Một số vấn đề hoàn thiện chính sách sản phẩm trong sản xuất hàng Mây tre đan Xuất khẩu của Xí nghiệp Mây tre đan Xuất khẩu Kiêu Kỳ Gia Lâm Hà Nội

Lời nói đầu Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập vào hệ thống kinh doanh quốc tế và khu vực các doanh nghiệp không có sự lựa chọn nào khác là phải nâng cao khả năng áp dụng lý thuyết và thực hành Marketing vào doanh nghiệp, Thị trường hàng mây tre trên thế giới là một thị trường mầu mờ nhưng đang diến ra những cuộc cạnh tranh gay gắt và quyết liệt giữa các doanh nghiệp của nhiều quốcgia và Xí nghiệp mây tre đan xuất khẩu cũng nằm t

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề hoàn thiện chính sách sản phẩm trong sản xuất hàng Mây tre đan Xuất khẩu của Xí nghiệp Mây tre đan Xuất khẩu Kiêu Kỳ Gia Lâm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong cuộc cạnh tranh này. Xí nghiệp Mây Tre đan xuất khẩu là Xí nghiệp sản xuất hàng Mây Tre xuất khẩu và Xí nghiệp đại diện cho nhiều làng nghề thủ công truyền thống để xuất khẩu hàng Mây Tre. Để chiếm lĩnh được thị trường trên thế giới. Tiều chuẩn đầu tiên của Xí nghiệp cần đề ra là sản phẩm muốn vậy sản phẩm của Xí nghiệp cần đạt tiêu chuẩn thế giới về chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm thì mới tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường. Với sự giúp đỡ hướng dẫn của thầy giáo Trần Văn Hoạch em đã chọn, đề tài “Một số vấn đề hoàn thiện chính sách sản phẩm trong sản xuất hàng Mây Tre đan xuất khẩu của Xí nghiệp Mây Tre đan xuất khẩu của Xí nghiệp Mây Tre đan xuất khẩu Kiêu Kỳ Gia Lâm Hà Nội ” Phần I: Một số lý luận về chính sách sản phẩm trong sản xuất và kinh I. Sản phẩm và vai trò của chính sách sản phẩm trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 1. Sản phẩm và vai trò của chính sách sản phẩm trong hoạt động sản xuất kinh doanh. * Khi nói về sản phẩm hàng hoá người ta thường quy về một hình thức tồn tại vật chất cụ thể và do đó nó chỉ bao hàm những thành phần hoặc yếu tố có thể quan sát được. Đối với các chuyên gia Marketing, họ hiểu sản phẩm hàng hoá ở phạm vi rộng lớn hơn nhiều. Cụ thể là có định nghĩa về sản phẩm theo cơ sở Marketing: Sản phẩm hàng hoá là tất cả những cái, những yếu tố có thể thoả mãn nhu cầu hay ước muốn của khách hàng cống hiến những lợi ích cho họ và có khả năng đưa ra chào bán trên thị trường và mục đích thu hút sự chú ý mua sắm , sử dụng hay tiêu dùng. Theo quan điểm này sản phẩm hàng hoá bao hàm cả những yếu tố hữu hình và bô hình, vật chất và phí vật chất ngay cả những hàng hoá hữu hình, cũng bao hàm cả các yếu tố vô hình. Trong thực tế hàng hoá được xác định bằng các đơn vị hàng hoá “Đơn vị hàng hoá là một chính thể riêng biệt được đặc trưng bởi các thước đo khác nhau, có gia cả, hình thức bên ngoài và các ” * Cấp độ và các yếu tố cấu thành đơn vị sản phẩm hàng hoá. Đơn vị sản phẩm hàng hoá vốn là một chỉh thể hoàn chỉnh chứa đựng yếu tố, đặc tính và thông tin khác nhau về một sản phẩm hàng hoá. Những yếu tố, đặc tính thông tin đó có thể có những chức năng Marketing khác nhau. Khi tạo ra một mặt hàng người ta thường xếp các yếu tố tính và thông tin đó theo ba cấp độ có những chức năng Marketing khác nhau. Cấp độ cơ bản nhất là sản phẩm hàng hoá theo ý tưởng cấp sản phẩm hàng hoá theo ý tưởng có chức năng cơ bản nhất là trả lời câu hỏi về thực chất, sản phẩm hàng hoá này thoả mãn những điểm lợi ích cốt yếu nhất mà khách hàng sẽ theo đua là gì? và chính đó là những giá trị mà nhà kinh doanh sẽ bán cho khách hàng. Những lợi ích cơ bản tiềm ẩn đó có tể thay đổi tuỳ những yếu tó hoàn cảnh của môi trường và mục tiêu cá nhân của các khách hàng nhóm khách hàng trong bối cảnh nhất định. Điều quan trọng đối với doanh nghiệp là phải nghiên cứu tìm hiểu khách hàng để phát hiện ra những đòi hỏi và các khía cạnh lợi ích khác nhau tiềm ẩn trong nhu cầu của họ. Chỉ có những vậy họ mà tạo ra những hàng hoá có những khả năng thoả mãn nhu cầumà khách hàng mong đợi. Cấp độ thứ hai là hàng hoá hiện thực. Đó là những yếu tố phản ánh sự có mặt trên thực tế của sản phẩm hàng hoá. Những yếu tố đó bao gồm. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng các đặc tính, bố cục bền ngoài, đặc thù, tên nhã hiệu cụ thể về đặc trưng bao gói. Trong thực tế khi tìm mua những lợi ích cơ bản. khách hàng dựa vào những yếu tố này và cũng nhừo đó các nhà sản xuất khẳng định sự có mặt hiện diện của mìh trên thị trường để người mua tìm đến doanh nghiệp họ phân biệt hàng hoá của hãng này với hãng khác. Cuối cùng là hàng hoá bổ xung. Đó là những yếu tố như tính tiện ích cho việc lắp đặt, những dịch vụ bổ sung saubán hàng, những điều kiện bảo hành và điền kiện hìh thức tín dụng… chính nhờ đó những yếu này tạo ra sự đánh giá mức độ hoàn chỉnh khác nhau, trong sự nhận thức của ngườitiêu dùng , về mặt hàng hay nhãn hiệu cụ thể. KHi mua những lợi ích cơ bản củ một hàng hoá bất kỳ khách hàng nào cũng thích mua nó ở mức độ hoàn chỉh nhất. Đến lượt mình, chính mức độ hoàn chỉnh về lợi ích cơ bản màkhách hàng mong đợi lại phụ thuộc voài những yếu tố bổ sung mà nhà kinh doanh sẽ cung cấp cho họ. Vì vậy, từ góc độ nhà kinh doanh các yếu tố bổ sung trở thành một trong những vũ khí cạnh tranh. Với những cấp độ các yếu tố cấu thành sản phẩm chúng ta, những nhà kinh doanh sẽ có những chính sách phù hợp với tình hình của doanh nghiệp mình. * Hoạt động và chiến lược Marketing khác nhau vì nhiều llý do tuỳ thuộc vào loại hàng hoá. Điều đó cũng có nghĩa là muốn có chiến lược Marketing thích hợp và có hệu quả các nhà quản trị Marketing cần phải biết mà doanh nghiệp kinh doanh thuộc loại nào. Trong hoạt động Marketing các cách phân loại đáng chú ý là: - Phân loại theo thời gian sử dụng + Hành hoá lâu bền + Hàng hoá sử dụng ngắn hạn + Dịch vụ là những đối tượng đựơc bán chứa trong hoạt động ích lợi hay sự thoả mãn. * Phân loại hàng hoá Hoạt động và chiến lược marketing khác nhau vì nhiều lý do trong đó có lý do tuỳ thuộc voà loại hàng hoá. ĐIều đó cũng cónghĩa là muốn có chiến lược Marketing thích hợp và hoạt động Marketing có hiệu quả các nhà quản trị Marketing cần phải biết hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh thuộc loại nào. Trong hoạt động Marketing các cách phân loại có ý nghĩa đáng chú ý là: Phân loại theo thời hạn sử dụng và hình thái tồn tại Theo cách phân loại này thế giới hàng hoá có: + Hàng hoá lâu bền: Là những vật phẩm thường đựoc sử dụng nhiều lần. + Hàng hoá sử dụng ngắn hạn: Là những vật phẩm được sử dụng một lần hay mộtvài lần. + Dịch vụ là những đối tượng được bán dưới dạng hoạt động ích lợi hay sự thỏa mãn. Phân loại hàng tiêu dùng theo thói quen mua hàng Thói quen mua hàng là yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến cách thức hoạt động Marketing. Theo đặc điểm này hàng tiêu dùng được phân thành các loại sau: + Hàng hoá sử dụng thường ngày: Đó là hàng hoá mà người tiêu dùng mua cho việc sử dụng thường xuyên trong sinh hoạt. + Hàng hoá mua ngẫu hứng: Đó là những hàng hoá được mua có kế hoạch trước và khách hàng cũng không chú ý tìm mua. + Hàng hoá mua khẩn cấp: Đó là những hàng hoá được mua khi xuất hiện nhu cầu cấp bách vì một lý do bất thường nào đó. + Hàng hoá mua có lựa chọn: Đó là những hàng hoá mà việc mua diễn ra lâu hơn, đồng thời khi mua khách hàng thường lựa chọn, so sánh, cân nhắc về công dụng, kiểu dáng, chất lượng, giá cả của chúng. + Hàng hoá cho các nhu cầu đặc thù: Đó là những hàng hoá có những tính chất đặc biệt hay hàng hoá đặc biệt mà khi mua người ta sẵn sàng bỏ thêm sức lực, thời gian để tìm kiếm và lựa chọn chúng. + Hàng hoá cho các nhu cầu thụ động: Đó là những hàng hoá mà người tiêu dùng không hay biết và thường cũng không nghĩ đến việc mua chúng. Trường hợp này thường là những hàng hoá không có liên quan trực tiếp, tích cực đến nhu cầu cuộc sống hàng ngày. Ví dụ như bảo hiểm… * Phân loại hàng tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất là những hàng hoá được mua bởi các doanh nghiệp hay các tổ chức. Chúng cũng bao gồm nhiều thứ, loại có vai trò và mức độ tham gia khác nhau vào quá trình hoạt động của doanh nghiệp và tổ chức đó. Người ta chia chúng thành các loại như : - Vật tư và chi tiết: Đó là những hàng hoá được sử dụng thường xuyên và toàn bộ vào cấu thành sản phẩm được sản xuất ra bởi nhà sản xuất. Thuộc nhóm này có rất nhiều mặt hàng khác nhau: Có loại có nguồn gốc từ nông nghiệp, từ trong thiên nhiên hoặc vật liệu đã qua chế biến. - Tài sản cố định: Đó là những hàng hoá tham giá toàn bộ nhiều lần vào quá trình sản xuất và giá trị của chúng được dịch chuyển dần vào giá trj sản xuất do doanh nghiệp sử dụng chúng tạo ra. - Vật tư phụ và dịch vụ: Đó là những hàng hoá dùng để hỗ trợ cho quá trình kinh doanh hay hoạt động của các tổ chức và doanh nghiệp. II. Các quyết định Marketing về chiến lược sản phẩm 1. Các quyết định có liên quan đến nhãn hiêu: Khi thực hiện chiến lược sản phẩm của mình các doanh nghiệp phải quyết định hàng loạt vấn đề có liên quan đến nhãn hàng hóa. Các vấn đề cơ bản nhất họ thường giải quyết là: Có gắn nhãn hiệu cho hàng hóa của mình hay không? Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong nhứng năm gần đây vấn đề gắn nhãn hiệu hàng hóa ở nước ta đã được phần lớn các doanh nghiệp lưu ý hơn. Tuy nhiên đôi khi một số loại hàng hóa được bán trên thị trường cũng không có nhãn hiệu rõ ràng. Việc gắn nhãn hiệu cho hàng hó a có ưu điểm là thể hiện được lòng tin hơn của người mua đối với nhà sản xuất khi họ dám khẳng định sự hiện diện của mình trên thị trường qua nhãn hiệu, làm căn cứ cho việc lựa chọn của người mua và đặc biệt ở nước ta hiện nay nó làm cơ sở cho việc quản lý chống làm hàng giả. Ai là người chủ nhãn hiệu hàng hóa? Thường thì nhà sản xuất nào cũng muốn chính mình là chủ đích thực về nhãn hiệu hàng hóa do mình sản xuất ra. Nhưng đôi khi vì những lý do khác nhau nhãn hiệu hàng hóa lại không phải nhãn hiệu của nhà sản xuất. Có thể có 3 cách giải quết vấn đề này: * Tung hàng hóa ra thị trường dưới nhãn hiệu của chính nhà sản xuất. * Tung hàng hóa ra thị trường dưới nhãn hiệu của chính nhà trung gian. * Vừa nhãn hiệu của nhà sản xuất vừa nhãn hiệu của nhà trung gian. Môi trường trên đều có ưu điểm và hạn chế nhất định Tương với nhãn hiệu đã chọn hàng hóa có ngững đặc trưng gì? Nhãn hiệu hàng hóa là để phản ánh sự hiện diện của nó trên thị trường, song vị trí và sự bền vững của nhãn hiệu lại do mức đọ chất lượng đi liền với nó quyết định. Đặt tên cho nhãn hiệu như thế nào? Khi quyết định đưa một hàn hóa hoặc một nhóm hàng hóa ra thị trường, gắn nhãn hiệu cho chúng người sản xuất còn phải gặp vấn đề nên đặt tên cho nhãn hiệu hàng hóa như thế nào? Nừu một doanh nghiệp cỉ sản xuất duy nhấtmọi chủng loại hàng hóa đồng nhất thì vấn đề có thể đơn giản, nhưng quyết định trên trở nên phức tạp hơn khi doanh nghiệp dsản xuất cùng một chủng loại hàng hóa không đồng đồng chất hoặc nhiều mặt hàng mà trong đó bao gồm nhiều chủng loại không đồng chất. Những tình huống trên có thể có bốn cách đặt tên cho nhãn hiệu: * Tên nhãn hiệu riêng biệt được sử dụng cho cùng mặt hàng ngưng có đặc tính khác nhau ít nhiều. * Tên nhãn hiệu đòng nhất cho tất cả các hàng hóa được sản xuất bởi công ty. * Tên thương mại của công ty kết hợp với tên nhãn hiệu của hàng hóa. * Tên nhãn hiệu tập thể cho từng dòng họ hàng hóa ó(từng mặt hàng) do công ty sản xuất. Việc đặt tên cho nhãn hiệu hàng hóa theo mỗi cách thức trên có những ưu điểm nhất định. Việc gắn cho hàng hóa những tên nhãn hiệu nhãn hiệu riêng biệt, không gắn với tên thương mại của công ty, có ưu việt ở chỗ là không ràng buộc uy tín của công ty với việc một mặt hàng cụ thể có được thị trường chấp nhân hay không? Còn việc gắn tên với nhãn hiệu thống nhất cho tất cả các hàng hóa thì lại giảm được chi phí sản xuất khi tung ra một sản phẩm mới ra thị trường. Tuy nhiên nếu