Một số vấn đề hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần khí công nghiệp

Mở đầu 1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong thập niên đổi mới vừa qua, nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên sự tồn tại và đan xen nhiều hình thức sở hữu đã bước đầu khơi dậy những nguồn lực của đất nước, tạo sự năng động trong hoạt động kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ tương đối cao. Đạt được những kết quả trên đây phải kể đến sự năng động của các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất đã biết cải tiến, phát huy các nguồn lực sẵn có tạo thế

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1132 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần khí công nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ động trong kinh doanh với mong muốn cuối cùng là tạo ra lợi nhuận để tự nuôi sống chính bản thân mình và làm giàu cho đất nước. Hơn ai hết, chính các doanh nghiệp đã tự ý thức được vấn đề này từ đó có những chính sách quản lí kinh tế phù hợp với qui mô hoạt động và trình độ của mình nhằm tối đa hoá lợi nhuận, tối thiểu hoá chi phí . Trong các doanh nghiệp sản xuất đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thì chi phí lớn nhất chính là chi phí sản xuất sản phẩm. Vì vậy để hạ thấp chi phí thì chi phí sản xuất là yếu tố đầu tiên cần được quan tâm hàng đầu. Hơn nữa đây cũng là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi chu kì sản xuất. Cho nên công tác quản lí chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm luôn được coi trọng và đánh giá cao trong toàn bộ công tác kế toán của doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, trong thời gian thực tập, tìm hiểu thực tế công tác kế toán tại công ty cổ phần khí công nghiệp, tôi đã đi sâu tìm hiểu về lĩnh vực này với đề tài: "Một số vấn đề hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp”. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của khoá luận tập trung chủ yếu vào các vấn đề về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Về bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, các cách phân loại chi phí, giá thành, các đối tượng hạch toán chi phí, giá thành, mối quan hệ giữa chi phí sản cxuất và giá thành sản phẩm. Phạm vi nghiên cứu về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần khí công nghiệp giai đoạn hiện nay. 3. Phương pháp nghiên cứu: Khoá luận sử dụng phương pháp tổng hợp phân tích, thống kê chọn lọc với so sánh kết quả, trên cơ sở vận dụng phương pháp tư duy lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp sử dụng các phương pháp của khoa học quản lý kinh tế – tài chính 4. Mục đích nghiên cứu: Khoá luận nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần khí công nghiệp: đề cập và phân tích những khái niệm, bản chất, nội dung kinh tế và các cách phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm; các đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành; các hình thức sổ kế toán áp dụng cho một hình thức kế toán cụ thể… Trên cơ sở tập trungvào việc thu thập phân tích và đánh giá thực trạng về vấn đề chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, khoá luận đã đề xuất những giải pháp nâng cao để từng bước hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần khí công nghiệp. 5. Bố cục của khoá luận; Ngoài phần mở đầu và phần kết luận chuyên đề được trình bày theo 3 chương: Chương 1: Lí luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất. Chương 2: Thực trạng tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp. Chương 3: Phương hướng hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp. Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình của PGS- TS Nguyễn Đình Hựu, sự giúp đỡ của các cán bộ kế toán Công ty Cổ phần khí công nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Chương 1 lí luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất. 1.1. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 1.1.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất. 1.1.1.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất. Sản xuất ra của cải vật chất là hoạt động cơ bản của xã hội loài người, là điều kiện tiên quyết, tất yếu và vĩnh viễn của sự tồn tại, phát triển trong mọi chế độ xã hội, mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế nói chung và trong nền kinh tế thị trường nói riêng, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thực chất là thực hiện việc sản xuất ra sản phẩm theo yêu cầu của thị trường nhằm mục đích kiếm lời. Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp giữa sức lao động với tư liệu lao động và đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Trong giai đoạn này một mặt các doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản chi phí để tiến hành sản xuất, mặt khác các doanh nghiệp lại thu được một lượng kết quả sản xuất gồm thành phẩm và sản phẩm dở dang. Do vậy, để đảm bảo bù đắp được chi phí và có lãi đòi hỏi các doanh nghiệp phải áp dụng mọi biện pháp để tăng lượng kết quả thu được, giảm lượng chi phí chi ra, tính toán sao cho với lượng chi phí bỏ ra phải thu được kết quả cao nhất. Do giá trị hàng hoá là một phạm trù kinh tế khách quan trên thị trường. Chính vì vậy chi phí sản xuất mà các doanh nghiệp hạch toán phải khớp với giá trị thực tế của tư liệu sản xuất dùng vào sản xuất kinh doanh và các khoản đã chi ra. Mặc dù các hao phí bỏ ra cho sản xuất bao gồm nhiều loại, nhiều yếu tố khác nhau nhưng trong điều kiện tồn tại quan hệ hàng hoá- tiền tệ, chúng cần được tổng hợp và biểu hiện dưới hình thức tiền tệ. Từ đó ta có thể đi dến một khái niệm chung nhất về chi phí sản xuất như sau: Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất trong một thời kì nhất định. Trong đó chi phí lao động sống bao gồm tiền lương, các khoản bảo hiểm. Chi phí lao động vật hoá gồm chi phí nguyên vật liệu, khấu hao TSCĐ... Trong các doanh nghiệp sản xuất, ngoài những chi phí có tính chất sản xuất còn có những chi phí không có tính chất sản xuất. Vì vậy cần phải phân biệt chi phí và chi tiêu. Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kì kinh doanh chứ không phải là mọi khoản chi ra trong kì, đó là những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể nó được dùng vào mục đích gì ví dụ như chi mua sắm vật tư, chi cho sản xuất chế tạo sản phẩm, chi cho công tác văn hoá văn nghệ trong doanh nghiệp ... Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Song chúng lại khác nhau về lượng và thời gian. Chi tiêu có thể là chi phí như mua vật tư đưa ngay vào sản xuất hoặc cũng có thể chưa phải là chi phí sản xuất như mua vật tư về nhập kho chưa xuất dùng...Sở dĩ có sự khác nhau này là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kĩ thuật hạch toán chúng. Việc phân biệt chi phí và chi tiêu có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu bản chất nội dung của chi phí. Nó đồng thời là cơ sở để các doanh nghiệp xác định phạm vi hạch toán chi phí sản xuất trong kì. Về bản chất của chi phí sản xuất, các nhà kinh tế học thường quan niệm đó là các phí tổn phải chịu khi sản xuất hàng hoá hay dịch vụ trong kì kinh doanh. Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp thì chi phí sản xuất là toàn bộ các khoản tiền mà doanh nghiệp phải mua các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra sản phẩm nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp. Còn theo quan niệm của kế toán thì chi phí sản xuất như một khoản phải hy sinh hay một khoản bỏ ra để đạt được mục đích nhất định, nó được xem như một lượng tiền phải trả cho các hoạt động của doanh nghiệp trong việc tạo ra sản phẩm. Như vậy các quan điểm trên thực tế chỉ là sự nhìn nhận bản chất của chi phí sản xuất dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung nó đều là sự dịch chuyển vốn- dịch chuyển giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá. Việc tìm hiểu rõ khái niệm chi phí sản xuất giúp các nhà quản lí doanh nghiệp có cái nhìn sâu hơn về bản chất của chi phí sản xuất, từ đó tìm ra biện pháp hạ thấp chi phí sản xuất đến mức thấp nhất. 1.1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất. Một trong những thông tin quan trọng đối với các nhà quản trị doanh nghiệp là các thông tin về chi phí, vì mỗi khi chi phí tăng thêm sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Do vậy các nhà quản lí cần phải kiểm soát chặt chẽ các chi phí phát sinh trong doanh nghiệp. Để làm được điều này cần thiết phải làm rõ được các cách phân loại chi phí khác nhau, vì mỗi cách phân loại đều cung cấp thông tin ở mỗi góc độ khác nhau giúp cho nhà quản trị đưa ra được những quyết định thích hợp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, chi phí sản xuất chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng chi phí của doanh nghiệp thì việc quản lí chi phí một cách chặt chẽ lại càng trở nên quan trọng. Quản lí chi phí sản xuất chính là quản lí việc sử dụng hợp lí, tiết kiệm các yếu tố cấu thành nên sản phẩm. Trong thực tế, chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại khác nhau về nội dung kinh tế, về tính chất, về vị trí của nó trong việc tạo ra sản phẩm, về địa điểm phát sinh chi phí ... Hạch toán chi phí theo từng loại sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin kế toán, là cơ sở tin cậy cho việc phấn đấu giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế của chi phí. Tuỳ theo yêu cầu của công tác hạch toán và quản lí cũng như nhằm mục đích ra quyết định người ta phân loại chi phí theo những tiêu thức khác nhau nhằm phục vụ cho những mục đích riêng của mình. 1.1.1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí. Mỗi yếu tố chi phí sản xuất được sử dụng trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp đều có những công dụng và mục đích riêng. Không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào người ta xếp chúng vào một nhóm với mục đích thuận lợi cho việc tính giá thành sau này. Theo cách phân loại này chi phí sản xuất được chia ra làm ra ba khoản mục: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. * Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm các chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng vào mục đích chế tạo sản phẩm. * Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất và các khoản tính trích theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất( BHXH, BHYT, KPCĐ). * Chi phí sản xuất chung: bao gồm những khoản chi phí sản xuất trực tiếp khác ngoài hai khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Như vậy nó bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp, các loại chi phí phân xưởng khác như: chi phí sửa chữa, bảo trì, khấu hao TSCĐ, dịch vụ mua ngoài... Do đặc điểm của chi phí sản xuất chung không thể tính trực tiếp vào sản phẩm nên chúng được tính vào sản phẩm thông qua việc phân bổ theo các tiêu thức hợp lí. Việc phân loại chi phí theo mục đích và công dụng của chi phí có tác dụng trong việc quản lí chi phí theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành. Từ đó thấy được ảnh