Lời mở đầu
Hiện nay nước ta đang hội nhập theo nền kinh tế Thế giới với chính sách mở cửa hợp tác với các nước. Ngay từ đầu, Đảng ta đã đưa ra quan điểm rõ ràng "Một nền kinh tế phát triển theo mô hình nền kinh tế nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và dưới sự quản lý của nhà nước". Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta chiụ tác động của nhiều nhân tố khách quan, một trong những nhân tố khách quan chủ yếu là quy luật giá trị. Đó là một quy luật kinh tế căn bản nó tác độn
23 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1618 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề cơ bản về quy luật giá trị. Thực trạng về vận dụng quy luật giá trị và những giải pháp để vận dụng tốt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g vào nền kinh tế như một tất yếu khách quan, ở đâu có hàng hoá và sản xuất hàng hoá thì quy luật giá trị còn tồn tại và phát sinh tác dụng, thông qua đó ta thấy vai trò to lớn của quy luật giá trị nó duy trì và mở rộng sản xuất của xí nghiệp và của xã hội. Việc phân phối thu nhập quốc dân và theo đó đạt những cân đối cần thiết của nền kinh tế theo hình thức giá trị, mặt khác nó còn kích thích sản xuất dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết, đồng thời tính toán kinh tế để bố trí lực lượng sản xuất trong cả nước nhằm thực hiện tốt yêu cầu của quy luật phát triển kinh tế có kế hoạch. Với những vai trò đó quy luật giá trị tác động mạnh trong phân phối xã hội chủ nghĩa: Phân phối theo lao động thông qua giá cả, tiền tệ... nó có tác động đẩy nhanh hoặc kìm hãm tốc độ thực hiện kế hoạch lưu thông, hoàn thiện hoặc phá vỡ kế hoạch đó.
Nhưng trong đó nhân tố giá cả là yếu tố biểu hiện cơ bản của quy luật gía trị. Trong thực trạng nước ta hiện nay nó đang biểu hiện nhiều mặt tích cực, kích thích lưu thông nâng cao hiệu quả sản xuất, nhưng bên cạnh nó những biểu hiện nhiều mặt tiêu cực... Hạn chế rất lớn đối với sự phát triển của nước ta hiện nay vì vậy cần phải nghiên cứu kỹ quy luật giá trị để có những hiểu biết thêm về những biểu hiện mới của nó từ đó có những chính sách và hướng đi rõ ràng cụ thể để nước ta ngày càng phát triển đi lên.
Bố cục đề án gồm chương I và chương II.
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về quy luật giá trị.
Chương II: Thực trạng về vận dụng quy luật giá trị
và những giải pháp để vận dụng tốt.
Nội dung:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về quy luật giá trị
và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường.
1.1. Tính tất yếu khách quan.
1.1.1. Lý thuyết giá trị khách quan.
Quan điểm khách quan về giá trị là lý thuyết cho rằng giá trị tức là cái cơ sở, cái quyết định trong quan hệ trao đổi, không phải gì khác là gía trị sử dụng của vật được hiểu như chất tự nhiên tồn tại trong vật, thực chất của quan điểm này là đồng nhất giá trị và giá trị sử dụng. Đó chính là gía trị về kinh tế của vật. Đó là cơ sở để xem xét quá trình sản xuất như quá trình tạo ra giá trị sử dụng và đó là cơ sở để phân tích sự gia tăng của của cải xã hội.
1.1.2. Lý thuyết giá trị chủ quan.
Lý thuyết giá trị chủ quan đồng nhất giá trị với giá trị sử dụng của vật với tính hữu ích của vật, nhưng cách hiểu "tính hữu ích" đối lập nhau và quan điểm giá trị chủ quan đã cường điệu một trong những nhân tố ảnh hưởng lên giá trị trao đổi của hàng hoá là ý thức, tâm lý chủ quan của cá nhân.
1.1.3. Lý luận giá trị lợi ích biên.
Nội dung cơ bản của học thuyết này là: Đối với những hàng hóa cùng loại thì giá trị, giá cả của chúng không nhất thiết phải bằng nhau. Sự khác biệt nhau về giá trị do chúng được hướng tới để thoả mãn các nhu cầu khác nhau. Nhu cầu càng cấp thiết thì giá trị, giá cả của hàng hoá càng cao. Một hàng hoá có thể thoả mãn nhiều nhu cầu nhưng nhu cầu thực tế nó sẽ thoả mãn mới quyết định đến giá cả. Nói cách khác "giá trị của vật được đo bằng lợi ích cận biên của vật đó".