công ty sản xuất ngững mặt hàng hoàn toàn khác nhau thì việc có chung tên nhãn hiệu cho chúng có thể gây ra sự nhầm lẫn cho khach hàng. Trong trường hợp này tên nhãn hiệu tập thể cho từng nhom hhàng hóa (dòng hangd hóa) có chất lượng khác nhau có thể sẽ thích hợp hơn. Cuối cùng việc đặt tên nhãn hiệu cho một hàng hóa bằng cách kết hợp giữa tên công ty với tên nhãn hiệu riêng cho hàng hóa vừa đem lại lại sức mạnh hợp pháp cho sản phẩm, vừa cung cấp thông tin riêng về tính khác biệt của hàng hóa. Nhiều nhãn hiệu sẽ cho phép công ty chú ý đến những lợi ích khác nhau của khách hàng và tạo ra những khả năng khác nhaucủa khách hàng và tạo ra ngững khả năng hấp dẫn riêng cho từng hàng hóa. Nhờ vậy mỗi nhãn hiệu có thể thu hút được cho mình một nhóm khách hàng mục tiêu riêng. 2. Quyết định về bao gói và dịch vụ đối với sản phẩm- hàng hóa: Quyết đinh về bao gói: Một số hàng hóa đưa ra thị trường không cần phải bao gói. Đa số hàng hóa, bao gói là yếu tố rất quan trọng về các phương diện khác nhau. Bao gói thường có bốn yếu tốcấu thành điển hình: Lớp tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm, lớp bảo vệ lớp tiếp xúc, bao bì vận chuyển, nhãn hiệu và các thông tin mô tả hàng hóa trên bao gói. Ngày nay bao gói trở thành công cụ đắc lực của hoạt động marketing bởi vì: Một là sự phát triển của hệ thống cửa hàng tự phục vụ, tự chọn ngày càng tăng; hai là, mức giàu sang và khả năng mua sắm của người tiêu dùng càng tăng; ba là, bao bì góp phần tạo ra hình ảnh về công ty và nhãn hiệu; bốn là, tạo ra khả năng và ý niệm về sự cải tiến sản phẩm hàng hóa. Để tạo ra bao gói có hiệu quả cho một hàng hóa nhà quản trị marketing phải thông qua hàng loạt quyết định kế tiếp nhau như sau: Xây dựng quan niệm về bao gói: bao bì phải tuân thủ nguyên tắc nào? Nó đóng vai trò như thế nào đối với một mặt hàng cụ thể? Nó phải cung cấp những thông tin gì về hàng hóa?... Quyết định về các khía cạnh: kích thước, hình dáng, vật liệu, màu sắc nội dung trình bày và có gắn nhãn hiệu hay không? Khi thông qua các quyết định này phải gắn các công cụ khác của marketing. Quyết định về thử nghiệm bao gói bao gồm: thử nghiệm về kỹ thuật, thử nghiệm về hình thức, thử nghiệm về kinh doanh, thử nghiệm về khả năng chấp nhận của người tiêu dùng. Cân nhắc các khía cạnh lợi ích xã hội, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của bản thân công ty. Quyết định về các thông tin trên bao gói. Tuỳ vào những điều kiện cụ thể mà các nhà sản xuất bao gói quyết định đưa thông tin gì lên bao gói và đưa chúng lên như thế nào? Trong trường hợp những thông tin chủ yếu đựoc thể hiện qua bao gói là: * Thông tin về hàng hóa, chỉ rõ đó là hàng gì? * Thông tin về phẩm chất hàng hóa. * Thông tin về ngày tháng, người, nơi sản xuất và các đặc tính của hàng hóa. * Thông tin về kỹ thuật an toàn khi sử dụng. * Thông tin về nhãn hiệu thương mại và các hình thức hấp dẫn để kích thước tiêu thụ. * Các thông tin do luật định. Các thông tin được đưa ra có thể bằng cách in trực tiếp lên bao bì hoặc in rời phôi dán lên bao bì. Gần đây cách thứ nhất được sử dụng phổ biến hơn. Quyết định về dịch vụ khách hàng: Một yếu tố khác cấu thành sản phẩm- hàng hóa hoàn chỉnh là dịch vụ khách hàng. Tuỳ vào từng loại hàng mà tầm quan trọng của dịch vụ khách hàng sẽ khác nhau. Các nhà quản trị marketing phải quyết định ba vấn đề liên quan đến việc cụng cấp dịch vụ cho khách hàng. Nội dung hay các yếu tố dịch vụ mà khách hàng đòi hỏi và khả năng công ty có thể cung cấp là gì? Tầm quan trọng tương đối của từng yếu tố dịch vụ đó. Chất lượng dịch vụ và công ty phải đảm bảo cho khách hàng đến mức nào so với các đối thủ cạnh tranh. Chi phí dịch vụ, tức là khách hàng được cung cấp dịch vụ miễn phí hay theo mức giá cả nào. Lựa chọn hình thức cung cấp dịch vụ: Công ty tự tổ chức lực lượng cung cấp dịch vụ, dịch vụ được cung cấp bởi các trung gian buôn bán, dịch vụ do tổ chức độc lập bên ngoài công ty cung cấp. 