Tài liệu Một số vấn đề cơ bản về Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Lời nói đầu
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến những mô hình kinh tế khác nhau,mỗi mô hình kinh tế đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể Trong đó KTTT TBCN là nền kinh tế hàng hoá phát triển cao nhất sau vài thế kỉ hình thành và hoạt động chắc chắn nó còn tiếp tục phát triển ơn và lan rọng ra các nước Nhưng KTTT không phải là sản phẩm riêng của CNTB Đảng ta khẳng định:”Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH,mà là thành tựu phát triển của nền văn mi... Ebook Một số vấn đề cơ bản về Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
20 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1729 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề cơ bản về Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nhân loại,tồn tại khách quan,cần thiết cho công cuộc xây dựngCNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng.”Để phù hợp với bối cảnh nước ta đang trong thời kì quá độ lên CNXH,bỏ qua chế độ TBCN,phải tạo ra sự biến đổi về chất của XH trên tất cả các lĩnh vực, Đảng ta đã chủ trương chuyển sang KTTT nhưng không phải là một thị trường bất kì mà là thị trường định hướng XHCN Từ khi chuyển sang KTTT,kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều người băn khoăn về khái niệm định hướng XHCN.Mặc dù vậy trên cơ sở tổng kết và khái quát từ thực tiễn xây dựng CNXH ở VN,kết hợp với ngiên cứu và tham khảo kinh nghiệm phát triển của thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm của Trung Quốc về nền KTTT XHCN Đảng ta qua các lần đại hộiVI,VII,VIII và đến nay là Đại hội IX vẫn luôn xác định:” Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.”Với mục đích tốt đẹp của nó là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH,nâng cao đời sống nhân dân,phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới,phù hợp trên cả ba mặt:Sở hữu quản lý và phân phối.Vì thế, để tìm hiểu thêm em đã chọn đề tài nghiên cứu là:”Một số vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN.”Trong bài viết của em gồm có những nội dung cơ bản sau:
Phần I: Lời nói đầu
Phần II: Nội dung
I:Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT định hướng XHCN
A:Quan niện về KTTT
B:Sự cần thiết khách quan để phát triển KTTT định hướng XHCN
II:Những đặc điểm cơ bản của KTTT định hướng XHCN ở VN
-KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kì quá độ ở VN.Nó là sự kết hợp giữa cái chung(KTTT) và cái đặc trưng(Định hướng XHCN)
-Mục đích hát triển KTTT định hướng XHCN
-Đặc điểm bản chất của KTTT dịnh hướng XHCN
III.Thực trạng và những giải pháp cơ bản để phát triển KTTT dịnh hướng XHCN ở VN:
1.Thực trạng-KTTT ở trình độ kém phát triển.
2.Mục tiêu phấn đấu và các giải pháp cơ bản để phát triển KTTT định hướng XHCN:
-Mục tiêu phấn đấu đến năm 2005 và năm 2010,2020
-Những giải pháp cở bản.
Phần III: Kết luận.
Phần II: Nội dung
I.Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT định hướng XHCN :
A.Quan niệm về KTTT:
Lịch sử loài người đã chứng kiến sự phát triển của kinh tế hàng hóa sự hình thành và phát triển KTTT dưới CNTB.
Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế-xã hội mà trong đó sản phấm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường.Mục đích của sản xuất trong nền kinh tế hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán tức là để thỏa mãn nhu cầu của người mua , đáp ứng nhu cầu của XH
KTTT là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa trong đó từ sản xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trường Nói cách khác: kinh tế hàng hóa phát triển trong đó mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hóa.
KTTT là kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường Mà cơ chế thị trường chịu sự chi phối của các qui luật vốn có của kinh tế hàng hóa như qui luật giá trị,qui luật cung-cầu,qui luật cạnh tranh,qui luật lưu thông tiền tệ….Trong đó các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao,sự hình thành giá cả thị trường do thị trường xác định là chủ yếu,cạnh tranh là tất nhiên;cơ chế vận hành là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.Do đó tính chất chung của KTTT chủ yếu có mấy đặc điển:
Một là,thừa nhận tính độc lập của chủ thể thị trường là chá nhân và xí nghiệp,họ tự chủ định ra các quyết định kinh tế tự mình gánh chịu rủi ro kinh tế.
