TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
.....o0o.....
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI :
MỘT SỐ RÀO CẢN VỀ LUẬT PHÁP VÀ VĂN HOÁ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Giáo viên hướng dẫn : ThS Nguyễn Hoàng Ánh
Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Thu Hà
Lớp : Anh 2 K37 - ĐHNT
Hà Nội 12 - 2002
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RÀO CẢN VĂN HOÁ VÀ LUẬT
1
PHÁP TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1 Vấn đề rào cản trong thư
103 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1857 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số rào cản về văn hoá và luật pháp đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ- Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng mại quốc tế
1
1.1 Khái niệm rào cản
1
1.2 Rào cản trong thương mại quốc tế
1
1.3 Tính tất yếu của rào cản trong Thương mại quốc tế
2
2 Rào cản văn hoá trong thương mại quốc tế
4
2.1 Yếu tố văn hoá trong thương mại quốc tế
4
2.2 Rào cản văn hoá trong thương mại quốc tế
12
3. Rào cản về luật pháp trong thương mại quốc tế
15
3.1 Yếu tố luật pháp trong thương mại quốc tế
15
3.2 Rào cản luật pháp trong thương mại quốc tế
23
CHƯƠNG II MỘT SỐ RÀO CẢN VỀ LUẬT PHÁP VÀ VĂN HOÁ ĐỐI
26
VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG MỸ
1 Tìm hiểu về thị trường Mỹ và tầm quan trọng của thị trường
26
Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
1.1 Tổng quan về thị trường Mỹ
26
1.2 Vai trò của Mĩ đối với nền kinh tế thế giới và hoạt động kinh
34
tế đối ngoại của Việt Nam
2 Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ
37
2.1 Tình hình chung
37
2.2 Nhận xét
42
3 Nhận diện một số rào cản về luật pháp và văn hoá đối với hoạt
43
động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ
3.1 Một số rào cản chủ yếu về luật pháp và văn hoá đối với hoạt
43
động xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ
3.2 Một số vụ tranh chấp lớn phát sinh trong thời gian gần đây
62
CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM VƯỢT QUA RÀO CẢN LUẬT
69
PHÁP VÀ VĂN HOÁ ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM SANG MỸ
1 Triển vọng phát triển hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang
69
thị trường Mỹ
1.1 Những bước tiến mới trong quan hệ thương mại giữa hai nước
69
1.2 Những cơ hội và thách thức chủ yếu
71
2 Phương hướng phát triển hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
74
2.1 Phương hướng và mục tiêu tổng quát cho hoạt động xuất khẩu
74
nói chung
2.2 Phương hướng và mục tiêu đối với thị trường Mỹ
77
3 Một số giải pháp vượt qua rào cản luật pháp và văn hóa
78
3.1 Các giải pháp vĩ mô từ phía Nhà nước
78
3.2 Các giải pháp về phía doanh nghiệp
81
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NÓI ĐẦU
Thị trường Mỹ với dung lượng nhập khẩu khổng lồ nhiều chủng loại hàng hoá là một thị trường mà bất kỳ một nước xuất khẩu nào cũng muốn hướng tới. Thị trường Mỹ đã và đang là thị trường chủ yếu và mục tiêu của nhiều nước. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, thị trường Mỹ vẫn còn rất mới mẻ.
Kể từ khi Mỹ tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam vào năm 1995 cho đến nay, quan hệ Việt-Mỹ đã có những bước tiến vượt bậc. Trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, Mỹ đang ngày càng trở thành đối tác chiến lược quan trọng. Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ không ngừng tăng lên trong những năm qua. Đặc biệt, Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết đã nâng quan hệ thương mại giữa hai nước lên một tầm cao mới, mở ra cơ hội mới cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Tuy vậy, trên thực tế tốc độ phát triển hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chưa tương xứng với những tiềm năng và lợi thế cho thấy vẫn còn rất nhiều rào cản, hạn chế mà phía Việt Nam chưa thể khắc phục. Thêm vào đó, qua nhiều vụ tranh chấp lớn xảy ra trong thời gian gần đây như vụ Catfish, vụ cà phê Trung Nguyên,…, người ta đã có thể nhận diện những rào cản chủ yếu. Vấn đề đặt ra cho phía Việt Nam là làm sao khắc phục, vượt qua những rào cản ấy để xuất khẩu vào thị trường Mỹ một cách hiệu quả nhất.