3. Quyết định về chủng loại và danh mục hàng hóa: Định nghĩa về chủng loại hàng hóa: Chủng loại hàng hóa là một nhóm hàng hóa có liên quan chặt chẽ với nhau do giống nhau về chức năng hay do bán chung cho cùng một nhóm khách hàng, hay thông qua cùng những kiểu tổ chức thương mại, hay trong khuôn khổ cùng một dãy giá. Quyết định về bề rộng của chủng loại hàng hóa: Mỗi công ty thường có cách thức lựa chọn bể rộng chủng loại hàng hóa khác nhau. Những tuỳ chọn này tuỳ thuộc vào mục đích mà công ty theo đuổi. Các công ty thiên về mục tiêu cung cấp một chủng loại đầy đủ hay phấn đấu để chiếm lĩnh phần lớn thị trường hoặc mở rộng thị trường thường có chủng loại hàng hóa rộng. Trong trường hợp này họ sản xuất khẩu những chủng loại hàng hóa sinh lời ít. Ngược lại có những công ty quan tâm đến sinh lời cao của hàng hóa. Nhưng dù quyết định ban đầu của công ty như thế nào , thì hiện tại công ty cũng gặp phải vấn đề đặt ra là mở rộng và duy trì bề rộng của chủng loại hàng hóa bằng cách nào? Giải quyết được vấn đề này công ty có hai hướng lựa chọn. Một là, phát triển chủng loại. Phát triển chủng loại có thể được thực hiện bằng các cách thức khác nhau: Phát triển hướng xuông dưới. Phát triển hướng lên trên. Phát triển theo cả hai hướng trên. Hai là, bổ sung chủng loại hàng hóa. Cách làm này có nghĩa là theo bề rộng mà công ty đã lựa chọn, công ty cố gắng đưa thêm những mặt hàng trong khuôn khổ đó. Việc bổ sung hàng hóa được xuất phát từ các mục đích sau: Mong muốn có thể thêm lợi nhuận. Để lấp chỗ trống trong chủng loại hiện có. Tận dụng năng lực sản xuất dư thừa. Mưu toan trở thành công ty chủ chốt với chủng loại đầy đủ. Khi bổ sung những sản phẩm mới trong cùng một chủng loại công ty phải tính đến khả năng giảm mức tiêu thụ của sản phẩm khác. Để làm giảm bớt ảnh hưởng này công ty phải đảm bảo chắc chắn rằng sản phẩm mới khác hẳn so với sản phẩm đã có. Quyết định về danh mục hàng hóa: Danh mục hàng hóa là tập hợp tất cả các nhóm chủng loại hàng hóa và các đơn vị hàng hóa do một nhóm người bán cụ thể đem chào bán cho người mua. Danh mục hàng hóa được phản ánh qua bề rộng, mức độ phong phú, bề sâu và mức độ hài hoà của nó. Bề rộng của danh mục hàng hóa là tổng số các nhóm chủng loại hàng hóa do công ty sản xuất. Mức độ phong phú của danh mục hàng hóa là tổng số những mặt hàng thành phẩm của nó. Bề sâu của danh mục hàng hóa là tổng số các hàng hóa cụ thể được chào bán trong từng mặt hàng riêng của nhóm chủng loại. Ví dụ: thuốc đánh răng “Crest” là mặt hàng thuộc nhóm chủng loại thuốc đánh răng. Thuốc đánh răng “Crest” được chào bán trong ba kiểu đóng gói với hai loại hương vị (loại thường và bạc hà). Khi đó bề sâu của danh mục hàng hóa có sáu hàng hóa cụ thể. Mức độ hài hòa của danh mục hàng hóa phản ánh mức độ gần gũi của hàng hóa thuộc các chủng loại khác nhau xét theo góc độ mục đích sử dụng cuối cùng, hoặc những yêu cầu về tổ chức sản xuất, các kênh phân phối hay một tiêu chuẩn nào đó. Bốn thông số đặc trưng cho danh mục hàng hóa mở ra cho công ty bốn hướng chiến lược mở rông danh mục hàng hóa. 4. Thiết kế và marketing sản phẩm mới: Khái quát về sản phẩm mới: Do những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu, công nghệ, tình hình cạnh tranh công ty không thể tồn tại và phát triển nếu chỉ dựa vào những hàng hóa hiện có. Vì vậy, mỗi công ty đều phải quan tâm đến chương trình phát triển với uy tín ngày càng tăng. Để có được sản phẩm mới công ty có thể có hai cách: + Mua toàn bộ công ty đó, mua bằng sáng chế hay giấy phép sản xuất hàng hóa của người khác. + Tự thành lập bộ phận nghiên cứu marketing và thiết kế sản phẩm mới. Ta sẽ tập trung nghiên cứu. Theo quan niệm marketing sản phẩm mới có thể là những sản phẩm mới về nguyên tắc, sản phẩm mới cải tiến từ các sản phẩm mới hiện có hoặc những nhãn hiệu mới do kết quả nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm của công ty. Nhưng dấu hiệu quan trọng nhất đánh giá sản phẩm đó là sản phẩm mới hay không phải là sự thừa nhận của khách hàng. Thiết kế, sản xuất sản phẩm mới là một việc làm cần thiết nhưng có thể mạo hiểm đối với doanh nghiệp. Bởi vì chúng cóthể thất bại do những nguyên nhân khác nhau. Để hạn chế bớt rủi ro, các chuyên gia- những người sáng tạo sản phẩm mới phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước trong quá trình tạo ra sản phẩm mới và đưa nó vào thị trường. 