Hai là:Xây dựng hệ thống thị trường chó tính cạnh tranh,do thị trường hình thànhgiá cả,bảo đảm lưu chuyển tự do các loại hàng hóa và yếu tố sản xuất,thị trường có tác dụngnền tảng trong bố trí tài nguyên .
Ba là xây dựng cơ chế điều tiết kinh tế vĩ mô có hiệu quả,thực iện hướng dãn và giám sát,khống chế đối với thị trường,bổ khuyết nhược điểm và thiếu sót của bản thân KTTT
Bốn là cần phải có pháp qui kinh tế đầy đủ bảo đảm sự vận hành kinh tế pháp qui hóa
Năm là,cần tôn trọng qui tắc và thông lệ trong trao đổi kinh tế quốc tế Cũng từ đó, KTTT có những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hóa ,mở rộng thị trường ,tự do kinh doanh,tự do thương mại,tự định giá cả, đa dạng hóa sỏ hữu,phân phối do quan hệ cung-cầu…Đó là cơ chế hàng hóa”có sự điều tiếtvĩ mô” để khắc phục những khuyết tật của nó.
B. Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT định hướng XHCN
1)Phát triển KTTT là sự lựa chọn đúng đắn
Trước năm 1986 nền kinh tế VN nận hành theo cơ chế tập trung,quan liêu,bao cấp Cơ chế này làm cho nền kinh tế phát triển trị trệ tính tích cực và những tiềm năng của nền kinh tế không được khai thác hợp lý và hệu quả.Những tiêu cực đã phát sinh và lực lượng sản xuất xã hội bị kìm hãm.Mức sống của người dân rất thấp kém,là một trong những nguyên nhân làm cho CNXH lâm vào khủng hoảng Vì thế tại đại hội Đảng lần thứ VI Đảng ta kiên quyết khắc phục triệt để hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung(đồng nghĩa với nền kinh tế hiện vật lạc hậu và thấp kém) để đi lên KTTT.Về mặt thực tiễn,cơ chế thị trường vẫn là cơ chế hiện thực mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế quốc dân, xét về mặt thúc đẩy và phát triển lực lượng sản xuất Cũng chỉ bằng kinh tế hàng hóa mới có thể xóa bỏ sản xuấttiểu nông,nhỏ hẹp,phân tán,tự cung tự cấp với tư cách một cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất và kéo theo một sự cải biếnvề chất quan hệ sản xuất Do vậy, phát triển kinh tế hàng hóa là một hướng đi hơp lý để đoạn tuyệt từng bước đối với những tàn dư củ chế độ phong kiến cũ,tạo những tiền đề mới cho lực lượng sản xuất của tương lai.Các Mac cho rằng kinh tế hàng hóa tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau ở cả XHCN. KTTT là một thành tựu vĩ đại về mặt kinh tế -tỏ chức bởi loài người, đã phục vụ đắc lực CNTB và ngày nay cũng có thể phục vụ đắc lực cho CNXH Sử dụng triệt để KTTT CNTBđã đạt được những thành tựu về kinh tế-XH, phát triển lực lượng sản xuất ,nâng cao đời sống nhân dân Cũng nhờ KTTT,quản lý xã hội đạt được những thành quả về văn minh hành chính,văn minh công cộng;con người nhạy cảm,tinh tế,với khả năng sáng tạo,sự thách thức đua tranh phát triển.Nhưng KTTT là một trong những yếu tố của quá trình phát triển xã hội chứ không phải là cài gì đó riêng có bởi CNTB,và cũng không phải là khi phương thức sản xuất TBCN bị thay thế bằng phương thức sản xuất XHCN thì không còn KTTT.Chế độ XHCN là chế độ của con người,do con người,vì con người,do đó chúng ta chủ trương chống bóc lột,bất công,chăm lo sự nghiệp y tế,giáo dục, đẩu tranh cho một nền đạo đức mới,một lối sống lành mạnh.Chỉ có kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội mới thể hiện được bản chất của chế độ mới. CNXH với những mục tiêu tốt đẹp,nhưng không sử dụng KTTT thì không thể thành công,không thể biến những ý tưởng tốt đẹp đó thành hiện thực của cuộc sống.Trong thời kì đổi mới,chúng ta chuyển nền kinh tế sang sản xuất hàng hóa nhiều thành phần,vận động theo cơ chế thị trường,có sự quản lý của nhà nước,xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp…Đời sống kinh tế-xã hội của đất nước đã có nhiều thay đổi.Sản xuất trong nước phát triển. Đời sống vật chất,văn hóa,tinh thần cảu dân cư được cải thiện rõ rệt. Đây là cơ sỏ thực tiễn khẳng định KTTT không những không đối lập với CNXH mà còn là phương thức phù hợp nhằm thực hiện mục tiêu của CNXH.
2) KTTT không những tồn tại khách quan mà còn càn thiết cho công cuộc xây dựng CNXH
Trong thời kì quá độ lên XHCN,sản xuất hàng hóa tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan do các căn cứ sau:Thứ nhất,phân công lao động xã hội và sự chuyên môn hóa sản xuất ngày càng phát triển làm cho các quan hệ kinh tế,những sự trao đổi hoạt động lao động trong xã hội phỉ dựa trên thước đo giá trị và chỉ được thực hiện tốt nhất bằng quan hệ hàng hóa-tiền tệ.Cách mạng khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất phát triển thì phân công và phân công lại lao động xã hội càng phát triển theo trong từng khu vực,từng địa phương,trong cả nước và quốc tế. Đó chính là cơ sở của kinh tế hàng hóa.Thứ hai,nền kinh tế quá độ nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, đó là sở hữu toàn dân,sở hữu tập thể,sở hữu tư nhân(gồm sỏ hữu cá thể,sỏ hữu tiểu chủ,sở hữu tư bản tư nhân),sở hữu hỗn hợp.Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế khác nhau,các chủ thể này độc lập,lợi ích riêng,tách biệt nhau,mặc dù đều nằm trong một hệ thống phân công lao động xã hội,do đó trong sản xuất,kinh doanh chúng vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau.Quan hệ kinh tế giữa các chủ thể chỉ có thể thực hiện bằng con đường trao đổi hàng hóa-tiền tệ theo cơ chế thị trường Chính phát triển kinh tế hàng hóa là để sử dụng có hiệu qủa những tiềm năng của các thành phần kinh tế.Thứ ba,các mối quan hệ kinh tếgiữa các doanh nghiệp nhà nước cũng được thực hiện thong qua quan hệ hàng hoá-tiền tệ.Vì giữa các doanh nghiệp vẫn có sự tách biệt tương đối về kinh tế,có quyền tự chủ trong sản xuất,kinh doanh,do đó chúng là những chủ thể khác biệt về lợi ích.Mặc dù các doanh nghiệp đều dựa trên sở hữu nhà nước nhưng được giao quyền sử dụng những tư liệu sản xuất khác nhau,do đó có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng.Giữa chúng vẫn có mối quan hệ vừa cạnh tranh vừa hựp tác.Càn phải nói thêm rằng giữa các doanh nghiệp nhà nước còn có sự khác biệt về trình độ kĩ thuật công nghệ,trình độ quản lý,tính hiệu qua trong sản xuất,kinh doanh.Quan hệ hàng hoá-tiền tệ là hình tức cần thiết thuận lợi,công bằng,hợp lý trong quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ tư, kinh tế hàng hóa là loại hình kinh tế mà việc sản xuất và lưu thông xản phẩm phải hạch toán thu-chi,lỗ-lãi.Do đó,nó kích thích đổi mới kỹ thụât và công nghệ,cải tiến tổ chức lao động và quản lý nhằm nâng cao năng suất lao động để hạ chi phí cá biệt so với chi phí xã hội nhằm thu lưọi nhuấn siêu ngạch.Như vậy, kinh tế hàng hóa là loại hình kinh tế tạo ra động lực kinh tế,kích thích nâng cao hiệu quả sản xuất,kinh doanh.
