Một số vấn đề đầu tư phát triển thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nước ta

Lời nói đầu Cùng với việc tăng trưởng và phát triển mọi mặt trong nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực thực phẩm thì ở nhiều nước trên thế giới sự phát triển thuỷ lợi đã trở thành quy mô quốc gia. Đối với các nước phát triển cơ sở vật chất thuỷ lợi được đầu tư rất cao, khoảng 10.000 USD/ ha. Vì đầu tư cao như vậy nên các công trình thuỷ lợi đầu mối không những là những công trình vững chắc về mặt kỹ thuật mà là những công trình mỹ thuật có kiến trúc hiện đại...Do đó ở những nước này

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1836 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề đầu tư phát triển thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất nông nghiệp phát triển rõ rệt, năng suất cây trồng và vật nuôi tăng. Tất cả các nước Đông Nam á đều rất quan tâm đến sự nghiệp phát triển thuỷ lợi nhằm đáp ứng nhu cầu bức thiết về lương thực thực phẩm do sức ép của sự gia tăng dân số. Những nước này đưa ra chiến lược phát triển thuỷ lợi là đầu tư chiều sâu để phát huy hết hiệu quả của các công trình hiện có. ở Việt Nam, trong hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, nông nghiệp nước ta vẫn phát triển với 80% dân số làm nghề nông, năm nào mất mùa thì năm ấy sự phát triển của xã hội lại chao đảo “Nông suy, bách nghệ bại”. Nhưng trọng tâm của nông nghiệp là sản xuất lương thực không thể thiếu vai trò của nước. Nông nghiệp Việt Nam đã tổng kết các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lúa là “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Do vậy trong chiến tranh cũng như trong hoà bình, khi đất nước gặp nhiều khó khăn công tác thuỷ lợi vẫn được Đảng và Nhà nước tập trung đầu tư cùng với sự đóng góp to lớn của nhân dân nên đã đạt được thành tích quan trọng, góp phần vào những chuyển biến và thành công của sản xuất nông nghiệp, biến đổi nông thôn, phòng ngừa thiên tai, bảo đảm an toàn cho nhiều khu vực. Cũng vì thế mà thuỷ lợi luôn được nhấn mạnh là “ biện pháp hàng đầu trong nông nghiệp” Thấy được ý nghĩa quan trọng hàng đầu của thuỷ lợi đối với nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm và đầu tư nhiều vào thuỷ lợi nên đã thu được một số kết quả cao trong sản xuất nông nghiệp, phòng ngừa thiên tai, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên trong quá trình đầu tư vào thuỷ lợi ở nước ta còn một số hạn chế do thiếu vốn đầu tư, khoa học công nghệ còn thấp. Để làm rõ hơn tình hình đầu tư phát triển vào thuỷ lợi em đi vào đề tài: “ Một số vấn đề đầu tư phát triển thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp của mình. * Mục đích nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp nhằm góp phần; - Làm rõ những vấn đề lý luận, phương pháp luận về đầu tư, vai trò nhiệm vụ của thuỷ lợi. Từ đó làm sáng tỏ sự cần thiết phải đầu tư vào thuỷ lợi. - Phân tích và đánh giá thực trạng đầu tư phát triển thuỷ lợi ở nước ta hiện nay. - Đưa ra phương hướng và những giải pháp đầu tư phát triển thuỷ lợi. * Đối tượng nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp: Là khái quát về công tác thuỷ lợi và tình hình hoạt động của ngành thuỷ nông, các công trình thuỷ lợi nói chung, đi sâu tập trung nghiên cứu tình hình đầu tư vào thuỷ lợi. Mặt khác đối tượng chủ yếu của thuỷ lợi nhằm phục vụ nông nghiệp nên ta lấy các chỉ tiêu về sản lượng lương thực, các công trình được thực hiện làm đối tượng phân tích trực tiếp. * Phạm vi nghiên cứu. Luận văn tốt nghiệp chỉ giới hạn nghiên cứu tình hình đầu tư phát triển thuỷ lợi ở nước ta từ khi thực hiện đổi mới đến nay. Nghiên cứu những quan điểm, phương hướng, một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển vào thuỷ lợi. Để nghiên cứu đề tài này luận văn đã sử dụng một hệ thống các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở lý luận, dựa vào nghị định và quan điểm của Chính phủ. Dùng phương pháp phân tích hệ thống và phương pháp chuyên gia để đánh giá rút ra những mặt đã làm được và còn tồn tại trong việc đầu tư phát triển thuỷ lợi ở nước ta hiện nay. Thu thập thông tin tư liệu tài liệu tham khảo nghiên cứu và chọn lọc kinh nghiệm của các nước với tư duy khoa học, khách quan và thực tiễn để đề xuất kiến nghị những định hướng đổi mới nhằm phục vụ cho hoạt động đầu tư phát triển Thuỷ lợi đem lại hiệu quả cao hơn. * Kết cấu luận văn tốt nghiệp: Ngoài lời nói đầu, kết luận luận văn tốt nghiệp gồm 3 chương: - Chương I: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển Thuỷ lợi. - Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển Thuỷ lợi ở nước ta những năm gần đây. - Chương III: Phương hướng và giải pháp đầu tư phát triển Thuỷ lợi trong thời gian tới. Chương I Lý luận chung về đầu tư phát triển thuỷ lợi. I-/ Những vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển. 1-/ Khái niệm hoạt động đầu tư phát triển. 1.1 Khái niệm đầu tư. Đầu tư theo nghĩâ chung nhất được hiểu là “sự bỏ ra”, “sự hy sinh” các nguồn lực ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. 1.2 Khái niệm đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác. Là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. 1.3 Khái niệm hoạt động đầu tư phát triển. Hoạt động đầu tư phát triển là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung của địa phương ngành và của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng. 2-/ Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển đối với nền kinh tế. Theo các lý thuyết kinh tế và thực tiễn đã chứng minh rằng đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng của mỗi quốc gia. Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở các mặt sau đây: 2.1 Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế đất nước. 2.1.1 Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. 2.1.1.1 Đầu tư tác động đến tổng cầu. Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế, đầu tư thường chiếm 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, kéo theo sản lượng cân bằng tăng và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng. Hay muốn tiến hành mua máy móc thiết bị thì phải có tiền để đầu tư và tiến hành huy động các nguồn lực nhàn rỗi đang “nằm chết” trong dân vào hoạt động kinh tế. Khi đó các tiềm lực này được khai thác và đã đem lại hiệu quả nhất định nào đó như tạo việc làm, tăng thu nhập, tăng ngoại tệ... 2.1.1.2 Đầu tư tác động đến tổng cung. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và giá cả sản phẩm giảm. Khi đó tất yếu tiêu dùng tăng lên. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 2.1.2 Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Đầu tư giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế, tuy nhiên dù là tăng hay giảm đầu tư thì đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá các hàng hoá có liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động vật tư) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lam phát. Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày một thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả những tác động này tạo điều kiện rất lớn cho sự phát triển kinh tế. Hay khi giảm đầu tư thì nó cũng có tác động hai mặt đến nền kinh tế mỗi quốc gia. Một mặt, khi giảm đầu tư sản xuất của các ngành chậm phát triển do thiếu vốn, giảm lực lượng lao động dẫn đến tình trạng thất nghiệp, đời sống của người lao động cũng giảm...Mặt khác khi giảm đầu tư thì giá các hàng hoá có liên quan không tăng, thậm chí còn giảm khi đó nó giảm được lạm phát. Như trên cho thấy đầu tư luôn có tác động hai mặt đến nền kinh tế, vì vậy trên giác độ quản lý phải giảm tác động xấu, tăng tác động tích cực nhằm duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. 2.1.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt 15 - 25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR mỗi nước. ICOR = ị Mức tăng GDP = Nếu ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách của mỗi nước. Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các nghành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của các chính sách nói chung. Thông thường, ICOR trong nông nghiệp thấp hơn ICOR trong công nghiệp. Do đó ở các nước phát triển tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. Ví dụ đầu tư / GDP ở Mỹ năm 1965 là 12%, năm 1989 là 15% dẫn đến tăng trưởng 1965 - 1989 là 1,6 lần. ở Nhật: năm 1965 là 28%, năm 1989 là 33% dẫn đến tăng trưởng 1965 - 1989 là 4,3 lần. Vậy với nước có tỷ lệ đầu tư / GDP lớn thì có tốc độ tăng trưởng cao. Đối với các nước đang phát triển, đầu tư đóng vai trò như một cú hích ban đầu tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế, điều này đã được chứng minh qua nền kinh tế của các nước NICs, các nước Đông Nam á như Thái Lan, Singapore... Đối với Việt Nam, để đạt được mục tiêu đến năm 2000 tăng gấp đôi tổng sản phẩm quốc nội theo dự tính của các nhà kinh tế cần một khối lượng vốn đầu tư gấp 3,5 lần so với năm 1992, tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP đạt 24,7%. 2.1.4 Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9 - 10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư ngiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 - 6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các cùng khác cùng phát triển. 2.1.5 Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học công nghệ Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là sự tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 ở giai đoạn 1 và 2. Việt Nam đang là 1 trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Muốn có công nghệ thì có hai con đường cơ bản đó là: tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài . Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. 2.2 Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. 2.2.1 Đầu tư quyết định sự ra đời của các cơ sở. Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nào thì phải có vốn đầu tư để xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. Vậy một cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ muốn ra đời thì phải có vốn đầu tư vào các yếu tố cần thiết thì nó mới đi vào hoạt động. 2.2.2 Đầu tư quyết định sự tồn tại của cơ sở. Khi doanh nghiệp ra đời và đi vào hoạt động, sau một thời gian các cơ sở vật chất kỹ thuật sẽ bị hao mòn, hư hỏng,lạc hậu. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần phải định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời. Để những công việc trên trở thành hiện thực thì ta phải bỏ tiền ra để đầu tư. Khi đó đồng nghĩa với sự tồn tại của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại để duy trì sự hoạt động ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả các hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. 