Trong số các rào cản đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ có hai loại rào cản quan trọng là rào cản văn hoá và rào cản luật pháp. Hai loại rào cản này hết sức phức tạp và có tác động rất lớn đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Những rào cản này hiện nay không chỉ tồn tại trên lý thuyết mà đang ngày càng hiện rõ, phát tác trong thực tiễn, cản trở thực tế đến việc thâm nhập thị trường Mỹ của doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam. Thực trạng này đòi hỏi Nhà nước và Doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng nhận thức rõ những rào cản đó, từ đó có những giải pháp đối phó phù hợp. Với việc lựa chọn đề tài “Một số rào cản về văn hoá và luật pháp đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ- Thực trạng và giải pháp” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình, em chỉ mong góp phần khiêm tốn đưa ra một số nhận định và đề xuất một số biện pháp để cùng giải quyết vấn đề cấp bách trên.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo, Thạc sĩ Nguyễn Hoàng Ánh đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em cũng xin chân thành cảm ơn các thày cô và bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình tìm hiểu đề tài, thu thập tài liệu cũng như đã có những ý kiến đóng góp bổ ích.
Mặc dù đã rất cố gắng song do khuôn khổ thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế nên khoá luận chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự phê bình đóng góp của các thầy cô và bạn đọc để khoá luận được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RÀO CẢN VĂN HOÁ VÀ LUẬT PHÁP TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. VẤN ĐỀ RÀO CẢN TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1 Khái niệm rào cản
Hiện nay, khi xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại ngày càng diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, vấn đề rào cản trở thành một nội dung được các nhà kinh tế thảo luận và bàn cãi rất nhiều. Đơn giản là vì muốn đẩy mạnh quá trình tự do hoá, toàn cầu hoá thì trước hết phải tìm ra các giải pháp để loại bỏ, hạn chế hoặc vượt qua những rào cản đó.
Trong nhiều tài liệu, khái niệm “rào cản” được định nghĩa là tất cả những gì gây trở ngại, khó khăn cho hoạt động tiếp cận một đối tượng nào đó. Ngày nay khi giao lưu kinh tế và văn hoá ngày càng phổ biến, người ta nhắc nhiều đến “rào cản ngôn ngữ”, “rào cản văn hoá”, “rào cản thương mại”...
1.2 Rào cản trong thương mại quốc tế
Trong thương mại quốc tế có một thuật ngữ tiếng Anh được dùng rất phổ biến là “Barrier of trade”, nghĩa là hàng rào thương mại. Hàng rào thương mại là tất cả các hoạt động của một Chính phủ nhằm hạn chế, ngăn cấm sự tự do của hàng hoá ra vào lãnh thổ nước đó. Theo cách định nghĩa này rào cản chỉ mang tính chủ quan, xuất phát từ hoạt động có chủ ý, có mục đích rõ ràng của các Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế khái niệm rào cản rất rộng, bao gồm cả các rào cản chủ quan lẫn khách quan. Bên cạnh những rào cản, hạn chế do Chính phủ các nước đặt ra một cách rõ ràng minh bạch bằng văn bản còn có các rào cản vô hình tồn tại khách quan. Ví dụ như: những rào cản về mặt văn hoá, rào cản do sự khác biệt về luật pháp, chế độ chính trị, rào cản do chênh lệch về trình độ phát triển,... giữa các quốc gia. Tuy những rào cản này không được quy định cụ thể song lại chi phối rất lớn đến hoạt động thương mại giữa các quốc gia.
Như vậy, xét theo nghĩa rộng, rào cản trong thương mại quốc tế là tất cả những gì chủ quan hay khách quan, cụ thể hay trừu tượng có tác động cản trở, ngăn chặn , hạn chế hoạt động thương mại quốc tế.