hưởng của từng loại khoản mục chi phí đến kết cấu của giá thành sản phẩm, giúp tập hợp chi phí sản xuất một cách đầy đủ, chính xác. Đồng thời nó cũng cung cấp những thông tin cần thiết để xác định phương hướng và biện pháp giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên cách phân loại này chưa cho ta thấy được chi phí sẽ "phản ứng" như thế nào khi có sự thay đổi xảy ra trong mức độ hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Để thấy được sự thay đổi này ta xem xét cách phân loại sau. 1.1.1.2.2. Phân loại chi phí theo cách "ứng xử" của chi phí. Cách "ứng xử" của chi phí có nghĩa là các chi phí này tăng giảm như thế nào đối với sự thay đổi về mức độ hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi mức độ sản xuất tăng lên hay giảm đi thì chi phí có thể tăng, giảm hoặc giữ nguyên không đổi. Với mục đích lập kế hoạch người quản lí phải có khả năng thấy trước được điều gì sẽ xảy ra và nếu chi phí có thay đổi phải xác định được chúng sẽ thay đổi bao nhiêu. Để cung cấp cho thông tin này, chi phí được phân làm ba loại: *Chi phí khả biến (biến phí):là những khoản chi phí thay đổi về tổng số, tỉ lệ với những biến đổi của mức độ hoạt động. Trong doanh nghiệp sản xuất chi phí khả biến bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và một số khoản chi phí sản xuất chung. Biến phí được chia làm 2 loại: Biến phí tỉ lệ: là những khoản chi phí có quan hệ tỉ lệ thuận trực tiếp với biến động của mức độ hoạt động căn. Tổng chi phí biến đổi sẽ phụ thuộc vào sản lượng sản xuất. Do đó khi ta kí hiệu biến phí đơn vị là b, sản lượng sản xuất là x ta sẽ có phương trình biến phí là: y=bx. Biến phí cấp bậc: là những khoản chi phí chỉ thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi nhiều và rõ ràng. Biến phí loại này không thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi ít. Nói cách khác biến phí cấp bậc cũng quan hệ tỉ lệ thuận với mức độ hoạt động nhưng không có tính tuyến tính. Thuộc loại này có thể kể đến như chi phí cho nhân viên bảo trì... Đồ thị biểu diễn chi phí khả biến. CF CF y=bx b2 b1 bo 0 MĐHĐ MĐHĐ *Chi phí bất biến (định phí): là những khoản chi phí không biến đổi hoặc biến đổi không đáng kể khi mức độ hoạt động thay đổi. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì định phí là những chi phí không thay đổi khi sản lượng sản xuất thay đổi và nó tồn tại ngay cả khi doanh nghiệp không tiến hành sản xuất. Tuy nhiên định phí vẫn giữ nguyên trong phạm vi giữa số lượng sản phẩm tối thiểu và tối đa mà doanh nghiệp dự định sản xuất. Khi doanh nghiệp thay đổi phạm vi tức là mở rộng hay thu hẹp sản xuất thì định phí cũng thay đổi, do đặc điểm của định phí là: Tổng định phí giữ nguyên khi sản lượng trong phạm vi phù hợp và định phí trong một sản phẩm thay đổi khi sản lượng thay đổi. Định phí được chia làm hai loại: Định phí bắt buộc và định phí tuỳ ý, trong đó: Định phí bắt buộc là định phí không thể thay đổi được một cách nhanh chóng vì chúng thường liên quan đến TSCĐ và cấu trúc của tổ chức cơ bản của một doanh nghiệp như tiền lương của ban giám đốc. Định phí bắt buộc có bản chất sử dụng lâu dài và không thể giảm đến số không được trong một thời gian ngắn. Thuộc loại này có thể kể đến như chi phí khấu hao TSCĐ... Định phí tuỳ ý là định phí có thể được điều chỉnh tăng hoặc giảm một cách tương đối dễ dàng tuỳ thuộc vào qui mô của hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng thời kì, chẳng hạn như chi phí quảng cáo, chi phí đào tạo nhân viên... Khái niệm định phí bắt buộc và định phí tuỳ ý chỉ là khái niệm tương đối, tuỳ thuộc vào nhận thức chủ quan của các nhà quản trị doanh nghiệp. Có những nhà quản trị nhìn nhận một khoản định phí nào đó là bắt buộc nên rất ngần ngại khi phải điều chỉnh. Ngược lại có những nhà quản trị lại cho rằng định phí nào đó là tuỳ ý nên thường xuyên xem xét lại và điều chỉnh khi có điều kiện. Đồ thị biểu diễn định phí: CF CF y=A 0 MĐHĐ 0 MĐHĐ Chi phí khả biến và chi phí bất biến chỉ mang tính chất tương đối. Chi phí bất biến chỉ có thể xác định khi qui mô sản xuất đã tương đối ổn định. Khi qui mô sản xuất thay đổi thì chi phí bất biến cũng thay đổi theo. * Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí mà bản thân nó bao gồm cả yếu tố định phí lẫn yếu tố biến phí. ở mức độ hoạt động căn bản chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí còn quá mức độ đó lại thể hiện đặc tính của biến phí. Ví dụ chi phí sản xuất chung có đặc điểm của chi phí hỗn hợp, cụ thể: Tiền thuê máy móc, thiết bị hoặc chi phí điện thoại gồm 2 phần: Phần định phí hàng tháng và phần biến phí theo số giờ máy sử dụng. Nhờ cách phân loại chi phí này, người ta có thể đánh giá chính xác hơn tính hợp lí của chi phí sản xuất chi ra, mặt khác nó là cơ sở quan trọng để xác định sản lượng hoà vốn và là cơ sở để xây dựng chính sách giá hợp lí, linh hoạt. Sự hiểu biết về cách "ứng xử" của chi phí là chìa khoá để ra quyết định trong các doanh nghiệp. Vì hiểu được chi phí "ứng xử" như thế nào thì người quản lí sẽ có khả năng tốt hơn trong việc dự toán các chi phí cho các trường hợp thực hiện khác nhau, từ đó tìm ra được biện pháp để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tận dụng năng lực sản xuất để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1.1.1.2.3. Phân loại chi phí theo mối quan hệ và khả năng tập hợp cho các đối tượng chịu chi phí. *Chi phí trực tiếp còn được gọi là chi phí có thể tách biệt, phát sinh một cách riêng biệt trong một hoạt động cụ thể của doanh nghiệp. Nó thay đổi tỉ lệ thuận với số lượng, chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Chi phí sản xuất trực tiếp bao gồm: - Vật liệu chính, vật liệu phụ trực tiếp dùng vào sản xuất sản phẩm. - Nhiên liệu, động lực dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm. - Tiền lương, BHXH của lao động trực tiếp. - Giá trị công cụ dụng cụ dùng cho sản xuất. - Chi phí trực tiếp khác bằng tiền. *Chi phí gián tiếp là loại chi phí không thể tách biệt cho một hoạt động cụ thể nào và cùng một lúc có liên quan đến nhiều hoạt động khác nhau. Cuối kì chi phí gián tiếp phải được phân bổ theo những phương pháp riêng. Thuộc loại này gồm có chi phí cho hoạt động quản lí của doanh nghiệp như: chi phí lương giám đốc, quản đốc, chi phí khấu hao TSCĐ... Do mỗi loại chi phí có tác dụng khác nhau đến số lượng sản phẩm sản xuất ra nên việc hạch toán chi phí theo hướng phân định rõ ràng chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp là một việc làm có ý nghĩa thiết thực trong việc đánh giá tính hợp lí của chi phí sản xuất. Cách phân loại này có ý nghĩa lớn đối với việc xác định phương pháp kế toán tập hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng chịu chi phí một cách đúng đắn, hợp lí. 1.1.1.2.4. Một số các cách phân loại chi phí khác nhằm mục đích ra quyết định. Trong doanh nghiệp việc đưa ra được một quyết định đúng đắn có ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đó. Một quyết định đúng sẽ đem lại hiệu quả kinh tế, ngược lại nếu quyết định sai có thể sẽ đưa doanh nghiệp đến bờ vực phá sản. Để đáp ứng yêu cầu này người ta phân chi phí sản xuất ra thành các loại như: *Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được. -Chi phí kiểm soát được ở một cấp quản lí nào đó là chi phí mà cấp đó có thẩm quyền ra quyết định. Như vậy các nhà quản lí cấp cao có phạm vi, quyền hạn rộng đối với chi phí hơn các nhà quản trị cấp thấp, họ có nhiều quyền kiểm soát và quyết định chi phí hơn. -Ngược lại, những chi phí mà cấp đó không có thẩm quyền ra quyết định gọi là chi phí không kiểm soát được. Việc phân loại này có tác dụng trong việc đưa ra các thông tin trên báo cáo lỗ lãi của các bộ phận chính xác hơn, có ý nghĩa hơn khi họ chỉ liệt kê vào báo cáo những chi phí kiểm soát được bởi bộ phận mình và loại bỏ những chi phí bộ phận mình không kiểm soát được. * Chi phí chênh lệch (chi phí sai biệt). Để thực hiện chức năng ra quyết định, nhà quản trị thường phải lựa chọn, so sánh nhiều phương án khác nhau. Mỗi phương án bao gồm những khoản chi phí riêng có thể khác nhau về qui mô và các yếu tố. Những khoản chi phí nào có mặt ở dự án này mà không có ở dự án khác hoặc chỉ có một phần thì được gọi là chi phí chênh lệch. * Chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là lợi ích bị mất khi lựa chọn phương án và hành động này thay vì phương án và hành động khác. Trong kinh doanh chi phí cơ hội không được phản ánh trên sổ sách kế toán nhưng lại rất quan trọng, cần được xem xét kĩ khi lựa chọn phương án kinh doanh. * Chi phí chìm. Đây là những khoản phí mà doanh nghiệp bắt buộc phải chịu khi lựa chọn phương án kinh doanh nào. Chi phí chìm thường liên quan đến khấu hao TSCĐ. Trên đây là một số các cách phân loại chi phí phổ biến nhất hiện nay. Việc nghiên cứu xem xét các cách phân loại chi phí có tác dụng nâng cao tính chi tiết của thông tin hạch toán. Nhưng để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách có hiệu quả thì ngoài việc hiểu rõ bản chất, khái niệm, các cách phân loại chi phí điều quan trọng tiếp theo là phải nghiên cứu bản chất và các loại giá thành cũng như mối quan hệ giữa chi phí và giá thành là như thế nào. 1.1.2. Giá thành sản phẩm và các loại giá thành. 1.1.2.1. Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm. Trong sản xuất, chi phí sản xuất mới chỉ là một mặt thể hiện sự hao phí. Để đánh giá được chất lượng sản xuất kinh doanh của tổ chức kinh tế, chi phí phải được xem xét trong mối quan hệ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ bản của quá trình sản xuất đó là kết quả sản xuất thu được, quan hệ so sánh đó hình thành nên giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp thể hiện qua các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, là thước đo mức tiêu hao để bù đắp chi phí trong quá trình sản xuất, là một căn cứ xây dựng phương án giá thành sản phẩm của kì kế hoạch. Giá thành được tính toán xác định cho từng loại sản phẩm, lao vụ cụ thể và chỉ tính toán với số lượng sản phẩm hoặc dịch vụ đã hoàn thành trong quá trình sản xuất (thành phẩm) hoặc kết thúc một giai đoạn sản xuất ( bán thành phẩm ). Giá thành sản phẩm trong một chừng mực nhất định nó vừa mang tính chủ quan lại vừa mang tính khách quan. Vì vậy, chúng ta phải xem xét giá thành trên nhiều góc độ khác nhau nhằm sử dụng chỉ tiêu giá thành có hiệu quả nhất. Giá thành là biểu hiện bằng tiền giá trị tư liệu sản xuất và sức lao động kết tinh trong một đơn vị sản phẩm hàng hoá, vì vậy nó mang tính khách quan do sự di chuyển và kết tinh này là tất yếu. Việc tính toán, đo lường và biểu hiện chúng bằng tiền chỉ là phản ánh của quản lí mà thôi. Mặt khác giá thành là một đại lượng được tính toán trên cơ sở chi phí sản xuất chi ra trong kì nên nó là chỉ tiêu có sự dao động nhất định. Trên góc độ này giá thành mang tính chủ quan. Đặc điểm chủ quan này thể hiện trên hai khía cạnh: Thứ nhất giá thành là biểu hiện bằng tiền của các tư liệu sản xuất và sức lao động đã hao phí để sản xuất ra một khối lượng sản phẩm nhất định. Vì vậy việc áp dụng các biện pháp đánh giá khác nhau ở từng doanh nghiệp cũng làm cho giá thành sản phẩm mang tính chủ quan nhất định. Thứ hai giá thành được tính trên cơ sở chi phí sản xuất. Những chi phí được tập hợp vào giá thành phải tuân theo qui định chung của kế toán. Không phải bất cứ chi phí nào cũng được hạch toán vào chi phí sản xuất để tính giá thành sản phẩm. Chẳng hạn trước kia chi phí quản lí và chi phí bán hàng cũng được tập hợp vào giá thành giá thành nhưng từ năm 1995 trở lại đây theo chế độ kế toán mới thì hai khoản chi phí này được coi như những khoản phí tổn mà doanh nghiệp phải chịu, do vậy nó làm cho giá thành sản phẩm dao động theo. Như vậy bản chất của giá thành sản phẩm là việc dịch chuyển giá trị các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất vào sản phẩm đã hoàn thành. Từ việc nghiên cứu bản chất của giá thành sản phẩm ta có thể đi đến một khái niệm chung nhất về giá thành sản phẩm như sau: Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. 1.1.2.2. Các loại giá thành. Để đáp ứng các yêu cầu của quản lí, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau.Về lí luận cũng như trên thực tế tại các doanh nghiệp chỉ tiêu giá thành thường có ba loại: 1.1.2.2.1. Giá thành kế hoạch. Việc tính toán xác định giá thành kế hoạch được tiến hành trước khi tiến hành quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm do bộ phận kế hoạch thực hiện. Giá thành kế hoạch được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và được xem là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp. 1.1.2.2.2. Giá thành định mức. Cũng giống như giá thành kế hoạch, việc tính giá thành định mức cũng có thể thực hiện trước khi tiến hành sản xuất, chế tạo sản phẩm. Tuy nhiên khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên các định mức bình quân tiên tiến và không đổi trong suốt kì kế hoạch thì giá thành định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kì kế hoạch nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành. Giá thành định mức luôn được xem như là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, tiền vốn trong doanh nghiệp, để đánh giá các giải pháp mà doanh nghiệp đã áp dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí. 1.1.2.2.3. Giá thành thực tế. Khác với hai loại giá thành trên, giá thành thực tế của sản phẩm, lao vụ chỉ được xác định khi quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm đã hoàn thành và dựa trên cơ sở số liệu sản xuất thực tế đã phát sinh tập hợp được trong kì. Giá thành thực tế của sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế - tổ chức kĩ thuật để thực hiện quá trình sản xuất, là cơ sở để xác định giá trị sản phẩm, giá bán thành phẩm và để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ba loại giá thành chủ yếu trên đây thì còn có cả giá thành phân xưởng( giá thành công xưởng, giá thành sản xuất) và giá thành toàn bộ( giá thành tiêu thụ) trong đó: Giá thành công xưởng là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất ( chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung). Giá thành toàn bộ là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí sản xuất, chi phí quản lí và chi phí bán hàng). Việc nghiên cứu chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cho ta thấy được mối quan hệ của chúng trong quá trình sản xuất 1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Chi phí là biểu hiện mặt hao phí còn giá thành biểu hiện mặt kết quả của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt thống nhất của một quá trình, vì vậy chúng giống nhau về mặt chất. Tuy nhiên do bộ phận chi phí sản xuất giữa các kì không đều nhau nên giá thành và chi phí sản xuất lại khác nhau về lượng. Được tính vào chỉ tiêu giá thành sản phẩm chỉ có những chi phí gắn liền với sản phẩm hay khối lượng công việc đã hoàn thành không kể chi phí sản xuất đã chi ra trong kì kinh doanh nào. Do lượng chi phí sản xuất kì trước chuyển sang kì này thường không nhất trí với lượng chi phí sản xuất kì này chuyển sang kì sau nên tổng giá thành kì này thường không bằng tổng chi phí đã chi ra trong kì đó. Trên góc độ biểu hiện bằng tiền, chi phí sản xuất cũng khác với giá thành sản phẩm. Đặc biệt trong các doanh nghiệp sản xuất, không bao gồm những chi phí đã chi ra trong kì nhưng còn chờ phân bổ dần cho kì sau, đồng thời phải cộng thêm các khoản chi phí thực tế chưa phát sinh trong kì nhưng được tính trước vào giá thành và chi phí đã chi ra kì trước chưa phân bổ kết chuyển sang. Như vậy chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm không chỉ khác nhau về nội dung này còn khác nhau về thời điểm phát sinh chi phí hình thành nên chúng. Do đó công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp có vai trò nhiệm vụ đặc biệt quan trọng 1.1.4. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán với việc quản lí chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, việc đưa ra được những thông tin chính xác, kịp thời là điều kiện tiên quyết giúp nhà quản trị điều hành công việc của mình. Kế toán chính là công cụ của quản lí giúp đưa ra những con số biết nói, nắm bắt lợi thế cạnh tranh trong sản xuất, đặc biệt là cạnh tranh giá bán sản phẩm từ đó đưa ra được các quyết định đúng đắn khi kí kết các hợp đồng sản xuất hay đơn đặt hàng. Để làm tốt điều này kế toán phải tổ chức hạch toán một cách khoa học hợp lí, kiểm tra kiểm soát thường xuyên, liên tục có hệ thống nguyên tắc tiết kiệm trong sản xuất. Để thực hiện tốt chức năng cung cấp thông tin cho việc quản lí chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm kế toán phải thực hiện một số nhiệm vụ sau đây: - Tập hợp và phân bổ chính xác, kịp thời các loại chi phí sản xuất theo các đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành. Trên cơ sở đó, kiểm tra tình hình thực hiện các định mức và dự toán chi phí sản xuất. - Tính toán chính xác giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) của sản phẩm dịch vụ hoàn thành. Đồng thời phản ánh lượng sản phẩm, dịch vụ hoàn thành, nhập kho hay tiêu thụ (chi tiết từng hoạt động, từng mặt hàng). 1.2. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất. 1.2.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Để hạch toán chi phí sản xuất được chính xác, kịp thời đòi hỏi công việc đầu tiên mà các nhà quản lí phải làm là xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Đây là nội dung quan trọng nhất trong việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất. Vậy xác định đối tượng chi phí sản xuất là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Để xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất cần phải dựa vào những căn cứ sau đây: * Tính chất qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm: Tuỳ thuộc doanh nghiệp áp dụng hình thức nào sản xuất giản đơn hay phức tạp. Đối với sản xuất giản đơn, thì đối tượng tập hợp chi phí là sản phẩm hoặc toàn bộ quá trình sản xuất. Đối với sản xuất phức tạp thì đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm. * Loại hình sản xuất: Sản xuất đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ, sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn. Trong sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt, đối tượng hạch toán chi phí trong các trường hợp này là các đơn đặt hàng riêng biệt được mở theo số lượng qui định trước của những sản phẩm giống nhau hoặc khối lượng công việc hoàn thành nhất định. Đối với sản xuất hàng loạt và sản xuất với khối lượng lớn, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ... * Đặc điểm tổ chức sản xuất: doanh nghiệp tổ chức sản xuất ._.theo kiểu có phân xưởng hay không có phân xưởng. Việc tổ chức này nhằm phục vụ cho nhu cầu chỉ đạo sản xuất và quản lí kinh tế nhạy bén có hiệu quả hơn trong từng loại hình doanh nghiệp cụ thể. Đối với các doanh nghiệp có tổ chức phân xưởng thì các phân xưởng đó có thể đồng thời là đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Việc tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng phục vụ cho việc phân tích và kiểm tra các chi phí ở phân xưởng, tạo điều kiện cho kết quả hạch toán nội bộ của doanh nghiệp được đúng đắn. *Yêu cầu và trình độ quản lí, tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Còn đối với trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại. Tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng có tác dụng tốt cho việc tăng cường quản lí sản xuất, tăng cường công tác hạch toán chi phí nội bộ, phục vụ tốt cho việc tính giá thành. Tuy nhiên để tính được giá thành sản phẩm một cách chính xác thì đòi hỏi phải xác định đối tượng tính giá thành phù hợp. 1.2.2. Nội dung hạch toán các khoản mục chi phí sản xuất chủ yếu. 1.2.2.1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ,...) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp này đòi hỏi phải tổ chức tốt công tác hạch toán ban đầu theo đúng đối tượng tập hợp các số liệu chứng từ kế toán trực tiếp theo từng đối tượng liên quan để ghi vào các tài khoản, tiểu khoản hoặc chi tiết theo đúng đối tượng chịu chi phí với mức độ chính xác nhất. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng liên quan. Việc lựa chọn tiêu thức phân bổ hoàn toàn phụ thuộc vào từng loại chi phí cần phân bổ và đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với chi phí nguyên vật liệu, tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, số lượng sản phẩm ...Công thức phân bổ như sau: = x Chi phí vật liệu phân bổ Tổng chi phí vật liệu Tỷ lệ(hay hệ số) cho từng đối tượng cần phân bổ phân bổ Trong đó: = Tỷ lệ(hay hệ số) Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng Phương pháp hạch toán cụ thể như sau: * Trường hợp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên: Theo hình thức này để theo dõi chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kế toán sử dụng tài khoản 621"chi phí nguyên vật liệu trực tiếp" theo dõi chi tiết cho từng đối tượng. Bên Nợ: Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm. Bên Có: Kết chuyển nguyên vật liệu trực tiếp vào TK154 và giá trị vật liệu xuất dùng không hết nhập lại kho. Tk621 cuối kì không có số dư. Nội dung hạch toán cụ thể được thể hiện qua sơ đồ sau: TK 152 TK 621 TK 152 Giá ttế của NVL xuất kho cho sản xuất trực tiếp TK 111, 112, 311, 331 NVL mua ngoài đưa vào SXTT (0 qua kho kho) TK 133 TK 154cb, 411, 336 Giá ttế NVL chế biến xong được cấp, góp, đi vay, đưa vào SXTT Giá ttế của NVL dùng không hết, chưa hết TK 154 C.kỳ k/c g.trị số NVL đã sd trong kỳ cho đ/tượng về TK tổng hợp của nó *Trường hợp áp dụng phương pháp kiểm kê định kì: Để phản ánh các chi phí vật liệu đã xuất dùng cho sản xuất, kinh doanh, kế toán sử dụng TK 621. Các chi phí phản ánh trên TK621 không ghi theo từng chứng từ xuất dùng nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ mà được ghi một lần vào cuối kì hạch toán, sau khi tiến hành kiểm kê và xác định được giá trị nguyên vật liệu, dụng cụ tồn kho và hàng mua đi đường. Nội dung phản ánh của TK621 khác với phương pháp kê khai thường xuyên. Bên Nợ: Giá trị vật liệu, công cụ dụng cụ đã xuất dùng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong kì. Bên Có: Kết chuyển chi phí vật liệu, CCDC vào giá thành, dịch vụ, lao vụ. Cuối kì TK621 không có số dư và nó được mở theo từng đối tượng hạch toán chi phí. Nội dung hạch toán cụ thể được thể hiện qua sơ đồ sau: TK331,111... TK611 TK621 TK 631 Giá trị VL tăng trong kì Giá trị NVL dùng K/c CPNVLTT chế tạo SP TK151,152,153 TK151,152,153 Giá trị VL tồn đầu kì Gtrị VL tồn kho và đi đường c.kì 1.2.2.2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp: Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản tiền phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương. Ngoài ra chi phí nhân công còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ BHXH,BHYT,KPCĐ do chủ doanh nghiệp chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỷ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất. Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản 622"CPNCTT". Tài khoản này không có số dư và được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí. Bên Nợ: chi phí nhân công trực tiếp thực tế phát sinh. Bên Có: kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp. Phương pháp hạch toán cụ thể của cả hai phương pháp kiểm kê định kì và kê khai thường xuyên là giống nhau, chỉ khác ở bút toán cuối kì. Với phương pháp kê khai thường xuyên: Cuối kì kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào TK 154 theo từng đối tượng tập hợp chi phí. Còn với phương pháp kiểm kê định kì thì cuối kì kế toán tiến hành kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào TK631 theo từng đối tượng. Trường hợp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên: TK334 TK622 TK154 Tiền lương và phụ cấp K/c CPNCTT vào giá thành phải trả cho CNTT sản phẩm TK338 Các khoản đóng góp theo tỷ lệ với TL của CNTTSX thực tế phát sinh Trường hợp áp dụng phương pháp kiểm kê định kì TK334,338 TK622 TK631 Lương, phụ cấp, BH K/c CPNC vào giá thành BHYT,KPCĐ trích theo .... sản phẩm 1.2.2.3. Hạch toán chi phí trả trước: Chi phí trả trước là các khoản đã thực tế phát sinh trong kì nhưng chưa sử dụng cho cả các kì sau. Sau đó hàng kì phân bổ dần chi phí này cho bộ phận sử dụng nó. Các chi phí này khi phát sinh được tập hợp vào TK1421" chi phí trả trước chờ phân bổ" Bên Nợ: Các khoản chi phí trả trước phát sinh. Bên Có: Các khoản chi phí trả trước đã phân bổ vào chi phí kinh doanh. Dư Nợ: Các khoản chi phí trả trước thực tế phát sinh nhưng chưa phân bổ vào chi phí kinh doanh. Sơ đồ hạch toán chi phí trả trước như sau: TK627,641,642,241 TK111,112,331,334 TK 142 Phân bổ dần CP trả trước vào các kỳ hạch toán phát sinh CP trả trước tt phát sinh TK641,642 TK911 K/cCPBH,CPQL vào TK xác định kết quả k/c CPBH,CPQL 1.2.2.4. Hạch toán chi phí phải trả: Chi phí phải trả còn gọi là chi phí trích trước là những khoản chi phí thực tế chưa phát sinh nhưng được ghi nhận là chi phí của kì hạch toán. Đây là những khoản chi phí trong kế hoạch của đơn vị mà do tính chất hoặc yêu cầu quản lí nên được tính trước vào chi phí kinh doanh cho các đối tượng chịu chi phí nhằm bảo đảm cho giá thành sản phẩm, lao vụ, chi phí bán hàng, chi phí quản lí khỏi đột biến tăng khi những khoản chi phí này phát sinh. Chi phí phải trả trong doanh nghiệp thường bao gồm: Tiền lương phép của công nhân sản xuất (với các doanh nghiệp sản xuất mang tính chất thời vụ), chi phí sửa chữa TSCĐ trong kế hoạch, thiệt hại về ngừng sản xuất trong kế hoạch.... Các khoản chi phí này được theo dõi, phản ánh trên TK335" Chi phí phải trả" Bên Nợ: chi phí phải trả thực tế phát sinh. Bên Có: Các khoản chi phí phải trả được ghi nhận(đã tính trước) vào chi phí trong kì kế hoạch. Dư Có: Các khoản chi phí phải trả đã tính vào chi phí kinh doanh nhưng thực tế chưa phát sinh. Về nguyên tắc TK335 cuối năm không có số dư (trừ trường hợp một số khoản chi phí phải trả có liên quan đến nhiều niên độ kế toán như chi phí sửa chữa TSCĐ, lãi tiền vay dài hạn...được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận). Nội dung hạch toán cụ thể được thể hiện trong sơ đồ sau: TK334 TK335 TK622 Tiền lương phép, lương Trích trước lương phép,lương ngừng việc t.tế phải trả ngừng việc của CNSX TK241,331,111,112 TK627,641,642 Các CP phải trả khác Trích trước CP phải trả thực tế phát sinh khác vào chi phí kinh doanh 1.2.2.5.Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất. 1.2.2.5.1.Hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng. Sản phẩm hỏng là những sản phẩm không thoả mãn các tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kĩ thuật của sản xuất về mầu sắc, kích cỡ, trọng lượng, cách thức lắp ráp...Tuỳ theo mức độ hư hỏng mà sản phẩm hỏng được chia làm 2 loại: - Sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được là những sản phẩm hỏng mà về mặt kĩ thuật có thể sửa chửa được và việc sửa chữa đó có lợi về mặt kinh tế. - Sản phẩm hỏng không sửa chữa được là những sản phẩm mà về mặt kĩ thuật không thể sửa chữa được hoặc có thể sửa chữa được nhưng không có lợi về mặt kinh tế. Trong quan hệ với công tác kế hoạch, hai loại sản phẩm hỏng trên lại được chi tiết thành sản phẩm hỏng trong định mức và sản phẩm hỏng ngoài định mức. - Sản phẩm hỏng trong định mức là những sản phẩm hỏng mà doanh nghiệp dự kiến xảy ra trong quá trình sản xuất. Đây là những sản phẩm hỏng được xem là không tránh khỏi trong sản xuất nên phần chi phí cho những sản phẩm này được coi là chi phí sản xuất chính phẩm. - Sản phẩm hỏng ngoài định mức là những sản phẩm hỏng nằm ngoài dự kiến của nhà sản xuất do các nguyên nhân bất thường. Vì thế các chi phí của chúng không được cộng vào chi phí sản xuất chính phẩm mà thường được xem như là một khoản phí tổn thời kì phải trừ vào thu nhập. Thiệt hại về sản phẩm hỏng trong định mức bao gồm giá trị sản phẩm hỏng không sửa chữa được và phần chi phí sửa chữa sản phẩm tái chế trừ đi giá trị phế liệu thu hồi (nếu có). Toàn bộ phần thiệt hại này tính vào chi phí sản xuất sản phẩm và được hạch toán như đối với chính phẩm. Đối với giá trị thiệt hại của những sản phẩm ngoài định mức, kế toán phải theo dõi riêng. Đồng thời xem xét từng nguyên nhân gây ra sản phẩm hỏng để có biện pháp xử lí. Toàn bộ giá trị thiệt hại có thể theo dõi riêng trên một trong các tài khoản như 1381,154,627,1421(chi tiết sản phẩm hỏng ngoài định mức), sau khi trừ đi một số phế liệu thu hồi và bồi thường (nếu có), thiệt hại thực về sản phẩm hỏng sẽ được tính vào chi phí bất thường. Sơ đồ hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng ngoài định mức. TK152,153,334 338,241,... TK 1381.SPHNĐM TK 821,415 Chi phí sửa chữa Giá trị thiệt hại thực về SPHNĐM TK154,155,157,632 TK1381,152... Giá trị sản phẩm hỏng Giá trị phế liệu thu hồi không sửa chữa được và các khoản bồi thường 1.2.2.5.2. Thiệt hại về ngừng sản xuất: Trong thời gian ngừng sản xuất vì những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan (thiên tai, dịch hoạ, thiếu nguyên vật liệu...), các doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một khoản chi phí để duy trì hoạt động như tiền công lao động, khấu hao TSCĐ, chi phí bảo dưỡng....Những khoản chi phí chi ra trong thời gian này được coi là thiệt hại về những sản xuất. Với những khoản chi phí về ngừng sản xuất theo kế hoạch dự kiến, kế toán sẽ theo dõi ở TK335. Trường hợp ngừng sản xuất bất thường, các chi phí bỏ ra trong thời gain này do không được chấp nhận nên phải theo dõi riêng trên một trong các tài khoản tương tự như hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng ngoài định mức (TK154,627,1421,1381...chi tiết thiệt hại về ngừng sản xuất). Cuối kì, sau khi đã trừ vào thu hồi (nếu có, do bồi thường), giá trị thiệt hại thực tế sẽ trừ vào thu nhập như khoản chi phí thời kì. Cách hạch toán có thể được phản ánh qua sơ đồ sau: Sơ đồ hạch toán tổng hợp thiệt hại ngừng sản xuất ngoài kế hoạch. TK334,338,152,214... TK1421.THNSX TK821,415... Thiệt hại thực Tập hợp CP chi ra trong thời gian ngừng sản xuất TK1381,111 Giá trị bồi thường 1.2.2.6.Hạch toán chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng tài khoản 627, mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ. Bên Nợ: Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ. Bên Có: -Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung. - Kết chuyển (hay phân bổ) chi phí sản xuất chung vào chi phí sản phẩm hay lao vụ, dịch vụ. Tài khoản 627 cuối kỳ không có số dư do đã kết chuyển hay phân bổ hết cho các loại sản phẩm, dịch vụ, lao vụ và được chi tiết thành 6 tiểu khoản. Do chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trong phân xưởng nên cần thiết phải phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng theo các tiêu thức phù hợp. Trong thực tế, các tiêu thức thường được sử dụng phổ biến để phân bổ chi phí sản xuất chung là phân bổ theo định mức, theo giờ làm việc thực tế của công nhân trực tiếp sản xuất, theo tiền lương công nhân sản xuất... Công thức phân bổ: Mức CPSXC phân bổ cho từng đối tượng = Tổng CPSXC x Tiêu thức phân bổ của từng đối tượng Tổng tiêu thức phân bổ Trong kỳ kinh doanh tập hợp chi phí từ các tài khoản liên quan vào bên Nợ TK 627. Cuối kỳ phân ra các khoản ghi giảm chi phí vào các tài khoản thích hợp còn lại phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng chịu chi phí. Với phương pháp kê khai thường xuyên kết chuyển chi phí vào tài khoản 154. Với phương pháp kiểm kê định kì kết chuyển chi phí vào TK631. Trình tự hạch toán cụ thể thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất chung. TK334,338 TK627 TK111,112,152... CP nhân viên PX Các khoản ghi giảm CPSXC (phế liệu thu hồi, TK152,153 vật tư xuất dùng không hết...) TK 154, 631 CP vật liệu, dụng cụ TK1421,335 CP trả trước, phải trả tính vào chi phí SXC Phân bổ(hoặc kết chuyển) TK 214 chi phí sản xuất chung Chi phí khấu hao TSCĐ TK111,112,331... CP mua ngoài và CP bằng tiền khác 1.2.2.7.Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang 1.22.7.1. Tổng hợp chi phí sản xuất:. Các phần trên đã nghiên cứu cách hạch toán và phân bổ các loại chi phí sản xuất. Công việc tiếp theo của kế toán là tổng hợp các chi phí đó vào bên Nợ TK 154"chi phí sản xuất kinh doanh dở dang"(đối với các trường hợp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên) và bên Nợ TK 631"giá thành sản phẩm"(với trường hợp kiểm kê định kì), nhằm mục đích phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm toàn doanh nghiệp. Tài khoản 154 được sử dụng để tổng hợp chi phí sản xuất trong kỳ, nó được kết cấu như sau: Bên Nợ: Tập hợp các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Bên Có: Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất. Giá thành sản phẩm thực tế của sản phẩm hoàn thành. Dư Nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm chưa hoàn thành. Tài khoản 154 được mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí hay từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, ... của các bộ phận sản xuất. Khi tập hợp chi phí, tất nhiên không phải tất cả chi phí đưa vào bên Nợ TK 154 đều là tổng giá thành, mà ta phải trừ đi các khoản ghi giảm chi phí sản xuất sản phẩm như: Phế liệu thu hồi, giá trị sản phẩm hỏng ngoài định mức không sửa chữa được... và tính ra được giá thành thực tế của sản phẩm hoàn thành. Trình tự hạch toán được thể hiện trong "Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất" sau: TK621 TK 154 TK152,138 CP nguyên vật liệu trực tiếp Các khoản ghi giảm CP TK622 TK155 CP nhân công trực tiếp Nhập kho TK627 TK157 Gửi bán Chi phí sản xuất chung ồZ t.tế SP TK632 Tiêu thụ thẳng Trường hợp áp dụng phương pháp kiểm kê định kì: Để phục vụ cho việc tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, kế toán sử dụng tài khoản 631"giá thành sản phẩm". TK này được hạch toán chi tiết theo địa điểm phát sinh chi phí và theo loại nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm của các bộ phận sản xuất kinh doanh được hạch toán vào TK 631 gồm 3 loại chi phí: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Nội dung phản ánh của tài khoản 631: Bên Nợ: Phản ánh giá trị sản phẩm dở dang đầu kì và các chi phí sản xuất phát sinh trong kì có liên quan đến chế tạo sản phẩm. Bên Có: Kết chuyển trị giá sản phẩm dở dang cuối kì vào tài khoản 154. Tổng giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành. Tài khoản 631 cuối kì không có số dư.Trình tự hạch toán cụ thể được thể hiện qua sơ đồ dưới đây: TK154 TK631 TK154 K/c giá trị SPDD đầu kì K/c giá trị SPDD cuối kì TK621 TK632 K/c CPNVLTT Tổng giá thành SX của sản phẩm hoàn thành. TK622 K/c CPNCTT TK 627 K/c(hoặc phân bổ) CPSXC 1.2.2.7.2. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang: Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang, công việc này được thực hiện như nhau cho cả 2 trường hợp kiểm kê định kỳ và kê khai thường xuyên. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau: Phương pháp 1: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính. Theo chi phí này, toàn bộ chi phí chế biến được tính hết cho thành phẩm. Do vậy, trong sản phẩm dở dang chỉ bao gồm giá trị vật liệu chính mà thôi. Chi phí cho sản phẩm dở dang cuối kỳ được tính theo công thức sau: Chi phí sản phẩm Chi phí phát Chi phí sản dở dang đầu kỳ + sinh trong kỳ Số lượng phẩm dở dang = x sản phẩm dở cuối kỳ Số lượng + Số lượng sản phẩm dang cuối kỳ thành phẩm dở dang cuối kỳ Phương pháp 2: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương. Theo phương pháp này chi phí cho sản phẩm dở dang cuối kỳ gồm 2 phần: Phần1 : Trị giá nguyên vật liệu chính( hay nguyên, vật liệu trực tiếp) nằm trong sản phẩm dở dang cuối kỳ. Trị giá vật liệu chính này tính theo số lượng sản phẩm dở dang không quy đổi như phương pháp 1 Phần 2: Chi phí chế biến được tính theo phương pháp ước lượng sản phẩm tương đương. Theo công thức sau: Chi phí chế biến nằm trong sản phẩm dở dang (theo từng loại) = Chi phí chế biến trong + chi phí chế biến sản phẩm dở dang đầu kỳ phát sinh trong kỳ x Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ quy đổi ra thành phẩm Số lượng thành phẩm + Số lượng sản phẩm dở dang quy đổi ra thành phẩm Giá trị vật liệu chính nằm trong sản phẩm dở dang = Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ x Toàn bộ giá trị vật liệu chính xuất dùng ____________________________ Số lượng thành phẩm + Số lượng thành phẩm dở dang Phương pháp 3: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến. Để đơn giản cho việc tính toán đối với những loại sản phẩm mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí, kế toán thường sử dụng phương pháp này. Thực chất đây là một dạng của phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương, trong đó giả định sản phẩm dở dang đã hoàn thành ở mức độ 50% so với thành phẩm. Giá trị sản phẩm dở dang chưa hoàn thành = Giá trị NVL chính nằm trong sản phẩm dở dang + 50% chi phí chế biến 1.3. Đối tượng tính giá thành và các phương pháp tính giá thành chủ yếu 1.3.1.Đối tượng tính giá thành. Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành sản phẩm. Trong doanh nghiệp sản xuất đối tượng tính giá thành là kết quả sản xuất thu được từ những sản phẩm, công việc, lao vụ nhất định đã hoàn thành. Việc xác định đối tượng tính giá thành phải căn cứ vào đặc điểm cơ cấu tổ chức sản xuất, đặc điểm qui trình công nghệ, kĩ thuật sản xuất sản phẩm, đặc điểm tính chất của sản phẩm, yêu cầu về trình độ hạch toán và quản lí kinh tế của doanh nghiệp. Qui trình công nghệ cũng ảnh hưởng nhất định đến việc xác định đối tượng tính giá thành. Nếu qui trình công nghệ sản xuất giản đơn thì sản phẩm hoàn thành ở cuối qui trình sản xuất chính là đối tượng tính giá thành. Nếu qui trình công nghệ phức tạp kiểu liên tục thì đối tượng tính giá thành là sản phẩm ở giai đoạn cuối cùng hoặc nửa thành phẩm đã hoàn thành ở từng giai đoạn. Nếu qui trình công nghệ phức tạp kiểu song song thì đối tượng tính giá thành là sản phẩm đã lắp ráp hoàn chỉnh và cả một số bộ phận,chi tiết của sản phẩm nữa. Trên cơ sở đối tượng tính giá thành đã xác định được, phải căn cứ vào chu trình sản xuất sản phẩm, đặc điểm tổ chức sản xuất, tính chất sản phẩm mà xác định kì tính giá thành cho hợp lí nhằm cung cấp thông tin kịp thời phục vụ cho công tác tính giá thành. 1.3.2.Các phương pháp tính giá thành: Phương pháp tính giá thành sản phẩm là các cách thức, các phương pháp tính toán, xác định giá thành đơn vị của từng loại sản phẩm hoàn thành. Tuỳ theo đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm cũng như yếu cầu và trình độ của công tác quản lí, công tác kế toán của từng doanh nghiệp, từng loại sản phẩm cụ thể, kế toán có thể sử dụng một trong các phương pháp tính giá thành mang tính kỹ thuật- nghiệp vụ sau: 1.3.2.1.Phương pháp trực tiếp Phương pháp này thường được sử dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm dở dang không có hoặc có rất ít. Giá thành sản phẩm theo phương pháp này được tính bằng cách lấy trực tiếp tổng số chi phí sản xuất sản phẩm cộng trừ chênh lệch giữa giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ so với cuối kỳ chia cho số lượng sản phẩm hoàn thành. Giá thành công xưởng t.tế của số TPHT trong kỳ = Giá trị số SP DD đầu kỳ + CPSX trong kỳ - Giảm trừ CP (nếu có) - Giá trị số SP DD cuối kỳ Giá thành công xưởng thực tế của mộtđơn vị sản phẩm = Giá thành công xưởng t.tế của số TPHT trong kỳ Số thành phẩm hoàn thành trong kỳ 1.3.2.2.Phương pháp tổng cộng chi phí áp dụng đối với với các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc theo giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm được tính bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm. Tổng giá thành thành phẩm = Z1 + Z2 + Z3 +....+ Zn. Trong đó: Z1,Z2,Z3,Zn là giá thành của mỗi chi tiết, bộ phận trong thành phẩm đó. 1.3.2.3.Phương pháp hệ số Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên vật liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập trung cho cả quá trình sản xuất. Theo phương pháp này trước hết kế toán cần căn cứ vào hệ số quy đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc rồi từ đó dựa vào tổng số chi phí liên quan đến các loại sản phẩm đã tập hợp để tính giá thành sản phẩm gốc và giá thành sản phẩm từng loại. i=1 n Qgốc= ồ qi x Hi Trong đó: Qgốc: Số sản phẩm gốc được quy đổi từ các loại sản phẩm trong nhóm. qi: Số lượng sản phẩm loại i Hi: Hệ số quy đổi của sản phẩm loại i về sản phẩm gốc. ồ Z công xưởng của nhóm = Giá trị nhóm SP DD đầu kỳ + CPSX trong kỳ của nhóm - Giá trị nhóm SP DD cuối kỳ 1.3.2.4.Phương pháp tỷ lệ Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đóng giầy, cơ khí chế tạo.... để giảm bớt khối lượng hạch toán kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch( hoặc định mức) kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm cùng loại. = x Giá thành thực tế Giá thành kế hoạch (hoặc định mức) Tỷ lệ đơn vị sp từng loại đơn vị sản phẩm từng loại chi phí = x 100 Tỷ lệ Tổng giá thành thực tế của các loại sản phẩm chi phí Tổng Z kế hoạch (định mức) của các loại sp 1.3.2.5.Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ Đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được những sản phẩm phụ. Để tính được giá trị sản phẩm chính kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ ra khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp như giá có thể sử dụng được, giá ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu... = + - - 1.3.2.6.Phương pháp liên hợp Là phương pháp áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp hoá chất , dệt kim, đóng giầy, may mặc... Trên thực tế kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ sản phẩm phụ... 1.3.3.Phương pháp tính giá thành sản phẩm trong một số loại hình doanh nghiệp chủ yếu. Trên cơ sở các phương pháp chung để tính giá thành sản phẩm, kế toán cần lựa chọn và áp dụng vào từng loại hình doanh nghiệp cho phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ cũng như vào đối tượng hạch toán chi phí. 1.3.3.1. Phương pháp tính giá thành đối với doanh nghiệp sản xuất giản đơn. Doanh nghiệp sản xuất giản đơn thường là những doanh nghiệp chỉ sản xuất một hoặc một số ít mặt hàng với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm dở dang không có hoặc có không đáng kể như các doanh nghiệp khai thác than, quặng. hải sản...; các doanh nghiệp sản xuất động lực như điện, nước, hơi nước, khí nén, khí đốt... Do số lượng mặt hàng ít nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất được tiến hành theo sản phẩm, mỗi mặt hàng sản xuất được mở một số ( hoặc thẻ ) hạch toán chi phí sản xuất. Công việc tính giá thành thường được tiến hành vào cuối tháng theo phương pháp trực tiếp hoặc phương pháp liên hợp. 1.3.3.2. Phương pháp giá thành đối với doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng. Đối với các doanh nghiệp sản xuất theo các đơn đặt hàng của khách hàng, kế toán tiến hành tập hợp chi phí theo từng đơn. Đối tượng tính giá thành sản phẩm của từng đơn đặt hàng. phương pháp tính giá thành tuỳ theo đặc điểm, tính chất sản phẩm của từng đơn vị mà xác định phương pháp phù hợp. Đặc điểm của việc tập hợp chi phí trong các doanh nghiệp này là toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh đề được tập hợp theo từng đơn đặt hàng, không kể số lượng sản phẩm của đơn đặt hàng đó nhiều hay ít, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm giản đơn hay phức tạp. Đối với các chi phí thị trường phát sinh trong kỳ liên quan đến đơn đặt hàng nào thì hạch toán trực tiếp cho đơn đặt hàng đó theo các chứng từ gốc ( hay bảng phân bổ chi phí ). Đối với chi phí sản xuất chung, sau khi tập hợp xong sẽ phân bổ cho từng đơn theo tiêu chuẩn phù hợp như giờ công sản xuất, nhân công trực tiếp. Việc tính giá thành ở trong các doanh nghiệp này chỉ tiến hành khi đơn đặt hàng hoàn thành nên kỳ tính giá thành không nhất trí với kỳ báo cáo. Đối với những đơn đặt hàng đến kỳ báo cáo chưa hoàn thành thì toàn bộ chi phí tập hợp theo đơn đó đều coi là sản phẩm dở dang cuối kì chuyển kì sau. Với những đơn đặt hàng đã hoàn thành thì tổng chi phí đã tập hợp theo đơn đó chính là tổng giá thành sản phẩm của đơn và giá thành đơn vị sẽ được