2.2.3 Đầu tư quyết định sự phát triển của các cơ sở. Các cơ sở muốn ra đời, tồn tại thì phải cần có vốn đầu tư. Nhưng đối với các doanh nghiệp không chỉ dừng lại đó mà muốn tạo ra sự phát triển tìm chỗ đứng vững chắc trên thị trường vậy thì các doanh nghiệp lại tiếp tục phải có vốn đầu tư vào khoa học công nghệ thích hợp, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, mở rộng các hoạt động quảng cáo, tiếp thị... Vậy đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. II-/ Sự cần thiết phải đầu tư phát triển ngành thuỷ lợi. 1-/ Vai trò của thuỷ lợi đối với nền kinh tế. 1.1 Khái niệm về thuỷ lợi. Thuỷ lợi là lĩnh vực kinh tế kỹ thuật rộng lớn gồm nhiều hoạt động đấu tranh với tự nhiên để khai thác mặt có lợi của nguồn nước trên và dưới mặt đất phục vụ sản xuất và đời sống đồng thời hạn chế những tác hại của nước gây ra đối với sản xuất và đời sống. 2.2 Vai trò của thuỷ lợi đối với nền kinh tế. Thực tiễn hiện nay đã chứng minh rằng, trên thế giới nước nào có hệ thống thuỷ lợi đảm bảo thì nền sản xuất nông nghiệp của nước đó ổn định và dần dần được nâng cao. Đối với các nước chậm phát triển thì hệ thống thuỷ lợi của các ngành nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng đang là những vấn đề nan giải, phức tạp liên quan đến cả kinh tế và xã hội. Cùng với việc tăng trưởng và phát triển trong nông nghiệp nhằm đáp ứng mọi yêu cầu về lương thực thực phẩm thì có nhiều nước trên thế giới sự phát triển của thuỷ lợi đã trở thành quy mô quốc gia. Cụ thể Chính Phủ của các nước đã phát động các chương trình tưới nước với mục tiêu chính là đảm bảo tự túc lương thực và chương trình đó đã đạt được nhiều kết quả tốt do hệ thống thuỷ lợi phục vụ tốt. Như vậy, trong nông nghiệp, thuỷ lợi có thể được định nghĩa như là việc sử dụng kỹ thuật của con người để tăng và kiểm soát việc cung cấp nước cho trồng trọt. ở nước ta cũng như ở nhiều nước trên thế giới, trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân, thuỷ lợi là một ngành kinh tế kỹ thuật có vị trí quan trọng. Công tác thuỷ lợi được tiến hành với nhiều nội dung song có thể khái quát ở hai nội dung chính cơ bản sau: - Thuỷ lợi tiến hành trị thuỷ như đắp đê, đắp đập, đào sông để chỉnh trị dòng chảy, phòng chống lũ lụt, bão nhằm khắc phục và giảm nhẹ thiên tai. - Thuỷ lợi tiến hành công tác thuỷ nông như đào kênh, khơi nguồn, xây dựng cầu, cống, mương máng...để phục vụ sản xuất nông nghiệp phục vụ dân sinh và các ngành kinh tế khác, cải tạo và bảo vệ môi trường. Với hai nội dung cơ bản trên của công tác thuỷ lợi thì thuỷ lợi đã thể hiện vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế nếu không tiến hành trị thuỷ thì hậu quả khôn lường sẽ diễn ra làm thiệt hại nặng nề về kinh tế cơ sở hạ tầng vật chất cây lương thực sẽ bị nước lũ cuốn trôi, mặt khác nó còn tác động rất xấu đến công tác môi trường... Nội dung thứ hai của thuỷ lợi là tiến hành công tác thuỷ nông, thuỷ nông là một ngành kinh tế kỹ thuật thực hiện chức năng quản lý, khai thác tài nguyên nước để phục vụ sản xuất nông nghiệp và các lĩnh vực khác. Thực tiễn đã chứng minh rằng, thuỷ nông đã và sẽ đóng một vai trò làm tăng trưởng sản lượng lương thực để thoả mãn nhu cầu của loài người cả trong hiện tại và tương lai. Toàn thế giới có 14% diện tích canh tác đươc tưới và 8,2% diện tích được tiêu (tiêu cho cả diện tích phi canh tác), những giá trị sản phẩm nông nghiệp thu được trên diện tích này chiếm 38% tổng giá trị nông nghiệp toàn thế giới, hiện tại Việt Nam có 36,1% diện tích canh tác được tưới và 21,4% được tiêu (tiêu cả trên diện tích phi canh tác) đã cho số sản phẩm nông nghiệp thu được trên đó chiếm 68% tổng sản phẩm nông nghiệp. Tuy mức độ phát triển thuỷ nông của thế giới, của một số khu vực cũng như ở nhiều quốc gia còn ở mức độ thấp, nhưng sự phát triển đó chủ yếu được thực hiện từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây. Vì vậy mặc dù dân số thế giới trong vòng 40 năm qua từ (1960 - 1999) tăng gần 2 lần (khoảng 6 tỷ so với 3 tỷ) và mặc dù hầu hết đất đai canh tác đã được loài người sử dụng song nhìn chung lương thực bình quân đầu người của thế giới vẫn tăng nhanh hơn mức tăng dân số. Trong thập kỷ 80, bình quân lương thực đầu người trên thế giới tăng 5% (loại trừ tình trạng thiếu lương thực cục bộ). Viện nghiên cứu lúa quốc tế cho rằng, tăng tiềm năng sản xuất nông nghiệp cuả trái đất rất lớn, chỉ cần đầu tư có hiệu quả vào nông nghiệp, trước hết là khâu tưới, tiêu nó có thể đảm bảo nuôi sống 10 tỷ người. Như vậy vai trò của thuỷ nông đối với sản xuất nông nghiệp là rất quan trọng được biểu hiện cụ thể sau: - Thứ nhất: Thuỷ nông là tiền đề mở rộng diện tích canh tác do việc phát triển các hệ thống tưới và tiêu tạo ra các vùng đất canh tác mới. - Thứ hai: Thuỷ nông là tiền đề làm tăng vụ do đó tăng diện tích gieo trồng trên diện tích canh tác, tăng vòng quay của diện tích đất nông nghiệp. -Thứ ba: Thuỷ nông góp phần thâm canh tăng năng suất cây trồng, thay đổi cơ cấu cây trồng, góp phần nâng cao tổng sản lượng và giá trị tổng sản lượng. Do cung cấp đủ lượng nước cho nhu cầu sinh trưởng và tiêu thoát kịp thời đã làm cho năng suất cây trồng tăng thêm được từ 20 - 30% theo tài liệu của FAO, các loại giống mới có tưới tiêu hợp lý đạt được 80 - 90% năng suất thí nghiệm, nếu không chỉ đạt 30 - 40%. Đồng thời thuỷ nông cần dùng nước để cải tạo đất thông qua việc thâu chua, phèn rửa mặn...làm tiền đề để áp dụng dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật nông nghiệp nên đã làm cho năng suất cây trồng tăng cao. Như vậy sự đóng góp của thuỷ nông đối với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp đã được các nhà chuyên gia trên thế giới chỉ ra cụ thể như sau: Trong các yếu tố nước, phân, giống và các yếu tố khác làm tăng sản lượng lúa là 100% thì nước chiếm tỷ lệ cao nhất 25,5%; 22,2%; 22,1% và 30,2%. Và cũng chỉ ra mối tương quan giữa mức độ thuỷ lợi hoá với việc tăng năng suất lúa diễn ra theo quan hệ mang tính chất tỷ lệ thuận. Các nước có mức độ hoá 60% cho năng suất 6 tấn/ 1ha/ 1 năm và 40% cho 4 tấn/ 1ha/ 1năm, còn 25% cho 2 tấn/ 1ha/ 1năm. Như vậy, nếu không có thuỷ lợi thì không thể tiến hành sản xuất nông nghiệp được và nó được coi là biện pháp hàng đầu trong nông nghiệp. Cho nên thuỷ lợi phải đi trước một bước thì mới tạo tiền đề cho nông nghiệp phát triển vững chắc. Thực tiễn sản xuất trong nhiều năm qua ở nước ta cũng như các nước trên thế giới đã khẳng định những hiệu quả mà các hệ thống công trình thuỷ lợi mang lại là hết sức to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Như vậy, công trình thuỷ lợi là các công trình hay hệ thống công trình nhằm khai thác mặt lợi của nước, phòng chống các mặt có hại do nước gây ra hoặc kết hợp cả hai mặt đó. Công trình thuỷ lợi còn được xem là cơ sở kinh tế kỹ thuật thuộc kết cấu hạ tầng nhằm khai thác nguồn lợi của nước và bảo vệ môi trường sinh thái, có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Quản lý khai thác công trình thuỷ lợi hệ thống là một yêu cầu khách quan của công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Một hệ thống công trình thuỷ lợi bao gồm các thành phần cơ bản sau: - Công trình đầu mối (đập dâng, hồ chứa, trạm bơm hoặc cống lấy nước). - Hệ thống kênh (kênh chính, kênh nhánh các cấp). - Các công trình hệ thống kênh (cống lấy nước đầu kênh, cống điều tiết các loại...). - Hệ thống kênh mương cống bọng nội đồng. Hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên là một chỉnh thể phải được vận hành bảo dưỡng theo một quy trình quản lý thống nhất gọi là quy trình quản lý hệ thống. Quy trình được thiết lập trên cơ sở luận chứng kinh tế kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật của hệ thống nhằm khai thác có hiệu quả các thông số kinh tế kỹ thuật đã được duyệt bảo đảm an toàn công trình trong mọi tình huống, đảm bảo hài hoà lợi ích dùng nước của địa phương, khu vực hộ dùng nước. ở nước ta, hơn 40 năm qua Nhà nước và nhân dân đã đầu tư xây dựng hoàn thiện nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi và từ đó đã khắc phục được tình trạng úng hạn, mở rộng diện tích gieo trồng góp phần cải tạo đất, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng. Hàng năm công trình thuỷ lợi còn cung cấp nhiều tỷ m3 nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, khắc phục thiên tai có những tiến bộ đáng kể đặc biệt là sản xuất lương thực, cụ thể hơn là góp phần khắc phục dần tình trạng úng hạn trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta, từng bước cải thiện đất mặn, chua, phèn, hoang hoá, mở rộng diện tích sản xuất, tạo điều kiện đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, cùng với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng mùa vụ có nhiều thuận lợi. Diện tích tưới tiêu nước qua từng thời kỳ được mở rộng không ngừng, ngoài diện tích lúa ra, các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có còn bảo đảm tưới và cấp nước hàng tỷ m3 cho các lĩnh vực khác. Đồng thời còn tiêu úng đất sản xuất và cải tạo đất ven biển. Với kết quả đó công tác thuỷ lợi nói chung và các công trình thuỷ lợi nói riêng đã góp phần tích cực vào mặt trận sản xuất nông nghiệp và giành được những thắng lợi rực rỡ liên tiếp. - Thứ tư: Thuỷ lợi tạo điều kiện cho các ngành kinh tế quốc dân phát triển. Thực tiễn sản xuất trong thời gian qua đã khẳng định những hiệu quả mà các hệ thống, các công trình thuỷ lợi mang lại là hết sức to lớn, không những đối với sản xuất nông nghiệp mà còn đối với các ngành kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Ngoài phục vụ cho nông nghiệp và dân sinh, phát triển giao thông thuỷ, phát điện, nuôi cá tạo việc làm tại chỗ, điều hoà phối hợp lại dân cư và cải thiện môi trường sinh thái góp phần phát triển nông thôn toàn diện, thực hiện xoá đói giảm nghèo. Cho nên ngày nay ở đâu có thuỷ lợi đảm bảo thì đời sống nhân dân ổn định, ở đâu chưa có thuỷ lợi thì việc xoá đói giảm nghèo còn đặt ra gay gắt. Mặt khác, thuỷ lợi là ngành thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội có vai trò hết sức quan trọng đối với công cuộc phát triển đất nước và nâng cao đời sống nhân dân, lợi ích mà ngành thuỷ lợi đem lại là cải tạo thiên nhiên, chiến thắng thiên tai, hạn hán lũ lụt, khai thác mặt lợi ngăn trừ mặt hại, phục vụ quốc tế dân sinh và bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngoài diện tích lúa ra, các hệ thống công trình thuỷ lợi còn đảm bảo tưới cho hàng chục vạn hecta hoa màu, cây công nghiệp. Đồng thời hàng năm các công trình thuỷ lợi đã được khai thác tổng hợp phục vụ giao thông, thuỷ sản, thuỷ điện, du lịch, góp phần tạo việc làm tại chỗ. Cụ thể công tác thuỷ lợi nói chung và các công trình thuỷ lợi nói riêng đã cung cấp một lượng nước đầy đủ và đảm bảo yêu cầu ngoài nông nghiệp ra còn cho mọi ngành khác có liên quan, nhằm phát triển một nền kinh tế xã hội chung ở nước ta, việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên nước để phục vụ cho nhiều ngành kinh tế giữ vai trò hết sức quan trọng. - Thứ năm: Thuỷ lợi góp phần cải tạo môi trường, nâng cao điều kiện dân sinh kinh tế. Đối với cung cấp nước phục vụ nông nghiệp và dân sinh: Trong giai đoạn xây dựng công nghiệp hoá nguồn nước giữ vai trò quan trọng thứ hai trong giai đoạn phát triển hiện nay. Tính đến năm 1999 nguồn nước do các hệ thống cung cấp nước sạch cho các khu công nghiệp, thành phố, thị xã và một số thị trấn mới phục vụ được cho trên 20 triệu dân và hàng năm mới sử dụng khoảng 0,6 tỷ m3 nước ngầm dưới đất. .Hầu hết các hộ nông dân các thị trấn còn lại đều dùng nước giếng tự nhiên hoặc nước sông suối chưa được xử lý thành nước sạch. Tiến hành