1.2. Quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại phương tây.
1.2.1. Quan điểm của Smit và Ricardo .
Các nhà kinh tế học hiện đại phương tây đề cao quy luật cung cầu coi quy luật đó là quy luật tạo thế cân bằng sản xuất chi phối quyết định giá (ngược với Mác) và lảng tránh quy luật giá trị. Theo Smit người đầu tiên đề cập đến lao động xã hội với tư cách thước đo giá trị hàng, ông đề cao tính tự do, trật tự, tự nhiên "sản phẩm được chế tạo ra thông thường trong hai ngày hoặc hai giờ sẽ có giá trị gấp đôi sản phẩm được chế tạo ra thông thường trong một ngày hay một giờ". Ông không thấy được quy luật giá trị là trung tâm, của cánh tay vô hình. Theo quan điểm của Ricardo ông cho rằng giá trị của hàng hoá được xác định bởi lượng lao động cần thiết để chế tạo ra hàng hoá trong những điều kiện xấu nhất. Giá trị của hàng hoá bị điều tiết bởi lao động thủ công, ông chưa thấy rõ vai trò to lớn của quy luật giá trị.
1.2.2. Quan điểm của Mác.
1.2.2.1. Yêu cầu, nội dung của quy luật giá trị.
Ông cho rằng lao động với tư cách là thước đo giá trị, đó là lao động của xã hội như một chỉnh thể, trong đó các lao động tư nhân chỉ là "khí quan" của một sức lao động thống nhất, là những "khâu" của lao động tổng thể. Do đó lao động tư nhân chỉ là hình thức biểu hiện của lao động tổng thể này. Trong nền sản xuất hàng hoá thì mối quan hệ giữa lao động tư nhân và lao động xã hội bị che dấu đi và mang tính tự phát. Vì vậy Mác cho rằng không bao giờ gía trị (chính xác là gía trị kinh tế) cũng do điều kiện trung bình quyết định. Khi số lượng không đủ thì hàng hoá sản xuất ra trong điều kiện bất lợi nhất điều tiết giá trị thị trường, khi sản phẩm nhiều quá thì giá trị thị trường được điều tiết bởi hàng hoá sản xuất ra trong điều kiện thuận lợi nhất. Tức là giá trị hàng hoá đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra hàng hoá tương tự, hoặc cùng loại và nó được quyết định với điều kiện tái sản xuất có thể tốt hơn hay xấu hơn.
Về tính cần thiết đối với lao động xã hội làm thước đo giá trị thì chỉ được hiểu về khả năng sản xuất: cần bao nhiêu thời gian để hoàn thành ra sản phẩm, đối với giá trị kinh tế thì tính cần thiết được hiểu theo nhu cầu xã hội, xã hội cần hay không cần. Do "tính cần thiết" được hiểu cả về khả năng sản xuất và nhu cầu Xã hội như vậy nên khi khả năng sản xuất của xã hội biến đổi tương ứng thì giá trị sản phẩm sẽ biến đổi theo. Với cách hiểu của Mác thì chúng ta có thể hoàn toàn giải thích được bằng nguyên tắc nhất quán về quy luật giá trị (giá trị kinh tế).
1.2.2.2. Tác dụng của quy luật giá trị.
1.2.2.2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Trong sản xuất, quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của hàng hoá như đã nói trên. Do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu , giá cả hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó. Nếu có ngành nào đó cung không đáp ứng cầu, giá cả hàng hoá nên cao thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành đó và ngược lại. Nếu cung vượt quá cầu, giá cả sản xuất xuống thấp thì người sản xuất phải chuyển bớt tư liệu sản xuất sang ngành khác.Vì vậy, sự biến động về giá cả xung quanh giá trị không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác dụng hầu hết nền kinh tế. Trong lĩnh vực lưu thông, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết nguồn hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao.
1.2.2.2.2. Kích thích lực lượng sản xuất phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá, người nào có hao phí lao động cá biệt ít hơn hoặc hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá thì người đó có lợi còn người nào có hao phí lao động cá biệt nhiều hơn thì sẽ bị thiệt vì đã không thu được toàn bộ lao động đã hao phí. Muốn đứng vững và thắng trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều luôn tìm cách rút xuống tới mức tối thiểu, hao phí lao động cá biệt. Vì vậy, họ phải cải thiện kỹ thuật, tăng năng xuất lên trong nền kinh tế hàng hoá, lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn nhiều so với nền kinh tế tự cung tự cấp, tuy nhiên quy luật giá trị một mặt, yêu cầu phải chú ý hạ thấp mức hao phí lao động cá biệt, mặt khác do chạy theo sản xuất những hàng hoá có giá cả cao, cho nên xẩy ra tình trạng có một loại hàng hoá được sản xuất ra quá nhiều, dẫn đến hiện tượng dư thừa, lãng phí lao động xã hội.