tính bằng cách lấy tổng giá thành sản phẩm của đơn chia cho số lượng sản phẩm trong đơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp cần thiết theo yêu cầu của công tác quản lí cần xác định khối lượng công việc hoàn thành trong kì thì đối với những đơn đặt hàng chỉ mới hoàn thành một phần việc xác định sản phẩm dở dang của đơn có thể dựa vào giá thành kế hoạch (hay định mức) hoặc theo mức độ hoàn thành của đơn. 1.3.3.3. Phương pháp tính giá thành đối với doanh nghiệp áp dụng hệ thống hạch toán định mức: Trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật tư hiện hành và dự toán về chi phí sản xuất chung kế toán sẽ xác định giá thành định mức của từng loại sản phẩm. Đồng thời hạch toán riêng các thay đổi, các chênh lệch so với định mức phát sinh trong kì thành 3 loại: Theo định mức, chênh lệch do thay đổi định mức và chênh lệch so với định mức. Từ đó tiến hành xác định giá thành thực tế của sản phẩm bằng cách: Giá thành thực tế sản phẩm = Giá thành định mức sản phẩm ± Chênh lệch do thay đổi ± Chênh lệch so với định mức 1.3.3.4. Phương pháp tính giá thành đối với doanh nghiệp có tổ chức bộ phậnsản xuất kinh doanh phụ: Sản xuất phụ là ngành được tổ chức ra để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính. Sản phẩm, lao vụ của sản xuất kinh doanh phụ được sử dụng phục vụ cho các nhu cầu của sản xuất kinh doanh chính, phần còn lại có thể cung cấp cho bên ngoài. Phương pháp tính giá thành sản phẩm của sản xuất kinh doanh phụ tuỳ thuộc vào đặc điểm công nghệ và mối quan hệ giữa các bộ phận sản xuất phụ trong doanh nghiệp, cụ thể: Trường hợp không có sự phục vụ lẫn nhau giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh phụ hoặc giá trị và khối lượng phục vụ không đáng kể. Chi phí sản xuất sẽ được tập hợp riêng theo từng bộ phận, từng hoạt động sản xuất kinh doanh phụ. Giá thành sản phẩm của từng bộ phận sẽ được tính theo phương pháp trực tiếp. Trường hợp có sự phục vụ lẫn nhau đáng kể giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh phụ. Với các doanh nghiệp có tổ chức nhiều bộ phận sản xuất phụ và giữa chúng có sự phục vụ lẫn nhau thì có thể áp dụng một trong các phương pháp khác tính giá thành sau đây: Phương pháp đại số: Là phương pháp xây dựng và giải phương trình đại số để tính giá thành sản phẩm của sản xuất kinh doanh phụ phục vụ các đối tượng. Phương pháp phân bổ lẫn nhau theo giá thành ban đầu: Theo phương pháp này, trước hết tính giá thành đơn vị ban đầu của từng bộ phận sản xuất kinh doanh phụ và xác định giá trị phục vụ lẫn nhau giữa chúng. Phương pháp phân bổ lẫn nhau theo giá thành kế hoạch: Trình tự tính giá thành tương tự như phương pháp trên, chỉ khác thay giá thành đơn vị ban đầu bằng giá thành đơn vị kế hoạch để tính giá trị phục vụ lãn._.ng đã trình bày ở trên ta thấy tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một công việc có ý nghĩa rất lớn trong toàn bộ công tác kế toán của doanh nghiệp. Tổ chức tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách khoa học, hợp lí giúp các nhà quản lí phân tích, đánh giá, kiểm tra, kiểm soát thường xuyên và có hệ thống nguyên tắc tiết kiệm trong sản xuất. Với ý nghĩa đó, việc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đã và đang là vấn đề mà tất cả các doanh nghiệp sản xuất đưa lên hàng đầu nhầm từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và góp phần và việc quản lí doanh nghiệp ngày một chặt chẽ hơn. 3.2. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp. Qua thời gian tìm hiểu thực tế tại công ty kết hợp với những kiến thức về mặt lí luận đã học tập tại trường, mặc dù còn nhiều hạn chế về mặt thời gian cũng như trình độ bản thân có hạn, song để góp phần hoàn thiện hơn công tác tổ chức hạch toán kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty, em xin mạnh dạn đề xuất một số phương hướng, giải pháp góp phần làm cho công tác kế toán nói chung và công tác kế toán chi phí giá thành nói riêng trở thành một công cụ quản lí nhạy bén. 3.2.1. Hoàn thiện hạch toán và quản lí nguyên vật liệu: Là một doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng cơ khí nên chi phí nguyên vật liệu chiếm một tỉ trọng đáng kể trong toàn bộ chi phí sản xuất sản phẩm. Vì thế muốn tìm ra cách hạ thấp giá thành sản phẩm thì vấn đề đầu tiên cần quan tâm là làm sao và làm như thế nào để quản lí và hạch toán tốt các chi phí về nguyên vật liệu. Tại công ty cổ phần khí công nghiệp, nguyên vật liệu không được hạch toán chi tiết thành vật liệu chính và vật liệu phụ mà chỉ theo dõi tổng hợp trên tài khoản 621. Với cách làm này, sẽ không phản ánh được tổng quát về mặt giá trị đối với mỗi loại vật liệu. Vì vậy để đảm bảo thuận tiện, tránh nhầm lẫn cho công tác quản lí và hạch toán về số lượng và giá trị đối với từng thứ vật liệu, trên cơ sở phân loại vật liệu, công ty nên xây dựng " Sổ danh điểm vật liệu". Hệ thống sổ danh điểm vật liệu được xây dựng theo nguyên tắc phân loại vật liệu chính, vật liệu phụ. mỗi số danh điểm gồm nhiều chữ số sắp xếp theo một thứ tự nhất định để chỉ loại, nhóm, thứ vật liệu. Trong sổ này, phải xác định thống nhất tên gọi của từng loại vật liệu, kí mã hiệu, qui cách của vật liệu, số hiệu của mỗi thứ vật liệu, đơn vị tính và giá hạch toán của vật liệu. Việc lập danh điểm vật liệu có tác dụng tốt trong quản lí và hạch toán vật liệu đặc biệt trong điều kiện công ty ứng dụng máy vi tính vào công tác kế toán. Để theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp để hạch toán vào giá thành sản phẩm đòi hỏi khoản mục chi phí này phải được theo dõi một cách sát sao, để theo khoản chi phí này kế toán công ty nên mở "sổ chi tiết TK 621" theo mẫu sau: Sổ chi tiết tài khoản 621 Phân xưởng: Sản phẩm: Chứng từ Diễn giải TK đối ứng Số phát sinh Số hiệu Ngày tháng Nợ Có Cộng "Sổ theo dõi chi tiết TK621"được mở cho từng đối tượng tập hợp chi phí, dùng để phản ánh tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong kì có liên quan đến chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Căn cứ vào chứng từ gốc và " bảng phân bổ nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ" để ghi vào sổ này như sau: Cột 1,2: Ghi số hiệu, ngày tháng của chứng từ. Cột 3: Ghi diễn giải nội dung, nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Cột 4: Ghi số hiệu tài khoản đối ứng. Cột 5: Căn cứ vào nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh để ghi tổng số tiền của nghiệp vụ kinh tế đó. Dòng"cộng": Là số tổng cộng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phát sinh trong kì. 3.2.2. Hoàn thiện kế toán tiền lương và bảo hiểm xã hội. Hàng tháng kế toán phản ánh lương và BHXH trên bảng phân bổ. Trên bảng phân bổ này kế toán công ty trích BHXH 15% và 2% BHYT trên lương cơ bản, 2% KPCĐ trên lương thực tế. Nhưng kế toán không ghi phần BHYT trên bảng phân bổ này và một điểm nữa cần được bổ sung vì KPCĐ được trích 2% trên lương thực tế còn các khoản bảo hiểm thì được trích trên lương cơ bản nhưng trong bảng phân bổ này không thể hiện được quĩ lương cơ bản của công ty là bao nhiêu vì vậy không biết được rằng trích như vậy có đúng không. Theo em công ty nên bổ sung thêm một cột BHYT -TK338.4 và cột lương cơ bản như vậy mới đầy đủ. Bảng này có thể được lập theo mẫu như sau: Bảng phân bổ tiền lương và BHXH Tháng... năm... Stt Ghi Có TK Ghi Nợ TK TK 334 TK 338- Phải trả, phải nộp khác Tổng cộng Lương cơ bản Lương thực tế KPCĐ BHXH BHYT Cộng Có TK338 Cộng Một điểm nữa cần được hoàn thiện tại công ty cổ phần khí công nghiệp là việc phân bổ kinh phí công đoàn và các khoản bảo hiểm cho các sản phẩm khí phải gánh chịu hoàn toàn. Như vậy nó ảnh hưởng đến giá thành của các sản phẩm khí tăng cao hơn so với giá thành thực tế của các sản phẩm này. Trong khi đó giá thành của các sản phẩm cơ khí thuộc phân xưởng thiết bị áp lực lại thấp hơn so với giá thành thực tế của nó. Theo em thì các khoản trích theo lương này phải được phân bổ đều cho các sản phẩm chịu chi phí chứ không thể để các sản phẩm khí phải gánh chịu hết như hiện nay. Nếu để như hiện nay thì giá thành sản phẩm được phản ánh thiếu chính xác. 3.2.3.Hoàn thiện hạch toán và phân bổ chi phí sản xuất chung. Trong chi phí sản xuất chung có tiền lương và BHXH của nhân viên phân xưởng. Cũng giống như chi phí nhân công trực tiếp kế toán công ty không phân bổ các khoản bảo hiểm đều cho các đối tượng tập hợp chi phí mà để cho một mình sản phẩm khí gánh chịu làm cho giá thành giá thành các sản phẩm thiết bị thấp hơn so với giá thành thực tế của nó. 3.2.4. Hoàn thiện kế toán thiệt hại sản phẩm hỏng. Tại công ty cổ phần khí công nghiệp, việc lập kế hoạch tiêu hao vật liệu được kiểm tra, giám sát nên tiết kiệm được nguyên vật liệu. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một khe hở tạo sự lãng phí trong sản xuất, đó là việc hạch toán về sản phẩm hỏng. Như ta đã biết sản phẩm hỏng được chia làm hai loại sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được và sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được. Tại công ty cổ phần khí công nghiệp sản phẩm hỏng rất ít nên công ty không coi nó nằm trong định mức. Trên thực tế sản phẩm hỏng ở công ty thường được qui về sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được và nhập kho phế liệu. Thiết nghĩ công ty nên tìm ra biện pháp để phân biệt sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được. với sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được chỉ cần mất thêm một số chi phí sửa chữa là trở thành sản phẩm bình thường có thể tiêu thụ được. Còn những sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được thì trở thành phế liệu và toàn bộ chi phí sản xuất ra nó trong đó có chi phí nguyên vật liệu chỉ được thu hồi một phần còn lại ghi tăng chi phí bất thường của công ty. Đối với sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được, khi phát sinh chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng: Nợ TK621,622,627 Có TK152,153,... Cuối kì tập hợp chi phí sửa chữa và chi phí sản phẩm hỏng: Nợ TK154 Có TK621,622,627 Giá trị phế liệu thu hồi và giá trị bắt bồi thường nếu có Nợ TK152,1388,111,334... Có TK154 Phần chi phí thiệt hại sản phẩm hỏng hạch toán vào chi phí bất thường: Nợ TK821 Có TK154 3.2.5. Hoàn thiện công tác tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Tổng hợp chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm vậy mà công ty không có một loại sổ sách nào để tổng hợp. Khi tính giá thành kế toán phải lấy số liệu từ các bảng phân bổ và các chứng từ có liên quan. Như vậy sẽ không có cái nhìn chính xác về chi phí và giá thành do dễ bị bỏ sót chi phí . Để tránh tình trạng này công ty nên lập bảng kê số 4 và nhật kí chứng từ số 7 theo mẫu bên. Để thuận lợi cho công tác tính giá thành kế toán công ty nên mở sổ theo dõi chi tiết tài khoản 154. Việc mở "sổ tổng hợp tài khoản154" giúp có cái nhìn đúng đắn về giá trị sản phẩm dở dang đầu kì và cuối kì cũng như chi phí thực tế phát sinh trong kì được chuyển vào tài khoản tính giá thành. Mẫu sổ có thể được kết cấu như sau: Sổ tổng hợp tài khoản 154 Tháng... năm... Diễn