5. Chu kỳ sống của sản phẩm hàng hóa: Khi đem bán sản phẩm của mình trên thị trường công ty nào cũng mong muốn nó được bán chạy và tồn tại lâu dài, khối lượng buôn bán đạt ở mức cao. Nhưng đó chỉ là kỳ vọng. Bởi vì hoàn cảnh môi trường và thị trường luôn biến đổi. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới sản phẩm và đựoc phản ánh qua sự biến đổi của khối lượng và doanh số tiêu thụ sản phẩm. Để mô tả hiện tượng này người ta dùng thuật ngữ chu kỳ sống của sản phẩm. Chu kỳ sống của sản phẩm là thuật ngữ mô tả sự biến đổi của doanh số tiêu thụ kể từ khi sản phẩm được tung ra thị trường cho đến khi nó phải rút ra khỏi thị trường. Chu kỳ sống của sản phẩm có thể được xem xét cho từng mặt hàng cụ thể, từng nhóm chủng loại, thậm chí từng nhãn hiệu hàng hóa. Sự tồn tại chu kỳ sống của sản phẩm là hiển nhiên, hy vọng về sự tồn tại lâu dài với doanh số cao đối với một hàng hóa, chủng loại hàng hóa hoặc nhãn hiệu hàng hóa là chính đáng. Nhưng hy vọng đó chỉ đạt được khi công ty biết được sự diễn biến của chu kỳ sống, đặc điểm của nó, đồng thời có những điều chỉnh marekting thích hợp. Đối với từng sản phẩm, nhóm chủng loại hoặc nhãn hiệu hàng hóa có thể có số lượng và độ dài từng giai đoạn khác nhau. Nhưng dạng khái quát về mặt lý thuyết thì chu kỳ sống của sản phẩm có bốn giai đoạn. Giai đoạn tung sản phẩm vào thị trường. Giai đoạn phát triển. Giai đoạn chín muồi. Giai đoạn suy thoái. PHầN II: ĐÔI NéT Về QUá TRìNH HìNH THàNH Và PHáT TRIểN Xí NGHệP I, Sơ lược quá trình hình thành và phát triển xí nghiệp: Xí nghiệp sản xuất gia công bằng mây tre xuất khẩu trực thuộc Tổng công ty Mây tre xuất nhập khẩu Việt Nam. Xí nghiệp được thành lập vào ngày 31/3/1990 theo quyết định số 170 KTĐN/TCCB của Bộ Trưởng Bộ kinh tế đối ngoại. Xí nghiệp sản xuất gia công hàng mây tre là doanh nghiệp Nhà nước có: + Tên giao dịch: Baortex. + Trụ sở xí nghiệp: Xã Kiêu Kỵ- Gia Lâm- Hà Nội. Chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh, hách toán độc lập, tự chủ về tàI chính, có tư cách pháp nhân, có tàI khoản tạI ngân hàng và con dấu riêng. Tổng số vốn kinh doanh: Xí nghiệp hiện có 12,350 Vốn đIũu lệ: 6,750 Vốn cố định: 4620 Vốn lưu động: 3540 Nhiệm vụ của xí nghiệp là sản xuất gia công chế biến các sản phẩm song, mây tre để xuất khẩu liên doanh, liên kết, hợp tác và đầu tư sản xuất với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để mở rộng sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Xí nghiệp sản xuất gia công hàng mây tre mới thành lập, nên cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, đội ngũ cán bộ công nhân viên còn bị ảnh hưởng của cơ chế bao cấp, năng lực trình độ quản lý yếu, tay nghề của công nhân thấp. Quá trình sản xuất kinh doanh trong vàI năm trở lạI đây xí nghiệp đã đạt được những thành tích như: + Liên tục thay đổi chất lượng mẫu mã sản phẩm của mình, xí nghiệp đã xuất khẩu được nhiều lô hàng có giá trị cho thị trường trong nước và quốc tế. + Xí nghiệp đã khuyến khích cán bộ công nhân nên đưa ra những sáng kiến trong sản xuất làm giảm tối đa hao phí trong sản xuất cũng như trong quản lý. + Thực hiện hiện đạI hoá xi snghiệp bằng cách bỏ vốn ra đầu tư trang thiết bị máy móc cho các phân xưởng sản xuất chế biến, không làm ảnh hưởng đến cảnh quan, môI trường bên trong và bên ngoài… + Điều kiện lao động được nâng cao tốt nên sức khoẻ của cán bộ công nhân viên được bảo đảm, mức thu nhập cao, các phúc lợi xã hội được giải quyết có lợi cho người lao động. Có được những thành tích trên