1.2.2.2.3. Thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo.
Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị lao động cá biệt của người sản xuất có thể không nhất trí với lao động cần thiết. Những người làm tốt làm giỏi có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết. Nhờ đó phát tài, làm giàu, mở rộng quy mô sản xuất, bên cạnh đó có những người làm ăn thua kém có hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết nên bị lỗ vốn có thể dẫn đến phá sản. Vì vậy nó mang lại phần thưởng cho những người làm ăn tốt và hình phạt cho những người làm ăn thua kém.
1.3. Yêu cầu, nội dung của quy luật giá trị.
1.3.1. Yêu cầu, nội dung của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá Tư bản chủ nghĩa.
Trong Chủ Nghĩa Tư Bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị biểu hiện thông qua quy luật giá cả sản xuất . giá cả của hàng hoá xoay quanh giá trị và nó chính bằng giá trị cộng với phần giá trị thặng dư, đó là lấy sự bù đắp ngang giá làm chuẩn mức trong trao đổi vì cho rằng sự trao đổi những lượng lao động bằng nhau là lợi ích cơ bản của những người sản xuất hàng hoá. Còn trong Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền quy luật giá trị biểu hiện thông qua quy luật giá cả độc quyền trong đó giá cả độc quyền bằng chi phí sản xuất tư Bản Chủ Nghĩa cộng với lợi nhuận độc quyền, giá cả độc quyền xoay quanh giá cả thị trường. Vì vậy trong Chủ nghĩa tư bản những tỉ lệ cơ bản của nền sản xuất được quy định bởi quy luật giá trị thặng dư còn cái điều tiết thực hiện tỷ lệ cơ bản ấy là quy luật giá trị. Vì vậy trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, những người sản xuất tách với nhau mặc dầu được liên kết với nhau do sự phân công lao động xã hội - có sự đối kháng về lợi ích giữa họ với nhau, cũng như giữa họ với toàn xã hội. Trong điều kiện đó, trao đổi những lượng lao động bằng nhau là phương thức duy nhất để thực hiện lợi ích kinh tế của người sản xuất.
1.3.2. Yêu cầu, nội dung của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa.
Giá trị hàng hoá xét về mặt lượng là do lực lượng sản xuất quyết định, xét về mặt chất là do quan hệ sản xuất của những người sản xuất hàng hoá quyết định.
Quy luật giá trị là quy luật vận động của quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá. Từ những cơ sở trên, nội dung của quy luật giá trị trong chủ nghĩa xã hội có những phát triển nhất định, chứa đựng thêm nội dung mới tạo thành một quy luật riêng của nền sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa trong đó nội dung của quy luật cũng giống như trong các nền sản xuất hàng hoá trước đó có sự giống nhau đó là: Lấy thời gian lao động xã hội cần thiết làm tiêu chuẩn của sự hao phí lao động(cả lao động vật hoá và lao động sống) trong sản xuất, không chỉ cho một hàng hoá cá biệt mà cho cả nhóm sản phẩm của những ngành sản xuất riêng biệt.
Dưới chủ nghĩa xã hội, với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và tính chất lao động xã hội trực tiếp, người lao động là người trực tiếp sản xuất ra hàng hoá nhưng là người lao động bộ phận, họ không sở hữu về sản phẩm mà họ trực tiếp sản xuất ra. Lợi ích của người lao động không đơn thuần gắn liền trực tiếp với sản phẩm mà họ trực tiếp sản xuất ra, mà còn do nhiều yếu tố xuất phát từ xã hội tạo thành, giữa những người lao động sản xuất không có sự trao đổi sản phẩm mà họ sản xuất ra, lợi ích cá nhân được thực hiện bằng con đường phân phối thu nhập, còn lợi ích xí nghiệp cũng không hoàn toàn tuỳ thuộc vào sản phẩm mà xí nghiệp sản xuất ra. Do đó không chỉ phụ thuộc vào sự trao đổi của những sản phẩm xí nghiệp làm ra, xí nghiệp phải bảo đảm lợi nhuận và tích luỹ cho xã hội. Vì vậy dưới xã hội chủ nghĩa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội thống nhất hữu cơ và kết hợp hài hoà. Sự thống nhất giữa các lợi ích này đã đem lại cho quy luật giá trị một nội dung mới khác với quy luật trước nó: Đó là sự kết hợp giữa các lợi ích trong lượng giá trị. Quy luật giá trị dưới chủ nghĩa xã hội yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tiến hành trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, nhằm bảo đảm thống nhất giữa các lợi ích: lơị ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội.