chương trình nước ăn vùng cao, đặc biệt là các vùng phía bắc khó khăn nhất làm gọn dứt điểm từng vùng.Tạo nguồn nước ngọt nâng cao chất lượng nước ngọt ở vùng mặn nhằm góp phần quyết định cho nước sạch nông thôn. Qui hoạch và xúc tiến các công trình cải tạo nguồn nước cho các khu công nghiệp trọng điểm. Đối với môi trường xã hội: Công trình thuỷ lợi ngoài phục vụ cho các ngành còn cải tạo và bảo vệ môi trường, đặc biệt là cung cấp nguồn nước sạch cho xã hội, tạo nguồn nước ngọt đảm bảo tưới tiêu, thau chua, rửa mặn ở các vùng đất xấu. Nếu phân bố không đồng đều theo không gian và thời gian nguồn nước không chỉ mang lại lợi ích kinh tế xã hội to lớn mà có thể gây ra cả những hiểm hoạ nghiêm trọng như ngập lụt, úng hạn thiệt hại tính mạng tài sản nhân dân, cho nên cần phải đầu tư phát triển công trình thuỷ lợi, đây là vấn đề an toàn của quốc gia, của xã hội và công trình thuỷ lợi được hiểu là nhiều công trình thiết yếu quan trọng của cộng đồng. Ngoài ra khai thác và sử dụng nguồn nước phải tuân theo nguyên tắc tổng hợp, nội dung một cách tối ưu, sử dụng hợp lý, không phung phí huỷ hoại làm cạn kiệt nguồn nước thay đổi môi trường sinh thái. Quy hoạch khai thác và sử dụng phải đảm bảo sự lâu dài, bảo vệ môi trường sinh thái, không nên làm ô nhiễm nguồn nước sạch và nước ngọt sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường chung và gây ảnh hưởng đến toàn xã hội. 2-/ Nội dung của thuỷ lợi hoá trong công nghiệp. Như trên đã nói, công trình thuỷ lợi được xem là cơ sở kinh tế kỹ thuật thuộc kết cấu hạ tầng nhằm khai thác nguồn lợi của nước và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy mà công tác thuỷ lợi phải qua 4 giai đoạn sau đây: Giai đoạn 1: Trị thuỷ dòng sông lớn. Giai đoạn 2: Tổ chức thi công xây dựng công trình. Giai đoạn 3: Tổ chức quản lý, khai thác và sử dụng công trình. Giai đoạn 4: Tổ chức tưới nước và tiêu nước khoa học. 2.1. Trị thuỷ dòng sông lớn. Trị thuỷ dòng sông lớn là nội dung quan trọng và có tính chất then chốt của công tác thuỷ lợi nói chung và thuỷ lợi hoá nông nghiệp nói riêng. Để làm tốt công tác trị thuỷ cần thực hiện các biện pháp sau đây. - Điều tra khảo sát: mỗi công trình để đi vào khởi công xây dựng thì việc làm trước tiên là phải quy hoạch khảo sát, thiết kế công trình. Đây là nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu được đối với mỗi công trình, nó quyết định sự thành công hay thất bại của mỗi công trình khi đi vào hoạt động. Đối với công tác thuỷ lợi, muốn công trình xây dựng đem lại hiệu quả thì công tác quy hoạch khảo sát thiết kế phải căn cứ vào các điều kiện sau: Điều kiện khí hậu thời tiết. Điều kiện địa hình, địa chất, thổ nhưỡng... Điều kiện xã hội và dân sinh kinh tế. Nguồn nguyên liệu là nước trong thiên nhiên, chịu ảnh hưởng của quy luật thay đổi của nước trong thiên nhiên. Sở dĩ cần phải căn cứ vào các nhân tố trên là do những nhân tố đó hoạt động biến đổi theo những quy luật nhất định của từng vùng khác nhau. Việc phát hiện và đánh giá đúng bản chất của sự vật qua đó nghiên cứu các biện pháp khai thác chế ngự nó thật không đơn giản nhưng qua đây cũng đưa ra được những giải pháp hữu hiệu như xác định địa điểm xây dựng công trình, có nghiên cứu nguồn nguyên liệu nước trong thiên nhiên thì việc chọn lựa địa điểm xây dựng khi công trình đi vào hoạt động mới đem lại hiệu quả nhờ cung cấp đủ nguồn nguyên liệu cho công trình...hay trong việc xác định thời gian tiến hành xây dựng công trình thì cần căn cứ vào điều kiện khí hậu thời tiết của địa điểm định khởi công xây dựng ,nhằm hoàn thiên công trình trước mùa mưa lũ, tránh tình trạng công trình đang xây dựng dở dang vào những tháng mưa lũ tới không những công trình không kịp phát huy tác dụng mà có thể gây thất thoát về nguyên vật liệu, lãng phí vốn. Sau khi điều tra khảo sát tình hình tự nhiên thì tiến hành lập dự án khả thi và thiết kế kỹ thuật công trình: khi lập dự án có thể sử dụng thiết kế định hình để sơ bộ tính giá thành trong các phương án, nhưng cần thiết phải chú ý đến tình hình địa chất, vật liệu tại địa phương để chọn hình thức kết cấu hợp lý. ở Việt Nam, với khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa khô nắng gây hạn hán, mùa mưa lượng mưa rất lớn gây ngập úng khó khăn lớn đến tình hình sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, khi tiến hành xây dựng hệ thống thuỷ lợi cần xem xét kỹ tình hình tự nhiên của từng vùng để từ đó đưa ra xây dựng hệ thống công trình thuỷ lợi đồng bộ (lớn, vừa và nhỏ) để phục vụ sản xuất và đời sống. Điển hình là các công trình miền Trung , việc nghiên cứu điều tra khảo sát thiết kế là rất cần thiết bởi miền Trung là vùng thiên tai thường xuyên xảy ra như hạn hán, gió nóng, bão lũ...như trận bão lịch sử tại các tỉnh miền Trung vừa qua (tháng 11/ 1999) đã gây thiệt hại lớn về người và của của nhân dân khiến đời sống của họ vô cùng khó khăn. Chính vì vậy cần làm tốt công tác này để khi công trình tiến hành xây dựng và đi vào hoạt động đem lại hiệu quả tưới tiêu kịp thời cho sản xuất nông nghiệp, hạn chế và khắc phục thiên tai... - Xây dựng các hồ chứa nước, các đập dâng và kênh lái dòng. Xây dựng các hồ chứa nước có tác dụng rất cơ bản là điều hoà tài nguyên nước và lợi dụng tổng hợp như phát triển ngành nuôi cá, khai thác và sản xuất nguồn năng lượng điện. Các đập dâng và kênh lái dòng tuy có tác dụng ít đối với điều hoà các nguồn nước, nhưng có thể đảm bảo ổn định sản xuất lúa và hoa mầu. - Nạo vét các dòng sông ở hạ lưu và khai thông dòng chảy để giải phóng lòng sông khi mùa nước lũ. - Trồng rừng đầu nguồn vừa có tác dụng điều hoà khí hậu, vừa giảm tốc độ lũ, ngăn chặn hiện tượng xói mòn và rửa trôi làm hỏng đất ở miền núi và làm cạn các cửa sông. Trồng rừng và bảo vệ rừng ngập mặn để bảo vệ bờ biển và phát triển nguồn lợi lâm nghiệp. - Củng cố và xây dựng thêm ở những nơi cần thiết hệ thống đê ._.sông, đê biển. Tác dụng của đê sông là ngăn lũ lụt, bảo vệ mùa màng và đời sống của con người. Đê biển có nhiệm vụ ngăn nước mặn, giữ nước ngọt phục vụ cho nông nghiệp chống gió bão, triều dâng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Có kế hoạch phân lũ, tạo điều kiện sản xuất kinh doanh thích hợp với những vùng phân lũ. 2.2 Tổ chức thi công xây dựng công trình. Khi tiến hành xây dựng công trình phải tiến hành theo trình tự dựa trên bản thiết kế kỹ thuật. Trong quá trình thi công cũng phải ứng phó kịp thời với điều kiện tự nhiên (nếu không thuận lợi cho công tác xây dựng). Ví dụ khi thi công kè bảo vệ bờ biển cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau: thi công cuốn chiếu, thấp trước cao sau, từ ngoài vào trong. Hướng thi công nên chặn ngược chiều di chuyển của bùn cát theo dòng ven bờ để phát huy tác dụng gây bồi lắng ngay trong thời gian thi công. Dựa vào thuỷ triều lên xuống để xác định khối lượng công trình có thể hoàn thành mà phân đoạn cho hợp lý tránh dở dang. Trường hợp thi công phần đất thân kè mà chưa đặt kịp lớp bọc ngược và xếp đá khan, cần phải che chắn phần nối tiếp để khi nước dâng cao lên không gây sụt lở và khi nước rút được dễ dàng. Phần nối tiếp các lớp rải lọc và chèn chặt các lớp đá xếp khan, nếu có chỗ bị lún sụt phải xử lý ngay, không để thủng lớp vải. Qua ví dụ về tiến trình thi công xây dựng kè bảo vệ bờ biển ta có thể rút ra rằng ngoài việc căn cứ dựa vào thiết kế kỹ thuật thì người làm công tác xây dựng còn phải kịp thời xử lý các tình huống bất trắc mà trong thiết kế chưa đưa ra nhằm mục đích chung là hoàn thành công trình đúng tiến độ, công trình đi vào hoạt động đem lại hiệu quả phục vụ tốt sản xuất và đời sống. Từng bước xây dựng hệ thống công trình tưới tiêu hoàn chỉnh đồng bộ, hợp lý và sử dụng tối đa công suất thiết kế có kế hoạch tiết kiệm nước. - Về thiết kế phải đảm bảo hệ thống công trình hoàn chỉnh đồng bộ và hợp lý. Công tác thuỷ lợi chỉ có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao khi có một hệ thống thuỷ lợi hoàn chỉnh đồng bộ và hợp lý. Hệ thống thuỷ lợi hoàn chỉnh, đồng bộ là một mạng lưới bao gồm các công trình đầu mối, các hệ thống kênh mương gắn liền hữu cơ với nhau, có đầy đủ mọi bộ phận và trang thiết bị cần thiết đảm bảo cho việc tưới tiêu thông suốt dễ dàng. Hệ thống công trình hợp lý là hệ thống kết hợp địa phương và toàn cục, kết hợp tưới tiêu với phát điện, nuôi cá, giao thông, cơ giới hoá,... và sát với phương hướng sản xuất của từng vùng, từng địa phương. - Trong công tác thi công cần đảm bảo chất lượng công trình vừa tiết kiệm vật tư và lao động theo đúng thời hạn quy định và phấn đấu rút ngắn thời hạn, sớm đưa công trình vào sử dụng. Trước hết chú ý các hình thức tổ chức lao động theo dây chuyền kết hợp với lao động thủ công với cơ giới, thực hiện hạch toán kinh tế theo định mức chi phí tiến lên hạch toán hiệu quả công trình. 2.3 Tổ chức quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả hệ thống công trình thuỷ lợi. Sau khi công trình hoàn thành thì nhanh chóng nghiệm thu bàn giao công trình để có những kế hoạch quản lý, khai thác sử dụng công trình nhằm đưa công trình vào hoạt động phát huy tác dụng. Từ khi nhận bàn giao quản lý hệ thống thuỷ lợi, công ty quản lý có trách nhiệm bảo quản sử dụng các công trình trong hệ thống một cách tốt nhất, hiệu quả nhất. Có thể nói rằng, tuỳ theo chất lượng, quy mô, điều kiện giai đoạn khai thác...của từng công trình cụ thể mà nhiệm vụ cấp bách, chính yếu không hẳn như nhau, nhưng tựu trung lại quản lý công trình có những nội dung sau: - Quản lý sử dụng công trình: Đây là một khâu đóng vai trò quan trọng có tính căn bản. Để quản lý được công trình người quản lý phải hiểu được: + Đặc điểm, tính năng, tác dụng của công trình. + Điều kiện mức độ sử dụng của công trình. + Các tác nhân gây bất lợi và phá hoại công trình. Ngoài những hướng dẫn ban đầu của người thiết kế, mà chế tạo trong việc sử dụng công trình, người làm công tác quản lý phải: + Lập thao tác, quy trình vận hành công trình, hệ thống công trình trong các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, nhất là trong điều kiện mưa bão. + Thường xuyên kiểm tra mức độ an toàn của hệ thống công trình, nhất là trước mỗi vụ, mỗi đợt hoạt động. Cần kiểm tra toàn bộ hệ thống công trình, nhưng phải đặc biệt chú trọng các công trình thiết yếu như công trình đầu mối, đê điều, đập, công trình tiêu năng, hệ thống điện, các trạm bơm... + Nắm bắt, hạn chế được những tác động bất lợi đối với công trình. Lập công trình, nội quy, quy chế bảo vệ công trình. Cần làm tốt công tác tuyên truyền, động viên, giác ngộ nhân dân để tăng cường sự hiểu biết và tham gia vào công tác bảo vệ công trình. + Thường xuyên đánh giá chất lượng, tình trạng kỹ thuật để từ đó xây dựng các phương án quản lý công trình. - Bảo dưỡng, tu sửa, chống xuống cấp công trình. Trong quá trình hoạt động vận hành, do tác động của các yếu tố cơ học, hoá học của điều kiện tự nhiên môi trường, của con người...tính năng kỹ thuật, độ bền của công trình bị giảm sút. Nếu sau một thời gian nhất định (sau một chu kỳ sản xuất) mà các yếu tố này không được khôi phục, thì công trình bị xuống cấp, khi đó khả năng phục vụ của hệ thống công trình ngày một giảm đi, hiệu ích thu về ngày càng nhỏ, vì vậy kinh phí chi sửa chữa càng cần