Một số vấn đề đấu thầu trong đầu tư xây dựng ở Việt Nam hiện nay

lời nói đầu Từ khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với chủ trương mở cửa bên ngoài cho phép chủ nghĩa tư bản nước ngoài vào kinh doanh, xây dựng ở Việt Nam, nhất là đầu thập kỷ 90 này. Thể thức đấu thầu theo thông lệ quốc tế đã được khởi sự tại Việt Nam. Tuy nhiên hoạt động đấu thầu các công trình xây dựng vẫn là một lĩnh vực mới mẽ. Do đó để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi Việt

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề đấu thầu trong đầu tư xây dựng ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam phải xây dựng được một quy chế đấu thầu hoàn chỉnh, đồng thời các nhà thầu xây dựng phải am hiểu quy chế đấu thầu này và các lĩnh vực khác có liên quan. Với sự cấp thiếtcủa tình hình này, qua thời gian thực tập tại văn phòng xét thầu quốc gia - Bộ kế hoạch và đầu tư, đồng thời kết hợp với những kiến thức đã học ở nhà trường, tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài “ Một số vấn đề đấu thầu trong đầu tư xây dựng ở Việt Nam hiện nay”. Kết cấu đề tài gồm 3 chương : Chương I : Những vấn đề llý luận chung Chương II : Thực trạng tình hình đấu thầu trong đầu tư xây dựng ở Việt Nam trong thời gian vừa qua Chương III : Một số giải pháp nhằm hoàn tình hình công tác đấu thầu trong đầi tư xây dựng ở nước ta. Đề tài này coi chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở phương pháp luận và sử dụng các phương pháp thống kê học , toán kinh tế, phân tích hệ thống, phân tích tổng hợp ...trong quá trình nghiên cứu Tôi xin chân thành cám ơn cô giáo PTS Nguyễn Bạch Nguyệt, người đã hướng dẫn trực tiếp tôi hoàn thành bài viết này, cùng các thầy cô giáo trong chuyên ngành kinh tế đầu tư đã cung cấp kiến thức và tạo điều kiện giúp đỡ tôi. Đồng thời, tôi cũng xin cám ơn Bà Nguyễn Thị Hoàng Yến chuyên viên bộ kế hoạch và đầu tư, cùng các anh chị cán bộ văn phòng xét thầu- Bộ kế hoạch và đầu tư đã tận tình giúp đỡ tôi trong thời gian thực tập tại văn phòng. Do phạm vi nghiên cứu đề tài rộng, thời gian nghiên cứu hạn chế nên bài viết có thể còn thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong được ý kiến giúp đỡ của các thầy cô, bạn đọc. Chương I những vấn đề lý luận chung I. Vai trò và đặc điểm ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân Trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay, xây dựng đang là một trong những lĩnh vực sôi động nhất. Có thể nói cả nước đang là một đại công trường , ở đâu cũng có xây dựng. những công trình mới thi nhau mọc lên trên mọi miền đất nước. Các ngành xây lắp công nghiệp, xây dựng dân dụng, xây dựng giao thông...đều đạt được những thành tựu to lớn. Những công trình trọng điểm của nhà nước đã được xây dựng hoàn thành và đưa vào khai thác có hiệu quả như nhà máy thuỷ điện hoà bình, công trình tải điện 500KV Bắc Nam ...và rất nhiều các dự án đủ mọi thành phần kinh tế đã và đang được xây dựng. Trong bối cảnh đó chúng ta cần hiểu rõ được hoạt động của ngành xây dựng, vai trò và đặc điểm của nó trong nền kinh tế quốc dân 1. Khái niệm ngành xây dựng Ngành xây dựng là ngành có những hoạt động nhằm tạo ra những tài sản cố định thông qua các hình thức xây dựng mới, cải tạo mở rộng, sửa chữa lớn và khôi phục . Nói chung ngành xây dựng cơ bản thường bao gồm các lực lượng của bên chủ đầu tư có liên quan trực tiếp đến xây dựng công trình, các lực lượng chuyên nhận thầu thi công xây dựng và các lực lượng dịch vụ trực tiếp phục vụ xây dựng như các tổ chức tư vấn, quy hoạch, thiết kế, nghiên cứu, thông tin và đào tạo cán bộ cho ngành xây dựng 2. Vai trò của ngành xây dựng Ngành xây dựng là một trong những ngành sản xuất vật chất lớn của nền kinh tế quốc dân, có nhiệm vụ tái sản xuất tài sản cố định cho lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất vật chất của đất nước. Có thể nói không một ngành sản xuất nào, không một hoạt động văn hoá - xã hội nào là không sử dụng sản phẩm ngành xây dựng. Các công trình xây dựng là sự thể hiện tổng hợp đường lối phát triển khoa học kỹ thuật kinh tế của đất nước. Sự hoạt động của các công trình xây dựng xong , sẽ có tác động trực tiếp đến việc tăng năng lực sản xuất kinh doanh của các cơ sở , phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tạo thêm chổ làm cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của mọi người dân trong nước Ngành xây dựng ssử dụng một lượng vốn lớn của xã hội, do đó một sai lầm trong xây dựng có thể dẫn đến lãng phí lớn lao khó sửa chữa trong nhiều năm. Theo dự toán, để nâng cao thu nhập tính cho một đầu người lên gấp đôi như mục tiêu của Đảng và nhà nước đã đề ra thời kỳ 1996-2000 và 2001- 2010 thì lượng vốn đầu tư hàng năm toàn xã hội phải lên tới 7- 10 tỷ USD và số tiền này phần lớn dùng cho đầu tư xây dựng. Từ đó thấy được vài trò và nhiệm vụ của ngành xây dựng thật lớn lao. Ngành xây dựng còn có một đóng góp đáng kể vào giá trị tổng sản phẩm quốc dân. Theo số liệu của Liên Xô cũ sản phẩm ngành công nghiệp xây dựng chiếm khoảng 11% tổng sản phẩm xã hội. Giá trị tài sản cố định sản xuất của ngành xây dựng chiếm khoảng 20% giá trị tài sản cố định toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đối với nước ta phần đóng góp này còn thấp nhưng vẫn chiếm một giá trị đáng kể. Trong nhiều ngành sản xuất ở Việt Nam, vị trí của nhập khẩu còn giữ vai trò đáng kể. Riêng đối với ngành xây dựng, phần tự làm trong nước về vật liệu xây dựng và sử dụng nhân công trong nước của cả nước cũng khá lớn. Có nhiều công việc xây dựng bắt buộc phải do lực lượng trong nước thực hiện, ngay cả đối với công trình chủ yếu đầu tư là người nước ngoài thực hiện. Vì vậy ngành xây dựng còn có nhiệm vụ to lớn trong thời gian tới là phải đảm bảo có đủ lực lượng và trình độ xây dựng để cộng tác với chủ đầu tư nước ngoài. 3. Đặc điểm ngành xây dựng Xây dựng có những đặc điểm riêng biệt rất đặc thù, nó được thể hiện qua đặc điểm sản xuất và đặc điểm sản phẩm của ngành xây dựng. a. Đặc điểm sản xuất ngành xây dựng Loại hình sản xuất trong xây dựng là loại hình sản xuất đơn chiếc, tính chất của sản phẩm không ổn định, mang tính thời vụ, không lặp đi lặp lại theo một chu kỳ nhất định nào Các yếu tố vào phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm (thi công công trình) không ổn định, thường xuyên phải di động. Thực tế trong xây dựng, việc khai thác cung cấp các yếu tố đầu vào tiến hành đồng thời với quá trình thi công công trình nên tính ổn định trong sản xuất khó đảm bảo. Điều này phụ thuộc nhiều vào khâu tổ chức quản lý sản xuất của nhà thầu trong quá trình thi công công trình. Do sản phẩm xây dựng thường có quy mô lớn, cấu tạo phức tạp nên hoạt động sản xuất trong xây dựng là quá trình hợp tác sản xuất của nhiều ngành, nhiều bộ phận để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Do đó, quá trình sản xuất, quản lý, điều hoà phối hợp giữa các khâu, các bộ phận đòi hỏi tính cân đối, nhịp nhàng, liên tục cao. Quá trình sản xuất , thi công trong xây dựng, thường phải tiến hành ngoài trời nên phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện địa lý, tự nhiên, khí hậu tại nơi thi công. Nên về cơ bản, sản xuất thi công trong xây dựng cũng chịu những tác động khách quan. Sản phẩm xây dựng thường có quy mô lớn, thời gian thi công kéo dài, do vậy trong thời gian thi công, toàn bộ lượng vốn đầu tư vào dự án chưa có thể sinh lãi. Giai đoạn này là giai đoạn vốn đầu tư bị ứ động chưa được luân chuyển. b. Đặc điểm về sản phẩm của ngành xây dựng Sản phẩm trong ngành xây dựng rất đa dạng về hình dáng kiểu cách, chủng loại, cấu tạo. Đó là sản phẩm được hình thành tại một nơi cố định và mang tính ổn định tại địa điểm xây dựng dự án. Sản phẩm xây dựng thường có quy mô, kích thước lớn, chu kỳ sản