1.3 Tính tất yếu của rào cản trong thương mại quốc tế
1.3.1 Tính tất yếu do sự khác biệt giữa các quốc gia:
Hoạt động thương mại quốc tế là hoạt động thương mại có sự tham gia của các quốc gia khác nhau với rất nhiều khác biệt. Các quốc gia khác nhau về mọi lĩnh vực: văn hoá, chính trị, luật pháp, trình độ phát triển, điều kiện tự nhiên, xã hội, vị thế trên thế giới,... Nếu như sự khác biệt giữa các quốc gia về tài nguyên, nguồn lực, lợi thế là nguyên nhân cơ bản dẫn đến phân công lao động quốc tế và hoạt động thương mại quốc tế thì chính những khác biệt ấy lại trở thành những rào cản gây trở ngại cho hoạt động thương mại quốc tế. Thử xét riêng góc độ ngôn ngữ, trong quá trình đàm phán ký kết một hợp đồng mua bán giữa các đối tác thuộc các nước khác nhau, do ngôn ngữ bất đồng nên có nhiều vấn đề bên này khó có thể truyền đạt đầy đủ đến bên kia vì trong các ngôn ngữ khác nhau có thể không có cách diễn đạt tương đương, hoặc nếu theo ngôn ngữ này chỉ cần một từ là đủ thì sang ngôn ngữ khác phải giải thích rất dài dòng. Đây là một trở ngại không nhỏ khiến các đối tác khó có thể thông hiểu nhau để tiến tới một thoả thuận chung.
Sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các quốc gia cũng là một rào cản lớn. Tại các nước có trình độ phát triển cao như Tây Âu và Nhật Bản, thị trường của họ thường rất khó tính. Hàng hoá muốn nhập khẩu vào các thị trường này phải đáp ứng được những tiêu chuẩn rất khắt khe về chất lượng, vệ sinh, kiểm dịch,... Trong khi đó, hàng từ các nước đang phát triển với trình độ sản xuất còn yếu kém, công nghệ lạc hậu khó có thể đảm bảo được những yêu cầu này.
Sự cách biệt về mặt địa lý hay điều kiện tự nhiên khí hậu cũng có thể gây trở ngại cho hoạt động thương mại quốc tế. Mặc dù hiện nay sự phát triển của các phương tiện thông tin liên lạc, giao thông vận tải đã rút ngắn một cách tương đối khoảng cách tự nhiên giữa các quốc gia song rõ ràng là việc buôn bán với một bạn hàng ở quá xa còn rất nhiều điểm bất lợi. Chẳng hạn như thời gian vận chuyển hàng hoá, thời gian lưu chuyển chứng từ kéo dài đồng nghĩa với chi phí và rủi ro nhiều hơn.
1.3.2 Tính tất yếu do nhu cầu bảo hộ của từng quốc gia
Bên cạnh những rào cản tồn tại khách quan do sự khác biệt giữa các quốc gia, rào cản tồn tại còn là do nhu cầu bảo hộ của từng quốc gia. Mặc dù hiện nay, các quốc gia trên thế giới hầu hết chủ trương tự do hoá thương mại, mở cửa nền kinh tế để thông thương nhưng điều này không có nghĩa là tự do hoá, mở cửa tràn lan.
Trong trường hợp các nước mở cửa, tự do hoá thương mại tràn lan, các tác nhân xấu sẽ dễ dàng xâm nhập gây hại cho không chỉ nền kinh tế mà cho mọi mặt của đời sống xã hội nước đó. Chẳng hạn như, chiến tranh và khủng bố sẽ leo thang nếu như các nước không có những biện pháp ngăn cấm hay hạn chế hoạt động buôn bán vũ khí, đạn dược. Mặt khác, để bảo vệ an ninh trật tự xã hội, các quốc gia phải có những rào cản nhất định đối với hoạt động buôn bán những mặt hàng có hại như chất kích thích, thuốc nổ, hoá chất độc...; để bảo vệ môi trường, các quốc gia phải duy trì những hạn chế đối với hoạt động buôn bán động vật, thực vật, khoáng sản,...
Không chỉ cấm hay hạn chế các mặt hàng có hại, các nước còn cần hạn chế ở một chừng mực nào đó hoạt động mua bán các mặt hàng được phép xuất nhập khẩu. Nguyên nhân là do việc xuất khẩu quá nhiều một mặt hàng nào đó sẽ khiến hoạt động sản xuất trong nước mất cân đối, nguyên nhiên liệu để sản xuất mặt hàng đó sẽ bị khai thác quá mức đến không thể phục hồi,...Việc một nước nhập khẩu quá nhiều những mặt hàng trong nước có thể sản xuất được sẽ có khả năng bóp nghẹt hoạt động sản xuất nội địa hoặc gây thâm hụt nghiêm trọng cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế của nước đó.