Thứ năm, sản xuất hàng hóa, quan hệ hàng hóa-tiền tệ là tất yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước trên thế giới,vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt,là những chủ sớ hữu khác nhau về sản xuất hàng hóa.
Bên cạnh đó,sự sụp đổ của mô hình kế hoạch hóa tập trung ở các nước XHCN là một điều kiện khách quan tác động trực tiếp đến hoạt động của Đảng và Nhà nước VN.Do tính tất yếu khách quan của sự phát triển kinh tế trong nước đòi hỏi đã thúc đẩy Đảng và Nhà nước ta chuyển sang nền KTTT.Song để chuyển sang KTTT,mỗi nước có một con đường,một giải pháp riêng.Vị vậy chúng ta phải độc lập với nhau hoàn toàn,tự thiết kế mô hình ,con dường,cách thức thực hiện, đồng thời phải vừa học ,vừa làm,vừa thử nghiệm nên khó tránh khỏi sai lầm,vấp váp.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cũng là một trong những điều kiền khách quan có tác động không nhỏ đến quá trình xay dựng KTTT ỏ VN.Nó cho phép chúng ta có thể áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để có thể tham gia vào thị trường thế giới,tránh rơi vào tình trạng tụt hậu.Sự phát triển của khoa học và công nghệ chính là lợi thế cảu các nước đi sau,trong đó có nước ta,cho phép có thể rút ngắn thời gian của quá trình áp dụng các công nghệ mới,cho phép có khả năng đi tắt, đón đầu những lĩnh vực công nghệ hiện đại(như vi điện tử,công nghệ sinh học,vật liệu mới…)cho phép phát triển những loại công nghệ phù hợp với điều kiện sinh thái của đất nước,tận dụng chất xám và lao động,tham gia vào việc nghiên cứu thiết kế,triển khai công nghệ và chế biến sản phẩm của các công ty xuyên quốc gia,nắm giữ các công nghệ cốt lõi.Do tác động của cuộc cách mạng khoa học –công nghệ mà nền kinh tế thế giới đang có biến đổi hết sức sâu sắc:Chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.Tiếp cận nền kinh tế tri thức để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đòi hỏi chúng ta phải đổi mới tư duy kinh tế,theo kịp sự phát triển của thời đại.Không thể theo kiểu kinh tế hiện vật,sản xuất với bất cứ giá nào để đúng nhu cầu tiêu dùng trong nước,mà phải lấy hiệu quả làm đầu,chỉ sản xuất những gì có hiệu quả cao nhất do có lợi thế để đổi lấy những gì mình cần.Phải kết hợp chặt chẽ các yếu tố tài nguyên,con người với các tri thức và công nghệ hiện đại để chọn những ngành,những sản phẩm mình có nhiều lợi thế đem lại hiệu quả cao nhất.Ngày nay,công nghệ không ngừng đổi mới,vòng đời công nghệ rất ngắn,chúng ta không thể đầu tư vào lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn.
Toàn cầu hóa cũng có tác động không nhỏ đến quá trình xây dựng nền KTTT:Quá trình lực lượng sản xuất phát triển ngày càng cao thúc đẩy mạnh mẽ việc quốc tế hóa đời sống kinh tế.Các mối quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển cáng đưa đén sự hình thành thị trường thế giới thống nhất và nền kinh tế mang tính toàn cầu lôi cuốn tất cả các nước chuyển sang KTTT và tất cả các nước đều phải gia nhập vào thị trường quốc tế. Đó là vấn đề có tính qui luật trong thời đại và chúng ta không thể đứng ngoài tính qui luật đó.Sự giao lưu về hàng hóa dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài đòi hỏi nền kinh tế của ta cũng phải theo cơ chế thị trường.Cùng với nó,việc tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế và khu vực là một tất yếu khách quan,là yêu cầu cấp bách đối với sự hình thành nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta,nhất là trong điều kiện còn là một nước nghèo và kém phát triển,nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp,tự túc,sức mua của dân còn thấp,nhiều khả năng tiềm tàng chưa được khai thác,nhiều lợi thế chưa được phát huy.Mặt khác, sự tác động qua lại giữa các nền KTTT theo xu hướng đa phương cho phép chúng ta học tập và ứng dụng những thành công trong việc thực hiện nền KTTTcủa các nước,phát triển những lợi thế riêng của mình, đồng thời xây dựng nền KTTT định hướng XHCN.