nhiều hơn hay nói cách khác, việc quản lý hệ thống ngày một đi vào bế tắc. Một hệ thống thuỷ lợi được coi như là bị xuống cấp khi nó có những biểu hiện sau: + Hiệu quả phục vụ sản xuất giảm dần trong khi yêu cầu phục vụ của sản xuất nông nghiệp không hề thay đổi: diện tích phục vụ giảm, chất lượng công tác tưới bị hạ thấp, diện tích tưới thẳng trở thành diện tích tạo nguồn, diện tích đảm bảo tiêu bị thu hẹp, dù rằng lượng mưa yêu cầu tiêu không đổi. + Công trình bị suy giảm về chất lượng, vận hành kém an toàn sự cố bất thường luôn luôn xảy ra. + Chi phí quản lý khai thác gia tăng trong điều kiện thời tiết bình thường. Vậy khi thấy hệ thống thuỷ lợi có những biểu hiện xuống cấp thì cơ quan quản lý phải nhanh chóng vạch kế hoạch cụ thể để bảo trì, tu sửa, nâng cấp công trình, huy động mọi nguồn lực như vốn, con người, máy móc thiết bị để tiến hành sửa chữa nhằm đưa công trình vào hoạt động cho công suất cao đáp ứng được yêu cầu thời vụ. 2.4. Tổ chức tưới nước và tiêu nước khoa học: Chế độ tưới tiêu khoa học là đảm bảo một lượng nước cần thiết nhất định phù hợp với từng loại cây trồng, phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của mỗi cây trồng. Chế độ tưới tiêu khoa học biểu hiện chất lượng của thuỷ lợi hoá. 3-/ Sự cần thiết phải đầu tư vào thuỷ lợi. Trong lý thuyết đầu tư và mô hình số nhân của Keyness đã chứng minh: “Đầu tư sẽ bù đắp những thiếu hụt của cầu tiêu dùng từ đó tăng số lượng việc làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả cận biên của tư bản và kích thích sản xuất tái phát triển”. Đầu tư là chìa khoá trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, một nền kinh tế muốn giữ được tốc độ tăng trưởng nhanh nhất nhất thiết phải đầu tư thoả đáng. Điều đó càng đúng với các quốc gia có xuất phát điểm thấp, phát triển kinh tế từ nông nghiệp, nghèo nàn lạc hậu. Như các phần trước đã nói thuỷ lợi có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, góp phần phát triển sản xuất đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp, trong các ngành sản xuất dịch vụ phục vụ nông nghiệp thì thuỷ lợi được coi là ngành mũi nhọn chiếm vị trí quan trọng nhất. Mặt khác thuỷ lợi còn tác động đến đời sống xã hội như chiến thắng thiên tai, hạn hán, lũ lụt, cung cấp nguồn nước sạch phục vụ cho nhân dân... Với những đóng góp rất lớn của thuỷ lợi vào nền kinh tế thì việc quan tâm và đưa ra nhiều phương hướng phát triển thuỷ lợi là những việc cần làm. Một trong những phương hướng thúc đẩy phát triển thuỷ lợi là cần vốn để đầu tư mới cho thuỷ lợi vì thuỷ lợi gồm 3 giai đoạn: quy hoạch khảo sát thiết kế, tổ chức thi công xây dựng công trình, tổ chức quản lý khai thác và sử dụng công trình. Mỗi giai đoạn muốn thực hiện được đều cần phải có vốn thì mới tiến hành được như cần vốn để mua nguyên vật liệu, khoa học công nghệ, trả lương cho người lao động ...Khi công trình thuỷ lợi đi vào hoạt động đến một giai đoạn nào đó thì nó cần phải tu sửa nâng cấp lúc đó tiếp tục phải có vốn để phục vụ sự hoạt động của công trình. ở những nước kinh tế phát triển cơ sở vật chất thuỷ lợi được đầu tư rất cao, khoảng 10.000 USD/ ha. Vì đầu tư cao như vậy kết quả sản xuất nông nghiệp ở những nước này cho năng suất cao, đời sống của nông dân được nâng cao, diện tích đất được tưới tiêu được mở rộng, nói chung nông nghiệp ở những nước này rất phát triển. Với sự đầu tư cao nên hệ thống kênh mương được bê tông hoá làm việc rất ổn định và chống thấm tốt. Các hệ thống tưới phun mưa hoặc nhỏ giọt người ta dùng ống thép hoặc ống nhựa chôn ngầm dưới đất, vừa kín vừa an toàn thuận lợi cho canh tác, tiết kiệm đất canh tác... Các nước Đông Nam á do sự đầu tư cao vào thuỷ lợi, với mức độ đầu tư bình quân từ 3.000 - 4000USD/ ha tưới, vì thế công trình được trang bị khá đồng bộ từ đầu mối trở xuống nên những nước này đã đáp ứng được nhu cầu bức thiết về lương thực thực phẩm do sức ép của sự gia tăng dân số. Những nước có tốc độ phát triển thuỷ lợi nhanh như Thái Lan, Lào, Bănglađet... Nước ta là nước nông nghiệp, khoảng 80% dân số sống và làm việc ở nông thôn nên sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong nền kinh tế. Chính vì vậy hệ thống công trình thuỷ lợi tương đối phát triển do được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt và đầu tư tương đối cao so với các ngành khác. Chính vì vậy nó đã góp phần làm cho sản xuất nông nghiệp ở nước ta phát triển mạnh mẽ và Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Cụ thể trong năm 1995 Việt Nam đầu tư 1531,85 tỷ đồng vào thuỷ lợi với sự đầu tư này nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng mới và phục hồi nâng cấp một số công trình kết quả sản lượng lương thực là 27,5 triệu tấn. Đến năm 1999 với lượng vốn đầu tư 2962,557 tỷ đồng tăng cao hơn năm 1995 nên kết quả về sản xuất nông nghiệp năm 1999 rất cao đạt31 triệu tấn. Năng suất lúa năm 1995 đạt 36,3 tạ/ ha thì đến năm 1999 đạt 40,8 tạ/ ha. Cùng với việc tăng sản lượng và năng suất cây trồng thì hệ thống đê điều được nâng cấp tu sửa đảm bảo an toàn trong mùa mưa lũ. Với sự tăng vốn đầu tư vào thuỷ lợi cùng kết hợp với nhiều chính sách và biện pháp khác đã góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, đưa nông nghiệp nước ta phát triển ổn định, không những đảm bảo lương thực trong nước mà còn xuất khẩu với khối lượng lớn. Bên cạnh đó nó còn giải quyết được phần nào các vấn đề nước ăn cho nhân dân miền cao, cải thiện đời sống nhân dân. Vậy việc đầu tư vào thuỷ lợi là việc làm cần thiết, không chỉ tạo sự phát triển cho nông nghiệp mà thuỷ lợi góp phần phát triển các ngành kinh tế quốc dân khác và đời sống xã hội. Chương II Thực trạng đầu tư phát triển thuỷ lợi trong những năm qua I-/ Thực trạng ngành thuỷ lợi thời gian qua. Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII và các nghị quyết của Ban chấp hành trung ương Đảng: “ Phát triển nông lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế vùng nông thôn và xây dựng vùng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định kinh tế xã hội đặt trọng tâm vào chương trình lương thực thực phẩm nhằm đảm bảo vững chắc nhu cầu trong nước và xuất khẩu nhất là gạo và sản phẩm chăn nuôi”. Để thực hiện được các mục tiêu trên thì thuỷ lợi đóng vai trò quan trọng, là điểm tựa thúc đẩy sản xuất lương thực phát triển. Thuỷ lợi đã phát huy khai thác có hiệu quả các công trình thuỷ lợi đã có, xây dựng thêm nhiều công trình mới trên các vùng lãnh thổ, bảo vệ an toàn hệ thống đê điều, khắc phục và hạn chế thiên tai phục vụ sản xuất nông nghiệp, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu kế hoạch sản xuất lương thực và đã đạt 31 triệu tấn lương thực năm 1999, vượt hơn 1 triệu tấn so với kế hoạch năm 1999, tăng 1,9 triệu tấn so với năm 1998 Nhờ những thắng lợi trong sản xuất nông nghiệp, bộ mặt nông thôn được cải thiện, môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng cũng phát triển theo, vấn đề lương thực đảm bảo tiêu dùng của người dân được đảm bảo trong thời gian giáp hạt, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Những chương trình lớn về phát triển thuỷ lợi phục vụ phát triển kinh tế xã hội nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng như chương trình khai thác Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu, Bán đảo Cà Mau, Miền trung và Tây Nguyên, nâng cấp các hệ thống thuỷ nông, chống lũ và chống úng ở đồng bằng sông Hồng, cấp nước ăn vùng cao đã đạt được những kết quả khả quan. Một số công trình thuỷ lợi lớn ở miền Trung, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc vừa thi công vừa phát huy hiệu quả sớm tích nước để phục vụ sản xuất như công trình Truồi, An Mã, Tràng Vinh, Ayun Hạ... nhiều công trình đang xây dựng đã phát huy hiệu quả điển hình như các công trình đồng bằng sông Cửu long: kênh Vĩnh Tế giai đoạn 2, công trình kiểm soát lũ Châu Đốc_ Tịnh Biên, Ba Hòn, Vàm Rầy... đã đảm bảo mục tiêu ngăn lũ, thông nước trước mùa lũ. Với những kết quả đó nó sẽ tiếp tục tạo thế để phát triển thuỷ lợi trong năm 2000 và sau năm 2000 Dưới đây là tóm tắt thực trạng thuỷ lợi thông qua hệ thống công trình thuỷ lợi và công tác quản lý sử dụng. 1.1 Thực trạng hệ thống công trình thuỷ lợi Việt Nam là một trong một số nước trong khu vực có hệ thống công trình thuỷ lợi phát triển, đặc biệt là thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đến năm 1999 Việt Nam đã có hệ thống công trình tưới tiêu 3.9 triệu ha, trên 1triệu ha rau màu, ngăn mặn cho 0.9 triệu ha và chống lũ cho gần 3triệu ha. Các công trình thuỷ lợi ở Việt Nam gồm 75 hệ thống thuỷ nông lớn và vừa, 750 hồ chứa có dung tích từ 1 triệu m3 trở lên, 10000 hồ chứa nước nhỏ với tổng dung tích gần 30 tỷ m3, tức gần bằng 18% dòng chảy mùa kiệt của cả nướcvà nếu trừ đồng bằng sông Cửu Long thì dung tích các hồ chiếm tới 36% dòng chảy mùa kiệt của toàn lãnh thổ. Trên 1000 cống tưới và tiêu lớn, 3514 trạm bơm lớn và vừa với tổng công suất bơm tưới là 200 MW, tổng công suất bơm tiêu là 250 MW, có 300.000 máy bơm dầu. Tổng giá trị tài sản cố định phần Nhà nước đầu tư là trên 25.000 tỷ đồng (giá năm 1995). Đó là chưa kể đến công đóng góp của nhân dân trong phần công trình nội đồng ước tính 30 - 40% giá trị xây dựng công trình đầu mối. Hệ thống đê điều đã được hình thành có 7700 km gồm 5700 km đê sông, 2000 km đê biển, 3000 km bờ bao chống lũ đầu vụ ở đồng bằng sông Cửu Long. Trên các tuyến đê có 590 kè và 2900 cống dưới đê. Các hệ thống thuỷ lợi được coi là biện pháp hàng đầu trong nhiều năm phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển nông nghiệp. Tính đến năm 1999 đã có 6 triệu ha gieo trồng lúa được tưới bằng công trình thuỷ lợi, chiếm gần 80%, tăng trên 1,4 triệu ha so với năm 1985. Trong đó: - Tưới: Lúa Đông Xuân: 2,41 triệu ha. Lúa Hè Thu: 1,56 triệu ha. Lúa Mùa: 1,73 triệu ha. Hoa Màu: 0,3 triệu ha. - Tiêu: 1 triệu ha. Tuy nhiên do đầu tư không đồng bộ, Nhà nước chỉ đầu tư công trình đầu mối, kênh trục, một số công trình được Nhà nước đầu tư tới kênh cấp 2, kênh cấp 3 và công trình nội đồng do nhân dân tự làm. Do đó nhiều công trình sau khi hoàn thành công trình đầu mối phải sau 5 - 7 năm thậm chí có công trình sau 10 năm mới phát huy hết khả năng tưới hoặc tiêu thiết kế. Nhiều công trình diện tích tưới hoặc tiêu chỉ đạt 50 - 60% (đối với hồ chứa) hoặc 70 - 90% (đối với cống, trạm bơm) diện tích thiết kế. Thực hiện nghị quyết 22 của Bộ chính trị, nghị quyết 72 HĐBT, quyết định 69 HĐBT và chỉ thị 525 TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngành thuỷ lợi đã xây dựng chương trình cấp nước sinh hoạt và sản xuất cho đồng bào vùng cao đến năm 2000. Bước đầu đã xây dựng được một số công trình thuỷ lợi giải quyết nước ăn cho trên 30 vạn đồng bào các dân tộc miền núi phía bắc và như dự kiến thì đến cuối năm nay chương trình này sẽ kết thúc. Trong điều kiện rất khó khăn về ngân sách Nhà nước đã dành cho phát triển thuỷ lợi trong kế hoạch 1995 - 1999 là 9872,957 tỷ đồng. Trong đó 55% do Bộ quản lý, 45% do các tỉnh quản lý. Riêng các công trình lớn mà Bộ đầu tư trong năm năm mở ra 241 công trình đã hoàn thành 85 với năng lực tưới thêm 451.000 ha và trên 180.000 ha. Các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ được phát triển đều khắp các vùng, góp phần quan trọng nâng độ đồng đều phát triển kinh tế giữa các vùng đồng thời cũng thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Các công trình trọng điểm đưa lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển kinh tế với mức tăng trưởng 2,5 - 3 lần sau mỗi thập kỷ, với mức bảo đảm lương thực 500 kg/ người/ năm, thực hiện đổi mới cơ cấu kinh tế trong nông thôn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đảm bảo mức tăng trưởng GDP trong nông nghiệp 4 - 5% thì nhiệm vụ ngành thuỷ lợi còn khá nặng nề. Sau đây là thực trạng thuỷ lợi từng vùng cụ thể như sau: 1.1.1 Tại vùng đồng bằng và trung du sông Hồng. Là trọng điểm lương thực miền Bắc, được thuỷ lợi hoá sớm và cao hơn cả. Riêng vùng này có 33 hệ thống thuỷ nông, trong đó 16 hệ thống tưới tiêu lớn. Năng lực thiết kế của các hệ thống thuỷ nông đảm bảo tưới cho 860.000 ha, tiêu 700.000 ha. Do các hệ thống tưới tiêu trước đây thiết kế với hệ số tiêu thấp (2,5 - 3,0 l/ s/ ha) và năng lực tiêu của các cống tiêu tự chảy bị suy giảm nên diện tích úng gặp năm mưa lớn diện tích úng còn tới 240.000 ha. Trong mấy năm qua đã bổ sung thêm các công trình tiêu để đảm bảo tiêu với hệ số 3,5 - 4,5 l/ s/ ha (thậm chí có vùng phải tăng hệ số tiêu lên tới 5,5 - 6,0 l/ s/ ha) như các công trình cống Lân 2, trạm bơm Vân Đình, Quế, Lạc Tràng, Minh Lân, Gia Viễn, Triều Dương đã đưa năng lực tưới tiêu trên 800.000 ha, giảm diện tích còn bị úng xuống 60.000 ha. Hiện nay ở đồng bằng sông Hồng tiêu bằng bơm điện chiếm trên 50% diện tích tiêu úng. Do lượng mưa ngày càng tăng, diện tích đô thị hoá và hạ tầng cơ sở cũng tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là các khu đô thị như Hà Nội và vùng phụ cận, nên tiêu nước còn là nhiệm vụ nặng nề. Vấn đề lũ sông Hồng vẫn còn là hiểm hoạ thường xuyên đe doạ. Nhiệm vụ hộ đê, củng cố, bồi trúc, nâng cao trình đê ra khơi thông dòng chảy, đặc biệt là hạ lưu sông Thái Bình cần được đầu tư thoả đáng. Đồng thời cần sớm xúc tiến xây dựng công trình trên sông Lô Gâm để hạ mức chống lũ ở Hà Nội xuống thấp hơn nữa. Các công trình tưới ở châu thổ sông Hồng được thiết kế với mức bảo đảm 75%. Sau khi có hồ Hoà Bình và hồ Thác Bà điều tiết có những diễn biến thuận lợi cho các công trình lấy nước tự chảy, do đó mức bảo đảm tưới cũng có thể cũng tăng thêm, vì vậy các hệ thống tưới tiêu cũng phải thích nghi với các diễn biến mới. Phù Sa sông Hồng có lượng N, P và K đáng kể nên việc lấy sa để thâm canh là yêu cầu mới cần được nghiên cứu thực hiện. 1.1.2 Đồng bằng sông Cửu Long. Công tác thuỷ lợi ở đồng bằng Sông Cửu Long đã làm bật dậy tiềm năng của đồng bằng sông Cửu Long và tiềm năng này còn tiếp tục được mở rộng và phát huy nếu các công trình thuỷ lợi được tiếp tục đầu tư ngày càng cao. Với 3 chương trình trọng điểm Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và Tây sông Hậu đã biến vùng này từ một vụ lúa mùa nổi năng suất thấp nhất thành hai vụ Đông xuân và Hè thu năng suất cao. Thành công của công tác thuỷ lợi ở đồng bằng sông Cửu Long là đã định hình được hệ thống kênh trục tạo nguồn nước ngọt, tiêu chua, xả phèn với 6700 km kênh chính, 3000 km kênh nội đồng, 3000 km đê ngăn mặn và hàng chục vạn máy bơm dầu của dân. Đó chính là cơ sở hạ tầng quan trọng để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng đa dạng hoá cây trồng....đóng góp một cách có hiệu quả vào chương trình nước sạch và vệ sinh nông thôn. Giải pháp chống lũ đồng bằng sông Cửu long mới được phê duyệt đầu năm nay, chưa đi vào thực hiện cho nên đây là một hạn chế lớn đối với kế hoạch phát triển đồng bằng sông Cửu Long. Khả năng tăng vụ ở vùng lũ ngập sâu là khó thực hiện. Lũ không những hạn chế khả năng phát triển sản xuất mà còn gây khó khăn cho tổ chức đời sống văn hoá xã hội ở các vùng ngập sâu. Ngoài lũ vấn đề sạt lở các vùng dân cư dọc sông cũng được coi như thiên tai có thể gây tổn thất lớn về người và của gây tâm lý bất ổn định cho các vùng dân cư dọc sông. Những thành tích của thuỷ lợi ở đồng bằng sông Cửu Long mới chỉ là bước đầu, bước thử nghiệm giữa con người và thiên nhiên có thể có những diễn biến phức tạp cần được theo dõi và tiếp tục giải quyết. Đặc biệt là những tác động từ thượng lưu đổ xuống chưa được xem xét đầy đủ. 1.1.3 Các tỉnh miền Trung. Miền Trung là vùng xảy ra thiên tai thường xuyên (hạn hán, gió nóng, bão lũ...) Đảng và Nhà nước tập trung đầu tư với tỷ lệ cao, có những công trình có quy mô lớn. Đến nay năng lực thiết kế của các tỉnh là 665049 ha đã huy động được 445.100 ha. Sông suối miền Trung ngắn dốc trực tiếp đổ ra biển nên mùa lũ, lũ ác liệt lên nhanh, mùa kiệt thì khô hạn và kéo dài 8 tháng, nguồn nước mùa kiệt không đủ cấp để làm hai vụ Đông xuân và Hè thu. Vì vậy nhiều hồ chứa và đập dâng đã được xây dựng cùng với hệ thống kênh mương phục vụ nông nghiệp. Đập Bái Thượng, hồ sông Mực, hồ Yên Mỹ (Thanh Hoá), Đô Lương, vực Mẫu, Diễn Thành (Nghệ An), Kẻ Gỗ, Nghi Xuân, Linh Cảm (Hà Tĩnh), Mỹ Trung, Cẩm Ly, Vực Tròn ,vệ Vừng (Quảng Bình) ...Hệ thống bơm điện đồng bằng sông Thu Bồn, An Trạch, hồ Phú Ninh, khe Tân (Quảng Nam - Đà Nẵng), Liệt Sơn, Thạch Nhan (Quảng Ngãi), Tân An, Đập Đá, hồ Núi Một (Bình Định) Đồng Can (Phú Yên), Đá Bàn (Khánh Hoà), sông Ông, Nha Trinh, Lân Cấm (Ninh Thuận), sông Quao (Bình Thuận). Như vậy hầu như ở hệ thống sông nào ở miền Trung cũng có hệ thống công trình thuỷ lợi hoặc là hồ chứa, hoặc là đập dâng hoặc hệ thống trạm bơm. Nước cho mùa kiệt là yêu cầu bức thiết cho phát triển nông nghiệp miền Trung nhất là từ sau khi chuyển phần quan trọng diện tích lúa Mùa sang lúa Hè thu. Công tác thuỷ lợi ở miền Trung có ý nghĩa không chỉ cho sản xuất nông nghiệp mà còn tạo sự chuyển biến toàn diện nhất là cải thiện điều kiện sống, cấp nước sinh hoạt, cải tạo môi trường. Tuy nhiên do thiếu vị trí xây dựng các hồ để trữ nước theo mùa kiệt, nhiều con sông dòng chảy cơ bản vào mùa kiệt không còn làm cho vùng cửa sông bị suy thoái, mặn xâm nhập sâu vào nội địa làm suy thoái hệ sinh thái vùng cửa sông. ở các tỉnh Quảng Bình trở vào chưa có hệ thống đê, giải pháp chính là tránh lũ và thích nghi với lũ ở mức độ khác nhau. Nhưng đối với hạ tầng cơ sở, nhất là các tuyến giao thông sắt, bộ Bắc Nam phải đầu tư nâng cấp các công trình thoát lũ mới có thể giảm được tổn thất hàng năm do tắc nghẽn hoặc bị lũ làm hư hại. Điển hình là trận lũ lịch sử cuối năm 1999 vừa qua đã làm hư hại nặng nề một đoạn đường dài thuộc tuyến đường Bắc Nam gây tắc nghẽn về giao thông. Vậy việc đầu tư cho thuỷ lợi và phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai ở miền Trung còn đòi hỏi nhiều cố gắng và tập trung hơn nữa. 1.1.4 Miền núi phía Bắc. Miền núi phía Bắc là vùng có ý nghĩa chiến lược về kinh tế quốc phòng và an ninh, song cũng là vùng nghèo nhất và khó khăn nhất. Trong nhiều năm đầu tư mới đảm bảo tưới được 135000 ha Đông xuân và 240000 ha vụ Mùa. Những hệ thống thuỷ lợi lớn như hồ Núi Cốc (Bắc Thái) tưới 9000 ha, hồ Pa Khoang (Lai Châu) tưới 3000 ha, hệ thống Chờ Lồng (Sơn La) tưới 400 ha, hồ Bảo Linh (Bắc Thái) tưới 1000 ha, Trúc Bãi Sơn ( Quảng Ninh) 2200 ha, hồ Yên Lập (Quảng Ninh) tưới 2000 ha, các hồ Cấm Sơn (Hà Bắc). Hàng loạt các hồ chứa nước nhỏ đang được xây dựng như Như Xuyên (Tuyên Quang), Nậm Công (Sơn La) Năng Phai (Yên Bái) Đầm Bài (Hoà Bình), Hồng Đạc (Cao Bằng), Cao Lan (Lạng Sơn). Chương trình nước ăn vùng cao có một bước tích cực, đã giải quyết được một số vùng như Lục Khu (Cao Bằng), một số huyện ở Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu song mới chỉ giải quyết được trên 30 vạn người trên số 1,2 triệu người. Đặc điểm của thuỷ lợi miền núi là rất khó khăn, công trình nhỏ, phân tán, tạm bợ nên xuống cấp nhanh, sau mỗi mùa lũ bị hư hỏng nặng nề. Do rừng bị phá nhiều nên đã tạo ra lũ quét gây cạn kiệt, xói mòn, gây tổn thất lớn về người và của ở một số vùng. Hiện chưa có giải pháp hữu hiệu để khắc phục. 1.1.5 Tây Nguyên. Tây Nguyên có tiềm năng phát triển nông nghiệp đa dạng, có tập đoàn cây công nghiệp tập trung giá trị cao. Công trình thuỷ lợi ở đây chủ yếu là hồ chứa nước vừa và nhỏ. Đến nay đã có 400 hồ chứa nước vừa và nhỏ đủ tưới cho 30.000 ha lúa Đông xuân, 50.000 ha lúa Mùa, 20.000 ha cây công nghiệp. Do diện tích cà phê mấy năm nay tăng lên nhanh chóng, hiện nay toàn Tây Nguyên có hơn 150.000 ha cà phê nên việc sử dụng nước ngầm để tưới cho cây cà phê phát triển một cách tự phát dẫn đến hiệu quả ở một số vùng dân cư, mực nước ngầm suy giảm, suy giảm cả dòng chảy kiệt, làm cho thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Muốn phát triển và thâm canh cà phê phải có nước, phải làm thuỷ lợi. Nhiều công trình hồ chứa đang được gấp rút hoàn thành phục vụ phát triển Tây Nguyên như Yaun Ha (Gia Lai) 13500 ha, Đa Tể (Lâm Đồng) 2300 ha, Easup (Đắc Lăc) 2000 ha, Đắc Cấm, Đắc Hmiêng... Tiềm năng đất của Tây Nguyên rất lớn, đặc điểm khí hậu thuận lợi hơn nhiều vùng khác, tài nguyên nước không ít, mùa hạn ngắn nhưng khắc nghiệt, khô hạn do địa hình cao và chia cắt, mực nước ngầm thấp, vùng phát triển cây cà phê chủ yếu nằm ở đầu nguồn, các sông suối nhỏ nên mùa khô dễ thiếu nước, các loại cây trồng có nhu cầu nước cao đều tập trung vào vụ Đông xuân, tổn thất do thấm và bốc hơi cao. Vì vậy xây dựng các hồ chứa nhỏ và vừa để trữ nước cho mùa khô là cần thiết. 1.1.6 Đông Nam Bộ. Đông Nam Bộ hiện nay cũng như trong tương lai sẽ là vùng kinh tế phát triển nhất nước, GDP bình quân đầu người cao nhất và tích luỹ nội bộ cũng như tái đầu tư cũng sẽ cao nhất nước. Lưu vực Đồng Nai cũng như các chi lưu có vị trí đặc biệt quan trọng trong cấp nước cho nông nghiệp, công nghiệp, sản xuất năng lượng, bảo vệ môi trường sinh thái cho một vùng đông dân. Kinh tế công nông nghiệp và dịch vụ phát triển nhất nước. Hồ Dầu Tiếng, Trị An và Thác Mơ là những hồ chứa nước lớn điều tiết nước mùa khô cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt là tam giác công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa, Vũng Tàu. Tới nay đã tưới được 215.000 ha lúa, 62000 ha cây công nghiệp và màu. Hồ Dầu Tiếng đang tiếp tục phát huy hiệu quả vùng mía đường Tây Ninh. Quy hoạch tổng thể sông Đồng Nai đã được nghiên cứu, hàng loạt hồ chứa thuỷ điện được xây dựng vừa phát điện vừa điều tiết dòng chảy mùa kiệt, vừa chuyển nước cho các vùng phụ cận phía Đông (Ninh Thuận và Bình Thuận) và phía Tây (Long An, Sài Gòn). Vấn đề chất lượng nước đối với sông Đồng Nai sẽ là vấn đề lớn nhất là khi công nghiệp và đô thị phát triển. Đây cũng là tiềm năng đất trồng cây rất lớn, vì vậy quy hoạch nông lâm, thuỷ sản và công nghiệp ở đây phải cân đối và xem xét kỹ. Nước cho công nghiệp, đô thị và bảo vệ môi trường sinh thái phải là vấn đề số 1. Nói tóm lại cả 6 vùng công tác thuỷ lợi đã được triển khai đúng hướng phục vụ kịp thời cho sản xuất nông nghiệp và là biện pháp hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp, góp phần xứng đáng vào việc thực hiện mục tiêu sản xuất lương thực, góp phần giải quyết cấp nước sinh hoạt đô thị, công nghiệp và nông thôn, phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai, phục vụ kịp thời các chương trình lớn của đất nước. 1.2 Thực trạng quản lý sử dụng các công trình thuỷ lợi. Hệ thống