Ngoài ra, các quốc gia còn cần có biện pháp hạn chế nhập khẩu đối với hàng nhập từ các nước bạn hàng không thực sự thân thiết trong quan hệ thương mại hoặc để trả đũa lại những hành vi thương mại không “đẹp “của phía bên kia. Tóm lại, có rất nhiều lý do giải thích sự tồn tại của rào cản trong thương mại quốc tế.
2. RÀO CẢN VỀ VĂN HOÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
2.1 Yếu tố văn hoá trong thương mại quốc tế
2.1.1 Khái quát về văn hoá
1/ Khái niệm về văn hoá:
Văn hoá là một phạm trù lịch sử gắn liền với sự ra đời và phát triển của toàn nhân loại. Cho đến nay nền văn hoá Thế giới đã có một bề dày lịch sử lâu đời. Bản thân khái niệm văn hoá rất rộng lớn, bao quát mọi mặt của đời sống xã hội, các nhà khoa học khác nhau lại có các cách tiếp cận văn hoá khác nhau cho nên đến nay đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về nội dung thuật ngữ văn hoá. Xét một cách tổng thể thì có hai cách hiểu cơ bản về văn hóa.
Theo cách hiểu phổ thông trong mọi tầng lớp nhân dân, khái niệm văn hoá được nhìn nhận thông qua các hiện tượng với nội dung rất phong phú. Văn hoá chỉ về những thực thể của đời sống tinh thần (chùa chiền, di tích lịch sử văn hoá..), văn hoá chỉ trình độ học vấn (trình độ văn hoá phổ thông, trình độ văn hoá đại học) hoặc chỉ các sinh hoạt cộng đồng (sinh hoạt văn hoá),... Cách hiểu này rất phổ biến trong quần chúng nhân dân, tuy chưa đầy đủ song rất cụ thể và mang đậm bản sắc văn hoá của từng dân tộc.
Theo cách hiểu khoa học, khái niệm văn hoá được nhìn nhận về mặt bản chất, cội nguồn sự vật. Theo đó, khái niệm văn hoá cũng rất đa dạng do cách tiếp cận khác nhau của các nhà nghiên cứu, các trường phái nghiên cứu thuộc các lĩnh vực, dân tộc khác nhau.
Theo thống kê thì hiện nay trên thế giới có khoảng gần 300 định nghĩa khác nhau về văn hoá. Vì khái niệm văn hoá rất rộng, rất bao quát nên có rất nhiều cách định nghĩa trong số đó hầu như chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó của văn hoá, hoặc bao quát song quá trừu tượng. Chỉ có một số cách định nghĩa được công nhận rộng rãi.
Hiện nay, trên Thế giới nhiều nhà khoa học đồng tình với cách định nghĩa của Frederico Mayor, tổng giám đốc UNESCO đưa ra, theo đó: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng phong tục tập quán, lối sống và lao động”. Định nghĩa khái niệm văn hoá này có ưu điểm là nêu bật khái niệm văn hoá một cách vừa bao quát, lại vừa cụ thể. Có lẽ vì vậy mà định nghĩa này hiện nay đang được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong rất nhiều tài liệu nghiên cứu cũng như trong cách hiểu thông thường.
Ở Việt Nam, một định nghĩa về văn hóa được nhiều người tán thành và cũng rất phổ biến trong những tài liệu về văn hoá (Cụ thể là cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam) định nghĩa về văn hoá như sau: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”. Định nghĩa trên đã khái quát được văn hoá, đã nhấn mạnh được yếu tố chủ thể con người và nguồn gốc sự hình thành văn hoá.
Tóm lại, trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá ngày nay có thể coi là “tổng thể những nét tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội, từ đó chi phối suy nghĩ và hành động của con người trong xã hội đó”. Vì vậy văn hóa mang những nét đặc sắc của từng cộng đồng, từng dân tộc. (Định nghĩa văn hoá của UNESCO).