giải TK đối ứng Số phát sinh Nợ Có Dư đầu kì Số phát sinh trong kì TK621 TK622 TK627 Cộng số phát sinh Kết chuyển sang TK155, 157, 632 Dư cuối kì Như đã trình bày ở phần nhược điểm công ty áp dụng hình thức nhật kí chứng từ nên theo em công ty nên mở " Bảng kê số 4" dùng để tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng và nhật kí chứng từ số 7 để tổng hợp toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của công ty, theo mẫu của Bộ tài chính đã ban hành. trong đó: Cơ sở để ghi vào Bảng kê số 4 là bảng phân bổ số 1,2,3, các bảng kê và các nhật kí chứng từ có liên quan. Bảng này dùng để tổng hợp số phát sinh Có của các TK 152, 153, 154,...,621, 622, 627... đối ứng Nợ với các TK154, 621,622,627 và được tập hợp theo từng phân xưởng và chi tiết cho từng sản phẩm. Số liệu tổng hợp của bảng kê số 4 sau khi khoá sổ vào cuối tháng được dùng để ghi vào nhật kí chứng từ số 7. Nhật kí chứng từ số 7 dùng để tập hợp toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp và dùng để phản ánh số phát sinh bên Có các tài khoản liên quan đến chi phí sản xuất như TK 152, 153, 154, 214, 334, 335, 338, 621,622,627 và một số tài khoản đã phản ánh ở các nhật kí chứng từ khác nhưng có liên quan đến chi phí sản xuất phát sinh trong kì và dùng để ghi Nợ các tài khoản 154, 621,622,627,641,642.. Nhật kí chứng từ số 7 gồm có 3 phần nhưng theo em để phục vụ cho công tác tính giá thành công ty chỉ cần mở phần 1 và 2. Phần I: Tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh toàn doanh nghiệp. Phần II: chi phí sản xuất theo yếu tố. 3.2.6.Thực hiện công tác phân tích chỉ tiêu giá thành định kỳ. Việc phân tích chỉ tiêu giá thành phục vụ cho quản lý nội bộ và cạnh tranh với bạn hàng. Trên cơ sở phân tích giá thành, nhà quản lí sẽ thấy được những khoản mục chi phí hợp lý và bất hợp lý, từ đó có những biện pháp thưởng phạt vật chất đối với từng bộ phận cá nhân nhằm làm cho công tác quản lí chi phí ngày càng chặt chẽ và có hiệu quả hơn. Mặt khác, trên thị trường giá thành là công cụ đắc lực nhất để cạnh tranh với các nhà sản xuất khác. Muốn thành công trong cạnh tranh công ty cần phải tìm mọi biện pháp để hạ giá thành dẫn đến hạ giá bán trên thị trường. Biện pháp khách quan ở đây là tìm được nguồn mua nguyên vật liệu với giá hợp lý tiết kiệm chi phí thu mua. Về phía công ty hàng tháng nên tiến hành phân tích chỉ tiêu phân tích giá thành theo các khoản mục chi phí nguyên vật liêụ trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Việc phân tích được tiến hành thông qua lấy chỉ tiêu giá thành của cùng một sản phẩm trong hai tháng liên tiếp rồi phân tích tỉ trọng từng khoản mục chi phí trong tổng giá thành. Từ đó có thể thấy được tác động của từng khoản mục phí đến giá thành đơn vị sản phẩm để tìm cách hạ thấp chi phí tránh lãng phí nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất cho công ty. 3.2.7.áp dụng phần mềm máy tính vào công tác kế toán một cách hiệu quả nhất. Vấn đề cuối cùng là việc ứng dụng máy vi tính trong công tác kế toán. Thiết nghĩ, máy vi tính không còn xa lạ với người Việt Nam, ở nhiều doanh nghiệp họ đã sử dụng mạng vi tính vào công tác kế toán làm cho công tác kế toán trở nên đơn giản, nhanh chóng, chính xác hơn rất nhiều so với phương pháp thủ công. Hiện nay công ty cũng đang áp dụng phần mềm máy tính, do đó công việc không đòi hỏi nhiều người như trước. Song công ty nên áp dụng một cách có hiệu quả nhất để việc hạch toán đạt kết quả cao. Đồng thời mở các khoá đào tạo, các lớp bồi dưỡng nâng cao cho cán bộ công nhân viên về tin học. Nó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của toàn bộ công tác kế toán nói chung và công tác kế toán chi phí tính giá thành nói riêng. Trên đây là toàn bộ những ý kiến đề xuất của em với mong muốn công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của công ty được hoàn thiện hơn. 3.3. Điều kiện để thực thi giải pháp: -Thứ nhất, về phía Nhà nước phải tạo ra một hành lang pháp lý chung đối với các công ty cổ phần. Nhà nước nên có hướng hoàn thiện cơ chế tài chính cho công ty cổ phần. Cụ thể là cần có những hướng dẫn chi tiết cho luật doanh nghiệp về quy chế tài chính của công ty cổ phần. Hiện nay ngoài luật doanh nghiệp là văn bản pháp lý cao nhất và nghị định 03/200/NĐ - CP ngày 03/02/2000 hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp chủ yếu về cơ chế hoạt động, hầu như chưa có các qui định cụ thể khác trừ một số quy định về phát hành chứng khoán, quy chế và điều lệ cho công ty cổ phần niêm yết, quy định về tăng giảm vốn điều lệ và quản lý cổ phiếu quỹ của công ty cổ phần. Các văn bản pháp lý phải đảm bảo tính thống nhất. Đồng thời Nhà nước nên hoàn thiện hệ thống kế toán áp dụng cho các công ty cổ phần. Cụ thể ban hành, hướng dẫn các nội dung hạch toán có liên quan về chứng từ kế toán, tài khoản kế toán và sổ sách kế toán và đặc biệt nên có các hướng dẫn viên để kế toán viên hành nghề. -Thứ hai, về phía Công ty cần phải tổ chức và phân cấp quản lý một cách phù hợp nhất với tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty. Về đội ngũ cán bộ công nhân viên trong Công ty: Cần phải được đào tạo tương thích cho phù hợp với tình hình thực tế của Công ty. Công ty phải thường xuyên mở các lớp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên để họ có thể bắt kịp với thời đại mới. Và để họ có thể ứng dụng máy tính vào trong công tác của mình một cách khoa học và hợp lý. Máy tính được áp dụng rộng rãi và công nghệ cao sẽ giúp giảm bớt sức người và sức của tạo điều kiện giảm chi phí và do đó sẽ dẫn tới việc giảm giá thành. Công ty nên có các biện pháp để hoàn thiện bộ máy kế toán: Phân công, phân cấp kế toán cho hợp lý đặc biệt là phòng kế toán với các phân xưởng. Kế toán phân xưởng có nhiệm vụ phản ánh một cách chính xác và đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh sau đó chuyển lên phòng kế toán Công ty. Dựa vào đó kế toán Công ty sẽ lên báo cáo tài chính. Về phương tiện làm việc: Công ty nên trang bị các điều kiện cần thiết để kế toán có thể làm việc đạt hiệu quả nhất. Có thể nâng cấp các tài sản cố định phục vụ cho công việc, trang bị thêm máy móc hiện đại như thêm máy vi tính để giảm bớt sức người đồng thời giảm nhẹ được thời gian công việc nhằm tiết kiệm chi phí nhân công. Cuối cùng để nâng cao chất lượng công tác giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, cần phải nghiên cứu sâu và toàn diện hơn để hoàn thiện công tác phân tích chỉ tiêu giá thành định kỳ một cách khoa học, thiết thực. Công ty nên có thêm một bộ phận chuyên làm nhiệm vụ theo dõi sự biến động của giá cả trên thị truờng để từ đó có các biện pháp để giảm chi phí tới mức tối thiểu nhằm hạ giá thành tạo ra sức cạnh tranh trên thị truờng. Muốn làm được điều đó thì việc giảm các yếu tố đầu vào là hết sức quan trọng. Do đó sự phối hợp giữa các phòng ban trong Công ty là hết sức mật thiết trong tình hình phát triển chung của Công ty. Đồng thời Công ty nên xem xét lại công tác tổ chức bộ máy kế toán và công tác kế toán của đơn vị. Với số ít người như vậy kế toán không thể kiểm soát hết được công việc.Điều đó đòi hỏi phải có thêm bộ phận chuyên làm nhiện vụ kiểm tra kiểm soát. Vậy có nên lập ra một bộ phận kiểm soát nội bộ trong công ty không? Công ty nên xem xét giải quyết. 3.4. Một số kiến nghị 3.4.1.Kiến nghị đối với công ty: Kiến nghị 1: Đối với phế liệu thu hồi: Hàng tháng, tại phân xưởng thiết bị áp lực thường xuyên có phế liệu thu hồi là thép, đầu mẩu que hàn...được thu hồi nhập kho, đây là một khoản ghi giảm chi phí vậy mà khi có phế liệu nhập kho kế toán không có bút toán phản ánh nghiệp vụ này cũng không có phiếu nhập kho đi kèm. Vì vậy em xin đề xuất với công ty khi tiến hành thủ tục nhập kho phế liệu phải tổ chức cân đồng thời kế toán phải ghi bút toán giảm chi phí như sau: Nợ TK152 Có TK 621 Kiến nghị 2: Về việc trang bị thêm máy móc công nghệ hiện đại. Cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động trong việc tiếp cận thị trường. tại công ty cổ phần khí công nghiệp thường xuyên có các đơn đặt hàng của khách yêu cầu các thiết bị áp lực có qui cách và phẩm chất khác nhau. Việc sản xuất theo đơn đặt hàng của khách một mặt buộc khách hàng phải chờ đợi trong một thời gian một mặt khách không có quyền lựa chọn sản phẩm do chỉ sản xuất đơn chiếc. Vì vậy dễ dẫn đến tình trạng khách hàng không thoả mãn về sản phẩm nhận được. Mặt khác, trong trường hợp có nhiều đơn đặt hàng cùng một lúc thì công nhân phải làm việc vượt giờ mà có khi vẫn không đáp ứng được về mặt thời gian của đơn đặt hàng. Vì vậy theo em, để trường hợp này không xảy ra thì công ty nên cải tiến kĩ thuật, trang bị thêm máy móc công nghệ để sản xuất nhiều loại sản phẩm có qui cách, phẩm chất khác nhau làm đa dạng thêm các loại mặt hàng của mình đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Kiến nghị 3: Về việc sửa chữa tài sản trong công ty. Đối với một bộ phận TSCĐ lớn, bao gồm nhiều loại như tại công ty hiện nay, để đảm bảo cho quá trình sản xuất được thực hiện thường xuyên liên tục, đảm bảo cho máy móc phát huy công suất cao nhất, tránh tình trạng gián đoạn sản xuất kinh doanh gây ảnh hưởng không nhỏ đến công ty, đòi hỏi công ty phải định kì sửa chữa lớn TSCĐ. Để không làm ảnh hưởng đến và giá thành sản phẩm trong một thời kì, để có sự chủ động hơn trong việc sửa chữa lớn TSCĐ khi nó phát sinh, theo em công ty nên trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ theo kế hoạch và theo qui định chung đã ban hành. Song song với những nhiệm vụ trên Công ty nên: -Xây dựng môi trường kinh doanh đảm bảo cho Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh bình đẳng với chi phí thấp nhất có thể. -Nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo ưu thế cạnh tranh trên thị trường. -Tăng cường tiềm lực tài chính bằng cách như vay ngân hàng, bán cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên hoặc bán ra thị truờng… -Xây dựng thị trường mục tiêu, xác định thị truờng tiêu thụ để đảm bảo cho sản xuất kinh doanh phát triển ổn định. -Nâng cao chất lượng cán bộ công nhân viên: đào tạo lao động có trình độ cao, có thể thu hút và sử dụng nhân tài… -Nâng cao trình độ về công nghệ: Sử dụng các dây chuyền sản xuất tự động và áp dụng phần mềm máy tính hiện đại, công nghệ cao. 3.4.2.Đối với Nhà nước: Để tạo đà cho nền kinh tế phát triển, Nhà nước phải quan tâm đặc biệt tới các thành phần kinh tế tư nhân. Công ty cổ phần khí công nghiệp đã mạnh dạn tách ra khỏi Nhà nước để trở thành một doanh nghiệp cổ phần hoá. Do đó công ty đã gặp không ít những khó khăn khi buổi đầu tiếp cận với nền kinh tế thị trường. Hiện nay công ty đang từng bước khẳng định mình trên thương trường, vì vậy rất cần có sự quan tâm của nhà nước để công ty có thể phát triển hơn nữa, góp phần công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt là với ngành sản xuất khí- một ngành công nghiệp quan trọng phục vụ cho y tế, quốc phòng và cho các ngành công nghiệp khác. Để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài sự năng động tích cực của mình thì Công ty cổ phần khí công nghiệp nói riêng và các tổ chức kinh tế tư nhân nói chung rất cần có sự trọ giúp của Nhà nước. Bởi vì rất nhiều hoạt động, rất nhiều những nỗ lực cải cách của Công ty liên quan chịu sự chi phối của các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội vượt quá tầm của mình. Đây là những vấn đề đặc biệt quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự hỗ trợ đó cần thể hiện bằng những hoạt động sau: -Nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo nên hành lang pháp lý ổn định, minh bạch, đồng bộ, hiệu quả đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính đặc biệt là tạo điều kiện để Công ty có thể tăng vốn của mình. Nhà nước phải hoàn hiện các văn bản pháp lý có liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán giúp các Công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu để tăng vốn một cách thuần nhất. Đặc biệt cần có sự quan tâm và một số ưu đãi của Nhà nước khuyến khích loại hình doanh nghiệp cổ phần phát triển. -Để giúp cho các doanh nghiệp cổ phần phát triển thì Nhà nước cần phải xây dựng một chương trình cổ phần hoá khoa học, hợp lý và dễ thực hiện, có sự phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng của các cơ quan quản lý Nhà nước để giúp cho việc phát hành cổ phiếu của Công ty diễn ra một cách nhanh chóng thuận tiện - Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ phát triển thị truờng và thông tin thị trường với một số biện pháp: hỗ trợ quảng bá và xây dựng tên tuổi của Công ty; phát triển thị truờng và xúc tiến thương mại; cung cấp thông tin thị trường. -Nâng cao hiệu quả tài chính của Công ty với các biện pháp như: Hỗ trợ vay vốn với lãi suất thấp, cải cách thủ tục vay vốn, tư vấn các chính sách tài chính tiền tệ. kết luận Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một phạm trù quan trọng mang tính thực tế cao, nó có ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ sản phẩm và lợi nhuận của doanh nghiệp do đó nó quyết định rất lớn đến sự tồn tại và phát triển chung của toàn doanh nghiệp đặc biệt là đối với một doanh nghiệp sản xuất như công ty cổ phần khí công nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh việc tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất để xác định giá thành sản phẩm một cách chính xác là công việc hết sức cần thiết. Vì vậy tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài mà tôi đã lựa chọn"Một số vấn đề về hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp". Để góp phần hoàn thiện hơn công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành, trong thời gian thực tập tại công ty, trên cơ sở các kiến thức đã học cùng với sự nhiệt tình hướng dẫn của thầy giáo Nguyễn Đình Hựu và các cán bộ trong phòng kế toán của công ty, tôi đã mạnh dạn đề xuất một số ý kiến với mong muốn góp phần giúp công ty đạt hiệu quả cao hơn trong công tác kế toán cũng như trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên do thời gian thực tập và trình độ bản thân có hạn nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vậy tôi rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo, cơ sở thực tập để tôi có thể trau dồi hơn nữa vốn kiến thức của mình không chỉ về mặt lí luận mà về cả thực tế trong công tác kế toán nói chung và kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành nói riêng. Em xin chân thành cảm ơn PGS- TS Nguyễn Đình Hựu và toàn thể cán bộ trong Phòng Kế toán Công ty cổ phần khí công nghiệp đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành chuyên đề này. Sinh viên Nguyễn Thị Ngọc Ngoan Tài liệu tham khảo 1. Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp – PGS, TS Nguyễn Năng Phúc; TS Nguyễn Ngọc Quang - ĐHKTQD. 2. Hướng dẫn thực hành kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp – TS Võ Văn Nhị – NXB Tài Chính 3. Lý thuyết hạch toán kế toán – PGS, PTS Nguyễn Hữu Ba – NXB Tài chính 1997 4. Hướng dẫn thực hành kế toán doanh nghiệp – TS Lê thị Hoà - NXB Tài Chính 2004 5. Lập, đọc, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính – TS Nguyễn Năng Phúc, Nguyễn Văn Công, Trần Quý Liên – NXB Tài chính 2002 6.Kế toán doanh nghiệp theo chuẩn mực kế toán Việt Nam – TS Nghiêm Văn Lợi – NXB Tài chính 2002 7. Phân tích hoạt động kinh doanh – Phan Quang Niệm – NXB Thống kê 2002 8. Các tạp chí kế toán và tạp chí nghiên cứu kinh tế. 9. Một số luận văn tốt nghiệp 10. Một số tài liệu tại Công ty Cổ phần Khí Công nghiệp Bảng kê các chữ viết tắt Pgs-Ts : Phó giáo sư- tiến sĩ Tscđ : Tài sản cố định Bhxh : Bảo hiểm xã hội Bhyt : Bảo hiểm y tế Kpcđ : Kinh phí công đoàn Tk : Tài khoản Nvl : Nguyên vật liệu Sxtt : Sản xuất trực tiếp Kc : Kết chuyển Cpnvltt : Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Cpnctt : Chi phí nhân công trực tiếp Cpsxc : Chi phí sản xuất chung Ccdc : Công cụ dụng cụ Cnttsx : Công nhân trực tiếp sản xuất Cpbh : Chi phí bán hàng Cpql : Chi phí quản lý Sphnđm : Sản phẩm hỏng ngoài định mức Thnsx : Thiệt hại ngừng sản xuất Spdd : Sản phẩm dở dang PXTbal : Phân xưởng thiết bị áp ực Viện đH Mở Hà Nội Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoa KT& QTKD Độc lập- Tự do- Hạnh phúc Bản nhận xét của cơ quan thực tập Đề tài: Một số vấn đề hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Khí công nghiệp Giáo viên hướng dẫn: PGS - TS Nguyễn Đình Hựu Sv thực hiện : Nguyễn thị Ngọc Ngoan Ngành : Kế toán Lớp : KT1 Cơ quan thực tập : Công ty cổ phần Khí công nghiệp Xác nhận của cơ quan thực tập ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… Hà Nội ngày 17 tháng 04 năm 2005 (Ký tên, đóng dấu) Viện đH Mở Hà Nội Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoa KT& QTKD Độc lập- Tự do- Hạnh phúc Bản nhận xét chuyên đề tốt nghiệp của giáo viên hướng dẫn Đề tài: Một số vấn đề hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Khí công nghiệp Giáo viên hướng dẫn: PGS - TS Nguyễn Đình Hựu Sv thực hiện : Nguyễn Thị Ngọc Ngoan Ngành : Kế toán Lớp : KT1 Cơ quan thực tập : Công ty cổ phần Khí công nghiệp Nhận xét của giáo viên hướng dẫn ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………Điểm khoá luận tốt nghiệp…………………………………………………… Hà Nội, này……tháng……năm…….. Giáo viên hướng dẫn Mục lục Mở đầu Chương 1: Lí luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất. 1.1. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 4 1.1.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất 4 1.1.1.1.Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất 4 1.1.1.2.Phân loại chi phí sản xuất 6 1.1.2. Giá thành sản phẩm và các loại giá thành 12 1.1.2.1.Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm 12 1.1.2.2.Các loại giá thành 13 1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 15 1.1.4. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán với việc quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 15 1.2. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất 16 1.2.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. 16 1.2.2. Nội dung hạch toán các khoản mục chi phí sản xuất chủ yếu 17 1.2.2.1.Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 17 1.2.2.2.Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp 20 1.2.2.3.Hạch toán chi phí trả trước 21 1.2.2.4.Hạch toán chi phí phải trả 21 1.2.2.5.Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất 22 1.2.2.6.Hạch toán chi phí sản xuất chung 24 1.2.2.7.Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang 26 1.3. Đối tượng tính giá thành và các phương pháp tính giá thành chủ yếu 30 1.3.1. Đối tượng tập hợp giá thành 30 1.3.2 Các phương pháp chung 30 1.3.2.1.Phương pháp trực tiếp 31 1.3.2.2.Phương pháp tổng cộng chi phí 31 1.3.2.3.Phương pháp hệ số 31 1.3.2.4.Phương pháp tỷ lệ 32 1.3.2.5.Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ 33 1.3.2.6.Phương pháp liên hợp 33 1.3.3.Phương pháp tính giá thành sản phẩm trong một số loại hình doanh nghiệp chủ yếu 33 1.3.3.1.Phương pháp tính giá thành trong DNSX giản đơn 33 1.3.3.2.Phương pháp tính giá thành đối với DNSX theo đơn đặt hàng 34 1.3.3.3.Phương pháp tính giá thành đối với DN áp dụng hệ thống hạch toán định mức 34 1.3.3.4.Phương pháp tính giá thành đối với DN có tổ chức bộ phận sản xuất kinh doanh phụ 35 1.3.3.5.Phương pháp tính giá thành đối với DNSX phức tạp theo kiểu chế biến liên tục 36 1.4.Tổ chức hệ thống sổ hạch toán chi phí sản xuất trong một hình thức kế toán cụ thể 37 1.5.Phân tích thông tin chi phí cho việc ra quyết định kinh doanh 37 1.5.1.Hệ thống chỉ tiêu phân tích 38 1.5.2.Phương pháp xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khoản chênh lệch các khoản mục chi phí 39 1.5.3.Các biện pháp quản lý chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm 40 Chương 2 Thực trạng tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp. 2.1. Tình hình đặc điểm chung của công ty cổ phần khí công nghiệp. 42 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần khí công nghiệp. 42 2.1.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất của công ty cổ phần khí công nghiệp. 43 2.1.3. Đặc điểm tổ chức quản lí của công ty. 44 2.1.4. Tổ chức bộ máy kế toán của công ty. 46 2.2. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty 48 2.2.1. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất tại công ty. 48 2.2.1.1.Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất 49 2.2.1.2.Nội dung và trình tự hạch toán 49 2.2.2. Tổ chức công tác tính giá thành tại công ty cổ phần khí công nghiệp 60 2.2.2.1.Đối tượng tính giá thành 60 2.2.2.2.Kỳ tính giá thành và phương pháp tính giá thành 61 2.2.2.3.Trình tự tính giá thành 61 2.2.2.4.Phân tích chỉ tiêu chi phí giá thành 64 2.2.3. Đánh giá thực trạng công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp. 68 2.2.3.1.Những thành tựu đạt được 69 2.2.3.2. Những hạn chế cần khắc phục. 70 2.2.3.3.Nguyên nhân của những hạn chế 71 chương 3: Phương hướng hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại công ty cổ phần khí công nghiệp 3.1.Sự cần thiết khách quan của việc hoàn thiện tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong điều kiện kinh tế thị trường. 72 3.3.1.Các yêu cầu cơ bản đối với kế toán theo chuẩn mực số 01 72 3.1.2. Yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện . 73 3.1.3. ý nghĩa của việc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm……………………………………………………………………73 3.2. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp. 74 3.2.1.Hoàn thiện hạch toán và quản lý NVL 74 3.2.2.Hoàn thiện hạch toán tiền lương và bảo hiểm xã hội 76 3.2.3.Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất chung 77 3.2.4.Hoàn thiện kế toán thiệt hại sản phẩm hỏng 77 3.2.5.Hoàn thiện công tác tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 78 3.2.6.Thực hiện công tác phân tích chỉ tiêu giá thành 80 3.2.7.áp dụng phần mềm máy tính vào công tác kế toán một cách có hiệu quả. 80 3.3.Điều kiện để thực thi giải pháp 81 3.4.Một số kiến nghị. 82 3.4.1.Kiến nghị với công ty 82 3.4.2.Kiến nghị với Nhà nước 84 Kết luận ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28825.doc
Tài liệu liên quan