẽ được hạch toán ở các thời điểm khác nhau.
Hạch toán giai đoạn thu lãi.
Nợ TK: tiền mặt tại quỹ (nếu thu bằng tiền mặt).
hoặc TKTG của người vay (nếu thu bằng các khoản).
Có TK: thu nhập của ngân hàng (tiểu khoản thu lãi).
Hạch toán giai đoạn thu gốc:
Nợ TK: tiền mặt tại quỹ (nếu thu bằng tiền mặt)
Hoặc TKTG của người vay ( nếu thu bằng các khoản)
Có TK: cho vay của người vay.
Kế toán chuyển nợ quá hạn:
Có hai cách định kỳ hạn nợ dẫn đến có hai cách theo dõi tiền cho vay theo món. Nếu định kỳ hạn trả nợ vào ngày nhất định trong tháng thì đến ngày của kỳ hạn nợ kế toán sẽ làm thủ tục thu hồi nợ. Hết ngày đó người vay không có khả năng trả nợ thì sẽ chuyển sang tài khoản nợ quá hạn. Nếu định kỳ hạn nợ theo tháng thì số nợ phải thu được tiến hành trong cả tháng kỳ hạn nợ. Hết tháng nếu người vay không hoàn thành trả nợ ngân hàng mà không được gia hạn nợ thì kế toán làm thủ tục để chuyển số nợ đó sang tài khoản nợ quá hạn.
Khi chuyển nợ quá hạn kế toán ghi:
Nợ tài khoản nợ quá hạn (mở cho từng khách hàng vay).
Có tài khoản cho vay của người vay.
- Xử lý lãi khi chuyển nợ quá hạn:
Trong trường hợp khi đến hạn mà khách hàng chưa trả hết lãi, thì ngân hàng sau khi tính lãi hạch toán ngoại bảng: ghi nhập tài khoản: “lãi chưa thu” và theo dõi khi nào tài khoản tiền gửi của khách hàng có tiền sẽ thu hồi.
Khi thu hoạch toán ngoại bảng: xuất tài khoản “lãi chưa thu” đồng thời nội bảng ghi:
Nợ tài khoảng tiền gửi của người vay (phần lãi).
Có tài khoản thu nhập của ngân hàng (phần lãi)
Khi thu hồi nợ kế toán cho vay phải xóa nợ trên khế ước vay tiền, những khế ước thu hết nợ khi xoá xong sẽ đóng thành tập riêng. Những khế được chỉ thu có một phần thì lúc trở lại hồ sơ vay vốn của người vay để tiếp tục theo dõi thu nợ. Khế ước chuyển nợ quá hạn lưu ở hồ sơ quá hạn.
1.5.2 Quy trình kế toán cho vay theo hạn mức tín dụng:
1.5.2.1 Kế toán giai đoạn cho vay:
Căn cứ để kế toán phát tiền vay theo phương thức cho vay này là hạn mức tín dụng đã thỏa thuận giữa ngân hàng và đơn vị vay vốn ghi trên hợp đồng tín dụng trong kỳ. Trong phạm vi hạn mức tín dụng, thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, mỗi lần rút tiền vay, khách hàng chỉ cần lập giấy nhận nợ tiền vay kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng. Như vậy, trách nhiệm của kế toán là phải theo dõi chặt chẽ dư nợ tài khoản cho vay để dư nợ của tài khoản cho vay không vượt quá HMTD đã ký kết trong kỳ.
Kế toán ngân hàng sau khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ và đối chiếu với HMTD, nếu đủ điều kiện thì căn cứ vào chứng từ để hạch toán:
Nợ TK: cho vay theo HMTD hoặc tài khoản tín dụng vốn lưu động.
Có TK: tiền mặt tại quỹ (nếu cho vay bằng tiền mặt)
Tài khoản của người thụ hưởng (nếu thanh toán cùng ngân hàng)
Tài khoản thanh toán qua lại giữa các ngân hàng (nếu thanh toán khác ngân hàng).