2/ Các yếu tố cấu thành văn hoá
Có nhiều cách phân loại các yếu tố cấu thành văn hoá. Ttrong khoá luận này, người viết muốn đưa ra một cách phân chia khoa học và hợp lý của các chuyên gia kinh tế phương Tây, hiện đang nhận được đông đảo sự đồng tình trên Thế giới. Theo cách phân chia này, văn hoá bao gồm :
+/Ngôn ngữ
+/Tôn giáo
+/Các giá trị và quan điểm
+/Phong tục tập quán và thói quen
+/Đời sống vật chất
+/Nghệ thuật
+/Giáo dục
+/Cấu trúc xã hội
Để thành công trên trường quốc tế, các nhà kinh doanh không chỉ cần có cái nhìn tổng quát về nền văn hoá nước mình, nước đối tác và các quốc gia liên quan mà còn cần phải có một cái nhìn chi tiết cụ thể về văn hoá. Đó là vì mọi yếu tố cấu thành văn hoá, dù là nhỏ nhất cũng có tác động đến hoạt động kinh doanh, cũng có vai trò nhất định trong việc làm nên thành công hay thất bại của các thương vụ.
a. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là một yếu tố rất quan trọng trong văn hoá. Ngôn ngữ là hệ thống các âm thanh, từ ngữ, mẫu vẽ,... được con người sử dụng để truyền đạt suy nghĩ và cảm xúc. Về tầm quan trọng và ý nghĩa của ngôn ngữ đối với văn hoá, ngôn ngữ được ví như những viên gạch xây nên bức tường văn hoá. Chính nhờ ngôn ngữ mà con người mới có thể xây dựng và duy trì văn hoá của mình. Ngôn ngữ bao gồm cả ngôn ngữ có lời và ngôn ngữ không lời. Bên cạnh ngôn ngữ chính thức là ngôn ngữ có lời trong giao tiếp còn có thể biểu đạt các nội dung bằng cử chỉ, tư thế, ánh mắt. Ngôn ngữ là một bộ phận rất quan trọng của văn hoá nên nó có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động kinh doanh, đặc biệt là giao tiếp trong kinh doanh.
b. Tôn giáo
Tôn giáo là một hệ thống các tín ngưỡng và nghi thức liên quan đến lĩnh vực thần thánh. Tôn giáo góp phần tạo nên lối sống, nó tạo ra các mối quan hệ, quyền lực, trách nhiệm và bổn phận của mỗi cá nhân. Tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến thói quen, cách nhìn và hành động của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có kinh doanh.
c. Các giá trị và thái độ
Giá trị là những niềm tin và chuẩn mực chung cho một tập thể người mà được các thành viên chấp nhận. Thái độ là sự đánh giá những giải pháp khác nhau dựa trên những giá trị này. Ngày nay khi xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, người ta lại chú ý nhiều hơn đến các giá trị dân tộc với những nét đặc sắc và riêng biệt. Giá trị và thái độ có tác động mạnh mẽ đến hành vi kinh doanh nên phải được nhìn nhận như là các yếu tố làm cơ sở cho các quyết định kinh doanh của các doanh nghiệp.
d. Phong tục tập quán và chuẩn mực đạo đức:
Phong tục tập quán và chuẩn mực đạo đức là những luật lệ xã hội để kiểm soát hành động của người này đối với người kia. Phong tục tập quán (folkways) là những quy ước thông thường của cuộc sống hàng ngày. Nó mang nặng tính lề thói, thói quen sinh hoạt. Phong tục tập quán quy định các cách cư xử được coi là phù hợp nên việc vi phạm phong tục tập quán không phải là vấn đề nghiêm trọng. Khác với phong tục tập quán, các chuẩn mực đạo đức là những cách cư xử được coi là đúng đắn và có tính chất bắt buộc chung đối với các thành viên trong xã hội. Vì vậy, các doanh nghiệp phải tuyệt đối tuân thủ các chuẩn mực đạo đức trên các thị trường mà mình đang tham gia. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần chú ý đến các phong tục tập quán vì tuy không bắt buộc nhưng các phong tục tập quán rất đa dạng và có ảnh hưởng bao trùm đối với mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
e. Đời sống vật chất:
Một nền văn hoá vật chất được coi là kết quả của công nghệ và cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của một xã hội. Văn hoá vật chất thể hiện qua đời sống vật chất của một quốc gia. Khái niệm văn hoá vật chất bao trùm cả tri thức, công nghệ, phương pháp, công cụ lao động để sản xuất, phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Với vai trò là một tác nhân kinh tế, văn hoá vật chất tác động mạnh mẽ đến mức cầu, chủng loại sản phẩm, chất lượng, tính năng của sản phẩm cũng như khâu sản xuất và các kênh phân phối.
f. Nghệ thuật- Thẩm mỹ
Nghệ thuật bao gồm hội hoạ, tạo hình, văn hoá dân gian, kịch nghệ và những vũ điệu truyền thống. Mục đích chủ yếu của nghệ thuật là truyền tải khái niệm cái đẹp trong một nền văn hoá. Do đó, tìm hiểu nghệ thuật của một nền văn hoá sẽ giúp chúng ta nắm được quan niệm thẩm mỹ nói chung của người dân trong một nền văn hoá. Quan niệm thẩm mỹ của một xã hội thể hiện ở các màu sắc, biểu tượng, động tác,...và có ảnh hưởng chi phối đến mọi hoạt động trong đời sống. Trong kinh doanh, quan niệm thẩm mĩ có ảnh hưởng rất lớn đến các khâu: thiết kế, chế tạo sản phẩm và quảng cáo,..
g. Giáo dục
Giáo dục là một thành tố rất quan trọng trong văn hoá. Hệ thống giáo dục khác nhau ở mỗi nước cũng góp phần duy trì và tạo nên sự khác biệt về văn hoá. Giáo dục có ảnh hưởng sâu sắc đến trình độ văn hoá, nhận thức, tinh thần và kỷ luật, năng lực làm việc.. của người dân trong một xã hội. Trong kinh doanh, yếu tố này có ảnh hưởng đặc biệt đến công tác tuyển dụng và đào tạo lao động của các doanh nghiệp.
k. Cấu trúc xã hội
Cấu trúc xã hội là cách thức tổ chức cơ bản của xã hội đó. Cấu trúc xã hội gồm nhiều khía cạnh song các cấu trúc xã hội khác nhau có thể được phân biệt căn cứ vào hai yếu tố đặc trưng là: mức độ coi trọng tính cá nhân và mức độ phân chia giai cấp, đẳng cấp trong xã hội. Yếu tố này có ảnh hưởng quyết định đến sự lựa chọn cơ cấu mặt hàng chiến lược và thị trường mục tiêu của các doanh nghiệp.
2.1.2 Văn hoá trong thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là một hoạt động trong đó một doanh nghiệp sẽ tiến hành xuất khẩu hàng hoá hoặc dịch vụ cho người tiêu dùng ở một quốc gia khác hay nhập khẩu hàng hoá dịch vụ từ quốc gia khác về phục vụ cho người tiêu dùng ở nước mình. Hàng hoá và dịch vụ sản xuất tại một quốc gia chính là sản phẩm của nền văn hoá quốc gia đó, vì vậy dưới góc độ văn hoá thì thương mại quốc tế chính là sự chuyển giao sản phẩm và dịch vụ được sản xuất từ nền văn hoá này cho những người ở nền văn hoá khác sử dụng. Chính vì vậy văn hoá có ảnh hưởng rất lớn đến thương mại quốc tế.
Qua phần khái quát về văn hoá, ta có thể thấy chính văn hoá đã tạo nên lối sống của một cộng đồng. Văn hoá có tác động mạnh mẽ đến tất cả, từ phong cách giao tiếp, làm việc, cách thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho đến nhu cầu cần được thoả mãn và cách thoả mãn nhu cầu của con người sống trong nền văn hoá đó. Những nền văn hoá khác nhau sẽ tạo nên những lối sống, những cách tiêu dùng khác nhau. Vì vậy các nhà kinh doanh, đặc biệt là các nhà loạt động thương mại quốc tế cần nghiên cứu kĩ về văn hoá khi thâm nhập vào thị trường mới.
Hãy xét quá trình diễn tiến của một thương vụ mua bán hàng hoá quốc tế. Từ khâu nghiên cứu tìm hiểu thị trường để xác định cung cầu đến giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng, thiết kế mẫu mã sản phẩm, sản xuất, đóng gói bao bì, định giá, xúc tiến bán hàng, tạo kênh phân phối, muốn thực hiện tốt tất cả các khâu này đều phải dựa trên sự hiểu biết về văn hoá. