Một số vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng (VAT) và sự vận dụng thuế giá trị gia tăng ở VN

Đề tài: Một số vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng và sự vận dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam Lời mở đầu Cơ chế thị trường nước ta được điều hành bằng một hệ thống pháp luật đồng bộ dân chủ và công khai. Hệ thống pháp luật về kinh tế tài chính hoàn chỉnh sẽ là những công cụ điều chỉnh có hiệu lực các hoạt động kinh tế xã hội theo định hướng trước mắt và lâu dài của đất nước, với những quyết định đầy đủ về quyền lợi trách nhiệm, nghĩa vụ của các doanh nghiệp. Sự can thiệp có giới hạn

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng (VAT) và sự vận dụng thuế giá trị gia tăng ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của nhà nước không cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Trong khuôn khổ pháp luật, mọi thành phần kinh tế được tham gia bình đẳng trong sản xuất kinh doanh (trừ lĩnh vực nhà nước cấm). Các yếu tố thị trường quốc dân hoà nhập với thị trường quốc tế, biết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế và sự phát triển không ngừng về nhu cầu tiêu dùng đã tạo ra thị trường đa dạng, phong phú. Bên cạnh mặt tích cực thuận lợi cho việc phát triển kinh tế do cơ chế thị trường, còn nhiều vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Tình hình đó, yêu cầu phải có sự điều tiết mạnh mẽ của nhà nước để sử dụng và phát huy mặt tích cực như một động lực trong công cuộc đổi mới, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Vấn đề cần được quan tâm giải quyết là nhà nước phải có một "chính sách" mang tầm cỡ chiến lược đồng bộ và toàn diện nhằm phát huy tốt các đòn bẩy kinh tế, đặc biệt là về tài chính - tiền tệ. Trong đó, thuế là một trong những công cụ có hiệu quả chủ yếu để thực hiện phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập của các tầng lớp dân cư, góp phần xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế, gắn liền với yêu cầu bảo đảm công bằng xã hội trong cơ chế thị trường. Để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay, nhất là chủ trương " công nghiệp hoá - hiện đại hoá" để đất nước tạo ra sự chuyển biến to lớn. Nhà nước ta tiến hành cải cách và hoàn thiện hệ thống thuế và thuế GTGT được ban hành và đưa vào thực hiện thay cho thuế doanh thu trước đây nhằm khắc phục những nhược điểm của thuế doang thu, đồng thời đưa vào sử dụng một hình thức thuế hiện đaị phù hợp với đặc điểm cơ chế thị trường hiện nay và thông lệ quốc tế. Thuế GTGT là một sắc thuế tiên tiến của hình thức thuế, thể hiện được vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường. Mức độ thành công trong việc áp dụng luật thuế mới này như thế nào tuỳ thuộc vào khả năng vận dụng và thực tế ở mỗi nước. Xung quanh việc áp dụng VAT, vào Việt Nam còn rất nhiều băn khoăn, khúc mắc từ giá, thuế suất, hay là khấu trừ thuế… Ngoài những thành công đã đạt được. Ta cần nghiên cứu sâu những khó khăn, khúc mắc tìm ra nguyên nhân để từ đó có những giải pháp, hướng khắc phục nhằm hoàn thiện hơn luật thuế GTGT, đồng thời nhằm đạt hiệu quả cao trong khi áp dụng luật thuế này. Đề tài được hoàn thành nhờ có sự tìm hiểu sách báo, tạp chí, nghiên cứu các vấn đề về thuế GTGT và có sự hướng dẫn của thầy cô phụ trách. Chương I Lý thuyết về thuế giá trị gia tăng (GTGT). 1. Khái niệm và đặc điểm. 1.1. Khái niệm: Thuế GTGT là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào ngân sách theo mức độ tiêu thụ hàng hoá dịch vụ. 1.2. đặc điểm của thuế GTGT. Thuế GTGT đánh vào các gia đoạn sản xuất kinh doanh nhưng chỉ tính phần giá trị tăng thêm của mỗi giai đoạn. Vì thế, tổng số thuế thu được ở các giai đoạn sẽ bằng với số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Đối tượng điều tiết của thuế GTGT là phần thu nhập của người tiêu dùng sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ. Như vậy về nguyên tắc chỉ cần thu thu thuế ở khâu bán hàng cuối cùng là đủ. Tuy nhiên trên thực tế rất khó phân biệt đâu là tiêu dùng cuối cùng và đâu là tiêu dùng trung gian vì thế cứ có hành vi mua hàng là phải tính thuế. Nếu là tiêu dùng trung gian thì số thuế đó sẽ tự động chuyển vào giá bán hàng cho người mua ở gia đoạn sau. Bên cạnh đó, thuế GTGT còn có tính trung lập kinh tế cao. Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của người nộp thuế, không phải là yếu tố của chi phí mà chỉ đơn thuần là một khoản cộng thêm vào giá bán cho người cung cấp hàng hoá dịch vụ. Thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia các chu trình kinh tế. Như ta đã biết GTGT là phần giá trị mới được tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nó được xác định bằng chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và tiêu thụ với tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng tổng GTGT ở tất cả các giai đoạn luân chuyển có giá trị bằng giá bán của sản phẩm ở giai đoạn cuối cùng, nên việc thu thuế trên GTGT ở từng giai đoạn đảm bảo cho tổng số thuế thu được tương đương với số thuế tính trên giá bán trong giai đoạn cuối cùng. Chính vì thế quá trình tổ chức kinh tế và phân chia các chu trình kinh tế có diễn ra dài hay ngắn hay như thế nào đi nữa thì thuế GTGT cũng không bị ảnh hưởng. Và tổng số thuế ở các giai đoạn luôn khớp với số tính thuế trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số giai đoạn nhiều hay ít. ở nước ta thuế GTGT được nghiên cứu từ khi tiến hành cải cách thuế bước một (1990) ban hành thành luật và được thông qua tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá 9 ngày 10/5/97 để chính thức áp dụng từ 01/01/99. 2. Nội dung cơ bản của VAT. 2.1. Đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế GTGT. * Đối tượng chịu thuế: Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT của nhà nước quy định đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá và dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh, tiêu dùng ở Việt Nam. * Hàng hoá chịu VAT bao gồm: - Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng ở Việt Nam. - Hàng hoá, dịch vụ được nhập khẩu để tiêu dùng trong nước. - Hàng hoá và dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng nội bộ. - Hàng hoá và dịch vụ được mua, bán dưới mọi hình thức, bao gồm cả trao đổi bằng hiện vật. ở nước ta quy định danh mục 26 loại hàng hoá dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT nhưng hàng hoá đó thường có trong các tổ chức sau: Là sản phẩm của một số ngành đang còn khó khăn, cần khuyến khích tạo điều kiện phát triển như: sản xuất nông nghiệp, máy móc nhập khẩu mà trong nước chưa sản xuất được ... Các hàng hoá dịch vụ thuộc các hoạt động không mang tính chất kinh doanh vì lợi nhuận hoặc thuộc các hoạt động được ưu đãi vì mục tiêu nhân đạo, xã hội: Vũ khí khí tài phục vụ an ninh, quốc phòng, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh ... Một số hàng hoá dịc vụ thiết yếu phục vụ nhu cầu đời sống sản xuất cộng đồng: dịch vụ y tế, văn hoá, giáo dục, thông tin đại chúng, vận chuyển khách công cộng bằng xe buýt ... Tổ chức, cá nhân mua bán, nhập khẩu hàng hoá, cung ứng dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào của các hàng hoá và dịch vụ này. Còn đối tượng nộp thuế: Là tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ chịu VAT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề hình thức tổ chức kinh doanh, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu VAT. 2.2. Căn cứ tính. Luật thuế VAT áp dụng ở Việt Nam phân biệt 4 mức thuế suất khác nhau: 0%, 5%, 10% và 20% áp dụng đối với từng nhóm mặt hàng sản xuất hoặc nhập khẩu. Việc quy định các mức thuế suất khác nhau thể hiện chính sách điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng đối với hàng hoá dịch vụ. trong điều kiện hiện nay ở nước ta, mặt bằng kinh doanh của các ngành nghề chưa đồng nhất, nên phân biệt mức thuế