1.5.2.2 Kế toán giai đoạn thu nợ, thu lãi:
Trong phương thức cho vay theo hạn mức, việc trả nợ của khách hàng dựa trên cơ sở vòng quay vốn tín dụng hoặc khách hàng trả nợ theo từng tháng được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Đơn vị vay phải nộp tiền bán hàng cũng như các khoản thu nhập khác vào bên có của tài khoản cho vay để trả nợ ngân hàng. Nếu hết tháng đơn vị vay không hoàn thành kế hoạch trả nợ và cũng không được xem xét để chuyển sang thu tiếp ở tháng kế tiếp thì kế toán chuyển số tiền còn nợ đó sang tài khoản nợ quá hạn.
Thu nợ gốc: Hạch toán thu nợ theo số tiền bán hàng của đơn vị nộp vào ngân hàng hàng ngày.
- Nếu thu bằng tiền mặt hạch toán:
Nợ TK: tiền mặt tại quỹ (TK1011)
Có TK: cho vay theo HMTD (nếu vay theo một tài khoản)
- Nếu nộp bằng chuyển khoản hạch toán:
Nợ TK: tiền gửi của người chi trả (nếu thanh toán cùng ngân hàng)
Tài khoản thanh toán qua lại giữa các ngân hàng (nếu thanh toán khác ngân hàng).
Có TK: cho vay theo hạn mức tín dụng (nếu vay theo 2 tài khoản)
Tài khoản tín dụng vốn lưu động (nếu vay theo một tài khoản).
Về nguyên tắc ngân hàng chỉ thu nợ trong phạm vi số tiền ngân hàng đã cho vay, nên đối với đơn vị vay theo 2 tài khoản thì ngân hàng chỉ thu nợ trong phạm vi dư nợ của tài khoản vay này. Nếu đơn vị đã trả hết nợ thì ngân hàng hạch toán vào tài khoản tiền gửi thanh toán của đơn vị; trường hợp vay một tài khoản nếu đơn vị đã trả hết nợ ngân hàng nhưng vẫn tiếp tục nộp tiền bán hàng thì kế toán vẫn ghi vào bên có tài khoản tín dụng vốn lưu động, vì tài khoản này có thể dư có.
Khi tài khoản tín dụng vốn lưu động dư có tức là đơn vị gửi vốn lưu động vào ngân hàng, lúc này ngân hàng sẽ tính và trả lãi cho đơn vị theo lãi suất tiền gửi.
Tính và thu lãi:
Đối với khách hàng vay theo 2 tài khoản cho vay theo hạn mức thì việc thu lãi được tiến hành hàng tháng theo phương pháp tích số. Có thể thu từ tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc khách hàng nộp bằng tiền mặt.
Trường hợp khách hàng vay theo một tài khoản (Tài khoản tín dụng vốn lưu động) thì lãi thu được có thể hạch toán vào bên nợ của tài khoản này (có thể thu qua chuyển khoản hoặc thu bằng tiền mặt).
Quy trình hạch toán được thực hiện như sau:
- Nếu nộp bằng tiền mặt, hạch toán:
Nợ TK: tiền mặt tại quỹ.
Có TK: thu nhập của ngân hàng.
- Nếu nộp bằng chuyển khoản, hạch toán:
Nợ TK: tiền gửi của người chi trả (nếu thanh toán cùng ngân hàng).
Tài khoản thanh toán qua lại giữa các ngân hàng (nếu thanh toán khác ngân hàng).
Có TK: thu nhập của ngân hàng.
Trường hợp khách hàng chưa nộp đủ lãi đến hạn cho ngân hàng nhưng HMTD trong hợp đồng vẫn còn thì ngân hàng có thể tiếp tục hạch toán.
Nợ TK: cho vay theo hạn mức tín dụng (nếu vay theo 2 tài khoản).
hoặc Tài khoản tín dụng vốn lưu động (nếu vay theo 1 tài khoản).
Có TK: Thu nhập của ngân hàng.
Kế toán chuyển nợ quá hạn:
Đến kỳ hạn, đơn vị vay không hoàn thành kế hoạch trả nợ và cũng không được xem xét để chuyển sang thu tiếp ở tháng kế tiếp, kế toán sẽ lập phiếu chuyển khoản chuyển số tiền đơn vị còn nợ ngân hàng sang tài khoản nợ quá hạn.
Kế toán hạch toán:
Nợ TK: nợ quá hạn.