công trình thuỷ lợi đi vào hoạt động muốn đem lại hiệu quả cao thì nhất thiết phải cần có cơ quan quản lý sử dụng các công trình với công tác quản lý sử dụng công trình thuỷ lợi ở nước ta ngày được nâng cao nên đã góp phần lớn thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp như hiện nay. Tuy nhiên công tác quản lý công trình còn nhiều hạn chế, công trình xuống cấp nhanh, làm việc kém an toàn, kém hiệu quả. Trong công tác quản lý khai thác công trình còn nặng về khai thác chưa chú trọng đúng mức đến việc sửa chữa nâng cấp thường xuyên, công tác quản lý theo các quy trình quy phạm kỹ thuật chưa được coi trọng đúng mức. Công tác bảo vệ công trình cũng còn nhiều thiếu sót, tình hình xâm hại các công trình thuỷ lợi còn xảy ra nhưng chưa có sự phối chặt chẽ với chính quyền địa phương quan tâm xử lý. Việc quản lý phân phối nước còn yếu kém, tình hình lãng phí nước xảy ra nghiêm trọng làm cho năng lực của công trình giảm (hiện nay chỉ đạt 60% công suất so với nhiệm vụ thiết kế). Điều này càng làm tăng chi phí quản lý vận hành của các khu tưới. Quản lý kinh tế: Nguồn thu chủ yếu của các Công ty thuỷ nông là thuỷ lợi phí, tuy nhiên thực tế thu được chỉ đạt gần 30% yêu cầu. Vì vậy tình hình tài chính của các Công ty này rất khó khăn. Cách chi hiện nay ở các Công ty không theo tiêu chuẩn định mức mà theo kiểu “gọt chân theo giầy”, số tiền từ các nguồn thu chỉ đủ chi các chi phí bắt buộc như: Tiền lương, tiền điện, hư hỏng tại chỗ, chi quản lý, còn các khoản chi đại tu, sửa chữa thường xuyên, chống xuống cấp khó thực hiện được. Vì thế công trình hoạt động càng kém hiệu quả. Đời sống của cán bộ công nhân viên quản lý các công trình ngày càng gặp khó khăn. Hiện nay chúng ta có 146 Công ty quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, 166 trạm quản lý và 491 cụm quản lý với tổng số 16000 người. Theo nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng, hiện nay các công ty được tổ chức quản lý theo hệ thống thuỷ nông, có hệ thống được tổ chức theo đơn vị, huyện, tỉnh. Nhìn chung do mới trải qua một thời kỳ dài bao cấp nên khi chuyển sang cơ chế mới, các Công ty hoạt động kém năng động và sáng tạo. II-/ Tình hình đầu tư phát triển thuỷ lợi những năm qua. 1-/ Tình hình đầu tư vào thuỷ lợi. Lịch sử hình thành và phát triển ngành thuỷ lợi nước ta gắn liền với lịch sử dựng nước và phát triển của dân tộc đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, tạo cơ sở bảo đảm ổn định và phát triển nền nông nghiệp trên phạm vi cả nước. Ngày miền Nam mới giải phóng ngành thuỷ lợi đứng trước những thử thách rất lớn. Các hệ thống thuỷ lợi quan trọng ở miền Bắc đều bị đánh phá, phải khôi phục để đảm bảo sản xuất của vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh khu bốn cũ, với diện tích tưới gần 500.000 ha, tiêu úng trên 300.000 ha. ở miền Nam đồng ruộng bị tàn phá, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên, nhu cầu bức bách của hàng triệu nông dân trở về với ruộng đồng đòi hỏi công tác thuỷ lợi phải tìm giải pháp kịp thời khôi phục sản xuất, vừa phải định ra các bước phát triển kinh tế đất nước. Với chủ trương “Thuỷ lợi là ._.19,98 31,6 7,40 7,18 0,24 97,0 21 Kon Tum 5 11,62 1,28 10,34 11,0 2,70 1,52 1,58 41,5 22 Gia Lai 8 6,34 2,84 3,5 44,8 2,02 2,76 - 0,74 136,6 23 Đắc Lắc 6 11,29 5,15 6,14 45,6 2,68 3,30 - 0,62 123,1 Đông Nam Bộ 7 31,22 13,78 17,44 44,1 12,47 8,99 3,48 72,0 24 Lâm Đồng 7 25 Đồng Nai 7 14,78 2,08 12,69 14,1 3,03 1,37 1,66 45,2 26 Sông Bé 7 27 Tây Ninh 7 11,92 2,37 9,05 20,8 5,03 1,81 3,22 35,9 28 TP Hồ Chí Minh 7 29 Bà Rịa - Vũng Tàu 7 26,77 9,33 17,44 34,8 9,29 5,81 3,48 62,5 ĐB Sông Cửu Long 6 460,13 33,59 426,54 7,3 83,95 29,14 54,81 34,70 30 Vùng ngập sâu 6 211,6 9,76 201,80 4,6 38,7 8,92 29,80 23,0 31 Vùng ngập nông 6 235,8 14,4 221,40 6,1 43,0 12,5 30,50 29,0 32 Vùng mặn 6 12,52 8,99 3,63 71,8 2,22 7,35 - 5,13 332,0 33 Vùng Bảy núi 6 0,21 0,44 0,23 209,5 0,03 0,37 - 0,34 123,3 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - thực trạng và quy hoạch phát triển thuỷ lợi. Ghi chú: 1. Nguồn ở cột 4, 8 bao gồm dòng chảy mặt mức bảo đảm 75%, dòng chảy ngầm lấy bằng 1/3 trữ lượng động tự nhiên và đối với mùa kiệt thêm vào cột 8 dung tích của các hồ chứa. 2. Cột 5, 9 là nhu cầu dùng nước năm và mùa kiệt gồm nhu cầu trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ. Nhu cầu nước mùa kiệt tính tương ứng với số tháng mùa kiệt ở từng vùng. 2-/ Phương hướng đầu tư phát triển thuỷ lợi 2.1 Phương hướng đầu tư phát triển thuỷ lợi năm 2000 Năm 2000 vốn được bố trí đầu tư vào thuỷ lợi là 1444 tỷ đồng (vốn trong nước 784 tỷ đồng, vốn ngoài nước 660 tỷ). Với lượng vốn có hạn thì việc đầu tư phải đảm bảo an toàn hệ thống đê điều trong mùa lũ bão, các công trình phục hồi nâng cấp đảm bảo phát huy năng lực thiết kế, thúc đẩy mục tiêu các công trình thuỷ lợi lớn ở miền Trung hoàn thành trong năm, các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ ở miền núi, Tây Nguyên thực hiện mục tiêu định canh định cư, xoá đói giảm nghèo... (1) XDCB đê điều, phòng chống lụt bão: bố trí 360 tỷ đồng (đê thường xuyên 150 tỷ, đê Hà Nội 100 tỷ và PAM 5325: 110 tỷ) bằng 65% so với năm 1999. Nâng mức đầu tư nhằm nâng cao chất lượng và mức an toàn của đê theo hướng tu bổ thường xuyên và duy trì bảo dưỡng, nhằm chủ động bảo vệ có hiệu quả các công trình, nhất là đối với các khu vực có ý nghĩa an toàn quốc gia. Kiểm soát toàn diện đối với hệ thống đê sông Hồng, sông Thái Bình, có kế hoạch ngay cho việc duy tu, bồi trúc, tôn cao và xử lý ẩn hoạ những tuyến đê xung yếu. Kiểm soát đầu mối và các tuyến phân lũ, vùng ngập lũ, chậm lũ, sớm có kế hoạch cảnh báo phòng trách, di dời để chủ động khi có sự cố. Ưu tiên vốn đầu tư để chỉnh tu những nơi đang sạt lở nghiêm trọng, những vùng, tuyến xung yếu với lũ chính vụ, giãn các mục tiêu khác do còn thiếu vốn quản lý chặt chẽ mục tiêu đầu tư. Đầu tư tăng cường đê Hà Nội từ nguồn vốn vay ADB, thúc đẩy tiến độ dự án PAM 5325 đê biển miền Bắc, đảm bảo mục tiêu hoàn thành dự án năm 2000. Cùng với nguồn vốn ngân sách đầu tư, cần phải huy động nguồn lực của địa phương, nhân dân cho đê điều phòng chống lụt bão, tăng khả năng đối phó với thiên tai như bố trí khu dân cư tập trung, xây dựng nhà ở kiên cố ở trong vùng lụt bão ở miền Trung và chung sống với lũ ở đồng bằng Sông Cửu Long. Đầu tư tăng cường phương tiện cứu hộ cứu nạn khẩn cấp thông tin kịp thời các dự báo, các phương án phòng tránh để dân bình tĩnh, chủ động đối phó. (2) Ưu tiên vốn cho các công trình hoàn thành năm 2000 phát huy hiệu quả trong năm: các công trình vượt lũ (các hồ chứa nước vừa và lớn), các công trình có mốc tiến độ và điểm dừng kỹ thuật chặt chẽ như các công trình thoát lũ vùng ngập lũ, các cống ngăn mặn vùng đồng bằng sông Cửu Long các công trình chống hạn, cấp nước, định canh định cư vùng miền núi, miền Trung đang rất khó khăn, phục vụ xoá đói giảm nghèo. Xem xét khả năng thực hiện mục tiêu tiến độ các công trình vượt lũ, sẽ chưa tiến hành vượt lũ các công trình khi chưa đảm bảo đầy đủ các điều kiện về vốn, về nguồn lực. Đẩy mạnh đầu tư nhằm thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương. Đó là hướng quan trọng để thực hiện kích cầu đầu tư trong khu vực nông thôn và đáp ứng yêu cầu phát triển của sản xuất nông nghiệp. Vấn đề này vừa được Chính phủ ban hành một số chính sách cơ chế tài chính thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương. Theo đó nguồn vốn đầu tư được quy định cụ thể như sau: - Đối với kênh mương loại 1: do ngân sách Trung ương đầu tư. - Kênh mương loại 2: do ngân sách địa phương đầu tư. - Kênh mương loại 3: do nhân dân vùng hưởng lợi đóng góp. (3) Ưu tiên đầu tư cho đại tu nâng cấp: khắc phục hậu quả lũ lụt phát huy cao năng lực công trình đã có, hầu hết nội dung đầu tư của các dự án vay ADB1 (trừ đê Hà Nội), ADB2 (cho đồng bằng sông Hồng), WB (trừ hệ thống Thạch Nham và Hóc Môn - Bắc Bình Chánh) đều là đầu tư nâng cấp, mở rộng, nâng mức đảm bảo, nâng cao chất lượng tưới tiêu. Các công trình vùng đồng bằng sông Cửu Long thực chất cũng là nạo vét, mở rộng các kênh trục đã có và thi công các công trình ngăn mặn đồng độ khép kín nhiệm vụ công trình. Kế hoạch bố trí đại tu nâng cấp gồm 125 công trình, với số vốn là 650 tỷ đồng, chiếm 60% trong tổng số đầu tư thuỷ nông. (4) Thúc đẩy tiến độ thực hiện dự án có vốn đầu tư nước ngoài tranh thủ tối đa nguồn vốn vay, bổ sung nguồn cân đối: Dự án ADB1 khôi phục nâng cấp hệ thống thuỷ lợi Bắc Nghệ An, Sông Chu, đê Hà Nội. Dự án ADB2 khôi phục, nâng cấp công trình tiêu úng, công trình tưới vùng đồng bằng sông Hồng và Trung Du. Tập trung hoàn thành trước 30/12/2000 theo cam kết, cần chỉ đạo tiến độ và kiểm tra kết quả thực hiện các phần việc còn lại. tránh để mất vốn. Dự án WB cho khôi phục nâng cấp một số hệ thống thuỷ nông vùng miền Trung và thành phố Hồ Chí Minh, sẽ kết thúc vào năm 2001 khối lượng công việc còn rất lớn, cần tập trung ngay từ năm 2000 mới đảm bảo thời gian cam kết. Dự án Bắc Vàm Nao (An Giang) viện trợ của úc, dự án vay vốn của WB (đồng bằng sông Cửu Long), dự án Phước Hoà (Bình Phước) vay vốn ADB, dự án Tân Chi (Bắc Ninh) viện trợ của Nhật... tiếp tục thúc đẩy, đảm bảo mục tiêu tiến độ giải ngân. Tiếp tục tìm nguồn vốn ODA cho dự án thuỷ lợi đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2 (ADB3) và các dự án thuỷ lợi lớn ở miền Trung như Cửa Đạt, Tả Trạch, Nước Trong, Đình Bình... (5) Về công trình phục vụ chống hạn: Tập trung cao thúc đẩy tiến độ thi công các hồ chứa và đập dâng vừa và lớn ở miền Trung và Tây Nguyên, đầu tư phục hồi và nâng cấp các hệ thống thuỷ nông, đồng bằng sông Hồng, miền núi và các công trình cắt lũ, tạo nguồn tưới là những công trình giữ vai trò quan trọng trong những năm hạn lớn. (6) Phân bổ vốn đầu tư thuỷ lợi năm 2000 Với tổng vốn đầu tư 1444 tỷ đồng: phân bổ đầu tư đê điều 360 tỷ đồng (25%), đầu tư thuỷ nông 1084 tỷ đồng (75%). a, Phân theo mục tiêu: 187 công trình. Công trình hoàn thành năm 2000 vốn 461 tỷ đồng, gồm 76 công trình. Công trình chuyển tiếp sau năm 2000: 518 tỷ đồng, gồm 79 công trình. Công trình khởi công mới năm 2000: 206 tỷ đồng, gồm 32 công trình. b, Phân theo vùng. Bố trí đầu tư thủy nông các vùng như sau: 187 công trình thuỷ lợi. Đồng bằng trung du Bắc Bộ: vốn bố trí 328 tỷ đồng bằng 27,7% với 50 công trình. Tập trung cho công tác phục hồi, nâng cấp các công trình đã có, mức cân đối vốn trong nước chưa đáp ứng đủ vốn đối ứng hoàn thành dự án theo tiến độ cam kết với ADB (dự án ADB2 kết thúc năm 2000). Miền núi phía Bắc: vốn bố trí 126 tỷ đồng 11% với 30 công trình. Tập trung xây dựng các công trình và cụm công trình thuỷ lợi nhỏ phục vụ nước sản xuất, sinh hoạt, nâng cấp các công trình đã có đảm bảo năng lực thiết kế, mức vốn này chỉ đáp ứng 50% yêu cầu theo quyết định 960 TTg của Thủ tướng Chính phủ. Hoàn thành các công trình Lùng Tán, 12 xã miền núi Hạ Hoà, hồ Khe Chè, Trúc Bài Sơn, Bum Nứa, Phú Cường, Nậm Rốm, trạm bơm Lò Lợn... khởi công mới Na Hang (Tuyên Quang), Láng Chương (Phú Thọ)... Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung: vốn bố trí 351 tỷ đồng bằng 29%, 53 công trình, xây dựng các hồ chứa nước, phục vụ sản xuất, chống hạn. Đây là vùng khó khăn chịu nhiều thiên tai khắc nghiệt, xuất đầu tư gấp 4 - 5 lần so với đầu tư vùng đồng bằng Sông Cửu Long và các công trình đều có mức đầu tư lớn, từ 100 đến 300 tỷ đồng, mức đầu tư này chưa đạt yêu cầu đầu tư theo quyết định 668 TTg của Thủ tướng Chính phủ. Hoàn thành các hệ thống công trình Bái Thượng, Đô Lương, hồ Truồi, hồ An Mã, Việt An, hồ Cam Ranh... khởi công mới: hồ Lòng Sông, Nam Trạch Hãn, An Chúa, đập Duy Thành, hệ thống Rào Nan, đập Cửa Lác, hồ Hoà Mỹ... Tích cực chuẩn bị kỹ thuật một số công trình lớn như Cửa Đạt (Thanh Hoá), Tả Trạch (Thừa Thiên Huế), Nước Trong (Quảng Ngãi)... để khởi công vào đầu kỳ kế hoạch 2001 - 2005. Tây Nguyên: vốn bố trí 51 tỷ đồng bằng 5%, với 8 công trình. Mức đầu tư này chỉ đạt 25% yêu cầu mức đầu tư bình quân năm cho thuỷ lợi Tây Nguyên, theo quyết định 625 TTg. Hiện tại một số dự án lớn như hồ Ea Sup Thượng (đã được duyệt khả thi), hồ Krông Búc hạ đợt II (đã chuẩn bị đầu tư), đang tiếp tục tìm nguồn tài trợ, trước mắt tập trung cho công trình dự án Hà Ra..., Ia Lau, A Yun Hạ phù hợp với kế hoạch chuyển dân. Khởi công mới Ia Soup thượng, ĐakLô. Ưu tiên chuẩn bị đầu tư cho một số dự án tưới cây công nghiệp dài ngày, đặc biệt là cà phê, chè phát huy lợi thế so sánh của nước ta, thực hiện chuyển dịch cơ cấu đầu tư thuỷ lợi. Vùng miền Đông Nam Bộ: vốn bố trí 70 tỷ đồng bằng 7%, với 9 công trình, xây dựng các công trình phục vụ nước cho cây công nghiệp, dân sinh... tập trung hoàn thành hồ Côn Đảo thúc đẩy tiến độ dự án Hóc Môn - Bắc Bình Chánh (vay WB), hồ Lộc Quang, hồ Đá Đen, là công trình ngoài nhiệm vụ tưới, còn nhiệm vụ quan trọng là cấp nước công nghiệp và dân sinh. Vùng đồng bằng sông Cửu Long: vốn bố trí 258 tỷ đồng bằng 21%, với 37 công trình thực hiện quyết định 99 TTg và quyết định 159 TTg phải tập trung đầu tư hoàn thành các công trình thoát lũ, vùng ngập lũ, công trình ngăn mặn, giữ ngọt bằng nguồn bổ sung cân đối của dự án (WB2) khởi công một số dự án Ba Lai, Cầu Sập, Cái Nhum, Biện Nhị... Tiếp tục thực hiện dự án đê biển, đê ngăn mặn, từ nguồn vốn ngân sách tỉnh quản lý và nguồn vốn để lại trên địa bàn đảm bảo hoàn thành dự án vào năm 2002. Cần quan tâm vấn đề thiếu nước ngọt trong mùa khô do việc khai thác quá mức của các nước thượng nguồn sông Mê Kông. 2.2 Phương hướng đầu tư phát triển thuỷ lợi từ năm 2001 - 2010. Để đạt được mục tiêu phát triển thuỷ lợi từ nay đến năm 2010 thì chúng ta cần phải đầu tư lượng vốn tương đối lớn. Cần có kế hoạch đầu tư một số công trình như Phước Hoà (Sông Bé) đảm bảo tưới 33000 ha, hồ sông Ray tưới 10000 ha... Chi tiết về vốn đầu tư những công trình dự kiến khởi công xem biểu 14. Biểu 14 - Dự kiến công trình khởi công 2001 - 2010 TT Công trình (CT) Địa điểm Năng lực Vốn đầu tư Tổng Ngân sách Nhà nước Cộng Trong nước Ngoài nước 1 2 3 4 5 6 7 8 Tổng hợp 46950 46950 33550 13400 I Công trình thuỷ điện lợi dụng tổng hợp 1 CT Đại Thị Sông Gâm Nlm: 250 MW 4000 4000 3000 1000 Eo: 2,39 tỷ KWh W.lũ: 1,7 tỷ m3 2 CT Cửa Đạt Sông Chu Nlm: 70,5 MW 1300 1300 1000 300 Tưới: 87000 ha 3 CT Bản Mai Sông Cả Nlm: 350 MW 4000 4000 3000 1000 Eo: 1,7 tỷ KWh tạo nguồn, đẩy mặn 4 Ngàn Trươi Sông Ngàn Sâu Nlm: 34,5 MW 600 600 600 0 Cấp nước: 30 m3/s 5 Hồ Đại Ninh Sông Đồng Nai Nlm: 300 MW Eo: 1,27 tỷ KWh Tưới: 30000 ha 6 Hồ Sơn Hà Sông Trà Khúc Tiếp nguồn 400 400 400 0 Thạch Nham II Công trình thủy lợi đầu tư 7750 7750 6150 1600 1 Phước Hoà Sông Bé Tưới: 33000 ha 1600 1600 1000 600 Cấp nước: 60 m3/s 2 Các CT điều tiết đồng bằng SCL ĐBSCL 2000 2000 1000 1000 3 Hệ thống thuỷ lợi Bắc S.Hương T.Thiên Huế 300 300 300 0 4 Hệ thống Nam Quảng Bình Quảng Bình Bang hoặc Suối Đá 300 300 300 0 5 DA sử dụng nước sau chương trình Hàm Thuận Sông La Ngà Tưới: 33000 ha 600 600 600 0 6 Hồ Sông Ray Bà Rịa Tưới 10000 ha 400 400 400 0 Cấp nước: Vũng Tàu 7 Hồ Sông Lũy Tưới: 12000 ha 550 550 550 0 8 Hồ Capet và sông Máng Bình Thuận Tưới: 2000 ha 100 100 100 0 9 Hồ Đầm Hà Đông Quảng Ninh Tưới 3.800 ha 200 200 200 0 10 Lục Ngạn Hà Bắc Tưới; 3000 ha 100 100 100 0 11 Văn Phong Bình Định Tưới: 6000 ha 300 300 300 0 12 Hệ thống Bắc sông Thu Bồn Q. Nam - Đ. Nẵng Tưới + tiêu 300 300 300 0 III Đê điều - phòng chống lũ 14100 14100 10100 4000 1 Phân cách lũ ĐB S.Hồng ĐB S. Hồng Bảo vệ dân cư và vùng kinh tế 3000 3000 2000 1000 2 Bảo vệ chống sói lở S.Cửu Long và S. Sài Gòn ĐB SCL và TP HCM 2000 2000 1000 1000 3 Phân cách lũ ĐB SCL Các tỉnh ĐB SCL Bảo vệ dân cư và các vùng kinh tế 3000 3000 2000 1000 4 Lưu vực Sông Hương T. Thiên Huế 100 100 100 0 5 Cải tạo lòng S. Hồng và các sông miền Trung 2000 2000 2000 0 6 Đê biển toàn quốc 4000 4000 3000 1000 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - thực trạng và quy hoạch phát triển thuỷ lợi II-/ Một số giải pháp nhằm đầu tư phát triển thuỷ lợi 1-/ Xây dựng quy hoạch phát triển hệ thống thuỷ lợi Xây dựng chiến lược quy hoạch phát triển là một trong những nhiệm vụ quản lý kinh tế của Nhà nước, để có những quy hoạch cụ thể cho từng vùng ngành đòi hỏi người cán bộ phải có trình độ chuyên môn cao, xem xét kỹ lưỡng điều kiện tình hình của vùng ngành đó. Khi những quy hoạch phát triển được xây dựng thì nó chính là cơ sở để xác định danh mục các dự án ưu tiên, dự án nào được triển khai trước, số vốn đầu tư vào dự án là bao nhiêu. Đối với hệ thống thuỷ lợi thì việc xây dựng quy hoạch tổng thể cho thuỷ lợi là việc làm cần thiết vì đây là một ngành đòi hỏi sự đầu tư lớn, nhiều dự án đầu tư... vậy phải có quy hoạch đầu tư tổng thể cho ngành thuỷ lợi và cần hoàn thiện quy hoạch hệ thống thuỷ lợi, quy hoạch cho từng vùng, từng địa phương để xác lập phương án đầu tư có hiệu quả, tránh sự đầu tư chồng chéo. Nhờ có quy hoạch phát triển hệ thống thuỷ lợi mà không chỉ ngân sách Nhà nước đầu tư mà còn thu hút nguồn vốn từ nước ngoài, từ địa phương và nhân dân. Vậy xây dựng và hoàn thiện quy hoạch hệ thống thuỷ lợi góp phần thúc đẩy đầu tư vào thuỷ lợi và tăng hiệu quả nguồn vốn đầu tư. 2-/ Hoàn thiện dự án đầu tư. Một dự án đầu tư phải qua 3 giai đoạn: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư. 2.1 Giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Trong ba giai đoạn trên thì giai đoạn chuẩn bị đầu tư: tạo tiền đề và quyết định sự thành bại của toàn bộ dự án. Vì vậy vốn chuẩn bị đầu tư luôn được bố trí nhiều nhất từ trước tới nay. Trong năm 1999 công tác chuẩn bị đầu tư đã có những cải tiến trong nghiệm thu, đẩy nhanh tiến độ và từng bước tiêu chuẩn hoá các công việc từ khâu lập đề cương, dự toán, khảo sát địa hình, địa chất thuỷ văn, mẫu hoá hồ sơ báo cáo nghiên cứu khả thi, đưa các yêu cầu về báo cáo đền bù di dân tái định cư, báo cáo tác động môi trường vào nội dung lập báo cáo khả thi. Nhìn chung công tác chuẩn bị đầu tư có nhiều cố gắng. Tuy nhiên còn một số dự án chưa đáp ứng yêu cầu thủ tục trong việc lập hồ sơ, thẩm định. Chất lượng một số hồ sơ báo cáo khả thi và thiết kế kỹ thuật của nhiều đơn vị tư vấn nhất là Công ty tư vấn địa phương hoặc các trung tâm của viện, trường làm chưa đạt dẫn đến tình trạng giai đoạn sau phải điều chỉnh nhiều so với giai đoạn trước làm kéo dài tiến độ ảnh hưởng đến vốn đầu tư. Báo cáo thẩm định dự án của một số công ty tư vấn phải làm đi làm lại nhiều lần mới được ADB thông qua cho triển khai thi công và mới được giải ngân như các tiểu dự án kênh trục sông Cầu, sông Nhuệ. Vậy với công tác chuẩn bị đầu tư còn nhiều thiếu sót sẽ dẫn tới dự án được đi vào thực hiện bị kéo dài, các tổ chức viện trợ không cấp vốn gây thiệt hại rất lớn, nhiều công trình muốn khẩn trương đi vào thực hiện do giai đoạn chuẩn bị đầu tư chưa đạt làm cho công trình bị chậm tiến độ... 2.2 Giai đoạn thực hiện đầu tư. Trong giai đoạn này vấn đề thời gian và tiến độ là quan trọng nhất trên cơ sở đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật. Bởi vì vốn đầu tư không sinh lời trong quá trình thực hiện đầu tư do đó nếu kéo dài chúng ta mất một khoản lãi do tổn thất bởi thời tiết gây ra, không đáp ứng được nhu cầu tưới tiêu của thời vụ tác động không tốt đến nông nghiệp. Vậy để công tác đầu tư nói chung và đầu tư vào thuỷ lợi nói riêng đạt hiệu quả thì việc xem xét và hoàn thiện giai đoạn này là việc làm cần thiết. Không chỉ đem lại lợi ích trực tiếp cho sản xuất và đời sống mà nó chính là yếu tố thu hút vốn đầu tư của các nhà tài trợ của nhân dân. Với giai đoạn này thì phải làm tốt công tác sau: 2.2.1 Đền bù giải phóng mặt bằng: Đây là khâu quan trọng khởi đầu quá trình xây dựng đúng tiến độ nhưng đây là khâu đang có nhiều khó khăn, trở ngại nhất làm chậm tiến độ của rất nhiều công trình. Đối với các dự án ODA công tác đền bù tái định cư đòi hỏi nhiều thủ tục hơn so với các công trình vốn trong nước, nhưng thời gian qua một số dự án việc đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư tiến hành rất chậm vì thiếu sự phối hợp chỉ đạo của một số địa phương như các tiểu dự án tiêu Nam Ninh (Nam Đinh) Cẩm Thuỷ (Thanh Hoá), đê Hà Nội... làm ảnh hưởng nhiều đến tiến độ xây dựng và không tận dụng được nguồn vốn đối ứng được bố trí trong năm. Hiện nay trên cơ sở các văn bản của Nhà nước, việc quyết định chủ trương đền bù, đơn giá đền bù vận dụng mỗi nơi một khác, đặc biệt có sự chênh lệch quá lớn thậm chí bằng trên dưới 1/3 giá trị xây lắp công trình điển hình là công trình xây dựng hồ chứa nước đá Đen (Bà Rịa - Vũng Tàu), đến nay công trình này vẫn chưa được duyệt bổ sung điều chỉnh vốn đền bù so với quyết định ban đầu. Để khắc phục tình trạng trên, tới đây cần nghiên cứu vận dụng theo hướng là việc đền bù, giải phóng mặt bằng, cũng như các công tác tái định cư sẽ do các địa phương tự giải quyết là chủ yếu (được xem xét như một dự án do tính quyết định), việc đền bù, giải phóng mặt bằng tái định cư nói chung là trách nhiệm thuộc về các địa phương phải có phương án giải quyết về kinh phí, giá cả đền bù, điều hoà đất đai tại địa phương trước khi đề nghị Nhà nước đầu tư xây dựng công trình. Trừ một số rất ít các tỉnh thực sự có nhiều khó khăn, cần có sự giúp đỡ hỗ trợ của Nhà nước thì phải có văn bản báo cáo đề nghị với Chính phủ cho ý kiến xử lý trước khi dự án khả thi của công trình được phê duyệt. 