suất VAT khác nhau đối với từng nhóm mặt hàng là sự cần thiết. Hàng hoá nhập khẩu bao gồm tất cả hàng gia công xuất khẩu (xuất khẩu ra nước ngoài hoặc khu chế xuất) được áp dụng mức thuế suất 0% nhằm thực hiện hoàn thuế đã thu ở khâu trước và khuyến khích xuất khẩu. Những hàng hoá dịch vụ thiết yếu, phục vụ trực tiếp cho sản xuất và tiêu dùng được áp dụng mức thuế suất thấp là 5%. Các hàng hoá dịch vụ không thiết yếu, cần thiết có mức thuế suất cao là 20%. Các hàng hoá Dịch vụ thông thường áp dụng mức thuế suất là 10% căn cứ tính: Nếu cơ sở sản xuất kinh doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ chịucác mức thuế suất khác nhau thì phải tổ chức hạch toán riêng doanh thu từng loại hàng hoá, Dịch vụ kinh doanh theo từng mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng hoá riêng biệt. Nếu không hạch toán như vậy thì doanh nghiệp phải tính thuế GTGT theo mức thuế suất cao nhất của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở sản xuất kinh doanh trên tổng doanh thu của tất cả các loại hàng hoá dịch vụ bán ra trong kỳ. 2.3. Phương pháp tính thuế. 2.3.1. Phương pháp khấu trừ thuế. * Điều kiện ta xét về đối tượng áp dụng. Các đơn vị, tổ chức kinh doanh chấp hành tốt công tác hạch toán và chế độ sử dụng hoá đơn chứng từ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và các tổ chức sản xuất kinh doanh khác. Trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. * VAT phải nộp được xác định như sau: = - Theo phương pháp này người ta tính thuế trên toàn bộ giá trị hoá đơn bán ra sau đó trừ đi số thuế đã có trên các hoá đơn hàng hoá, Dịch vụ mua vào để xác định số thuế phải nộp trong kỳ hạch toán. Trước hết cần xác định thuế GTGT đầu ra theo công thức sau đây: Thuế GTGT đầu ra Giá tính thuế của = hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra Thuế suất thuế GTGT x của hàng hoá dịch vụ đó * Phương pháp khấu trừ thuế: Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ khi bán ra hàng hoá, dịch vụ phải tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá Dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ hàng hoá bán ra chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Riêng đối với hàng hoá Dịch vụ đặc thù được dùng loại chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế, thì giá chưa có thuế và thuế GTGT đầu ra được xác định: Thuế GTGT = Giá thanh toán x Thuế suất thuế GTGT 1 + % thuế suất Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, Dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá nhập khẩu. * Phương pháp khấu trừ thuế có ưu điểm là? - Đơn giản hoá được quá trình tính và thu thuế bằng cách chỉ cần tập hợp các hoá đơn bán và mua hàng đã tính sẵn số thuế đầu ra và số thuế đầu vào trên đó. - Đảm bảo được số thu thuế cần thiết ở người mua hàng cuối cùng vì đây thực chất là phương pháp trừ lùi số đã nộp để xác định số còn phải nộp. 2.3.2. Phương pháp trực tiếp trên GTGT. * Đối tượng áp dụng: - Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam. - Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ. - Cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý ngoại tệ. * Xác định thuế GTGT phải nộp: Thuế GTGT Phải nộp GTGT của = hàng hoá, dịch x vụ chịu thuế bán ra Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá dịch vụ đó Thuế GTGT hàng hoá, dịch vụ chịu thuế Giá thanh toán = của hàng hoá, - dịch vụ bán ra Giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng - Giá thanh toán của hàng hoá, Dịch vụ bán ra là giá bán thực tế bên phải mua thanh toán cho bên bán bao gồm cả VAT và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả. - Giá thị trường của hàng hoá Dịch vụ mua vào tương ứng với hàng hoá Dịch vụ bán ra được xác định bằng giá trị hàng hoá dịch vụ mua vào (cả VAT) mà cơ sở sản xuất, kinh doanh đã dùng vào sản xuất kinh doanh. Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán doanh số hàng hoá, vật tư dịch vụ mua vào tương ứng với doanh số bán ra được xác định như sau: Giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào trong kỳ +tương ứng với hàng hoá bán ra Giá trị hàng = tồn kho đầu kỳ Giá trị hàng + mua vào - trong kỳ Giá trị hàng tồn kho cuối kỳ Ngoài ra GTGT còn được xác định đối với một số ngành nghề cụ thể. Tuy vào kinh doanh của mỗi ngành có tính chất đặc thù khác nhau thì VAT được xác định khác nhau. Bên cạnh đó, luật thuế GTGT còn xem xét đến vấn đề miễn giảm thuế và hoàn thuế GTGT như thế nào cho hợp lý. Luật quy định đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế GTGT tuỳ theo từng cơ sở kinh doanh tương ứng và chế độ miễn giảm VAT phù hợp để vừa đảm bảo số thu cho NSNN nhưng cũng đảm bảo phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tích cực sản xuất kinh doanh. 3. Vai trò của VAT. Trong quá trình thực hiện thuế GTGT đã thể hiện được một số vai trò nổi bật sau: Thứ nhất: VAT góp phần thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá dịch vụ ... vì thế VAT đã khắc phục được tình trạng trùng lắp của thuế doanh thu. Thứ hai: Bảo đảm nguồn thu quan trọng và ổn định cho NSNN, VAT huy động và xác định ngay từ khâu đầu và việc thu VAT ở khâu sau còn kiểm tra việc tính VAT đã nộp ở khâu trước nên hạn chế được việc thất thu thuế, kiểm soát được nguồn thu trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Thứ ba: Thuế GTGT góp phần tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá phải có đầy đủ chứng từ hoá đơn hợp lệ theo luật định. Việc đăng ký mã thuế cùng với phương pháp khấu trừ thuế đã buộc cả người mua, người bán thực hiện tốt hơn chế độ hoá đơn, chứng từ trong các hoạt động thanh toán. Kể từ khi luật thuế GTGT chính thức được thực thi, Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản pháp quy để hướng dẫn sửa đổi bổ sung. Thuế GTGT đã và đang từng bước được hoàn thiện, khắc phục những tồn tại vốn có trong thời kỳ chuyển đổi và ngày một phát huy vai trò của thuế GTGT trong nền kinh tế thị trường đầy biến động, đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn của một sắc thuế trong điều kiện kinh tế thị trường. 4. Tác động của VAT đến kinh tế xã hội. 4.1. Tác động đến giá cả và lạm phát. Thông thường giá cả và lạm phát tăng hay giảm do nhiều yếu tố tác động, cả về kinh tế và xã hội. Trong cơ chế thị trường, quy luật cung cầu, quy luật giá trị cũng có tác động rất lớn đến giá cả và lạm phát. Do đó, nếu khẳng định việc ban hành một hệ thống thuế nói chung và VAT nói riêng có tác động đến mức nào với giá cả, lạm phát, thường là khó xác định. Có người cho rằng, việc ban hành thuế GTGT sẽ làm tăng giá cả và lạm phát. Tuy nhiên ở nhiều nước, trong quá trình nghiên cứu ảnh hưởng của thuế GTGT đối với giá cả và lạm phát, người ta đã đi đến kết luận là đến nay, chưa có căn cứ khoa học nào để khẳng định rằng bản chất thuế GTGT có thể gây lạm phát. Nếu có ảnh hưởng nào đó của thuế GTGT đến giá cả, thì những ảnh hưởng này sẽ chỉ là một phần, chứ không thể là tất cả. Về lý thuyết, thuế GTGT thuộc loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá. Vì vậy, việc ban hành thuế GTGT có liên quan và tác động trực tiếp đến giá cả là tất nhiên. Vấn đề cần được xem xét là trên thực tế, đối với từng ngành nghề, từng loại sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cũng như trên toàn cục của nền kinh tế, việc ban hành thuế gián thu nói chung, VAT có ảnh hưởng đến giá cả trong phạm vi rộng hay hẹp, đến khu vực sản xuất hoặc khu vực khác như thế nào còn tuỳ thuộc vào mức độ thuế suất, nội dung và tổ chức thực hiện có phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội, với trình độ dân trí ... hay không? Về nguyên tắc, khi thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT với mức động viên cuối cùng như nhau thì ảnh hưởng của thuế GTGT ngang với ảnh hưởng của thuế doanh thu đối với giá. Tuy vậy, nếu nhà nước không có biện pháp quản lý, kiểm tra giá cả, để cho các cơ sở kinh doanh lợi dụng, vin vào thuế mới để tăng giá thì vô hình trung, giá cả sẽ có tác động xấu. Khi áp dụng thuế GTGT thì giá cả hàng hoá Dịch vụ nhìn chung có khuynh hướng tăng lên sở dĩ xảy ra hiện tượng này là do sự không am hiểu hoặc cố tình không hiểu về thuế GTGT. Bởi vì, việc thực hiện thuế doanh thu trải qua một thời gian khá dài, đã ăn sâu vào tiềm thức của con người tiêu dùng. Cho dù thuế doanh thu là thuế gián thu, song được tính chung vào trong giá bán hàng hoá Dịch vụ nên người tiêu dùng khó nhận biết được mình chính là người chịu thuế còn các doanh nghiệp bán hàng chỉ là người thu hộ cho nhà nước mà họ luôn cho rằng đây là khoản thuế đánh vào các doanh nghiệp do vậy áp dụng thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu, mặc dù nó cũng là một loại thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng song cơ chế hạch toán thay thế, có nghĩa là thuế GTGT được tách ra khỏi giá bán hàng hoá, Dịch vụ. Điều này khiến cho người mua hàng thấy rõ khopản thuế của mình phải nộp cho nhà nước nên họ cảm giác mình phải nộp một loại thuế mới mà trước đây khi mua hàng họ không phải chịu và đóng góp. Lợi dụng yếu tố này các doang nghiệp đã nâng giá bán hàng hoá Dịch vụ lên để trục lợi và có khả năng làm gia tăng lạm phát thất thoát thu hẹp thị trường tiêu dùng hạn chế khả năng đầu tư vốn của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Do vậy làm quy mô hoạt động của các doanh nghiệp bị thu hẹp làm cho cơ cấu kinh tế bị biến động chuyển dịch mất cân đối, tốc độ tăng trưởng có khả năng suy giảm. Tình hình lạm phát ở từng nước sảy ra thường do nhiều nguyên nhân trong đó có các nguyên nhân khá quan trọng về sự phát triển chậm hay giảm sút về kinh tế do chính sách vĩ mô hay điều hành của nhà nước; kinh tế không cân đối được thu chi, thu không đủ chi; do tác động của giá cả vì giá cả vừa là nguyên nhân nhưng cũng vừa là hậu quả của lạm phát, vì vậy không thể đánh giá tác động cụ thể của chính sách thuế GTGT một cách riêng rẽ. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng nếu việc cải cách chính sách thuế nói chung thuế GTGT nói riêng phù hợp với quy luật phát triển kinh tế thị trường, sẽ có tác động tích cực tới phát triển kinh tế bảo đảm nguồn thu ngân sách, do đó sẽ có tác động tốt, ngăn chặn hay hạn chế lạm phát. Ngược lại, nếu đưa ra mức thuế quá cao hay quá thấp sẽ có ảnh hưởng đến kết quả thu ngân sách và lạm phát. Việc đánh gía tác động của chính sách thuế GTGT đến lạm phát không thể xem xét một cách phiến diện, cục bộ, mà phải được phân biệt một cách khách quan, toàn diện, cục bộ mà phải được phân biệt một cách khách quan, toàn diện khoa học trong mối quan hệ với khu vực quốc tế trong từng thời kỳ nhất định xấu. Tóm l ại, chính sách VAT cũng có những tác động tới giá cả và lạm phát nhất định nhưng nếu nhà nước là những người quản lý có những biện pháp kiểm tra, quản lý thì giảm mức độ tác động xấu tới giá cả và lạm phát và tới nền kinh tế xã hội. 4.2 Tác động của VAT tới thu ngân sách nhà nước (NSNN). Thuế GTGT có thể tạo nguồn thu ngày tăng cho NSNN, thông qua việc mở rộng và bao quát diện đánh thuế đối với mọi hoạt động nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Mặt khác, VAT bảo đảm việcthu tập trung phần lớn số thuế đánh vào từng sản phẩm hàng hoá ngay từ khâu đầu, đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn, có khả năng hạn chế thất thu ngân sách tốt hơn thuế doanh thu. Việc thu thuế khấu trừ và khấu trừ lại dựa trên hoá đơn chứng từ thúc đẩy việc mua bán có hoá đơn làm cho việc thu thuế sát với thực tế kinh doanh. Và thất thu ở khâu trước sẽ được khắc phục ở khâu sau. Tuy nhiên cũng không thể xây dựng mức thuế suất thuế GTGT quá cao, gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, tác động không tốt tới hoạt đông sản xuất kinh doanh và đến NSNN. Vào thời điểm luật thuế GTGT được phê chuẩn, cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ chưa sảy ra trầm trọng. Sự cố phát sinh này nằm ngoài ý muốn của các nhà làm luật Việt Nam và ảnh hưởng lớn đến quyết định về triển khai áp dụng thuế GTGT. Vì thế yêu cầu được đặt ra là phải đảm bảo ổn định thu NSNN, ổn định kinh tế vĩ mô ... Thực tế khi áp dụng VAT, một loại thuế hoàn toàn mới, nên các đối tượng liên quan chưa thông, nếu chưa được chuẩn bị kỹ, chắc chắn sẽ gây biến động tới thu NSNN. Nếu thu NSNN không đạt yêu cầu, bội chi sẽ tăng, việc điều hành ngân sách càng khó khăn, lúng túng. Và sẽ dẫn đến bất ổn định vị mô. Ngược lại, nếu như có chuẩn bị kỹ càng, có tập dượt sâu rộng trước khi triển khai áp dụng, trong quá trình thực hiện có sự kiểm tra, quản lý chính sách phù hợp, thích hợp với đặc điểm của kinh tế thị trường, thì thuế GTGT có thể tạo số thu cho NSNN một cách tích cực, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và xây dựng các mức thuế suất hợp lý, bảo đảm số thuế GTGT tương đương hoặc cao hơn một chút so với thuế doanh thu, sẽ mang tính khả thi hơn. Qua đây, ta mới thấy VAT cũng có mặt tích cực và tiêu cực đối với thu NSNN. Cả hai mặt đều ảnh hưởng tới NSNN. Tác độngtiêu cực hay tích cực, nhiều hay ít là phụ thuộc vào việc điều hành và quản lý thuế GTGT. 4.3 Tác động của VAT tới các doanh nghiệp. Về mặt lý thuyết thuế GTGTlà đơn giản và trung lập về kinh tế, nhưng trong thực tế, việc triển khai hạch toán và kiểm tra thuế GTGT tại từng doanh nghiệp không phải là công việc đơn giản. Thật vậy, nếu trước đây, kế toán doanh nghiệp và cán bộ thuế chỉ cần lấy doanh thu nhân với mức thuế suất x% là ra ngay kết quả cần tìm, thì khi áp dụng luật thuế mới, nhiều khi cả doanh nghiệp và cơ quan thuế phải ngồi xác định đâu là thuế đầu vào, thuế đầu ra thuế được khấu trừ, thuế không được khấu trừ ... khối lượng công việc này thật là khổng lồ. Trên thực tế, thuế GTGT cũng ít nhiều ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm. Điều đó sẽ kéo theo nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong cạnh tranh và quyết định giá bán. Đặc biệt, trong bối cảnh đang còn nhiều khó khăn về tổng cầu trong nền kinh tế, cứ bán theo giá cũ đã khó huống chi phải chịu áp lực tăng giá. Doanh nghiệp rơi vào các vòng luẩn quẩn: hông bán được hàng hoặc không thu hồi được vốn dẫn đến không tái sản xuất được, không đổi mới được công nghệ hoặc không hạ được giá thành và không tăng được chất lượng sản phẩm đãn tới hàng hoá lại càng ứ đọng, không bán được ... nguyên nhân là do có sự hiểu lầm về thuế GTGT: - Do "hiệu ứng tâm lý", xuất phát từ nhận thức không đồng đều và tác động của việc thay thuế GTGT cho thuế doanh thu kéo theo cách thức sử lý khác nhau trong chiến lược thương mại, dẫn đến bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Hiện tượng này sẽ chấm dứt khi thuế GTGT được phổ biến rộng rãi và kỹ lưỡng. - Việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam có gây ảnh hưởng trực tiếp đén các doanh nghiệp hoạt động nhập khẩu vì hàng nhập khẩu phải chịu thêm thuế này ngoài thuế nhập khẩu hiện hành. Mặt khác, những quy định về thời hạn và số tiền phải hoàn lại cho các doanh nghiệp có số thuế GTGT phải nộp âm cũng là một vấn đề cần được quy định cụ thể, công khai chấp hành nghiêm chỉnh, nhất là về phía nhà nước. Nhằm tránh các rủi ro về vốn, rủi ro về lãi suất hoặc tỷ giá cho các doanh nghiệp này khi họ phải ứng ra một số vốn lớn để thanh toán VAT khi mua hàng hoá nhập khẩu hàng hoá. Nếu các doanh nghiệp, những tế bào của nền kinh tế, chịu ảnh hưởng sấu phát sinh từ việc áp dụng thuế mới này nền kinh tế lại càng khó phục hồi khi đó những mục tiêu lớn cũng khó mà thực hiện được. Nhưng VAT cũng có tác động tốt tới doanh nghiệp nếu như mức thuế suất áp dụng cơ chế thực hiện thích hợp tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đồng thời cũng là phát triển sản xuất nói chung. Chương II Thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam 1. Sự cần thiết của việc ban hành thuế GTGT. 1.1 . mục tiêu yêu cầu của việc ban hành thuế GTGT. Việc ban hành luật thuế GTGT thay thế thuế doanh thu ở Việt Nam nhằm những mục tiêu yêu cầu chủ yếu sau: - Thứ nhất, hạn chế những nhược điểm còn tồn tại của thuế doanh thu và nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, kích thích các ngành nghề phát triển. - Thứ hai, thuế GTGT được ban hành gắn với việc sửa đổi bổ sung một số sắc thuế khác (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp ... ) làm cho hình thức thuế Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp với cơ chế thị trường hơn, tương đồng với hình thức thuế trong khu vực và trên thế giới góp phần tạo ra môi trường tốt cho việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. - Thứ ba, VAT ra đời còn thúc đẩy việc tăng cường thực hiện chế độ hoá đơn, sổ kế toán và hạch toán kinh tế đối với các nhà doanh nghiệp, đảm bảo số thu ngày càng sát hơn với thực tế hoạt động của từng cơ sở kinh doanh, tập trung được nguồn thu thuế GTGT vào NSNN ngay từ khâu sản xuất, hạn chế được thất thu về thuế ... 1.2 Sự cần thiết của việc ban hành thuế GTGT thay cho thuế doanh thu. Chỉ có sản xuất mới tạo ra của cải vật chất cho xã hội và nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Do đó Nhà nước phải có trách nhiệm quan tâm, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, lưu thông được thông suốt. Một môi trường đầu tư được coi là thuận lợi nếu trong đó có những cơ chế chính sách được qui định phù hợp, rõ ràng ổn định, ít biến động để tạo cho doanh nghiệp yên tâm bỏ vốn vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Qua việc thực hiện hệ thống thuế mới, đã tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển ổn định, khu vực kinh tế nhà nước được xắp xếp hợp lý hơn, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động ngày càng có hiệu quả, trình độ tổ chức và quản lý kinh doanh ngày càng tốt hơn. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được hình thành, phát triển đưới nhiều hình thức tư nhân, với tính năng động trong tổ chức quản lý và hoạt động kinh doanh đã góp phần làm cho nền kinh tế nước ta phát triển. Khu vực các doanh nghiệp hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày càng phát triển đa dạng, góp phần khong nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội nước ta trong những năm qua. ở nước ta, cùng với các loại thuế gián thu khác. Thuế doanh thu đã được áp dụng từ lâu, trước kia có tên là thuế doanh nghiệp, sau cải cách có tên là thuế doanh thu với đặc trưng cơ bản là có nhiều thuế suất phân biệt theo ngành hàng, mặt hàng; thuế thu hàng tháng và tính trên tổng doanh thu bán hàng thuế doanh thu có ưu điểm là tính toán đơn giản, thu dứt điểm ở từng lần bán hàng mà không phải thoái trả số thuế đã thu ở lần trước. Tuy nhiên bên cạnh những mặt ưu điểm thuế doanh thu cũng bộc lộ nhiều nhược điểm, đồng thời cũng là khuyết tật của hệ thống chính sách thuế mới. Nhược điểm lớn nhất là việc thu thuế doanh thu còn trùng lắp. Theo quy định của luật thuế doanh thu, đối tượng chịu thuế là toàn bộ số tiền thu được từ sản xuất kinh doanh, điều đó đã làm cho việc tính thuế, thu nộp thuế bị trùng lắp, thuế thu chồng lên thuế. Bên cạnh hoạt động sản xuấtkd xuất khẩu chưa được xem xét ưu đãi đúng mức. Việc quy định quá nhiều thuế suất (11 mức thuế suất; thấp nhất là0,5%, cao nhất là 30%) của luật thuế doanh thu tạo cho đối tượng nộp thuế dễ lợi dụng để tính nộp thuế dưới mức nghĩa vụ quy định. Do đó, thuế doanh thu không phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Để khắc phục những mặt hạn chế của luật doanh thu trước cải cách thuế đối II Quốc hội đã quyết định áp dụng luật thuế GTGT thay cho thuế doanh thu và chính thức được thi hành từ 1/1/1999 GTGT là thuế tính tiền khoản giá trị tăng thêm của h2 dịch vụ ở từng khâu bán hàng nên nó không trùng lặp, thuế GTGTchỉ đánh vào phần giá trị đã chịu thuế ở khâu trước đó trở nên rất khoa học và cần thiết đối với CNH - HĐH đưong nhiên nó rất phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay. Việc chuyển đổi hoàn toàn không tínhvà thu thuế doanh thu băng thuế GTGT thể hiện bước đi đúng đắn của quá trình cải cách thuế giai đoạn II ở Việt Nam đồng thời nó cũng được đánh giá là hoàn toàn mới chưa từng có trong lịch sử tài ính nước nhà.' Chính vì thế cho dù thuế GTGTmang lại những lợi ích cơ bản cho nền kinh tế nhưng truớc, trong cả nhận thức và thực tế từ hướng dẫn đến chiển khai áp dụng sẽ có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh ra gây không ít khó khăn cho nhiều đối tượng mặc dù vậy cải cách thuế đợt II là một sự cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. 2. Điều kiện cần thiết để áp dung thuế GTGT ở Việt Nam Những điều kiện cần thiết cho việc áp dụng thuế GTGT: Một là, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, mua bán hàng hoá lớn và vừa phải thựchiện đầy đủ chế độ hoá đơn chứng từnthuận tiện cho việc kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trù thuế đối với từng cơ sở kinh doanh. Hai là, trình độ cán bộ quản lý, tính thuế được nâng cao về chế độ hoá đơn chứng từ, sổ kế toán, thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế hoàn thuế GTGT. Các cơ quan thuế từng bước được trang bị hệ thống máy tính, cán bộ cơ quan thuế ngày càng thông thạo sử dụng các mạng máy tính, đạt hiệu quản cao làm cho công tác thu nộp thuế ngày càng được kiểm tra chặt chẽ hơn, nhanh gọn hơn. Ba là, mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định doanh thu án hàng làm căn cứ cho việc tính thuế được xác định. Bốn là, ý thức tự nguyện, tự giác chấp hành các luật thuế của các doanh nghiệp từng bước được nâng cao theo phương châm tăng cường "đức trị" gắn với việc xử lý các vi phạm về thuế nghiêm minh theo phương châm "pháp trị". Năm là, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đưa dần việc thực hiện pháp luật vào nề nếp, kỷ cương, cả trong nhận thức tư tưởng và hoạt động thực tế. Ngoài ra còn có các điều kiện khác vừa nhằm giúp cho cho việc áp dụng luật thuế GTGT đạt hiệu quả cao. Mỗi điều kiện đều có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau, đồng thời có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để việc triển khai luật thuế GTGT được đồng bộ Chương III Thực trạng thực hiện thuế giá trị gia tăng trong những năm qua ở Việt Nam 1. Một số thành tựu đạt được. Việc triển khai thựchiện các luật thuế mới và đặc biệt là việc áp dụng thuế GTGT đã đạt được một số kết quả bước đầu đáp ứng được những mục tiêu đề ra. Mặc dù đây là khoản thời gian nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăndo bị tác động của cuộc khủng khoảng kinh tế - tài chính tiền tệ trong khu vực, hạn hán rồi bão lụt xảy ra nghiệm trọng ở các tỉnh Tây Nguyên và Miền trung, rồi nhiều khó khăn khác nữa. mà theo yêu cầu của bộ chính trị đề ra là phải bảo đảm công bằng về quyền lợi nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh trong nền kinh tế, giúp cho các donh nghiệp ổn định được hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường hoạch toán kinh tế, nâng cao năng lực quản lý, nâng cai khả năng cạnh tranh trong nước và trên thị trường quốc tế, bảo đảm không ảnh hưởng lớn đến kế hoạch thu của ngân sách trung ương trong những năm đầu thực hiện. Tạo điều kiện để ngân sách địa phương ổn định được nguồn thu, nâng dần tỷ lệ các địa phương cân đối ngân sách và đóng góp cho ngân sách trung ương. bảo đảm ổn định thị trường trong nước, tránh gây ra những biến động về giá cả đặc biệt là giá cả vật tư, hàng hoá quan trọng dùng cho sản xuất và tiêu dùng thiết yếu đó ổn định sản xuất, không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Sau một thời gian triển khai thực hiện các luật thuế mới đã đạt được những kết quả nhất định góp phần cho nền kinh tế ổn định. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24269.doc
Tài liệu liên quan