Có TK: cho vaytheo HMTD (nếu vay theo 2 tài khoản)
Tài khoản tín dụng vốn lưu động (nếu cho vay theo 1 tài khoản)
Kế toán cho nợ quá hạn thời điểm nào thì tính lãi theo thời điểm đó.
Chương II
Thực trạng công tác kế toán cho vay ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Bình
2.1 Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Bình
2.1.1 Khái quát tình hình kinh tế xã hội tỉnh Quảng Bình:
Năm 1999 kinh tế Quảng Bình đạt kết quả đáng kể, sản lượng lương thực, sản lượng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đánh bắt hải sản... đều tăng so với năm trước, đời sống người dân và cán bộ công nhân viên Quảng Bình được nâng lên một mức đáng kể.
Nhà nước quan tâm đối với lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, luật NHNN, luật các tổ chức tín dụng và một số cơ chế tháo gỡ cho vay hộ như quyết định 67 của Thủ tướng chính phủ, UBND tỉnh cũng có chỉ thị 40 chỉ đạo thực hiện QĐ 67. Chính phủ có các giải pháp kích cầu... đã mở ra cho hoạt động ngành Ngân hàng nói chung và NHNo Quảng Bình nói riêng hành lang trong tín dụng, kinh doanh tốt hơn. Đến cuối năm 1999 các chỉ tiêu cơ bản của NHNo và PTNT Quảng Bình đã đạt được kết quả đáng khích lệ.
Quảng Bình là một tỉnh thường xuyên phải chịu cảnh thiên tai khắc nghiệt, chưa khắc phục hậu quả hạn hán năm 1998 xong lại phải chịu tiếp nạn lũ lụt năm 1999. Nền sản xuất tỉnh nhà có biến chuyển nhưng chậm phát triển, nhất là nền sản xuất hàng hoá; việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi lên sản xuất lớn tập trung bước đầu gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, nhất là tư tưởng của người dân quen sản xuất nhỏ, năng suất thấp; các cơ chế mở cho hoạt động Ngân hàng thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ; canh tranh trong hoạt động Ngân hàng ngày càng gay gắt; các doanh nghiệp nhà nước sản xuất chưa ổn định, hợp tác xã hoạt động rời rạc.... tất cả những vấn đề đó đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của NHNo và PTNT Quảng Bình.
Năm 1999 Quảng Bình phải chịu cảnh thiên tai kéo dài gây khó khăn về đời sống nhân dân trong tỉnh, kinh doanh của NHNo đã khó khăn nay càng khó khăn hơn. Nhưng với quan điểm cần phát triển nên với sự hoạt động vươn lên đồng bộ của các phòng ban NHNo tỉnh dưới sự chỉ đạo tích cực và tâm huyết của cấp uỷ đảng, công đoàn, Ban Giám đốc từ tỉnh, huyện, NH loại 4 tháo gỡ vượt qua khó khăn kinh doanh có hiệu quả.
NHNo Quảng Bình đã đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu vốn cho nền kinh tế tỉnh nhà, chất lượng các mặt hoạt động của NHNo tiến bộ hơn, đời sống cán bộ không những ổn định mà được cải thiện hơn trước.
2.1.2 Khái quát hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Bình:
2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Bình:
Bộ máy tổ chức NHNo Quảng Bình: Tại Ngân hàng tỉnh có NHNo tỉnh kiêm hội sở kéo dài gồm 6 phòng nghiệp vụ tham mưu, giúp việc cho Giám đốc theo mô hình của NHNo Việt Nam. Sáu Ngân hàng huyện trực thuộc Ngân hàng tỉnh, mỗi NH huyện có 2 phòng nghiệp vụ là kế toán - ngân quỹ, kinh doanh và 1 tổ hành chính nhân sự. 12 chi nhánh Ngân hàng loại 4 nhận khoán theo cơ chế 946, trong đó có 4 chi nhánh trực thuộc hội sở NHNo tỉnh, 8 chi nhánh trực thuộc NHNo huyện.
Về cơ cấu chất lượng cán bộ:
Cơ cấu cán bộ:
NHNo Quảng Bình với biên chế 294 cán bộ được phân bổ các nghiệp vụ chủ yếu là:
Tín dụng trực tiếp cho vay 117 người, chiếm 40%
Kế toán 44 người, chiếm 15%
Ngân quỹ 35 người, chiếm 12%
Quản lý doanh nghiệp gồm Giám đốc, Phó Giám đốc NHNo tỉnh 4 người, chiếm 1,36%
Lãnh đạo gồm trưởng, phó phòng NHNo tỉnh, chánh phó giám đốc, trưởng phó phòng NHNo huyện, giám đốc NH loại 4 : 50 người, chiếm 17,6%
Vi tính 10 người, chiếm 3,4%
Giám định viên 11 người, chiếm 3,74%
Về chất lượng:
Trình độ chuyên môn:
Trên Đại học: 2 người, chiếm 0,68%
Đại học: 70 người, chiếm 23,8%
Cao đẳng: 2 người, chiếm 0,68%
Cao cấp nghiệp vụ bổ túc sau trung học: 16 người, chiếm 5,44%
Trung cấp: 153 người, chiếm 52% trong đó đang học Đại học 23 người.
Đội ngũ cán bộ quản lý và lãnh đạo đã được thường xuyên xem xét kiện toàn nên hầu hết có phẩm chất đạo đức, có năng lực tổ chức thực hiện tốt nghiệp vụ.
2.1.2.2 Công tác huy động vốn:
Hiểu rõ tầm quan trọng sống còn của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng để đáp ứng kịp thời nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình rất coi trọng nghiệp vụ nguồn vốn mà chủ yếu là công tác huy động vốn. Thực hiện các quy chế dự trữ bắt buộc, quy chế đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại) Đồng thời thường xuyên xây dựng kế hoạch và quản lý điều hành vốn kinh doanh của mình (hàng tháng , quý, năm) uy tín của Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình ngày càng tăng. Chi nhánh NH nông nghiệp Quảng Bình trên đà đổi mới và phát triển cùng với quá trình đổi mới cuả đất nước.
Cụ thể:
Bảng 1:Công tác huy động từ năm 1998 đến 1999
Đvt: Tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
1998
1999
+
+ %
I
Tổng nguồn vốn hoạt động
139,357
181,810
42,453
30,46
1
Hoạt động từ các CTKT
33,019
38,745
5,726
17,34
2
Huy động từ dân cư
94,715
105,226
10,511
9,01
3
Hoạt động tiền gửi khác
11,623
37,839
26,216
225,5
Nguồn số liệu lấy từ báo cáo tổng kết 1998-1999
Nhận xét qua biểu trên ta thấy.
Vốn hoạt động 1999 tăng lên nhiều so với 1998. Bằng các nghiệp vụ huy động vốn như: Huy động vốn trên TKTG các đơn vị và tổ chức kinh tế thông qua mở rộng phát triển hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, đưa ra các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm, linh hoạt, hấp dẫn cùng với việc phát hành kỳ phiếu VNĐ khi cần thiết theo yêu cầu đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế nhằm thu hút tiền nhàn rỗi tạm thời từ các doanh nghiệp, từ trong dân cư... Do vậy trong hai năm ( 1998- 1999) công tác hoạt động vốn của chi nhánh Ngân hàng tăng trưởng đáng kể.
* Kết cấu huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình.
Kết cấu nguồn vốn huy động tại chi nhánh có sự biến động tăng, giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong nguồn vốn huy động kỳ phiếu chiếm tỷ trọng bé và ngày càng giảm, tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn là tiền gửi tiết kiệm thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Kết cấu nguồn vốn huy động
ĐVT: Tỷ đồng
Nguồn vốn
31/12/1998
31/12/1999
Số Lượng
%
Số lượng
%
* Tổng nguồn huy động vốn
139,357
100
181,810
100
1- Tiền gửi của các TCKT
33,019
32,69
38,745
21,31
2- Tiền gửi tiết kiệm
38,069
59,61
103,602
56,98
3- Tiền gửi KP- TD
11,646
8,35
1,624
0,89
4- Tiền gửi khác
11,623
8,35
37,839
20,81
Nguồn lấy từ báo cáo tổng kết năm 1998-1999
+ Nguồn vốn tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng nguồn vốn huy động với 59,61% (1998) giảm tỷ trọng 56,98% nhưng tăng số tuyệt đối 20,533 tỷ chứng tỏ rằng Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình đã trở thành người bạn đáng tin cậy và phục vụ tận tình chu đáo, giữ được uy tín với khách hàng.
+ Nguồn tiền gửi kỳ phiếu - trái phiếu có sự giảm rõ rệt năm 1998 đạt 11,646 tỷ, năm 1999: 1,624 tỷ chếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng nguồn vốn huy động.
Kết quả đạt được và một số tồn tại trong công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp Quảng bình.
Kết quả đạt được:
Trải qua 2 năm chi nhánh đã thu được nhiều thành quả to lớn và nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trên tất cả mọi mặt, chi nhánh đã khơi tăng nguồn vốn đa dạng hoá các nghĩa vụ kinh doanh và dịch vụ Ngân hàng, tăng trưởng tín dụng để đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh, có lãi, làm tròn nghĩa vụ ngân sách cuả nhà nước và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Với những tiến bộ vượt bậc Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình đã từng bước khẳng định vai trò của mình và chi nhánh đã trở thành người bạn tin cậy của mọi tổ chức kinh tế, mọi tầng lớp dân cư trong tỉnh Quảng Bình và các tỉnh bạn.
Trong thời gian qua, thực hiện phương châm " Vay để cho vay" chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình đã chủ động linh hoạt các mức lãi suất huy động. Đồng thời tích cực thu hồi các khoản nợ đến hạn, quá hạn nhằm tái tạo nguồn vốn, tăng nhanh vòng quay vốn, đáp ứng nhu cầu về vốn cho mọi thành phần trong nền kinh tế. Đặc biệt chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình là một trong những đơn vị áp dụng công nghệ hiện đại trong thanh toán, nâng cao khả năng thanh toán nhanh gọn, chính xác đảm bảo an toàn, mặc dù trong những năm qua lãi suất tiền gửi có lúc hạ nhưng nhờ tích cực chủ động điều hành luân chuyển các hình thức và biện pháp huy động Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình đã tăng 26,8 tỷ, tốc độ tăng 140% so với năm 1998.
Một số tồn tại trong công tác huy động vốn và nguyên nhân của nó:
- Về nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn có sự chuyển biến tích cực nhưng còn chiếm tỷ lệ thấp, vốn huy động của Ngân hàng chủ yếu là vốn ngắn hạn.
Điều này chứng tỏ chính sách huy động vốn trung và dài hạn chưa được hấp dẫn, giá cả còn biến động nên người dân chưa thực sự tin tưởng vào sự ổn định của thị trường tiền tệ. Là một Ngân hàng thương mại nằm trên địa bàn thị xã Đồng Hới - trung tâm kinh tế của tỉnh nhưng nguồn vốn đáp ứng chủ yếu là ngắn hạn còn nguồn vốn trung và dài hạn còn rất ít. Muốn có vốn cho vay trung và dài hạn chủ động thì thường phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao. Điều này đang là vấn đề khó khăn đối với chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình.
- Chính sách, biện pháp, hình thức huy động vốn còn mang tính "Cổ truyền" chủ yếu các hình thức huy động thông thường như tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu... các hình thức gửi tiền khác như mở TK tiền gửi tư nhân, gửi một nơi lấy nhiều nơi, hình thức thanh toán hiện đại như thẻ tín dụng chưa được sử dụng rộng rãi và phổ biến.
- Khung lãi suất của các Ngân hàng thương mại còn đang bị khống chế bởi lãi suất cho vay của Ngân hàng nhà nước, do đó chưa tạo được môi trường cạnh tranh giữa các Ngân hàng trên địa bàn.
- Trong hoàn cảnh cơ chế thị trường, một tỉnh nghèo, thiên tai thường xuyên xảy ra dẫn đến hoạt động kinh doanh Ngân hàng luôn bị đe doạ "rủi ro", nhưng hiện nay nước ta chưa có quy chế hình thành quỹ bảo hiểm tiền gửi.
Những tồn tại trên ảnh hưởng lớn đến công tác huy động vốn và sử dụng của Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình.