xuất sản phẩm thường kéo dài, tập trung một lượng vốn tương đối lớn. Trong sản xuất thi công, sản phẩm chịu sự tác động trực tiếp của các điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội. Để tạo ra sản phẩm cuối cùng, đòi hỏi phải sử dụng rất nhiều các yếu tố đầu vào của rất nhiều lĩnh vực khác nhau nên có thể nói sản phẩm xây dựng là loại sản phẩm tổng hợp của nhiều ngành, liên quan đến nhiều giai đoạn công nghệ phức tạp. ở một mức độ nhất định, sản phẩm xây dựng mang ý nghĩa về nhiều mặt như: kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh quốc phòng... nói lên bản sắc dân tộc trong một thời kỳ nhất định. II. Một số vấn đề lý luận về đấu thầu trong đầu tư xây dựng 1. Khái niệm và sự cần thiết phải đấu thầu trong đầu tư xây dựng Để tiến hành thực hiện một dự án, có rất nhiều công việc cần giải quyết như: lựa chọn công nghệ, mua sắm máy móc thiết bị, lắp đặt xây dựng kết cấu công trình ...các công việc trên có thể do chủ đầu tư tự tổ chức thực hiện hoặc chủ đầu tư có thể giao cho các đơn vị khác đảm nhận thông qua việc ký kết hợp đồng kinh tế. Trường hợp chủ đầu tư tự tổ chức thực hiện các công việc của dự án, sẽ giúp chủ đầu tư quản lý sát sao được chất lượng, đảm bảo đúng tiến độ và giảm được những chi phí không cần thiết. Tuy nhiên các công việc của dự án có những yêu cầu rất phức tạp mà chủ đầu tư không đủ năng lực thực hiện (trang thiết bị, kinh nghiệm, trình độ kỹ thuật...) thì khó đảm nhận cho dự án hoàn thành đúng kế hoạch, đảm bảo chất lượng và dự toán chi phí. Trong khi đó, trên thị trường có rất nhiều đơn vị đủ năng lực để thực hiện tốt nhất công việc đó. Vấn đề đặt ra là chủ đầu tư chọn ai là người có thể thỏa mãn tối đa các yêu cầu của mình. Điều đó thông qua công việc đấu thầu. Vậy đấu thầu là gì ? Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu. Bên mời thầu là chủ đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của chủ đầu tư có dự án đấu thầu. Nhà thầu là tổ chức kinh tế có đủ điều kiện và có tư cách pháp nhân để tham gia đấu thầu. Nhà thầu có thể là cá nhân trong tuyển chọn tư vấn. Như vậy, thông qua hoạt động đấu thầu mà chủ đầu tư lựa chọn được đơn vị đáp ứng được các yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ, thực hiện dự án với chất lượng cao nhất, chi phí tài chính thấp nhất. Trên thực tế hoạt động đấu thầu đã chứng tỏ được sự cần thiết và tầm quan trọng của nó trong cơ chế thị trường, nó không chỉ mang lại lợi ích cho nhà thầu mà còn mang lại lợi ích cho chủ đầu tư. Vì vậy phương thức đấu thầu ngày càng trở nên là một phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong xây dựng, không chỉ ở nước ta mà còn nhiều nước trên thế giới. Nó được nhìn nhận như một điều kiện thiết yếu để đảm bảo thành công cho các nhà đầu tư dù họ thuộc khu vực nhà nước hay tư nhân, dù họ đầu tư trong nước hay ngoài nước. 2. Một số thuật ngữ cơ bản thường dùng trong lĩnh vực đấu thầu xây dựng “Đấu thầu” là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu hoặc yêu cầu của chủ dự án. “Chủ đầu tư” là cá nhân hoặc tổ chức có tư cách pháp nhân được giao trách nhiệm quản lý, sử dụng vốn đầu tư theo quy định của pháp luật. “Nhà thầu” là một hoặc một số tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân tham gia đấu thầu. “Gói thầu” là một phần công việc của dự án được phân chia theo tính chất hoặc trình tự thực hiện dự án, có quy mô hợp lý và đảm bảo tính đồng bộ của dự án. Gói thầu cũng có thể là toàn bộ dự án. Gói thầu được thực hiện theo một hoặc nhiều hợp đồng (khi gói thầu được phân chia thành nhiều thành phần). “Hồ sơ mời thầu” là toàn bộ tài liệu về các yêu cầu cho một gói thầu do bên mời thầu lập. Hồ sơ mời thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu và bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu. “Hồ sơ dự thầu” là các tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. “Nộp thầu” là việc các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu theo quy định trong hồ sơ mời thầu. “Sơ tuyền” là bước lựa chọn các nhà thầu có đủ tư cách và năng lực để tham gia dự thầu. “Mở thầu” là thời điểm tổ chức mở các hồ sơ dự thầu được quy định trong hồ sơ mời thầu. “Đóng thầu” là thời điểm kết thúc nộp hồ sản phẩm dự thầu được quy định trong hồ sơ mời thầu. “ Xét thầu” là quá trình phân tích, đánh giá các hồ sơ dự thầu để xét chọn bên trúng thầu. “Giá ước tính” là mức giá dự kiến cho từng gói thầu được xác định trong kế hoạch đấu thầu của dự án. “Giá dự thầu” là giá do nhà thầu đề xuất trong hồ sơ dự thầu bao gồm các chi phí cần thiết để thực hiện gói thầu. “Giá đánh giá” là giá dự thầu được sữa lỗi số học, được hiệu chỉnh các sai lệch theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu cũng như sai lệch trong phạm vi hồ sơ dự thầu và được quy đổi về cùng một mặt bằng để làm cơ sở so sánh giữa các hồ sơ dự thầu. “Giá trúng thầu” là giá được người có thẩm quyền phê duyệt trong quyết định trúng thầu để làm căn cứ cho bên mời thầu thương thảo hoàn thiện và ký hợp đồng với nhà thầu trúng thầu. “ Giá ký hợp đồng” là giá được bên mời thầu và nhà thầu trúng thầu thoả thuận sau khi thương thảo hoàn thiện hợp đồng trên cơ sở kết quả trúng thầu và được cấp có thẩm quyền phê duyệt. “ Kết quả đấu thầu” là quyết định của người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền về nhà thầu trúng thầu và giá trúng thầu. “Thương thảo hoàn thiện hợp đồng” là quá trình tiếp tục thương thảo với nhà thầu trúng thầu về nội dung chi tiết nhằm hoàn chỉnh hợp đồng để ký kết. 3. Các hình thức lựa chọn nhà thầu và phương thức đấu thầu a. Các hình thức lựa chọn nhà thầu Hiện nay, trong ngành xây dựng tồn tại ba hình thứclựa chọn nhà thầu. Tuỳ theo điều kiện cụ thể đối với mỗi dự án mà chủ đầu tư có thể chọn một trong ba hình thứ đó.Các hình thức đó là: Đấu thầu rộng rãi : là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Chủ đầu tư thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và ghi rõ các điều kiện đối với các đơn vị dự thầu để các đơn vị xem xét đủ điều kiện thì đến tham gia dự thầu. Đối với những gói thầu lớn, phức tạp về công nghệ, kỹ thuật, bên mời thầu phải tiến hành sơ tuyển lựa chọn nhà thầu có năng lực. Hình thức này có ưu điểm khuyến khích cạnh tranh cao của nhiều nhà thầu. Tính đa dạng trong các cuộc mời thầu đã làm tăng sự hấp dẫn đối với các đối tượng cạnh tranh đấu thầu. Các nhà thầu luôn đưa ra các giải pháp đạt tiêu chuẩn chất lượng cao với chi phí thấp nhất. Tuy nhiên số lượng nhà thầu tham gia không hạn chế nếu có thể có nhà thầu chưa thực hiện đủ năng lực vẫn tham gia dự thầu. Mặt khác do số lượng nhà thầu đông nên mất nhiều thời gian và chi phí cho việc tổ chức. Đấu thầu hạn chế : là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ mời một số nhà thầu có đủ năng lực đáp ứng các yêu cầu của dự án, nhưng ít nhất phải có 3 nhà thầu tham gia. Hình thức này có ưu điểm là các nhà thầu tham gia đấu thầu là những nhà thầu thực sự có đủ năng lực về mọi mặt, đáp ứng đủ yêu cầu của chủ đầu tư. Công tác tổ chức đấu thầu mất ít thời gian và chi phí hơn so với tổ chức đấu thầu rộng rãi. Tuy nhiên hạn chế số lượng nhà thầu cũng hạn chế một phần sự đa dạng trong cạnh tranh giữa các nhà thầu. Chỉ định thầu: Đây là hình thức đặc biệt, bên mời thầu chỉ thương thảo hợp đồng với một nhà thầu do người có quyền quyết định đầu tư chỉ định, nếu không đạt yêu cầu mới thương thảo hợp đồng với nhà thầu khác. Theo điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước áp dụng hình thức chỉ định thầu là: Dự án có tính chất nghiên cứu thử nghiệm. Dự án có tính cấp bách do thiên tai, dịch họa. Dự án có tính chất bí mật quốc gia, an ninh quốc phòng. Một số dự án đặc biệt được thủ tướng chính phủ phê duyệt. Hình thức này có ưu điểm là chọn được ngay nhà thầu có đủ năng lực thực hiện công việc của dự án. Nhưng nó làm triệt tiêu tính cạnh tranh giữa các nhà thầu và hơn nữa nhà thầu được chọn chưa chắc là đưa ra được phương án tốt nhất cho dự án. Chính vì vậy mà ngay trong điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng (ban hành kèm theo NĐ42/CP ngày 16/07/1996 của CP) cũng khuyến khích các dự án áp dụng chỉ định thầu chuyển sang hình thức đấu thầu toàn bộ dự án hoặc từng phần dự án khi có điều kiện. b. Phương thức tổ chức đấu thầu : Hoạt động đấu thầu được hình thành theo những phương thức sau: Đấu thầu một túi hồ sơ: Khi dự thầu theo phương thức này, nhà thầu nộp những đề xuất kỹ thuật, tài chính vào cùng một túi hồ sơ để nộp hồ sơ cho bên mời thầu Đấu thầu hai giai đoạn: Phương thức này thường được áp dụng cho các dự án lớn, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc dự án thuộc dạng chìa khoá trao tay. Trong quá trình xem xét, chủ đầu tư có điều kiện hoàn thiện yêu cầu về mặt công nghệ kỹ thuật và các điều kiện tài chính của hồ sơ mời thầu: Giai đoạn I : các nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính sơ bộ (chưa có giá ) để bên mời thầu xem xét và thảo luận cụ thể đối với từng nhà thầu, nhằm thống nhất về tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chính thức chuẩn bị và nộp đề xuất kỹ thuật của mình Giai đoạn II : bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ nhất nộp đề xuất kỹ thuật và đề xuất đầy đủ các điều kiện tài chính, tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá bỏ thầu để đánh giá xếp hạng. 4. Các yêu cầu đối với bên mời thầu và bên dự thầu trong đấu thầu xây dựng a. Đối với bên mời thầu Bên mời thầu phải có: Các văn quyết định đầu tư oặc giấy phép đầu tư của cấp có thẩm quyền. Trường hợp cần đấu thầu tuyển chọn tư vấn lập báo cáo khả thi, cần có văn bản chấp thuận của người có thẩm quyền quyết định đầu tư. Kế hoạch đấu thầu được phê duyệt. Hồ sơ mời thầu trong trường hợp sơ tuyển phải có hồ sơ sơ tuyển. Đối với bên dự thầu Nhà thầu tham gia đấu thầu phải có: Giấy phép kinh doanh hoặc đăng ký hành nghề Hồ sơ dự thầu hợp lệ và chỉ được tham gia một đơn dự thầu trong một gói thầu, dù là đơn phương hay liên doanh dự thầu. Các nguyên tắc cần nắm vững trong hoạt động đấu thầu xây dựng Ngoài các điều kiện đã quy định đối với mỗi bên đã nêu ở trên. Khi tham gia đấu thầu các bên cần tuân thủ nghiêm túc một số nguyên tắc sau: Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau: mỗi cuộc đấu thầu cần được thực hiện với sự tham gia của một số nhà thầu có đủ năng lực để hình thành một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ. Điều kiện đặt ra với các đơn vị đặt thầu là như nhau, không phân biệt đối xử. Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ: các nhà thầu phải nhận được đầy đủ các tài liệu đấu thầu với các thông tin chi tiết, rõ ràng và có hệ thống về quy mô, khối lượng, yêu cầu về chất lượng, tiến độ và điều kiện thực hiện công trình. Nguyên tắc đánh giá công bằng: các hồ sơ dự thầu phải được đánh giá theo cùng một chuẩn mực bởi một hội đồng xét thầu có năng lực và phẩm chất. Lý do để xét chọn hoặc loại bỏ phải được giải thích rõ ràng tránh sự ngờ vực. Nguyên tắc trách nhiệm công minh: không chủ nghĩa vụ lợi các bên có liên quan được đề cập mà phạm vi trách nhiệm của các bên trong từng phần công việc đều phải được phân minh, rạch ròi để không có một sai sót nào không có người chịu trách nhiệm. Mỗi bên liên quan đều biết rõ mình phải chịu hậu quả gì nếu sơ suất và do đó mỗi bên phải nỗ lực tối đa trong việc kiểm tra bất trắc và phòng ngừa rủi ro. Nguyên tắc bảo lãnh và bảo hiểm thích đáng: các khoản mục về bảo lãnh, bảo hành và bảo hiểm... cũng phải được đề cập trong hợp đồng một cách rõ ràng để các bên cùng áp dụng. Sự tuân thủ các nguyên tắc trên có tác dụng tích cực đối với công tác đấu thầu. Nó kích thích sự cố gắng một cách nghiêm túc của mỗi bên và thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên nhằm vào mục tiêu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về chất lượng, tiến độ, tài chính của dự án và do đó đảm bảo được lợi ích chính đáng cho cả chủ công trình lẫn nhà thầu, góp phầm tiết kiệm các nguồn lực về xã hội. 5. Nội dung của đấu thầu xây dựng 5.1. Giai đoạn chuẩn bị đấu thầu Nội dung của giai đoạn này bao gồm các công việc sau: Xây dựng kế hoạch đấu thầu Tổ chức nhân sự Chuẩn bị hồ sơ mời thầu Đưa ra tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu a. Xây dựng kế hoạch đấu thầu Phân chia dự án thành các gói thầu: Gói thầu là căn cứ tổ chức đấu thầu và xét thầu. Việc phân chia dự án thành các gói thầu phải hợp lý. Trước hết phải căn cứ vào công nghệ, tính chất hoặc trình tự thực hiện dự án. Gói thầu phải được phân chia theo quy mô hợp lý và đảm bảo tính đồng bộ của dự án. Chủ đầu tư không được phân chia dự án thành các gói quá nhỏ (trừ một số trường hợp đặc biệt) làm giảm tính hợp lý của dự án làm tăng chi phí của đấu thầu. Giá dự kiến của gói thầu không vượt quá dự toán (nếu gói thầu là hạng mục) và tổng giá trị các gói thầu không vượt quá tổng mức đầu hoặc tổng dự toán (nếu có) đã được phê duyệt. Lựa chọn phương thức hợp đồng Việc lựa chọn phương thức thực hiện hợp đồng phải căn cứ theo tính chất, quy mô, thời gian thực hiện... của từng gói thầu. Tuỳ theo đặc điểm của từng gói thầu có thể lựa chọn một trong ba phương thức thực hiện sau: Hợp đồng trọn gói. Hợp đồng có điều chỉnh giá. Hợp đồng chìa khoá trao tay. Phạm vi thời gian của kế hoạch đấu thầu: bên cạnh kế hoạch đấu thầu tổng thể của toàn bộ dự án, đối với các dự án có thời gian thực hiện các công việc đấu thầu trên 24 tháng (2 năm) cần lần lượt xác định kế hoạch đấu thầu chi tiết cho một năm hoặc tối đa hai năm một để làm cơ sở trình duyệt. Trình duyệt kế hoạch đấu thầu: kế hoạch đấu thầu do bên mời thầu lập phải được người có thẩm quyền đầu tư phê duyệt: Đối với dự án có sử dụng vốn nhà nước: + Thủ tướng chính phủ quyết định đầu tư các dự án thuộc nhóm A. +Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định đầu tư các dự án thuộc nhóm B và C. + Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư quyết định đầu tư các dự án ODA có mức vốn nhỏ hơn 1,5 triệu USD. +Các tổng cục và các cục trực thuộc các bộ được bộ trưởng ủy quyền quyết định đầu tư các dự án thuộc nhóm C. +Hội đồng quản trị các công ty thành lập theo QĐ 91/Ttg ngày 7/3/1994 của TTCP được quyết định nhóm B có mức vốn nhỏ hơn 50% mức vốn giới hạn trên tương ứng với các dự án nhóm B. +Hội đồng quản trị các tổng công ty thành lập theo quyết định 90/TTg ngày 7/3/1994 của TTCP được quyết định nhóm C. +Đối với dự án liên doanh (trong đó doanh nghiệp nhà nước Việt Nam có mức vốn pháp định từ 30% trở lên) kế hoạch đấu thầu do hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh phê duyệt trên cơ sở ý kiến thoả thuận bằng văn bản của bộ kế hoạch và đầu tư. b. Tổ chức nhân sự Bên mời thầu có thể là chủ đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của chủ đầu tư có trách nhiệm thực hiện các hoạt động đấu thầu. Trách nhiệm và quyền hạn bên mời thầu Chỉ định tổ chuyên gia hoặc tư vấn giúp việc Trình kết quả đấu thầu lên người có thẩm quyền quyết định đầu tư để phê duyệt nhà thầu trúng thầu. Công bố kết quả đấu thầu đã được phê duyệt. Tổ chuyên gia hoặc tư vấn giúp việc cho bên mời thầu Bên mời thầu lập tổ chuyên gia hoặc tư vấn giúp bên mời thầu tổ chức đấu thầu và đánh giá xếp hạng các nhà thầu. Nhiệm vụ của các tổ chuyên gia, tư vấn là thực hiện các công việc sau: Chuẩn bị các tài liệu pháp lý, soạn thảo hồ sơ mời thầu. Tiếp nhận và quản lý hồ sơ dự thầu. Phân tích đánh giá xếp hạng các hồ sơ dự thầu theo đúng tiêu chuẩn chuyên môn và yêu cầu đặt ra trong hồ sơ mời thầu. Tổng hợp, chuẩn bị hồ sơ về kết quả đấu thầu để báo cáo chủ đầu tư xem xét. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, chuyên gia hoặc tư vấn phải có trình độ chuyên môn liên quan đến gói thầu, có kinh nghiệm trong công tác quản lý thực tế hoặc nghiên cứu, am hiểu quy trình tổ chức đánh giá, xét chọn kết quả đấu thầu. c. Chuẩn bị hồ sơ mời thầu Bên mời thầu phải chuẩn bị đầy đủ các tài liệu, thông số kỹ thuật có liên quan và nêu rõ các điều kiện của công trình để các bên dự thầu chuẩn bị. Đối với trường hợp cần sơ tuyển thì bên mời thầu phải lập hồ sơ sơ tuyển và tổ chức sơ tuyển lựa chọn các nhà thầu đầy đủ năng lực kinh nghiệm thực hiện dự án. Việc sơ tuyển nhà thầu áp dụng đối với gói thầu xây dựng có giá trị từ 100 tỷ đồng trở lên. Những gói thầu có giá trị dưới mức quy định trên, bên mời thầu có thể tổ chức sơ tuyển nếu cảm thấy cần thiết. Sơ tuyển nhà thầu được tiến hành qua các bước: Soạn thảo hồ sơ sơ tuyển gồm có: thông báo sơ tuyển, chỉ dẫn sơ tuyển, tiêu chuẩn đánh giá sơ tuyển và các phụ lục kèm theo. Thông báo mời sơ tuyển và tiếp nhận hồ sơ sơ tuyển. Đánh giá hồ sơ các nhà thầu dự sơ tuyển. Thông báo kết quả sơ tuyển Sau khi tiến hành sơ tuyển (nếu có) chọn ra các nhà thầu có đủ năng lực tham gia đấu thầu, bên mời thầu thành lập hồ sơ mời thầu gửi các nhà thầu, hồ sơ mời thầu xây lắp bao gồm: Thư mời thầu hoặc thông báo mời thầu. Mẫu đơn dự thầu. Chỉ dẫn đối với nhà thầu. Hồ sơ thiết kế kỹ thuật kèm theo bản tiêu lượng và chỉ dẫn kỹ thuật. Tiến độ thi công. Điều kiện chung và điều kiện cụ thể của hợp đồng. Bảo lãnh dự thầu. Mẫu thỏa thuận hợp đồng. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Đây là khâu quan trọng đối với bên mời thầu vì nó mang tính quyết định đến kết quả đấu thầu và chất lượng sản phẩm sau này. Nếu không chuẩn bị tốt, các đơn vị dự thầu không thể đưa ra các phương án có thể đáp ứng các yêu cầu của chủ đầu tư. Vì vậy bên mời thầu phải chuẩn bị đầy đủ, kỹ càng các tài liệu chi tiết trong hồ sơ mời thầu. d. Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu Ngoài việc chuẩn bị các công tác nói trên, bên mời thầu còn phải xác định các tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu tuỳ theo chất lượng, yêu cầu của dự án. Thông thường đó là các tiêu chuẩn sau: Tiêu chuẩn về kỹ thuật, chất lượng. Tiêu chuẩn kinh nghiệm nhà thầu. Tiêu chuẩn tài chính và giá cả. Tiêu chuẩn tiến độ thi công. 5.2. Mời thầu và nộp hồ sơ dự thầu a. Mời thầu Tùy theo hình thức đấu thầu mà bên mời thầu gửi thông báo mời thầu hay thư mời thầu thông báo về việc tổ chức đấu thầu. Thông báo mời thầu được áp dụng trong trường hợp đấu thầu rộng rãi. Bên mời thầu tiến hành thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm cung cấp thông tin ban đầu cho các nhà thầu chuẩn bị đấu thầu cụ thể. Thư nhà thầu được áp dụng trong các trường hợp đấu thầu hạn chế. Bên mời thầu gửi thư mời thầu trực tiếp đến từng nhà thầu trong danh sách mời thầu được duyệt. Thông báo mời thầu hoặc thư mời thầu bao gồm các nội dung sau: Tên bên mời thầu. Tên công trình. Địa điểm xây dựng. Địa chỉ bán hồ sơ dự thầu. Mức lệ phí, thời hạn nhận hồ sơ dự thầu. Địa chỉ nơi nhận. Mức bảo lãnh dự thầu. Thời gian và địa điểm mở thầu. b. Nộp hồ sơ dự thầu Khi nhận được thông báo mời thầu hoặc thư mời thầu các tổ chức xây dựng nếu có đủ điều kiện và muốn tham gia thì tham khảo hồ sơ mời thầu, chuẩn bị hoàn tất hồ sơ dự thầu và gửi đến cho bên mời thầu theo thời gian và địa điểm ghi trong thông báo mời thầu hoặc thư mời thầu. Hồ sơ dự thầu phải được niêm phong khi gửi đi. Nội dung hồ sơ dự thầu bao gồm : Đơn dự thầu của nhà thầu gửi cho bên mời thầu trong đó ghi rõ thời hạn hiệu lực của đơn dự thầu, cam kết sẽ tiến hành thực hiện ngay công việc khi nhận lệnh khởi công (nếu trúng thầu) và hoàn thành ban giao toàn bộ công trình đúng thời hạn nêu trong hợp đồng. Bản sao giấy đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề của nhà thầu. Tài liệu giới thiệu năng lực của nhà thầu gồm có năng lực tài chính của doanh nghiệp, năng lực điều hành, chuyên môn của cán bộ chủ chốt, danh sách hợp đồng đã được rhực hiện, kinh nghiệm thi công của các công trình ... Các bản thuyết minh về biện pháp thi công tổng thể và thi công chi tiết từng hạng mục công trình bao gồm hướng thi công, có thể đưa ra nhiều biện pháp thi công nhưng các biện pháp phải đảm bảo được các yêu cầu kỹ thuật mà chủ đầu tư đưa ra. Bản dự toán giá dự thầu : bản dự toán phải đưa ra dược mức giá hợp lý để chi phí bỏ ra là thấp nhất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng công trình và đem lại lợi nhuận cho nhà thầu (nếu trúng thầu). Bảo lãnh dự thầu có giá trị từ 1-3 % tổng giá trị ước tính giá dự thầu. Số tiền này để bảo lãnh cho nhà thầu tham dự đấu thầu. Trong một số trường hợp mức bảo lãnh dự thầu được bên mời thầu quy định một mức thống nhất trong hồ sơ mời thầu. Bảo lãnh dự thầu không áp dụng trong trường hợp chỉ định thầu. Toàn bộ hồ sơ dự thầu nói trên được đựng trong một phong bì lớn và phải được gửi đến bên mời thầu theo thời gian quy định. Bên mời thầu có trách nhiệm bảo quản các hồ sơ dự thầu, không được mở phong bì trước ngày mở thầu. 5.3. Mở thầu, đánh giá xếp hạng hồ sơ dự thầu và lựa chọn đơn vị trúng thầu a. Mở thầu Việc mở thầu được tiến hành theo điều 10 của quy chế đấu thầu. Những hồ sơ dự thầu nộp đúng hạn sẽ được bên mời thầu tiếp nhận và quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ mật. Việc mở thầu được tiến hành công khai theo ngày giờ, địa điểm đã ghi trong hồ sơ mời thầu. Trước khi mở thầu, bên mời thầu có trách nhiệm chuẩn bị các công việc sau : Mời các đại biểu tham dự để chứng kiến gồm : Đại diện cơ quan quản lý ngành có liên quan. Đại diện cấp chính quyền. Đại diện cơ quan tài trợ. Đại diện của từng nhà thầu. Chuẩn bị các phương tiện phù hợp để thông báo đầy đủ và chính xác các số liệu của hồ sơ dự thầu. Chuẩn bị các hồ sơ dự thầu để mở theo thứ tự do bên mời thầu quy định. Khi tiến hành mở thầu, đại diện các đơn vị dự thầu được bảo vệ và thuyết minh về các phương án của mình. b. Đánh giá hồ sơ dự thầu Việc đánh giá hồ sơ dự thầu về xây dựng được tiến hành theo ba bước chủ yếu sau: Đánh giá sơ bộ hồ sơ dự thầu. Đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu. Đánh giá tổng hợp và xếp hạng nhà thầu. Đánh giá sơ bộ hồ sơ dự thầu : ở bước này, bên mời thầu tiến hành xem xét ở một số điểm cơ bản sau : Xem xét tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu: chủ đầu tư tiến hành kiểm tra tư cách và năng lực của nhà thầu thông qua hồ sơ dự thầu. Kiểm tra giấy phép kinh doanh hoặc chứng chỉ hành nghề. Kiểm tra năng lực về kỹ thuật, tài chính và kinh nghiệm của nhà thầu, kiểm tra tính pháp lý và chữ ký xác nhận trong hồ sơ dự thầu và bảo lãnh dự thầu... Xem xét đáp ứng cơ bản của hồ sơ dự thầu : hồ sơ dự thầu đáp ứng cơ bản là hồ sơ dự thầu phù hợp với các yêu cầu, điều kiện và các đặc điểm kỹ thuật. Hồ sơ dự thầu không có những sai lệch hoặc tài liệu làm ảnh hưởng đến quy mô, chất lượmg hoặc việc thực hiện công trình, hạn chế quyền hạn của bên mời thầu hoặc nghĩa vụ của nhà thầu. Làm rõ hồ sơ dự thầu: để giúp kiểm tra đánh giá và so sánh các hồ sơ dự thầu đã nộp. Việc làm rõ hồ sơ dự thầu không được làm thay đổi nội dung cơ bản và giá cả hồ sơ dự thầu, trừ trường hợp bên mời thầu có yêu cầu sữa lỗi số học. Loại bỏ những hồ sơ dự thầu không hợp lệ hoặc không đáp ứng cơ bản: những hồ sơ không không thực hiện các yêu cầu nêu trong hồ sơ mời thầu bị coi là những hồ sơ không hợp lệ có thể bị loại, nhưng phải được báo cáo tới người có thẩm quyền quyết định đầu tư hoặc cấp được uỷ quyền xem xét. Việc xác định khả năng đáp ứng của từng hồ sơ dự thầu phải được tiến hành một cách khách quan theo các tiêu chuẩn như nhau cho mọi hồ sơ dự thầu. Đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu : Sau khi đánh giá sơ bộ, loại bỏ những hồ sơ không hợp lệ hoặc không đáp ứng cơ bản, các hồ sơ còn lại sẽ được đánh giá chi tiết. Quá trình này bao gồm những công việc sau : + Sửa chữa các lỗi số học và điều chỉnh sai sót: Bên mời thầu xem xét, nếu thấy có các lỗi số học trong các hồ sơ dự thầu thì sẽ tiến hành sửa và thông báo cho bên dự thầ._.u biết. Các sai lệch có thể là sai lệch giữa các giá trị viết bằng chữ và giá trị viết bằng số, hoặc sai lệch do nhân đơn giá với khối lượng. Lúc đó giá trị viết bằng chữ sẽ là cơ sở pháp lý, trường hợp còn lại thì đơn giá lấy làm cơ sở pháp lý. Ngoài ra, bên mời thầu còn điều chỉnh những sai lệch không cơ bản ( không quá 10% tổng giá trị dự toán) và tiến hành điều chỉnh bổ sung giá dự thầu để so sánh các hồ sơ dự thầu trên cùng một mặt bằng. + Đánh giá theo các tiêu chuẩn xét thầu đã được phê duyệt: sau khi các sai sót số học và các sai lệch đã được sữa chữa, các hồ sơ dự thầu được đánh giá theo từng tiêu chuẩn sau : Tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng Mức độ đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật, chất lượng vật tư thiết bị đã được nêu trong hồ sơ mời thầu. Sơ đồ tổ chức thực hiện hiện trường, bố trí nhân lực. Tính hợp lý và khả thi các giải pháp kỹ thuật, biện pháp tổ chức thi công. Sự phù hợp của máy móc thi công với điều kiện và đặc điểm các công tác xây lắp. Các biện pháp đảm bảo điều kiện vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy, an toàn lao động... Tiêu chuẩn kinh nghiệm nhà thầu Kinh nghiệm nhà thầu được xem xét qua kinh nghiệm những dự án có nhu cầu kỹ thuật, vùng địa lý và hiện trường tương tự. Số lượng trình độ cán bộ công nhân kỹ thuật trực tiếp thực hiện dự án. Tiêu chuẩn này được xem xét để chứng tỏ năng lực nhà thầu trong việc thi công các công trình tương tự. Tiêu chuẩn tài chính, giá cả Xem xét khả năng tài chính về tổng số tái sản hiện có, TSLĐ, số nợ, số vốn. Xem xét khả năng tín dụng của nhà thầu. Danh mục và tổng giá trị các hợp đồng đang thi công, giá trị công trình thi công dở dang. Đánh giá thông qua giá dự thầu, giá dự thầu được xem xét là phù hợp khi nó phù hợp với cơ cấu giá xây lắp các hạng mục hoặc phần công việc, phù hợp với yêu cầu kỹ thuật, chất lượng công việc phải phù hợp với mặt bằng giá chung trong giá dự thầu phải tính đầy đủ các chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp, các tỷ lệ phân bổ chung, lợi nhuận ( lợi nhuận ròng), dự phòng rủi ro phải căn cứ vào các định mức được nhà nước ban hành. Tiêu chuẩn thời hạn thi công công trình Mức độ đảm bảo tiến độ quy định trong hồ sơ mời thầu Sự hợp lý về tiến độ hoàn thành giữa các hạng mục, các phần việc có liên quan. Khả năng rút ngắn thi công. Ngoài các chỉ tiêu trên khi đánh giá sơ bộ hồ sơ dự thầu chủ đầu tư có thể xem xét một số các chỉ tiêu khác như khuyến khích áp dụng kỹ thuật tiên tiến, sử dụng vật liệu mới... Để đánh giá hồ sơ dự thầu người ta thường áp dụng hai phương pháp sau: Phương pháp I : phương pháp theo điểm. Người ta cho điểm từng phần như kỹ thuật, năng lực, tài chính giá cả, tiến độ thi công của từng hồ sơ dự thầu. Sau đó so sánh các hồ sơ với nhau. Phương pháp II : phương pháp theo giá đánh giá. ở phương pháp này, người ta cũng cho điểm nhưng chỉ cho riêng phần kỹ thuật. Nếu những gói thầu nào có số diểm vượt quá giới hạn cho phép thì tiếp tục xem xét giá đánh giá. Phương pháp này có ưu điểm nên nhà nước ta khuyến khích sử dụng phương pháp này trong thời gian tới trong đấu thầu xây dựng. + Đánh giá tổng hợp : tuỳ theo yêu cầu và điều kiện cụ thể của từng công trình, việc đánh giá tổng hợp các tiêu chuẩn có thể áp dụng theo phương pháp quy đổi trên cùng một mặt bằng hoặc hệ thống điểm đã được phê duyệt. Sau khi dùng phương pháp đánh giá tren đối với từng hồ sơ dự thầu, các hồ sơ được xếp hạng theo thứ tự để trình duyệtngười có thẩm quyền quyết địnhdtt xem xét phê duyệt, từ đó chọn ra đơn vị trúng thầu. 5.4. Thông báo kết quả trúng thầu, ký hợp đồng và triển khai thi công công trình Thông báo trúng thầu Sau khi có quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu của cấp có thẩm quyền, bên mời thầu thông báo cho nhà thầu trúng thầu bằng văn bản và gửi kèm theo dự thảo hợp đồng, những điểm cần bổ sung (nếu có ), các yêu cầu về thời gian thương thảo, bảo lãnh thực hiện hợp đồng. b. Ký kết hợp đồng và triển khai thi công công trình Việc ký kết hợp đồng giữa bên mời thầu và bên trúng thầu là yêu cầu bắt buộc. Hợp đồng giao nhận thầu trong xây dựng là văn bản xác nhận nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ hợp tác giữa chủ đầu tư (bên A) và đơn vị nhận thầu (bên B). Nó là văn bản pháp lý, căn cứ để giải quyết các tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Do đó nó rất quan trọng, các nội dung bên trong phải được xem xét, cân nhắc một cách kỷ lưỡng và phải được sự đồng ý của hai bên. Khi ký hợp đồng, đơn vị trúng thầu phải nộp giấy bảo lãnh thực hiện hợp đồng có giá tri từ 10-15% tổng giá trị hợp đồng. Trên đây, là trình tự tổ chức đấu thầu xây dựng và một số vấn đề cơ bản về hoạt động đấu thầu nói chung. Việc thông thạo các thể thức, thủ tục đấu thầu một công nghệ mới trong xây dựng, sẽ giúp cho hoạt động đấu thầu được tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, đem lại lợi ích cho cả chủ đầu tư lẫn nhà thầu. III. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới 1. Singapo Trong những năm qua, Singapo được đánh là một nước quản lý công tác đấu thầu rất có hiệu quả. Sở dĩ được đánh giá là một quốc gia thực hiện công tác đấu thầu tốt là vì họ sớm ban hành thành luật đấu thầu. Chính phủ Singapo quản lý rất nghiêm ngặt từ trung ương cho đến các bộ ngành, địa phương và cơ sở. Các cuộc đấu thầu được tổ chức một cách nghiêm túc và đều được thẩm định kết quả đấu thầu. Mặt khác, Singapo có một đội ngũ cán bộ giỏi. Nói chung, các cán bộ làm công tác đấu thầu được đào tạo chính quy nên có chuyên môn, am hiểu nhiều vấn đề đặc biệt rất am hiểu và nắm chắc luật đấu thầu. Bên cạnh đó, các nhà thầu xây dựng của Singapo cũng tương đối mạnh. Họ được trang bị phương tiện kỹ thuật tốt, tin học hoá trong quản lý và hiện đại hoá, cơ giới hoá trong xây dựng. Một vấn đề khác trong sự thành công của công tác đấu thầu Singapo là phương thức tổ chức đấu thầu. Hầu hết các cuộc đấu thầu xây dựng được tổ chức dưới hình thức đấu thầu rộng rãi, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu và mang lại hiệu quả kinh tế cao như : tiết kiệm nguồn vốn, chất lượng thi công công trình được nâng cao, tiến độ công trình nhanh lên... Malaysia So sánh giữa hai nước Singapo và Malaysia (cùng nhóm các nước ASEAN ) thì ta thất Singapo luôn thực hiện công tác đấu thầu tốt hơn. Tuy nhiên, Malaysia vẫn quản lý công tác đấu thầu khá hoàn thiện. Những nguyên nhân thành công của Malaysia Malaysia có chiến lược phát triển phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của đất nướcvà luôn nổ lực điều chỉnh chính sách trong từng giai đoạn Trên cơ sở rút ra những bài học kinh nghiệm trong nước. Malaysia cố gắng được sự giúp đỡ của WB, ADB đáo tạo các chuyên gia, cũng như học hỏi kinh nghiệm. Đồng thời Malaysia luôn kêu gọi các tổ chức quốc tế viện trợ kinh phí để hoàn thiện công tác đấu thầu. Khi nền kinh tế thế giới bị suy giảm vào giai đoạn đầu nhưnghx năm 90 thì kinh tế Malaysia không hề bị ảnh hưởng và có mức tăng GDP cao 8,4%, năm 1994 đứng đầu khối ASEAN, thu nhập bình quân GDP/đầu người là 3280 USD năm 1993, đứng thứ hai khu vực Đông Nam á, chỉ sau Singapo. Trên đây là những kinh nghiệm về thực hiện công tác đấu thầu xây dựng của hai nước điển hình trong khu vực ASEAN. Do đó chúng ta cần tham khảo và rút ra những bài học kinh nghiệm cho đất nước mình. Từ đó tạo điều kiện cho công tác đấu thầu xây dựng của nước nhà ngày càng hoàn thiện. Chương II Thực trạng tình hình đấu thầu xây dựng ở nước ta trong giai đoạn vừa qua i. Vài nét chung về sự phát triển ngành xây dựng nước ta 1. Một số đặc điểm lịch sử phát triển xây dựng qua các chế độ xã hội Xây dựng vừa là hoạt động sản xuất, vừa là một loại hoạt động nghệ thuật, nên quá trình phát triển của nó vừa chịu ảnh hưởng của phương thức sản xuất vừa chịu ảnh hưởng của các nhân tố thuộc kiến trúc thượng tầng của một hình thái xã hội nhất định Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, trong xây dựng đã phát triển hình thức hiệp tác lao động giản đơn và đôi khi cả hiệp tác lao động phức tạp. Sự phân công lao động lần thứ hai, tức là tách ngành thủ công nghiệp, trong đó ngành thủ công nghiệp xây dựng ra khỏi nông nghiệp và công việc gia đình, đã thực hiện giai đoạn này. Giai đoạn này được đặc trưng bởi các kiến trúc nổi tiếng như kiến trúc cổ Ai Cập, kiến trúc cổ đại Lưỡng Hà và Ba Tư, kiến trúc cổ HY Lạp và cổ La Mã. Dưới chế độ phong kiến, ở giai đầu của nó, đã xảy ra một sự ngừng trệ, thậm chí thụt lùi của xây dựng so với thời kỳ chiếm hữu nô lệ, vì bản chất kìm hãm của chế độ phong kiến gây nên. Về mặt quan hệ sản xuất trong xây dựng, việc xây dựng các công trình cho giai cấp phong kiến là một nghĩa vụ cưỡng bức đối với giai cấp nông nô. Để chống lại sự bóc lột này, đã xuất hiện phường hội nghề nghiệp. Xây dựng đầu tiên ở các thành thị Tây Âu vào thế kỷ IX và thế kỷ X. Kiến trúc chế độ phong kiến được đặc trưng bởi nền kiến trúc Bi-Dăng-Tin, kiến trúc phong kiến châu âu trong thế kỷ, kiến trúc của thời Phục Hưng, kiến trúc Barốc và kiến trúc cổ điển Pháp, trong đó đỉnh cao là kiến trúc của thời kỳ Phục Hưng ở giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang chế độ Chủ nghĩa Tư Bản. ở chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến, nền kiến trúc châu á cũng đạt được những thành tựu rạng rỡ, nhất là kiến trúc ấn Độ và Trung Quốc. ở Trung Quốc đã biết áp dụng kết cấu mộng gỗ từ 200 năm trước công nguyên, áp dụng ngói ở thế kỷ X đến thế kỷ VIII trước công nguyên. Kinh nghiệm xây dựng ở đời Tống đã được Lý Giới biên soạn trong cuốn sách Doanh tạo pháp thức. Bước sang giai đoạn Tư bản chủ nghĩa ngành xây dựng đã có bước nhảy vọt. ở thế kỷ XIX đã bắt đầu áp dụng xi măng Poóc- Lăng và bê tông cốt thép. ở cuối thế kỷ XIX và bắt đầu thế kỷ XX, việc sản xuất vật liệu Silicát, phi brôximăng, bêtông xi-lô cao, vật liệu chống thấm và cách nhiệt phát triển. Tiếp đó là sự phát triển chất dẻo, các loại hợp kim, các sản phẩm vô cơ như sợi thuỷ tinh, sợi bông khoáng, bê tông ứng xuất trước, các vật liệu nhẹ... Máy đào đất đã được sử dụng ở nửa sau thế kỷ XIX. Bên cạnh các loại kết cấu thông thường đã áp dụng kết cấu vỏ nung, kết cấu bản gấp, kết cấu dây treo các loại nhà cao tầng. Năm 1903, đã áp dụng phương pháp cốp pha trượt. Năm 1950 đã xuất hiện biện pháp “ nâng tầng” cho nhà ở. ở Tây Âu, hình thức công trường thủ công đã ngự trị từ sau thế kỷ XVI đến gần một phần ba thế kỷ XVIII. Sau đó, nền đại công nghiệp cơ khí hoá ra đời. Bước chuyển biến này trong xây dựng xảy ra muộn hơn vào thế kỷ xét xử. Việc xuất hiện ngành xây dựng thành một ngành sản xuất độc lập, gắn liền với sự phát triển sản xuất hàng hoá và với việc áp dụng hình thức xây dựng theo kiểu giao nhận thầu giữa chủ đầu tư và chủ xây dựng. Hoạt động của ngành xây dựng ở chủ nghĩa Tư bản tuân theo quy các luật của nền kinh tế thị trường và đạt được những thành tựu rực rỡ. ở các nước Liên Xô (cũ ) và Đông Âu ngành xây dựng được phát triển. ở giai đoạn đầu, nhất là sau chiến tranh kết thúc, nhờ nền kinh tế phát triển theo kế hoạch hoá tập trung, mà ngành xây dựng ở các nước này có sự phát triển rực rỡ và hiện nay còn lại những công trình tiêu biểu, là niềm tự hào cho bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung bao cấp, nền kinh tế dần dần tỏ ra yếu kém và bộc lộ nhiều nhược điểm nói chung và trong ngành xây dựng nói riêng. Ngày nay, những nhược điểm đó đang được khắc phục. 2. Một số đặc điểm của lịch sử phát triển ngành xây dựng ở Việt Nam Căn cứ vào tài liệu cổ Việt Nam có thể coi thời kỳ đồ đá mới là thời kỳ đồ đá mới là thời kỳ quá độ của người nguyên thuỷ Việt Nam chuyển chổ từ hang động sang lối sống hàng xóm, cách đây1000 năm, người Việt Nam có thể xây dựng những ngôi nhà sàn mái cong đuôi én. Thành Cổ Loa được xây dựng ở nữa sau của thế kỷ III trước công nguyên. Từ thế kỷ I đến thế kỷVI các công trình kiến trúc chủ yếulà các thành luỹ. Từ thế kỷ VII đến thế kỷ X là thời kỳ chấm dứt sự đô hộ của phong kiến phương Bắc. Kiến trúc thời kỳ này mang đậm tính chất Phật Giáo. Từ thế kỷ X đến XIII, ben cạnh kiến trúc có tính chất tôn giáo còn có các thành luỹ và các cung điện, khoảng năm 984 Thành Cổ Loa được xây dựng, khoảng 995 chùa Một Cột xuất hiện. Từ thế kỷ XI, đời Lý, nền kiến trúc phát triển mạnh nhất với các công trình tiêu biểu như Thăng Long, Chùa Giám, Tháp Bảo Thiên cao 66 m, Văn Miếu và Quốc Tự Giám... Từ thế kỷVIII đến XIV, đời Trần và Hồ, các công trình chủ yếu là các thành quách, cung điện, chùa tháp. Tiêu biểu là chùa Phổ Minh, Tháp Bình Sơn cao 13 tầng, thành nhà Hồ. Từ thế kỷ XV đến XVII, đời hậu Lê, kiến trúc chủ yếu bao gồm các cung điện, lăng Mộ, đình làng, chùa tháp. Trong thời nhà Nguyễn “ Khuê Văn Các”, những công trình kiến trúc được phỏng theo kiến trúc nhà Thanh và kiến trúc Pháp. Dưới thời Pháp thuộc, ngành xây dựng đã có những yếu tố mới về kiến trúc và kinh doanh xây dựng. Tuy nhiên nhịp độ phát triển không đáng kể, thực dân Pháp chỉ chú ý xây dựng một số ngành cần thiết cho kinh doanh như hầm mỏ, đường sắt cầu cống, nhà máy cơ khí, sửa chữa một số công trình công nghiệp nhẹ và các loại nhà phục vụ cho bộ máy cai trị. Từ sau khi cách mạng tháng tám thành công đến nay, lịch sử phát triển xây dựng có thể chia ra thành các thời kỳ sau: Thời kỳ từ 1945 đến 1954, xuất hiện một số công trình công nghiệp chế tạo vũ khí, công nghiệp mỏ và một số ngành sản xuất phục vụ kháng chiến. Thời kỳ tháng 10 năm 1954 đến 1957, là thời kỳ khôi phục kinh tế, trong đó các công trình cũ hiện có được phục hồi. ở thời kỳ từ 1958 đến 1960, thời kỳ cải tạo kinh tế, đã xây dựng được 65 công trình mới. Thời kỳ 1961 đến 1965( kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ) đã tiếp tục xây dựng hay bắt đầu xây dựng nhà máy gang thép Thái Nguên, nhà máy phân đạm Hà Bắc, nhà máy điện Uông Bí... Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỷ cứu nước( 1966-1975) ngành có nhiệm vụ chủ yếu là di chuyển các nhà máy công nghiệp về nơi an toàn, bảo đảm giao thông thời chiến, sửa chữa các công trình bị bắn phá, xây dựng công nghiệp địa phương và phục vụ nông nghiệp. Công trình thuỷ điện Thác Bà và nhà máy Ninh Bình cũng được xây dựng trong thời gian này. Trong giai đoạn nàycũng tiến hành chuẩn bị cho việc xây dựng một số công trình lớn sau này. ở miền Nam dưới thời kỳ chống Mỹ chiếm đóng, ngành xây dựng đã có một số yếu tố kỹ thuật mới và màu sắc kinh doanh theo cơ chế thị trường của chủ nghĩa tư bản. Từ năm 1975 đến nay, ngành xây dựng bước sang một giai đoạn mới. Tuy nhiên sự biến chuyển trong cách quản lý xây dựng mới thật bắt đầu từ đại hội lần thứ VI. Những công trình xây dựng tiêu biểu cho trình độ xây dựng và nghệ thuật kiến trúc của Việt Nam trong thời gian qua đó là: Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, viện bảo tàng Hồ Chí Minh, cung văn hoá hữu nghị Việt Xô, một số công trình khách sạn và trụ sở làm việc, nhà cao tầng, nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, cầu Thăng Long... có một số yêu cầu kỹ thuật đã có thể đáp ứng các yêu cầu của xây dựng nước ngoài. II. Tình hình thực hiện đầu tư xây dựng trong thời gian vừa qua 1. Tình hình thực hiện đầu tư xây dựng thời kỳ 1986-1990 và 1991-1995 Sau Đại Hội Đảng lần thứ VI, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng nhất là từ năm 1989. Đây là những thời kỳ đánh dấu bước ngoặc trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta, đó là từ bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nến kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Thực hiện đường lối mới do Đảng đề ra với chủ trương sắp xếp lại sản xuất, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu vốn đầu tư xây dựng. Nguồn vốn đầu tư của nhà nước tập trung thoả đáng cho công trình trọng điểm, công trình quan trọng, đặc biệt tập trung cho đầu tư xây dựng. Cơ cấu nguồn vốn có sự thay đổi, nếu như trước năm 1990, nguồn vốn đầu tư xây dựng chủ yếu từ vốn ngân sách nhà nước và vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước. Đến năm 1995 vốn đầu tư nhà nước chiếm 36% so với tổng nguồn vốn toàn xã hội. xét về tỷ trọng thì vốn đầu tư nhà nước giảm khá lớn nhưng giá trị tuyệt đối của lượng vốn huy động thì tăng gấp 2,25 lần so với thời kỳ 1986- 1990. Tình hình thực hiện đầu tư xây dựng của 2 thời kỳ này như sau: Biểu 1: Vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư xây dựng thời kỳ 1986-1990 và 1991-1995 Đơn vị: Tỷ đồng Thời kỳ (1986-1990) Thời kỳ (1991-1995) Vốn đầu tư thực hiện (giá hiện hành) Cơ cấu vốn (%) Vốn đầu tư thực hiện (giá hiện hành) Cơ cấu vốn (%) Tổng cộng 13407,9 100 193537,6 100 I.Vốn trong nước 11733,9 87,5 137305,6 70,9 A.Theo nguồn vốn 1.Vốn nhà nước 5441 40,5 70011,6 36,2 -Vốn ngân sách 3624,6 27 41376,8 21,3 Trong đó ODA - - 12755 7,7 -Vốn tín dụng - - 10920 5,6 -Vốn của DN 1816,4 13,5 4959 2,5 -Vốn khác - - 12755.8 6,6 2.Vốn ngoài quốc doanh 6292,9 46,9 67294 34,7 B.Theo cấp quản lý 1.Trung ương 3559,6 26,5 46390,4 23,9 -Trong đó vốn ngân sách 2584,8 19,2 27316,5 14,1 2.Địa phương 8174,3 60,9 90915.2 46,9 -Trong đó vốn ngân sách 1039,8 7,7 14060,3 7,2 II.Vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp FDI 1674 12,5 56232 29,1 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư) Qua biểu trên cho thấy, việc thực hiện vốn đầu tư thời kỳ 5 năm (1986-1990) vốn đầu tư ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất 46,9%, đối với vốn đầu tư từ khu vực nhà nước thì vốn ngân sách nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vì thời kỳ này các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước ta chưa nhiều (năm 1988) mới bắt đầu nên vốn đầu tư xây dựng từ khu vực này chỉ có 1674 tỷ đồng và chiếm tỷ trọng là 12,5%, nhưng tới thời kỳ 1991-1995 vốn đầu tư xây dựng nước ngoài đã lên tới từ 12,5%-29,1% tổng số vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội của nước ta. Và sự tăng lên của vốn đầu tư xây dựng trong thời kỳ này cũng có sự đóng góp đáng kể của vốn ODA, từ chỗ không có gì trong thời kỳ 1986-1990 lên 12755 tỷ đồng chiếm 8,69% trong tổng số. Sự tăng lên này thể hiện chủ trương cải tổ và hội nhập của Việt Nam đã được sự hưởng ứng của cộng đồng quốc tế và kết quả là Việt Nam đã nhận được sự tài trợ của quốc tế trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Trong thời kỳ này 1991-1995 chúng ta đã huy động vốn toàn xã hội để đưa vào xây dựng khoảng 165578 tỷ đồng, trong đó phần đóng góp của khu vực nhà nước là 70408 tỷ đồng chiếm 42,52%, vốn ngoài quốc doanh 502550 tỷ đồng chiếm 30,35% và còn lại vốn nước ngoài 44920 tỷ. Các nguồn vốn khác cũng được thực hiện tăng lên đáng kể nhất là vốn nhà nước để đầu tư vào những công trình lớn quan trọng của cả nước như những công trình thuộc ngành điện, giao thông, bưu điện nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược. 2. Tình hình thực hiện đầu tư xây dựng thời kỳ 1995-1999 Thời kỳ 1995-1999, đặc biệt là những năm 1996-1999 bước đầu thực hiện chương trình mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội được đặt ra trong kế hoạch 1996-2000. Tình hình kinh tế xã hội của đất nước có nhiều chuyển biến tích cực, đạt mức tăng tưởng kinh tế khá cao, liên tục và khá toàn diện. Nhưng từ giữa năm 1997 đến nay nền kinh tế phải đối mặt với những khó khăn mới rất gay gắt. Trong khi bản thân nền kinh tế còn nhiều yếu kém về hiệu quả và sức cạnh tranh, lại chịu sự tác động xấu cảu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ lây lan và sự thiệt hại nặng nề của khí hậu toàn cầu đã làm chậm lại quá trình phát triển. Từ những đánh giá, nhận xét, những tồn tại trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng những năm trước đây đã rút ra những vấn đề cần khắc phục, được thể hiện trong kế hoạch đầu tư xây dựng thời kỳ này, trước hết chúng ta nghiên cứu tình hình thực hiện các nguồn vốn đầu tư xây dựng trong nền kinh tế quốc dân. Từ năm 1995 đến nay chúng ta có nhiều chủ trương, chính sách mới nhằm huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để phát triển kinh tế đất nước. Do vậy, tổng nguồn vốn đầu tư thực hiện hàng năm đều tăng, nguồn vốn huy động được mở rộng. Vấn đề này được thể hiện rõ ở bảng biểu sau: Biểu 2: Các nguồn vốn đầu tư xây dựng thời kỳ 1995-1999 (Giá so sánh năm 1995) (Đơn vị tỷ đồng) Vốn đầu tư (tỷ đồng) Tốc độ phát triển định gốc (%) 1995 1996 1997 1998 Tổng số 1995 1996/1995 1997/1995 1998/1995 Tổng số 64.950 70.457 87.650 99.440 322.525 100 108,47 135,00 153,10 1.Vốn ngân sách NN 13.530 13550 16920 20.816 64.816 100 100,15 125,06 153,85 -Trong đó ODA 2200 4011 4498 5.660 16.369 100 182,32 204,45 257,27 2.Vốn tín dụng NN 3000 3100 3946 10.280 20.326 100 103,33 131,53 342,67 3.Vốn các DN NN 6030 10814 15424 23.300 55.568 100 179,34 255,79 386,40 4.Vốn của TN và dân cư 20000 18900 20192 23.364 82.456 100 94,5 100,96 116,82 5.FDI 22390 24086 31203 21680 99.482 100 107,57 139,36 96,83 (Nguồn Bộ kế hoạch và đầu tư ) Qua biểu 2 ta thấy rằng cùng với sự phát triển của đất nước, vốn đầu tư xây dựng của toàn xã hội tăng liên tục trong những năm qua từ 64950 tỷ đồng năm 1995 lên 70450 tỷ năm 1996, 87685 tỷ năm 1997, và đạt 99440 tỷ năm 1998, nhờ đó tốc độ phát triển định gốc tăng từ 108,47% năm 1996 lên 135% năm 1997, 153,10% năm 1998. Trong đó đặc biệt tăng mạnh nhất là vốn đầu tư xây dựng tự có của các doanh nghiệp nhà nước 6030 tỷ đồng năm 1995 tăng lên 10818 tỷ năm 1996, 15424 tỷ đồng năm 1997, 23300 tỷ đồng năm 1998, do đó nó là nguồn vốn có tốc độ phát triển định gốc vốn đầu tư xây dựng tăng nhanh nhất trong số các vốn đầu tư 179,34% năm 1996 và tăng vọt lên 386,40% năm 1998. Điều này đã phản ánh chính xác chủ trương của Đảng và nhà nước đó là giảm bao cấp trong đầu tư xây dựng nhất là đầu tư từ ngân sách nhà nước, khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước tự bỏ vốn đầu tư. Mặc dù có chủ trương nêu trên, nhưng do đóng vai trò quan trọng việc định hướng phát triển nền kinh tế nên vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong khu vực nhà nước và tăng liên tục trong những năm qua từ 13530 tỷ đồng năm 1995 lên 20816 tỷ đồng năm 1998 với tốc độ phát triển định gốc tăng từ 100,15% năm 1996 lên 153,85% năm 1998. Sự tăng lên này của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước có sự đóng góp rất lớn của ODA. Vốn ODA tăng từ 2200 tỷ đồng năm 1995 lên 5660 tỷ đồng năm 1998, do đó nó có tốc độ phát triển định gốc khá cao từ 182,32% năm 1996 lên 257,27% năm 1998. Vốn tín dụng tuy có quy mô nhỏ nhất trong số các nguồn vốn đầu tư xây dựng của khu vực nhà nước cũng như toàn xã hội, nhưng trong những năm gần đây nhà nước cũng bắt đầu chú trọng đến nguồn vốn này với một lượng vốn tín dụng đầu tư tăng từ 3000 tỷ đồng năm 1995 lên 3100 tỷ đồng năm 1996 và tăng vượt bậc lên 10280 tỷ đồng năm 1998. Sở dĩ có sự tăng đột biến năm 1998 là do có sự suy giảm đầu tư trực tiếp của nước ngoài nên nhà nước