Dưới tác động củatoàn cầu hóa,xuất hiện nhu cầu hội nhập kinh tế đang lôi cuốn tất cả các quốc gia mở rộng hợp tác kinh tế bằng các quan hệ giao dịch song phương,và cao hơn là xây dựng các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu.VN không thể đứng ngoài quá trình này.Có thể nói toàn cầu hóa kinh tế là nhu cầu của tất cả các quốc gia.Nhưng để nhu cầu đó thành hiện thực thì phỉa có điều kiện,hai trong số các điều kiện chính yếu nhất là Khoa học và công nghệ và nền KTTT hiện đại.Cả hai điều kiện đó chúng ta đều đang yếu và thiếu do trước năm 1986,nền kinh tế nước ta là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Đó là một nền kinh tế khép kín,các mối liên hệ kinh tế chủ yếu diễn ra trong các nước có mô hình kinh tế giống nhau-mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.Nó đã hạn chế mở rộng thị trường,hạn chế áp dụng khoa học kĩ thuật,hạn chế khả năng sáng tạo của lực lượng lao động.Nó cũng để lại những hậu quả nặng nề trong nếp nghĩ,tập quán làm ăn và cả tập quán sống nữa.Do kéo dài nhiều năm,nó thâm nhập, ăn tiêu bám rễ vào tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội,làm cho sự xuống cấp không chỉ trong kinh tế mà còn trên hầu hết các mặt y tế,văn hóa,giáo dục và chính bản thân con người.Vì thế việc chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang KTTT là một đòi hỏi khách quan bức thiết.
Nhưng chúng ta vẫn còn duy trì và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.Những truyền thống này vẫn rất cần thiết trong công cuộc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN. Đó là truyền thống yêu nước và tinh thần cộng đồng cao;cần cù,chịu khó trong lao động sản xuất,lối sống giản dị,tiết kiệm;truyền thống coi trọng sự trung thực,nhân nghĩa,thương người. Đây là đặc điểm gặp gỡ với mục tiêu xây dựng xã hội công bằng,văn minh ở nước ta hiện nay,là nhân tố khách quan thúc đẩy tính định hướng XHCN của nền KTTT.Truyền thống hiếu học,thông minh,sáng tạo trong sản xuất và trong cuộc sống,biết thích nghi để tồn tại và phát triển.Nó đáp ứng được một trong các yêu cầu của KTTT à đòi hỏi chủ thể phải có kinh nghiệm thích nghi cao với những biến động sôi động,mềm dẻo và linh hoạt của KTTT.
Song,bên cạnh những truyền thống tốt đẹp đang đóng vai trò như à những điều kiện khách quan thúc đẩy quá trình xây dựng nền KTTT ở nước ta thì ở nước ta hiện nay cũng vẫn đang tồn tại những truyền thống tác động tiêu cực như chủ nghĩa bình quân:trọng nông, ức thương,sùng bái cổ nhân,sùng bái kinh nghiệm lích sử,lối sống theo lệ làng, ứng xử theo tâm,theo tình,theo đạo đức chứ không theo pháp luật,tâm lý dòng họ,chấp nhận thừa hành,gia trưởng,cục bộ, địa phương,thích địa vị,ngôi thứ;nặng về tình cảm hơn là trí tuệ,thiên về giá trị tinh thần mà ít chú ý đến giá trị vật chất…Những giá trị này đang là sức ỳ lớn,ngấm ngầm ngăn trở quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ,xung đột gay gắt với yêu cầu nghiêm ngặt của kinh doanh,luôn mở rộng thị trường,hướng tới cái mới,hiện đại, đòi hỏi mọi người kinh doanh phải được bình đẳng trước pháp luật,tuân theo pháp luật và không chấp nhận tâm lý dòng họ,ngôi thứ,gia trưởng….Chúng ta cần khuyến khích phát huy những truyền thống tốt đẹp,hạn chế và bài trừ những truyền thống tiêu cực để thúc đẩy quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN vì KTTT cũng rất cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH.
KTTT có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực.Về mặt tích cực, đó là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt,mềm dẻo,uyển chuyển;nó có tác dụng kích thích mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới kĩ thuật,công nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng;nó kích thích tính năng động,sáng tạo của chủ thể kinh tế,kích thích việc nâng cao chất lượng,cải tiến mẫu mã,cũng như tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ;nó có tác dụng lớn trong tuyển chọn các doanh nghiệp và cá nhân quản lý kinh doanh giỏi, có trình độ,lành nghề.Trên cơ sở đó, KTTT kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển,thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất,thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,nâng cao năng suất lao động do đó thúc đẩy sự xã hội hóa sản xuất.
Vệ mặt tiêu cực,trên thi trường chứa đựng tính tự phát,chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn,mất cân đối.Vì chạy theo lợi nhuận,các nhà sản xuất,kinh doanh có thể gây ra nhiều hậu quả xấu:Môi trương bị hủy hoại,tình trạng cạnh tranh không lành mạnh,phá sản,thất nghiệp,phân hóa xã hội cao,lợi ích công cộng bị coi nhẹ,các vấn đề công bằng xã hội không được bảo đảm,tệ nạn xã hội gia tăng,thậm chí có người làm ăn bất hợp pháp,trốn thuế,làm hàng giả.Cũng vì mục tiêu lợi nhuận mà các nhà xản xuất,kinh doanh không đầu tư vào những ngành nghề có ít lãi. Để hạn chế những khuyết tật đó,nhà nước phải quản lý nền KTTT.
CNTB đã biết sử dụng vai trò to lớn của KTTT để thúc đấy sự tăng trưởng phát triển kinh tế,chúng ta cũng cần phải biết khai thác,sử dụng vai trò to lớn của KTTT và những ưu điểm,những mặt tích cực của nớ,hạn chế và khắc phục những mặt trái những khuyết tật của KTTT để tăng trưởng và phát triển kinh tế.Do đó,phát triển KTTT là một tất yếu kinh tế đối với nước ta,một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại,hội nhâp vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất,khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại hóa.
Sự hình thành và phát triển KTTT vẫn phù hợp với thời kỳ quá độ ,với những hình thức tổ chức kinh tế mang tính chất quá độ vì thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng,việc chuyển sang nền KTTT nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn.Nhờ phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút vôn,kỹ thuật,công nghệ của nước ngoài,giải phóng được năng lực sản xuất,góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế,chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế hàng hóa.Mô hình kinh tế của VN được xác định là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng XHCN(noi ngắn gọn là KTTT định hướng XHCN).Sau hơn 15 năm chuyển đổi nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng:
Thứ nhất,kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao, đưa đất nước ra khỏi siêu lạm phát và khủng hoảng kinh tế.Từ năm 1992-2000,tổng sản phẩm trong nước (GDP)tăng liên tục qua các năm với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là sản xuất hàng hóa,56% và đến năm 2000 GDP tăng gấp2,7 lần năm 1990.
Thứ hai,cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện đại hóa.Cụ thể đến năm 2000:Nông,lâm nghiệp và thủy sản chiếm24,3%;công nghiệp và XD 36, 6%;dịch vụ 39,1% trong GDP.
Thứ ba,quá trình chuyển đổi cớ chế quản lý kinh tế đã cơ bản hoàn thành,cho phép chuyển sang giai đoạn hoàn thiện cơ chế mới theo chiều sâu.
Thứ tư, đã thành công trong việc mở cửa,hội nhập quốc tế,phá thế bao vây cấm vận kinh tế và thương mại.Cụ thể về cở cấu vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và VN trong các hợp tác liên doanh với tổng số là 19 tỷ302 triệu USD,trong đó vốn nước ngoài là 17tỷ115 triệu USD và vốn VN là 2tỷ187 triệu USD chiếm 11,3%.
Thứ năm, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt,sự nghiệp văn hóa,giáo dục,y tế và các lĩnh vực xã hội khác được củng cố và tăng cường.Theo đánh giá của tổ chức phát triển Liên Hợp Quốc thì chỉ số giáo dục của nước ta năm 1999 đứng thứ 92/174 nước,góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người(HDI)từ vị trí 122/174 nước năm 1995,len 110/179 nước năm 1999,xếp trên nhiều nước trong khu vực như Ấn Độ,Pakistan,Myanma…
Tất cả những phân tích trên cho thấy nếu chúng ta vận dụng phù hợp và sáng tạo thì KTTT là sự lựa chọn đúng đắn và cần thiết cho công cuộc xây dựng XHCN.
II.Những đặc điểm cơ bản của KTTT định hướng XHCN ở VN:
KTTT định hướng XHCN ở nước ta là mô hình kinh tế tổngquát ở thời kỳ quá độ. Đó không phải là kinh tế bao cấp,quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp như trước đây nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách của các nước tư bản,tức là không phải kinh tế thị trường TBCN,và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế XHCN.Bởi vì chúng ta còn đang trong thời kì quá độ lên CNXH,còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới,vừa có,vừa chưa có đầy đủ yếu tố XHCN.Về thực chất là một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước.Nó một mặt vừa có những tính chất chung của nền KTTT là:
Một là:các chủ thể kinh tế có tính độc lập,có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh.Cơ sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và thành phần kinh tế để nền kinh tế có “tự do hóa kinh tế”
Hai là:giá cả do thị trường quyết định,hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành,các lĩnh vực của nền kinh tế.Các phạm trù kinh tế vẫn có của KTTTnhư hàng hóa,tiền tệ,thị trường,cạnh tranh,cung cầu,giá trị thị trường,giá cả thị trường,lợi nhuận…vẫn phát huy tác dụng.
Ba là:Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của KTTT nư qui luật giá trị,qui luật lưu thông tiền tệ,qui luật cạnh tranh,qui luật cung cầu…Sự tác động của các qui luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế.
Bốn là:Nếu là nền KTTT hiện đại thì còn có sự điều tiết của vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế,kế hoạch hóa,các chính sách kinh tế.
Mặt khác KTTT định hướng XHCN ở VN dựa trên cơ sở và được dẫn dắt chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của CNXH,dựa trên tính đặc thù về tình hình chính trị-kinh tế-xã hội ở VN.Do đó những định hướng XHCN của nền kinh tế là:
Phát triển nền kinh tế hàng hóa, KTTT với sự tham gia của những thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh,trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Có sự quản lý của nhà nước đảm bảo thống nhất giữa sự phát triển,tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, đảm bảo cho KTTT phát triển theo định hướng XHCN.
Xây dựng một nền kinh tế hàng hóa , KTTT hội nhập vào nền kinh tế thị trường khu vực và thế giới với nhiều hình thức quan hệ và liên kết phong phú đa phương, đa dạng.
Như vậy,bản chất của mô hình KTTT định hướng XHCN là một kiểu tổ chức nền kinh tế đặc biệt của một xã hội đặc biệt-nền kinh tế quá độ của xã hội quá độ đng trong qúa trình chuyển biến từ nấc thang nọ sang nấc thang kia,do đó,nó vừa tuân theo những nguyên tắc và qui luật của bản thân hệ thống KTTT, đồng thời vừa bị chi phối bởi những nguyên tắc và qui luật nằm ngoài hệ thống(Nguyên tắc xã hội hóa-XHCN và những qui luật phản ánh bản chất xã hội hóa CNXH).
Mục đích phát triển KTTT định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH,thiết lập quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt:Sở hữu,quản lý và phân phối.Nói một cách khác mục tiêu chiến lược-như chính bản thân khái niệm đã chỉ ra là đạt tới CNXH tốt đẹp và giàu có cho mọi người,mục tiêu gần và hiện thực-như Đảng ta đã nêu ra:”Làm cho dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng, dân chủ,văn minh.”
Cụ thể là:Tạo ra sự phát triển năng động,hiệu quả cao của nền kinh tế.Nâng cao hiêụ qủa sử dụng các nguồn lực hiện có,tăng thêm các nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết kiệm,tăng tích lũy và đầu tư hiện đại hóa, đổi mới cơ cấu kinh tế,tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao…để đưa nước ta thoát khỏi tình trạngmột nước nghèo và kém phát triển.Chính mục tiêu này sẽ qui định phương tiện,công cụ, động lực của KTTT định hướng XHCN và con đường đạt tới mục tiêu trên là sử dụng KTTT,mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để khoảng thời gian không dài có thể khắc phục tình trạng tụt hậu,biến nước ta thành một nước công nghiệp phát triển.Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng,lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân,tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội,khuyến khích làm giàu hợp pháp,gắn liền với xóa đói giảm nghèo.
Do đó KTTT định hướng XHCN có những đặc trưng bản chất sau:
Nền KTTT định hướng XHCN dựa trên nhiều quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất,là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. KTTT TBCN cũng dựa trên nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về nhà nước,trong đó sở hữu tư nhân là nền tảng.Còn nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta lấy việc giải phóng sức sản xuất,làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế,hình thức sở hữu.Trong nền KTTT nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân,sở hữu tập thể,sở hữu tư nhân(gồm sở hữu cá thể,sở hữu tiểu chủ,sở hữu tư nhân tư bản).Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành những thành phần kinh tế,nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh.Các thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước,, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.Các thành phần kinh tế trên tồn tại khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH.Vì vậy, phát triển nền KTTT nhiều thành phần là một tất yếu đối với nước ta,chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực kinh tế,nâng cao được hiệu quả kinh tế,phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển của nền kinh tế của đất nước thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.Do đó không chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể,mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu phát triển để hình thành nền KTTT rộng lớn bao gồm các thành phần kinh tế thuộc chế độ tư hữu,công hữu,các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước,các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình đẳng vừa hợp tác,vừa cạnh tranh với nhau để phát triển.Trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, kinh tế nhà nước là nhân tố qui định và bảo đảm tính định hướng XHCN của nền KTTT.Mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó,chính kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới-XHCN ở nước ta.Vì mỗi thành phần kinh tế có bản chất kinh tế-xã hội riêng,chịu sự tác động của các qui luật kinh tế riêng,nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế,còn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền KTTT ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau.Chẳng hạn các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tuy có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất,giải quyết việc làm,nhưng vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất,nên chúng không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần,nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội.Do đó kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.Xây dựng hệ thống kinh tế nhà nước mạnh chính là tăng cường thực lực kinh tế của nhà nước để làm chỗ dựa,bảo đảm ổn định kinh tế và định hướng cho thị trường XHCN.Buông lỏng khu vực kinh tế nhà nước là buông lỏng định hướng XHCN đối với KTTT. Kinh tế Nhà nước chính là nơi thể hiện đây đủ nhất tính ưu việt của CNXH: Đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội,tiến bộ xã hội và bảo vệ mội trường sinh thái,thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội,tất cả phục vụ con người trên tầm vĩ mô. Nhà nước vừa là người đại diện cho toàn bộ nền kinh tế,vừa là chủ thể của nền kinh tế nhà nước.Do đó nhà nước phải tôn trọng tính chủ thể của các chủ thể kinh tế,không kể họ ở thành phần nào,vừa phải có ý thức đầy đủ về việc phát triển kinh tế Nhà nước để nó thực sự có vai trò chủ đạo. Để giữ được vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước phải nắm giữ những khâu,những lĩnh vực then chốt,những đài chỉ huy,những mạch máu chính của kinh tế quốc dân. Kinh tế Nhà nước phải là kiểu mẫu về năng suất ,chất lượng,hiệu quả và chấp hành pháp luật để lôi kéo các thành phần kinh tế khác theo quĩ đạo CNXH. Kinh tế Nhà nước phải có giá trị tổng sản lượng và tỷ trọng hàng hóa ngày càng tăng, đóng góp tỷ lệ cao trong ngân sách Nhà nước,không ngừng nâng cao._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10239.doc