2.2.2 Công tác đấu thầu. Trong năm 1999, công tác đấu thầu tiếp tục được triển khai tích cực và thực hiện nghiêm túc theo các quy định của Nhà nước và các tổ chức quốc tế cho vay vốn. Nhiều gói thầu đã được mở và hàng trăm tỷ đồng dôi dư sau kết quả đấu thầu đã được Nhà nước và Bộ cho phép đầu tư vào việc bổ sung hoàn thiện các hạng mục xây dựng khác và cho việc nâng cao hơn trình độ quản lý khai thác công trình. Nhìn chung công tác đấu thầu được thực hiện nghiêm túc, đúng quy chế. Qua hàng trăm gói thầu do việc tiến hành nghiêm túc đúng quy chế rõ ràng công khai minh bạch nên chưa có trường hợp nào phải đấu thầu lại hoặc có khiếu kiện thắc mắc phải xử lý. Các nhà thầu được chọn đa số là có đủ năng lực xây dựng công trình, hoàn thành đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng. Nhiều nhà thầu tư vấn và xây dựng đã tăng cường đầu tư trang thiết bị, đầu tư trí tuệ cải tiến công tác, nâng cao năng lực về mọi mặt nhất là đối với đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có tay nghề cao. Trong quá trình thực hiện nhiều nhà thầu đã bám sát hợp đồng, theo dõi giám sát chặt chẽ chất lượng, tiến độ nhằm đảm bảo được yêu cầu của hợp đồng đã ký kết. Nhưng cá biệt có một vài trường hợp lựa chọn phải các nhà thầu thực chất yếu về trình độ kỹ thuật và khả năng tài chính. Ví dụ như Công ty 41 (Cống Bà Trầm), Công ty Sông Đà (hệ thống Bắc Vàm Nao), Công ty 7 Bộ Xây dựng và Công ty 27 (hệ thống thuỷ lợi Hóc Môn - Bắc Bình Chánh). Một số đơn vị luôn luôn trong tình trạng thiếu vốn do nợ nần không có kinh phí để thi công bình thường mặc dù được Ban Quản lý dự án thanh toán các khối lượng hoàn thành một cách đầy đủ và kịp thời nhưng vẫn thi công không đảm bảo chất lượng và tiến độ. Trong công tác đấu thầu còn có một vài gói thầu có hiện tượng dàn xếp, chạy thầu... Hồ sơ mời thầu có những việc thiếu chặt chẽ, phải bổ sung xử lý là cần thiết nhưng chưa kiên quyết phân định trách nhiệm và có biện pháp xử lý theo quy định hiện hành. Các chủ đầu tư cần tăng cường cán bộ và chuyên trách công tác đấu thầu trong các khâu thẩm tra hồ sơ đồ án kỹ thuật, hồ sơ mời thầu, chấm thầu, đảm bảo khách quan trung thực. Công tác thẩm định giá trúng thầu phải rà soát kỹ hơn, kiên quyết loại bỏ những chi phí bất hợp lý và hạn chế đến mức thấp nhất các sai sót phải bổ sung khối lượng, điều chỉnh cấp đất, đơn giá... là những nguyên nhân gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý đấu thầu, giao thầu. Cần có biện pháp hạn chế đơn vị trúng thầu vừa đủ với khả năng tài chính, đội ngũ cán bộ công nhân và thiết bị, không cho phép dàn trải quá tải so với khả năng của một số Công ty trong và ngoài ngành như hiện nay. 2.2.3 Tổ chức thi công xây dựng công trình. Khi xây dựng công trình thuỷ lợi phải đảm bảo kỹ thuật, mỹ thuật và hiện đại, sử dụng vật liệu mới trong thi công. Trong quá trình thi công phải có ban quản lý chất lượng. Việc chấp hành quy trình quy phạm, công tác giám sát kiểm tra chất lượng, sổ nhật ký thi công, việc lập hồ sơ bản vẽ hoàn công công trình đã thành nề nếp ở nhiều công trình. Tuy nhiên việc chấp hành quy phạm xây dựng cơ bản, biên bản ghi chép tại hiện trường, công tác giám định và kiểm tra chất lượng, công tác giám sát tác giả ở một vài công trình vẫn còn sai sót. Nhật ký công trình chưa được thực hiện đúng quy định, nội dung còn sơ sài, nhật ký không đánh số trang, không có dấu giáp lai, không đầy đủ thành phần xác nhận các nội dung thay đổi. Bản vẽ hoàn công chưa được lập đầy đủ, các nội dung được phê duyệt trong quyết toán. Hết thời hạn bảo hành công trường không có biên bản thanh lý hợp đồng. Để khắc phục tình trạng trên thì việc chỉ đạo, hướng dẫn cần phải có sự tập trung, kiểm tra theo dõi chặt chẽ quá trình thi công không những chỉ đảm bảo về chất lượng công trình mà cần phải giám sát chống mất cắp nguyên vật liệu. 2.3 Giai đoạn vận hành các kết quả đầu tư. ở giai đoạn này công trình thuỷ lợi đi vào hoạt động chính thức đưa sản phẩm của mình phục vụ sản xuất và đời sống. Vì vậy trong giai đoạn này việc quản lý khai thác công trình rất quan trọng. Trong công tác quản lý khai thác công trình không chỉ chú trọng vào khai thác mà còn phải quan tâm đúng mức đến việc sửa chữa nâng cấp thường xuyên công trình, cần quản lý theo quy trình quy phạm kỹ thuật. Công tác bảo vệ công trình cần phải phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương quan tâm xử lý. Làm tốt công tác này thì công trình sẽ đem lại hiệu quả cao vốn đầu tư phát huy tác dụng, tạo ra sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện. Tóm lại, hoàn thiện dự án đầu tư vào thuỷ lợi là một trong những giải pháp quan trọng góp phần đem lại hiệu quả cao cho hệ thống công trình thuỷ lợi. 3-/ Thu hút vốn đầu tư vào thuỷ lợi. Vốn đầu tư vào thuỷ lợi có thể huy động từ các nguồn như vốn ngân sách do Nhà nước cấp, vốn vay ngân hàng, vốn đóng góp của nhân dân, vốn từ quỹ thuỷ nông tỉnh, vốn tự có, vốn tài trợ, vốn thu từ việc bán sản phẩm... Tuy nhiên như trong phần thực trạng đã nêu hiện nay nguồn vốn quan trọng nhất chiếm tỷ trọng cao là vốn ngân sách. Vậy ngành thuỷ lợi nên nghiên cứu đưa ra chính sách huy động đóng góp vốn từ nhiều nguồn để đầu tư cho các công trình. Đối với nguồn vốn đóng góp của nhân dân huy động từ thu thuỷ lợi phí đất đai, hoặc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân thông qua hình thức gửi tiết kiệm sau đó tiếp tục đem vốn này đầu tư vào thuỷ lợi. Vốn trong nước chính là nội lực của nền kinh tế một cách liên tục đưa đất nước đến phồn vinh, chắc chắn và không phụ thuộc bên ngoài. Tuy nhiên đối với Việt Nam nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một tất yếu, nó thường tạo nên cái “hích” ban đầu với các nước chậm phát triển, tạo ra tích lũy ban đầu, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thuận lợi, tạo ra làn gió mới cho hoạt động kinh tế. Đối với thuỷ lợi, đầu tư nước ngoài thường từ các nguồn vốn ODA, WB nên để thu hút nguồn vốn này chúng ta cần xây dựng chính sách phát triển thuỷ lợi một cách hoàn thiện tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, sử dụng vốn đúng mục đích cấp phát, thực hiện tốt cam kết, các quy định do các tổ chức cho vay vốn đưa ra. Mặt khác cần phải cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư ở Việt Nam. Cụ thể là đơn giản hoá thủ tục giấy phép đầu tư. Chúng ta luôn nói cải cách hành chính, đơn giản hoá thủ tục giấy phép đầu tư... nhưng các nhà đầu tư thường bị chậm trễ các dự án vì thủ tục cấp giấy phép, nhiều chủ đầu tư sau khi “chạy” được giấy phép và các thủ tục khác thì cơ hội đầu tư đã hết hoặc không còn ý trí để triển khai dự án nữa. Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư được thể hiện là chính trị Việt Nam ổn định, chính sách đổi mới tiếp tục sâu rộng hơn, hệ thống pháp luật Việt Nam sẽ tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho vốn đầu tư của họ. 4-/ Kết hợp đầu tư thuỷ lợi, giao thông và các ngành khác. Mục tiêu đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn thì việc quan tâm đầu tư những công trình thuỷ lợi lớn và vừa kết hợp với giao thông, điện và xây dựng khu dân cư mới là việc cần làm. Nếu chúng ta chỉ đầu tư vào thuỷ lợi nhưng không chú trọng đến giao thông và một số ngành khác thì dẫn tới hiệu quả đầu tư vào thuỷ lợi chưa cao đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, bởi giao thông chính là mạch máu của nền kinh tế, có kết hợp giữa thuỷ lợi và giao thông thì sẽ tạo đà cho nông nghiệp và nông thôn phát triển. 5-/ Đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên trong thuỷ lợi. Cho đến nay, Việt Nam được coi là nước có tiềm năng to lớn về lực lượng lao động. Trong ngành thuỷ lợi chúng ta có một đội ngũ chuyên gia khá đông đảo về số lượng, có trình độ tốt, đủ khả năng giải quyết những vấn đề kỹ thuật kinh tế và quản lý do thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên việc đào tạo và sử dụng lực lượng lao động trong thuỷ lợi đang nổi lên một số vấn đề cần quan tâm nghiên cứu và giải quyết. Về đào tạo, nước ta là một nước nông nghiệp, cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn nên thuỷ lợi giữ vai trò quan trọng trong sản xuất và đời sống. Tuy nhiên việc đào tạo đội ngũ cán bộ thuỷ lợi trong cả nước có sự chênh lệch đội ngũ cán bộ ở các tỉnh phía Nam là rất ít do điều kiện học có nhiều khó khăn có duy nhất trường Đại học Thuỷ lợi đặt tại Hà Nội. Vậy vấn đề đặt ra là cần quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng cân đối đối với từng vùng. Về sử dụng: Với sự đào tạo chênh lệch nhiều cán bộ đào tạo ra nhưng không được sử dụng đúng chuyên môn đào tạo. Lực lượng lao động có tay nghề trong thuỷ lợi còn ít. Vậy để giải quyết những vấn đề trên thì chúng ta cần một số giải pháp sau: Nhà nước cần dành một khoản đầu tư thoả đáng cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ và lao động có tay nghề trong thuỷ lợi: nâng cấp cơ sở đào tạo. Trường đại học còn thiếu nhiều thứ đặc biệt là trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập của thày và trò. Đội ngũ giáo viên trong các trường đại học giữ vai trò quyết định đối với chất lượng đội ngũ chuyên gia được đào tạo ra. Muốn cho thày giỏi phải có chính sách bồi dưỡng, nâng cao không ngừng trình độ của họ, tạo điều kiện thuận lợi để họ truyền thụ kiến thức cho người học... Với đội ngũ cán bộ công nhân viên được đào tạo phải có chính sách sử dụng hợp lý và đúng đắn, phải tạo điều kiện cho họ sinh sống, làm việc và cống hiến. Tránh tình trạng đào tạo ra không sử dụng hoặc đào tạo một đường, sử dụng một nẻo. Đối với lực lượng cán bộ công nhân viên đang công tác cần thường xuyên mở lớp tập huấn, hoặc cử đi học để bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ tay nghề. Vậy có một đội ngũ cán bộ và công nhân có tay nghề cao trong thuỷ lợi thì mới đảm bảo cho ngành thuỷ lợi ngày một phát triển bởi yếu tố con người là yếu tố quyết định trong mọi hoạt động kinh tế xã hội. Tóm lại trên đây là một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác đầu tư phát triển thuỷ lợi tại Việt Nam. kết luận Nước ta là nước đang phát triển, nền sản xuất vật chất chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Mặc dù những năm gần đây nền kinh tế có nhiều chuyển biến nhưng với số dân lớn, sống bằng nghề nông là chủ yếu thì nông nghiệp vẫn là ngành mũi nhọn của nền kinh tế. Động lực để thúc đẩy nông nghiệp phát triển thì có nhiều nhưng tác động quan trọng nhất đến nông nghiệp đó là thuỷ lợi, thuỷ lợi tiến hành trị thuỷ, đào kênh, khơi ngòi xây dựng cầu cống, mương máng để phục vụ sản xuất nông nghiệp thuỷ lợi không chỉ giữ vai trò quan trọng đối với nông nghiệp, mà nó còn phục vụ công nghiệp, các ngành kinh tế khác, cải tạo, bảo vệ môi trường, khắc phục và giảm nhẹ thiên tai. Thấy được vai trò của thuỷ lợi thì cần thiết phải đưa ra kế hoạch phát triển thuỷ lợi, một trong những tác động để phát triển thuỷ lợi đó là phải đầu tư vốn để xây dựng cơ bản, quản lý khai thác thuỷ lợi. Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư phát triển vào thuỷ lợi tương đối cao mặc dù nền kinh tế còn nhiều khó khăn. Tình hình đầu tư phát triển vào thuỷ lợi ở nước ta là nội dung chính của đề tài mà tôi nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của Tiến sĩ Nguyễn Bạch Nguyệt - giáo viên trực tiếp hướng dẫn và giảng dạy cùng các cán bộ thuộc Vụ Đầu tư (Bộ Tài chính) đơn vị mà tôi thực tập đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành tốt đề tài. Tài liệu tham khảo 1-/ Niên giám thống kê 98 NXB Thống kê Hà Nội 1999 2-/ Giáo trình kinh tế đầu tư NXB Giáo dục - 1998 Chủ biên PGS. TS Nguyễn Ngọc Mai 3-/ Giáo trình kinh tế thuỷ nông Đại học Thuỷ lợi 4-/ Sách nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến đổi mới Tác giả Bùi Huy Đáp - Nguyễn Điền 5-/ Tài liệu tham khảo của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 6-/ Tài liệu tham khảo của Bộ Tài chính 7-/ Thống kê nông - lâm - ngư nghiệp năm 1998 Tổng cục Thống kê 8-/ Tạp chí con số và sự kiện 12/1999 9-/ Tạp chí nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm Số 10/1999 Số 9/1999 10-/ Tạp chí tài chính số 05/1998 11-/ Giáo trình kinh tế nông nghiệp. Trường ĐH Kinh tế quốc dân. mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0004.doc
Tài liệu liên quan