2.1.2.3 Công tác sử dụng vốn
Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình thực hiện phương châm "Đi vay để cho vay" với mục đích đưa đồng vốn đến khách hàng để họ phát triển sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên địa bàn.
Trên cơ sở thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động nguồn lực tại chỗ, Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình đã đầu tư mở rộng cho vay nhiều thành phần kinh tế mở rộng vay tiêu dùng và hộ sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
Bảng 3: Tổng dư nợ được thay đổi qua các năm như sau:
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
- Tổng dư nợ cho vay
126,5
212,5
- Tốc độ tăng so với năm trước (%)
168%
Trong đó:
- Kinh tế quốc doanh
10,8
19,1
Tỷ lệ (%) trong tổng doanh nghiệp
8,54%
9%
- Kinh tế ngoài quốc doanh
115,7
193,5
Tỷ lệ (%) trong tổng doanh nghiệp
91,46%
91%
Nguồn lấy từ báo cáco tổng kết năm 1998-1999
Qua bảng số liệu cho ta thấy: Tổng dư nợ cho vay năm 1999 tăng hơn so với năm trước. Bên cạnh việc cho vay kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng nhỏ 13,9% (Trong đó có 14,2 tỷ cho vay đặt cọc nhà máy mía đường), đầu tư trực tiếp đến hộ sản xuất, cho vay tiêu dùng chiếm tỷ trọng cao (86,1%).
Vừa củng cố nâng cao chất lượng tín dụng, vừa mở rộng tín dụng, vừa mở rộng đối tượng đầu tư - Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình đã tập trung đầu tư phục vụ tốt các dự án lớn của tỉnh, vốn uỷ thác của trung ương, vốn khắc phục thiên tai nâng tỷ lệ đầu tư trung, dài hạn như vốn IFAD của tỉnh, vốn KFW " Xoá đói giảm nghèo", vốn "Phát triển nông thôn", vốn khắc phục thiên tai. Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn cuối năm 1999 đạt 71,6%, diễn biến qua các năm như sau:
Bảng 4: công tác cho vay qua các năm
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
D.số
%
D.số
%
-Cho vay ngắn hạn
43,4
34,3
40,1
28,4
-Cho vay trung và dài hạn
83,1
65,7
101
71,6
Tổng
126,5
100
212
100
Nguồn lấy từ báo cáo tổng kết năm 1998-1999
Đối với hộ sản xuất, việc cho vay được Ngân hàng mở rộng xuống các vùng nội ngoại thị xã cho hàng ngàn hộ vay vốn để phát triển chăn nuôi, trồng trọt và kinh tế phụ gia đình. Thông qua công tác cho vay, hộ sản xuất ở các phường xã gắn bó hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh doanh cũng như nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Năm 1999 Ngân hàng nông nghiệp Quảng Bình đã giải quyết cho vay 10.800 hộ với số tiền 93,9 tỷ đồng góp phần giải quyết công ăn việc làm và nâng cao đời sống cho nhân dân. Nhìn chung về công tác tín dụng, mặc dầu nền kinh tế tăng trưởng chậm nhờ có chính sách hỗ trợ 1 phần lãi suất tiền vay cho người nông dân cùng với quyết định 67/919 của Thủ tướng chính phủ " về một số chính sách tín dụng ngắn hạn phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn" và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Tổng giám đốc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng nông nghệp tỉnh về những biện pháp tháo gỡ vướng mắc, nhờ đó Ngân hàng đã tạo được chuyển biến nhận thức để mở rộng đầu tư tín dụng.
Đạt được như vậy là do nỗ lực phấn đấu của cán bộ được giao nhiệm vụ bám sát cơ sở của ban lãnh đạo điều hành.
* Chất lượng tín dụng:
Bảng 5: Tình hình công tác sử dụng vốn của chi nhánh.
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
1998
1999
+
+ %
- Tổng doanh số cho vay
66,410
93,914
+26,8
+40 %
- Tổng doanh số thu nợ
90,239
85,162
-5,1
-5,6
- Tổng dư nợ cho vay
126,487
137,064
+10,6
+8,3
Nguồn lấy từ cân ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34087.doc