phải tăng nguồn vốn này để đảm bảo giữ vững được tốc độ phát triển kinh tế. Nhờ đó nguồn vốn này có tốc độ phát triển định gốc vốn đầu tư rất cao trong năm 1998 là 342,67%. Do những năm trước đây, mặc dù có luật khuyến khích đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài nhưng vì chúng có một số điểm còn hạn chế như: thủ tục hành chính, biểu giá thuê đất, thuế... nên vẫn chưa thu hút được những nhà đầu tư trong và ngoài nước. Do đó vốn đầu tư xây dựng từ khu vực ngoài quốc doanh tăng rất chậm. Như vốn đầu tư của tư nhân và dân cư từ 20000 tỷ đồng năm 1995 giảm xuống 18900 tỷ đồng năm 1996, sau đó tăng lên 20192 tỷ năm 1997 và 23364 tỷ đồng năm 1998 với tốc độ phát triển định gốc là 94,50% năm 1996; 100,96% năm 1997 và 116,82% năm 1998 so với năm 1995. Còn với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thì tuy có tăng liên tục trong 3 năm 1995-1997 với các con số tương ứng là: 22390 tỷ, 24086 tỷ và 31203 tỷ, do đó có tốc độ phát triển định gốc 2 năm 1996-1997 là 107,57% và 139,36%. Nhưng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực châu á, cũng như sự tăng trưởng chậm của các nước khác mà trong năm 1998 nguồn vốn này có hiện tượng sút giảm xuống 21680 tỷ đồng với tốc độ phát triển định gốc là 96,83% tức là đầu tư thấp hơn năm 1995. Một chỉ tiêu khác phản ánh sự biến động của các nguồn đầu tư xây dựng thời kỳ này đó là tốc độ phát triển liên hoàn vốn đầu tư xây dựng thời kỳ 1995-1998. Biểu 3: Tốc độ phát triển liên hoàn các nguồn vốn đầu tư xây dựng thời kỳ 1995-1998. 1995 1996/1995 1997/1996 1998/1997 Tổng số 100 108,47 124,46 113,41 1.Vốn ngân sách nhà nước 100 100,15 124,87 123,03 -Trong đó ODA 100 182,32 112,14 125,83 2.Vốn tín dụng nhà nước 100 103,32 127,19 206,52 3.Vốn các doanh nghiệp NN 100 179,34 142,63 151,06 4.Vốn của tư nhân và dân cư 100 94,50 106,84 115,71 5.FDI 100 107,57 129,55 69,48 (Nguồn Bộ kế hoạch và đầu tư). Qua việc xem xét biểu trên ta nhận thấy, tuy vốn đầu tư tự có của các doanh nghiệp nhà nước có tốc độ phát triển định gốc nhanh nhất nhưng nó lại có sự suy giảm trong tốc độ phát triển liên hoàn: từ 179,34% năm 1996 xuống còn 142,63% năm 1997 và 151,06% năm 1998. Điều này đã phản ánh được hiện tượng thiếu vốn tự có để đầu tư xây dựng là tình trạng vẫn đang tồn tại ở các doanh nghiệp nhà nước. Do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính nên tốc độ phát triển liên hoàn vốn FDI giảm mạnh trong năm 1998 từ 107,57% năm 1996; 129,55% năm 1997 xuống còn 69,48% năm 1998. Hai nguồn vốn có tốc độ phát triển liên hoàn tăng qua các năm: đó là vốn tín dụng nhà nước từ 103,33% năm 1996 lên 260,52% năm 1996 và vốn tư nhân tăng từ 94,5% năm 1996 lên 106,84% năm 1997 và 115,71% năm 1998. Vốn ngân sách nhà nước tuy có tăng trong năm 1997 nhưng sang năm 1998 lại giảm. Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng theo nguồn vốn trong thời kỳ này thay đổi lớn, nếu trước năm 1990 vốn đầu tư xây dựng chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân sách nhà nước, đến năm 1995 vốn đầu tư ngân sách nhà nước chiếm 21,9%, năm 1998 là 20,13%. Vốn đầu tư của dân cư và tư nhân cũng tăng nhanh hơn nhiều so với vốn ngân sách nhà nước. Biểu 4: Cơ cấu các nguồn vốn đầu tư xây dựng thời kỳ 1995-1998 (Đơn vị %) Tổng số 1995 1996/1995 1997/1996 1998/1997 100 100 100 100 1.Vốn ngân sách nhà nước 20,83 19,23 19,30 20,93 -Trong đó ODA 3,39 5,69 5,13 5,69 2.Vốn tín dụng nhà nước 4,62 4,40 4,50 10,34 3.Vốn của các DN nhà nước 9,28 15,35 17,59 23,43 4.Vốn tư nhân và dân cư 30,79 26,83 23,03 23,50 5.FDI 34,47 34,19 35,59 21,80 (Nguồn Bộ kế hoạch và đầu tư). Qua biểu trên ta thấy vì có tốc độ phát triển vốn đầu tư cao nên tỷ trọng vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên đáng kể, từ mức chỉ có 9,25% năm 1995 lên 23,43% năm 1998. Đối với vốn ngân sách nhà nước, mặc dù xét về quy mô thì vốn đầu tư vẫn tăng liên tục qua các năm nhưng tỷ trọng của nó giảm trong 3 năm từ 20,83% năm 1995 xuống 19,30% năm 1997, sau đó lại tăng lên 20,93% năm 1998. Sự tăng giảm thất thường này phản ánh những khó khăn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu đầu tư đã tác động lên ngân sách nhà nước dành cho xây dựng. Mặc dù vậy, trong thời gian này vốn ngân sách nhà nước vẫn dành một tỷ lệ lớn cho giao thông vận tải-bưu điện (32-38%), thuỷ lợi (12-14%), giáo dục, đào tạo và y tế (mỗi ngành cũng chiếm khoảng 5-7%). Ngân sách tập trung của nhà nước và tỷ lệ các ngành này vẫn tăng lên. Sự tác động này cũng ảnh hưởng đến vốn ODA làm cho tỷ trọng của nó trong cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cũng thay đổi từ 3,39% năm 1995 tăng lên 5,69% năm 1996 sau đó giảm xuống còn 5,13% năm 1997, tăng lên 5,69% năm 1998. Nguồn vốn tăng tỷ trọng nhanh nhất là vốn tín dụng nhà nước, từ 4,62% năm 1995 lên 10,34% năm 1998. Sự gia tăng của các nguồn vốn này cho thấy quyết tâm chuyển đổi cơ cấu đầu tư của nhà nước đó là do tình hình ngân sách khó khăn, nhà nước không thể bao cấp cho các công trình đầu tư xây dựng mà chỉ có thể tập trung vào các công trình cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng có khả năng thu hồi vốn nhanh. Tỷ trọng vốn FDI năm 1998 giảm rõ rệt so với những năm trước chỉ còn 21,8% so với 34,48% năm 1995. Tỷ trọng vốn đầu tư xây dựng của tư nhân và dân cư giảm từ 30,79% năm 1995 xuống còn 23,5% năm 1998. Sự suy giảm này chứng tỏ lĩnh vực đầu tư xây dựng chưa có những nét mới để thực sự thu hút vốn đầu tư. Do đó trong thời gian tới chúng ta cần có những biện pháp thích hợp để thu hút được nhiều vốn cho đầu tư xây dựng. III.Tình hình đấu thầu trong đầu tư xây dựng trong thời gian vừa qua 1. Tình hình vận dụng quy chế đấu thầu Sau khi quy chế đấu thầu được chính phủ ban hành ngày 16/7/1996, trên cơ sở phối hợp với các bộ ngành hữu quan. Bộ kế hoạch và đầu tư đã triển khai việc hướng dẫn thực hiện quy chế đấu thầu như: Ban hành các tài liệu hướng dẫn: thông tư liên bộ (kế hoạch và đầu tư - xây dựng - thương mại) số 02/TTLB ngày 25/02/1997. Thông tư hướng dẫn bổ sung 07 BKH/VPXT ngày 29/04/1997của Bộ kế hoạch và đầu tư đối với các dự án có sử dụng vốn đầu tư của nước ngoài. Tổ chức các hội nghị tập huấn về công tác đấu thầu trên cơ sở phối hợp với các bộ ngành, địa phương và cơ sở cũng như các tổ chức quốc tế như: WB, ADB... Nhiều bộ ngành và địa phương cũng đã tiến hành việc soạn thảo và ban hành các văn bản hướng dẫn theo quy chế đấu thầu trong phạm vi ngành và địa phương mình. Tuy nhiên, có một số văn bản hướng dẫn chưa phản ánh được đặc thù của ngành hoặc địa phương, hoặc chưa bám sát được yêu cầu của quy chế đấu thầu và thường có cách làm cũ là chờ có hướng dẫn mới triển khai thực hiện. Do vậy, tình trạng phổ biến hiện nay là nhiều cán bộ có liên quan về đấu thầu đặc biệt là ở một só địa phương chưa hiểu đúng và đầy đủ về quy chế đấu thầu cũng như các tài liệu hướng dẫn có liên quan. Do đó, khi triển khai các công việc như chuẩn bị đấu thầu và xét thầu...ở nhiều nơi còn lúng túng, gây cản trở và làm chậm trễ tiến độ thực hiện của dự án. Nói chung sau khi quy chế đấu thầu được ban hành, do xác định rõ tầm quan trọng cũng như hiệu quả áp dụng quy chế đấu thầu nên nhiều bộ ngành địa phương và cơ sở đã nghiêm chỉnh thực hiện và thật sự quan tâm đến công tác đấu thầu. Điển hình là năm 1997 có 46 đơn vị đã nghiêm chỉnh chấp hành và đã viết báo cáo cho Bộ kế hoạch và đầu tư về tình hình thực hiện công tác đấu thầu của đơn vị mình. Trong đó bao gồm 9 bộ và 8 tổng cục, 14 tổng công ty và 15 địa phương. Năm 1998 có 65 báo cáo gửi về của 20 bộ và tổng cục, 45 tổng công ty và địa phương. Trong đó điển hình là tỉnh Phú Thọ, Đà Nẵng, tổng công ty than Việt Nam, Tổng công ty thép Việt Nam, tổng cục Hải ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34011.doc