xí nghiệp đã trải qua nhiều khó khăn và thử thách. Xí nghiệp đã từng bước khẳng định được vị trí và vươn lên trong nền kinh tế thị trường. Ngày 31/4/1995 Bộ Thương Mại đánh giá Xí nghiệp là một doanh nghiệp kihn doanh có hiệu quả và có triển vọng phát triển trong tương lai. 1. Cơ cấu tổ chức của xí nghiệp: Sự phát triển của xí nghiệp về chiều sâu và chiều rộng trong tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp đã hình thành được bộ máy quản lý phù hợp với cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh của mình, các phòng ban liên kết chặt chẽ với nhau và chịu sự quản lý giám sát của giám đốc xí nghiệp. Trong sử dụng hệ thống điều hành tương đối tập trung nhưng vẫn phát huy được tính sáng tạo trong sản xuất kinh doanh của các phòng ban, phân xưởng sản xuất của mình. Xí nghiệp là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập có tư cách pháp nhân đầy đủ, được trực tiếp quan hệ với các ngành các cấp quản lý Nhà nước, với các Ngân hàng, với khách hàng trong và ngoài nước, được trực tiếp ký kết các hợp đồng và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhiệm vụ của xí nghiệp là sản xuất hàng để xuất khẩu, ngoìa ra địa bàn hoạt động của xí nghiệp tương đối rộng, với số lượng cán bộ công nhân viên chỉ có 100 người, do đó việc tổ chức bộ máy quản lý và điều chnhr của xí nghiệp đồi hỏi phải rất năng động để làm sao quản lý một cách hiệu quả nhất.Vì thế bộ máy quản lý của xí nghiệp được tổ chức theo kiểu thực tuyến chức năng. - Kiểu tổ chức bộ máy quản lý sản xuất này đảm bảo sự gọn nhẹ, xử lý nhanh ác thông tin cho Ban lãnh đạo một cách kịp thời và đầy đủ nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho Ban lãnh đạo nắm vững được tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp và có những định hướng chỉ đạo sát sao phù hợp với thực tế. Cơ cấu tổ chức Giám đốc Phòng Kế toán tài chính Kế toán trưởng Phó Giám đốc điều hành sản xuất đời sống Phó Giám đốc điều hành kỹ thuật Phòng kinh doanh Phòng tài chính Phòng kỹ thuật Phòng KCS Công nhân Tổ trưởng tổ Quản đốc các phân xưởng 2. Mục tiêu hoạt động của xí nghiệp - Là 1 xí nghiệp nhỏ chuyên sản xuất nhiều loại sản phẩm song, mây,tre khác nhau nhằm đáp ứng cho nhiều kĩnh vực tiêu dùng, do vậy yếu tố chất lượng mẫu mã sản phẩm là hết sức quan trọng. Xí nghiệp xem chất lượng, uy tín là điều kiện sống còn của mình. - Cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác, xí nghiệp lấy mục tiêu lơi nhuận là hàng đầu. - Do sự sụp đổ của thị trường truyền thống là các nước Đông Âu và Liên Xô làm xí nghiệp mất đi một thị trường thuyền thống khá lớn, điều đó đòi hỏi xí nghiệp phải khắc phục khó khăn trong việc đi tìm thị trường mới càng nhiều càng tốt. - Thực tế khó khăn đó đòi hỏi xí nghiệp phải tăng cường phát triển mở rộng sản xuất, đa dạng hóa mẫu mã, nâng cao tay nghề cho người lao động và quá trình quản lý. Đứng vững trước được sự biến động của thị trường để có đầu vào xí nghiệp luôn luôn có đủ điều kiện về tài chính để đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh . 2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của xí nghiệp Trang thiết bị máy moác cho sản xuất : - Trang thiết bị máy móc cho sản xuất là một nguồn lực quan trọng của xí nghiệp, nó là yếu tố đảm bảo cho mục tiêu đa dạng hoá sản phẩm theo sự thay đổi phức tạp trong dự kiến của người tiêu dùng hiện đại. Từ những năm đầu máy móc của xí nghiệp quá cồng kềnh, hao phí nhiên liệu cao, năng suất thấp, tạo ra sản phẩm có độ chính xác thấp, máy móc của xí nghiệp ban đầu có rất ít, chủ yếu là do nhà máy công cụ số 1 sản xuất và phần còn lại của Liên Xô. Các linh kiện của các loại máy này lại không đồng bộ, thiếu phụ tùng. Cho đến năm 1994 trang thiết bị đã cũ, lac hậu, không còn đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất, làm ảnh hưởng đến người lao động, mặc dù trong quá trình sản xuất trang thiết bị trên cũng được tu sửa, thay thế nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu. - Đến đầu năm 1995, xí nghiệp đã tự đề ra biện pháp quan trọng nhất là phương án đầu tư chiều sâu nhằm đổi mới thiết bị máy móc gần như toàn bộ cho các xưởng sản xuất chế biến. - Cuối năm 1995 xí nghiệp đã trang bị máy móc mới thay thế vào các máy móc cũ lạc hậu. Xí nghiệp đã nhập các máy móc của Đài Loan, Hàn Quốc… BảNG GIá TRị THIếT Bị MáY MóC TT Tên thiết bị, phương tiện máy móc sản xuất Nhãn hiệu Số lượng Công suất Giá trị % còn lại Mức độ 1 Máy bóc vỏ song Đài Loan 1 1 tấn/h 80 Khá 2 Máy chẻ mây Đài Loan 1 8,5 tạ/h 90 Khá 3 Máy đánh bóng Đài Loan 1 8 tạ/h 70 Khá 4 Máy uốn song mây Hàn Quốc 1 7,5 tạ/h 80 Khá 5 Máy nhuộm mây Hàn Quốc 1 8 tạ/h 50 Khá 6 Máy tẩy mây Hàn Quốc 1 8 tạ/h 70 Khá 7 Máy đan mặt mây Đài Loan 2 70m2/h 60 Khá 8 Máy bắn định Hàn Quốc 1 600tạ/h 70 Khá 9 Máy chẻ song Hàn Quốc 1 1tấn/h 70 Khá 10 Máy sấy song Đài Loan 1 8 tạ/h 70 Khá - Thời kỳ trước năm 1989 thị thường khu vực I ( Liên Xô, các nước Đông Âu và các nước xã hội chủ nghĩa mua hàng mây che đan là chủ yếu. + Giai đoạn hàng hoá song mây chủ yếu là các sản phẩm đan lát hàng thủ công mỹ nghệ mây tre nhỏ, chất lượng không cao, chỉ cần bàn tay khéo léo của người thợ là chủ yếu mà chưa cần dùng đến năng lực máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất tiên tiến . Sau khi khối thị trường Đông Âu sụp đổ, đất nước ta đã mở cửa hoà nhập vào thị trường thế giới, đó là một thuận lợi cho các doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề vạch ra cho xí nghiệp là làm sao để xâm nhập vào các thị trường thế giới để cạnh tranh với các loại hàng hoá song mây tre của các nước trong khu vực Đông Nam á thì trước tiên phải có chất lượng, mẫu mã, đa dạng phong phú thì phải cần đến máy móc, công nghệ tiên tiến vì vậy việc đầu tư vào máy móc là điều tất yếu. Trứoc đây các loại máy móc phục vụ cho hàng mây tre chủ yếu do Việt Nam sản xuất hay Liên Xô, các loại máy móc này thô sơ, chủ yếu là dùng sức người, độ bóng không đẹp, độ chính xác thấp, sản xuất với công suất ít. So với các loại máy của Đài loan, Hàn quốc thì ta có thể thấy rõ, ví dụ như máy bóc vỏ song của Việt Nam cương độ sản xuất được2,5tạ/h, độ bóng kém, độ chính xác sai lệch nhiều thì máy bóc vỏ song của Đài Loan có công suất 1tấn/h, gấp 4 lần máy móc cũ, độ bóng đẹp, độ chính xác cao. - Thiết bị máy móc đóng vai trò to lớn trong xí nghiệp mây tre, giúp cho việc sản xuất ra những loại sản phẩm có độ bóng, bền, đẹp phù hợp với khách hàng, đựoc thị trường chấp nhận, máy móc làm giảm cường độ thời gian để tạo ra sản phẩm cho xí nghiệp đúng thời gian biểu. Vốn của xí nghiệp: - Vốn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cần thiết dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp vì vậy bất cứ xí nghiệp nào cũng cần phát triển bảo toàn vốn vì nó là điều kiện cần cho hoạt động kinh doanh của xí nghiệp. - Từ khi thành lập xí nghiệp cho đến nay số vốn của xí nghiệp không ngừng tăng trưởng. - Việc sản xuất kinh doanh của xí nghiệp chủ yếu dựa vào đơn đặt hàng của khách nước ngoài. Vốn kinh doanh của xí nghiệp được hình thành từ: + Ngân sách của nhà nước + Vốn vay ngân hàng + Vay của công nhân viên chức trong xí nghiệp + Xí nghiệp thường bổ sung vốn bằng nguồn vốn tự có trích từ lợi nhuận. Trong việc huy động vốn xí nghiệp luôn luôn tuân theo quy định của pháp luật về tài chính. Không thay đổi hình thức chủ sở hữu của xí nghiệp là sở hữu nhà nước. Xí nghiệp luôn thực hiện nộp thuế, nghĩa vụ của mình với nhà nước. Việc huy động vốn của xí nghiệp làm lợi cho sản xuất và tiêu thụ được khách hàng, người lao động tin tưởng và xí nghiệp chấp hành đúng quy định và chế độ quản lý lưu thông tiền tệ của nhà nước. Bảng vốn của xí nghiệp qua các năm Năm Cơ cấu vốn Tổng số vốn Nguồn vốn Ghi chú Ngân sách Nhà nước cấp Vay Nhà nước Vốn tự có 1994 Tổng số vốn TSCĐ TSLĐ 6._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0132.doc
Tài liệu liên quan