Chủ nghĩa xã hội có thể kế hoạch hoá việc hình thành thời gian lao động xã hội cần thiết, đó là thời gian lao động cần thiết được tính trên điều kiện kỹ thuật trung bình, và giữa các lợi ích phải phù hợp với điều kiện kinh tế của xã hội trong từng thời kì, trong thực tiễn có những xí nghiệp có giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hội đó là những xí nghiệp cần thiết đáp ứng nhu cầu xã hội nên được bảo hộ bằng cách bù lỗ, sự bù lỗ đó là sự khẳng định giá trị hàng hoá do lao động xã hội cần thiết chứ không phải thời gian lao động cá biệt. Vì vậy quy luật giá trị dưới chủ nghĩa xã hội đòi hỏi việc trao đổi hàng hoá phải tiến hành trên cơ sở giá trị tức là lấy giá trị xã hội làm cơ sở cho giá cả hàng hoá, còn phần giá trị do lao động thặng dư sáng tạo được phân phối trong giá cả dưới hình thức lợi nhuận không chỉ đảm bảo lợi ích riêng cho xí nghiệp, người lao động mà phải đảm bảo sự thống nhất giữa ba lợi ích: Lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội.
Như vậy giá cả của hàng hoá không nhất định phải nhất trí với giá trị cá biệt hoặc giá trị xã hội của hàng hoá đó, giá cả có khả năng tách rời giá trị hàng hoá nhưng xét trên toàn bộ tổng giá cả vẫn bằng tổng giá trị.
1.4. Vị trí, tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá Xã hội chủ nghĩa.
Quy luật giá trị là một quy luật kinh tế căn bản trong toàn hệ thống các quy luật kinh tế. Nó không điều tiết tự phát nên kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa, nhưng nó thực hiện những chức năng điều tiết nhất định trong phạm vi toàn bộ hệ thống điều tiết nên kinh tế quốc dân một cách có kế hoạch.
Quy luật giá trị kích thích sản xuất dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết nó thúc đẩy giảm những hao phí đó và phát triển sản xuất trê cơ sở kỹ thuật ngày càng tiến bộ, việc lựa chọn và áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất đều được tính toán- Hiệu quả kinh tế về mặt giá trị.
Những tác dụng của quy luật giá trị đối với sản xuất xã hội được thể hiện, tính toán kinh tế để bố trí lực lượng sản xuất trong cả nước nhằm thực hiện tốt nhất yêu cầu của quy luật phát triển kinh tế có kế hoạch, quy định cân đối không cơ bản, tác động đến việc hoàn thiện các cân đối cơ bản đến sự hình thành cân đối khác trong nền kinh tế. Quy định các phương án kinh tế tối ưu trong thực hiện yêu cầu các quy luật kinh tế khác, quy định các phương tiện kinh tế kích thích nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm.
Quy luật giá trị điều tiết tiêu dùng xã hội một cách rõ rệt dưới hình thái giá bán lẻ, nó trở thành công cụ để nhà nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện chính sách tiêu dùng phù hợp với điều kiện sản xuất từng thời kì.
Từ những nhận xét trên ta thấy tác dụng của quy luật giá trị cũng như các quy luật kinh tế khác của chủ nghĩa xã hội đều tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức độ hoàn thiện của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, khả năng nhận thức, vận dụng và khả năng tổ chức các hoạt động kinh tế thực tiễn của nhà nước, những điều kiện tự nhiên, xã hội và cả những yếu tố phi kinh tế. Do được xã hội chủ nghĩa nhận thức và vận dụng một cách tự giác nên tác động của quy luật giá trị với sự phát triển của xã hội chủ nghĩa không gắn liền hữu cơ với sự phân hoá giầu nghèo của những người sản xuất hàng hoá.
1.4.1. Quy luật giá trị với kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế kế hoạch hoá, trong chủ nghĩa xã hội kinh tế hàng hoá còn tồn tại, do vậy kế hoạch hoá xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân tất yếu bao gồm kế hoạch hoá các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Kế hoạch hoá cả sản xuất và thị trường.
Và trong mọi hình thức kế hoạch hoá dù gián tiếp hay trực tiếp, các quan hệ hàng hoá và quy luật giá trị đều phải được tính đến và sử dụng một cách đúng đắn. Vấn đề quan trọng trong kế hoạch hoá trực tiếp về mặt giá trị là cân đối được nhu cầu xã hội về sản phẩm với thời gian lao động xã hội để sản xuất toàn bộ khối lượng sản phẩm ấy. Đó là cơ sở phân công lao động giữa các ngành, phân bố lao động giữa các vùng, nhằm khai thác có hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên đất nước và đưa ra các kế hoạch hoá giá trị ngành của từng loại hàng hoá, từng loại sản phẩm trong thực tiễn đó chính là kế hoạch hoá giá thành. Không thể lấy giá trị cá biệt vủa xí nghiệp là cơ sở xây dựng giá cả được mà phải có giá thành của sản phẩm và đó là bộ phận cơ bản biểu hiện giá trị xã hội.
Khi kế hoạch hoá giá trị phải tính đến giá trị quốc tế, mối tương quan giữa giá trị dân tộc và giá trị quốc tế có kế hoạch giải quyết mâu thuẫn này và sự giao hưởng hàng hoá giữa các nước là điều kiện cho sự phát triển kinh tế của mỗi nước.
Ngoài ra vấn đề có ý nghĩa quyết định trên cơ sở giá trị xã hội đã được kế hoạch hoá, phải kế hoạch hoá lưu thông hàng hoá tiền tệ trong xã hội, phải đảm bảo khối lượng tiền tệ cần thiết để thực hiện hàng hoá trong từng thời kỳ và ở đây là quan hệ hàng hoá - tiền tệ; giá trị không chỉ là hình thái biểu hiện mà còn là công cụ đo lường, phương tiện thực hiện và là đòn bẩy kích thích lợi ích kinh tế.
1.4.2. Quy luật giá trị và giá cả.
Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá trị là quy luật của giá cả, giá cả là phương thức vận động của giá trị có nghĩa là quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả để tác động đến nền kinh tế. Do vậy giá cả là cơ chế chủ yếu để vận dụng quy luật giá trị. Khi xác lập giá cả kế hoạch phải tính đến quan hệ cung cầu để không phạm phải chủ nghĩa chủ quan, nhưng để cho quan hệ cung cầu thị trường chi phối giá cả chạy theo cơ chế thị trường là sa vào "chủ nghĩa xã hội - thị trường".
Sự hình thành giá cả kế hoạch như trên quy định một cơ chế cho phép vận dụng quy luật giá trị một cách sắc bén, đó là cơ chế hai giá: Giá ổn định và giá linh hoạt. Giá ổn định phản ánh đúng sự biến động của chi phí sản xuất theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Giá linh hoạt phản ánh đúng sự biến động của cung - cầu thị trường. Từ đó đưa ra các mức giá thích hợp kích thích sự phát triển đem lại hiệu quả sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.5. Bài học kinh nghiệm rút ra từ một số nước khu vực Đông Nam á về sự vận dụng quy lụật giá trị trong nền kinh tế.
ở một số nước Đông Nam á sự vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường đã đạt được những thành công nhất định. Chính phủ Thái Lan đã nhận định rằng điều tiết giá cả để đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Do giá cả có ảnh hưởng mạnh đến cán cân mậu dịch của một nước và Thái Lan là một trường hợp điển hình đã sử dụng chính sách giá cả để khắc phục tình trạng thâm hụt cán cân mậu dịch. Điều này thể hiện qua những lần phá giá đồng loạt của chính phủ Thái Lan: Phá giá đồng loạt lần 1 vào năm 1979 đến 1980 với mức 8,7% so với USD nhưng do đồng loạt nhiều năm gắn liền với đồng USD với tỉ lệ cứng nhắc và mức giá chưa đủ mạnh nên mục đích không đạt được - thâm hụt mậu dịch vẫn tiếp tục tăng nhưng chính phủ đã rút ra được kinh nghiệmvà thực hiện phá giá lần 2 vào năm 1984 và phá giá đồng loạt theo tỉ lệ 14,8% so với USD và song song với phá giá là chính phủ thực hiện thả nổi tỷ giá và bốn giải pháp kèm theo chống lạm phát và kết quả năm 1985 cán cân thương mại được cải thiện, làm mức đầu tư của nước ngoài gia tăng. Nhưng bên cạnh đó xuất hiện nhiều biến cố xấu. Lao động lành nghề có xu hướng đòi tăng lương, hệ thống cở sở hạ tầng quá tải, thiếu phương tiện vận tải.
Còn ở nước Inđônêxia, chính phủ đã rút kinh nghiệm diều tiết giá cả để chuỷên dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý hơn (tất dẫn đến tăng GNPr)
Qua kinh nghiệm một số nước chúng ta rút ra nhận định rằng giá cả là một công cụ hết sức quan trọng dựa vào điều tiết giá cả mà chúng ta có thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý hơn và nó có thể đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu... Nhưng trước tiên chúng ta phải có sự hoạch định chính xác, hợp lý trên cơ sở phải hiểu rõ nhu cầu, năng lực khách quan của đất nước mình, chúng ta cần phải học hỏi kinh nghiệm của các nước khác biến nó thành của mình, phù hợp với điều kiện nước ta, ngoài ra áp dụng các quy luật kinh tế cần phải linh hoạt, biết sai và sửa sai đồng thời nhà nước không nên can thiệp trực tiếp hay quá sâu vào nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển theo đúng định hướng của nước mình.
Chương II:
thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá ở nước ta thời gian qua và những giải pháp để vận dụng tốt nó trong thời gian tới.
2.1. Thực trạng vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá ở nước ta thời gian qua.
2.1.1. Một số vấn đề sản xuất hàng hoá và quy luật día trị trong thời kỳ quá độ tiến nên Chủ nghiã xã hội ở nước ta.
2.1.1.1. Chuyển sản xuất nông nghiệp sang kinh tế hàng hoá là yêu cầu to lớn của phát triển sản xuất hàng hoá ở một nước tiến lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất nhỏ như nước ta.
Đặc điểm to lớn của nước ta là nền kinh tế nước ta đang vận động từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa: Xét về phương diện sản xuất hàng hoá thì đó là quá trình vận động từ sản xuất hàng hoá đơn giản lên sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa, quá trình nhẩy vọt đã làm cho những mâu thuẫn vốn có của sản xuất hàng hoá trở nên gay gắt, đó là sự tăng trưởng hết sức nhanh chóng của nhu cầu - không chỉ nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, mà còn cả nhu cầu cho xây dựng, trong khi đó lực lượng sản xuất tăng không kịp dẫn đến hệ mất cân đối về năng lượng, nguyên liệu, sự mất cân đối này làm tăng mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá, chúng ta vừa thiếu hàng hoá, hàng hoá lại xấu và đắt, lại không tập chung được vào nhà nước để có kế hoạch lưu thông đúng đắn. Điều đó là nguyên nhân cơ bản của sự biến động về giá cả và thị trường.
Từ đặc điểm trên đòi hỏi chúng ta phải phát triển mạnh lực lượng sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa cả về số lượng, cả về chiều sâu.
2.1.1.2. Gắn chặt quá trình phát triển sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa với ba quá trình cách mạng phát triển xã hội chủ nghĩa là quy luật hình thành và phát triển sản xuất hàng hoá ở nước ta.
Nước ta đang buổi đầu của thời kì quá độ, sản xuất hàng hoá ở nước ta đang phát triển trong sự vận động tổng hợp của ba quá trình cách mạng: Cách mạng về quá trình sản xuất, cách mạng khoa học kĩ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá và chịu sự chi phối của ba quá trình cách mạng đó.
Trong thời kì quá độ ở nước ta tồn tại ba quá trình sản xuất gắn liền với ba loại hình kinh tế, sản xuất hàng hoá giản đơn của những người sản xuất cá thể, trong nông nghiệp và thủ công nghiệp, sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa thích ứng với kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa gắn với thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm vị trí thống trị, kinh tế tư bản chủ nghĩa bị thu hẹp còn kinh tế cá thể theo nền sản xuất hàng hoá giản đơn còn là phổ biến, giữa ba loại sản xuất hàng hoá này có mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau.
Cách mạng khoa học kĩ thuật tác động mạnh đến phát triển sản xuất hàng hoá về chiều sâu, nâng cao số lượng và chất lượng của giá trị sử dụng hạ thấp giá trị giải quyết tốt mâu thuẫn cố hữu của sản xuất hàng hoá.
Cách mạng văn hoá tư tưởng ảnh hưởng đến sự thay đổi nhu cầu và cũng đặt ra nhiều nhu cầu mới. Tạo động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu. Dưới sự tác động của ba cuộc cách mạng ấy sản xuất hàng hoá sẽ phát triển mạnh, hàng hoá sẽ từ ít đến nhiều, từ xấu đến tốt và đắt đến rẻ.
2.1.1.3. Phát huy tác động của quy luật giá trị trong kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế không xã hội chủ nghĩa là yêu cầu của chính sách giá cả và quản lí thị trường ở nước ta trong thời kì quá độ.
Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, quy luật giá trị có nhu cầu là bảo đảm lợi ích cá nhân người lao động riêng biệt, trong sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa quy luật giá trị có nhu cầu mang lại giá trị thặng dư càng nhiều, càng tốt cho nhà tư bản "hình thức" ngang giá. Trong sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa quy luật giá trị bảo đảm sự thống nhất lợi ích hài hoà trong xã hội: Lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích người lao động. Đó là cuộc đấu tranh giữa ba loại hình sản xuất hàng hoá mà biểu hiện của nó là giá cả trên thị trường luôn có xu hướng ổn định hoặc rối loạn.
Và để phù hợp với giai đoạn hiện nay nhà nước Việt Nam áp dụng cơ chế hai giá: Giá ổn định thể hiện đầy đủ tác dụng của quy luật giá trị trong toàn bộ hệ thống điều tiết xã hội chủ nghĩa, giá linh hoạt để phát huy tác dụng điều tiết của quy luật giá trị đối với những cân đối không cơ bản trong nền kinh tế.
2.1.2. Tình hình giá cả của nước ta thời kì hình thành và trình tự của cơ chế tập chung quan liêu bao cấp (1955-1980). Trong thời kỳ 1955-1960, hệ thống hai giá: Hệ thống giá chỉ đạo của nhà nước và giá cả của thị trường tự do.
2.1.2.1. Hệ thống giá chỉ đạo.
Nó có đặc điểm là khi đã hình thành thì thay đổi không đáng kể. Giá ổn định có mặt tích cực là ổn định sản xuất, ổn định đời sống nhân dân. Tuy nhiên, mức giá chỉ đạo ít thay đổi và ổn định, thường thấp dưới mức giá thành. Giá không đảm bảo bù đắp giá thành là hiện tượng phổ biến, không có tác dụng khuyến khích làm cho nhà nước phải bù lỗ lớn.
2.1.2.2. Hệ thống giá thị trường tự do.
Hệ thống này và hệ thống giá chỉ đạo ngày càng tách xa nhau tình trạng này dẫn đến rất nhiều tiêu cực trong cơ chế giá(hiện tượng tuồn hàng ra ngoài). Hệ thống giá thị trường tự do có xu hướng tăng và không ổn định, thất thường gây khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân, ngoài ra trong thời kỳ này giá cả giữa các vùng thường khác nhau nhưng lại không phản ánh đúng mối quan hệ giữa chúng, giá cả giữa các ngành cũng có hiện tượng như vậy.
2.1.2.3. Mối quan hệ giữa hai hệ thống giá trong thời kỳ 1955-1980.
Từ hai hệ thống giá trên nhà nước đã đưa ra mức giá mục tiêu, tuy nhiên cách phổ biến để xác định mức giá trong thời kỳ này là, lấy mức giá thị trường đã tương đối ổn định trong thời giản trước đó làm chuẩn. Đối với những "mặt hàng cơ bản" thì trực tiếp lấy giá ổn định trên thị trường tự do địa phương nào đó.
Trên thực tế thời kỳ này coi ổn định giá cả như một mục đích tự thân:"...phải đấu tranh để ổn định vật giá ", "phấn đấu để giữ vững giá cả đã được bình ổn".
Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ 1965-1973, mục tiêu này càng rõ "phấn đấu bình ổn vật giả trên cơ sở mới...".
Mặc dù đặt ra mục tiêu "ổn định" và "hạ giá" nhưng trước sức ép của thực tiễn, nhà nước ta vẫn phải thực hiện tăng giá nhiều loại mặt hàng. Thời kỳ cuối thập kỷ 60 đầu thập kỷ 70 và thực hiện giá khuyến khích (năm 1961,1971). Tuy nhiên những sự kiện này thường là hãn hữu và những mức giá này được hiểu nghiêng về mặt phân phối, chủ yếu như phạm trù thuộc lĩnh vực phân phối trong mục tiêu xã hội chứ không phải kinh tế. Do quan niệm như vậy nên dẫn đến sử dụng giá cả làm kênh bao cấp để thực hiện chính sách xã hội, gây ra nhiều bất công tiêu cực trong cả lĩnh vực sản xuất, phân phối và lưu thông. Vì vậy mà nước ta đã xảy ra tình trạnh khủng khoảng kinh tế xã hội những năm cuối thập kỷ 70, nguyên nhân dẫn đến cuộc tổng điều chỉnh giá thời kỳ 1981 - 1986.
2.1.3. Thực trạng về giá cả nước ta thời kỳ 1981-1986.
Trong thời kỳ 1981-1986, giá cả bị rơi vào tình trạng bất ổn định nghiêm trọng, mà nó được biểu hiện ở một số mặt:
Lạm phát bùng nổ, tốc độ lạm phát đạt mức ba con số và đỉnh cao là năm 1986. Đây là giai đoạn lich sử trong đó hệ thống giá bị khủng khoảng nghiêm trọng, diễn biến giá bất ổn định nhất là từ trước tới đó, tốc độ tăng giá cũng mức cao nhất trong lịch sử giá cả Việt Nam.
Tốc độ tăng giá của thị trường tự do và thị trường có tổ chức đan xen và thúc đẩy lẫn nhau. Trong thời kỳ thực hiện tổng điều chỉnh hệ thống giá điều chỉnh của nhà nước cao hơn giá của thị trường tự do, nhưng sau đó giá cả thị trường tự do lại vượt lên và "dẫn đầu" tạo thành " vòng xoáy giá cả". Cả hai hệ thống giá đều thay đổi với tốc độ phi mã.
Tình trạng trên đây đã gây ra tình trạng bất ổn định nghiêm trọng trong cả đời sống và sản xuất - thể chế "hai giá " đồng thời cũng làm xuất hiện hệ thống giá thứ ba đó là hệ thống "giá ngầm". Cuộc đấu tranh của ba hệ thống giá này đã gây khó khăn không nhỏ cho các hoạt động kinh tế. Tình trạng " lãi giả, lỗ thật" là phổ biến, nhà nước phải bao cấp, tràn lan, thâm hụt ngân sách trở nên nghiêm trọng, tuy vậy có một số tiến bộ hơn đó là giá cả phản ánh sát chi phí thực tế hơn.
Tóm lại, mặc dù hai cuộc tổng điều chỉnh giá không thành công và gây ra không ít khó khăn cho nền kinh tế đất nước, nhưng xét về nhiều mặt sự điều tiết giá cả nước ta thời kỳ 1981 - 1986 đều có tiến bộ, phù hợp với những luận điểm cơ bản của lí luận giá trị kinh tế về giá trị và giá cả. Đây là cơ sở cho những thành công về sau trong lĩnh vực này.
2.1.4. Thực trạng về giá cả của nước ta hiện nay.
" Năm1999 kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng còn chậm lại, hàng hoá tồn đọng nhiều đặc biệt là tình trạng lạm phát kéo dài nhiều tháng liên tục. Trước những khó khăn đó chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp kích thích tăng trưởng kinh tế, trong đó nổi bật nhất là biện pháp kích cầu đồng thời tìm cách kích giá. Nhưng tính chung cả năm 1999 chỉ số giá hàng tiêu dùng chỉ tăng 0,1% so với tháng 12-1998"1.
1: Tạp chí cộng sản số 18( 9/2001).
Thực hiện chủ chương nói trên chính phủ đã điều hành các giải pháp giá cả nhằm nâng chỉ số giá hàng tiêu dùng (chỉ số lạm phát) lên mức hợp lý. Đây là chủ trương đúng đắn, hợp quy luật xét về lí luận hợp thực tiễn. Nhưng trong thực tế là các doanh nghiệp không muốn đầu tư vì giá bán sản phẩm trên thị trường không bù đắp giá vốn, về phí tiêu dùng không muốn tiêu dùng vì thu nhập thấp nhất là nông nghiệp (chiếm 80% dân số). Năm 1999 thu nhập nông dân do giá nhiều hàng sản phẩm giảm , ngoài ra chỉ số giá hàng tiêu dùng giảm do giá hàng lương thực - thực phẩm (giảm 1,9% so với tháng 12/1998, trong đó nhóm lương thực giảm 7,8%). Mặt khác trên thị trường nước ta hiện nay nhiều mặt hàng của trung quốc được bán với giá rẻ hơn so với hàng sản xuất trong nước cạnh tranh quyết liệt với hàng Việt Nam sản xuất một mặt do hàng hoá nhập lậu trốn thuế qua biên giới phía Bắc được bán với giá thấp hơn giá mặt hàng cùng loại trên thị trường. Mặt khác nhiều hàng Việt Nam sản xuất có giá thành và giá bán cao do cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, công nghệ lạc hậu, quản lý kém và giá cả lại biến động mạnh hơn trong năm 2001. Trong sáu tháng đầu trong năm 2001chỉ số giá cả chững lại. Mặc dù tình hình kinh tế - Xã hội có nhiều mặt diễn biến theo chiều có lợi nhưng những dấu hiệu trên cho ta thấy rằng, sản xuất kinh doanh đang gặp những khó khăn, nổi bật là về thị trường sản xuất nông sản hàng hoá: Sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và các sản ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30011.doc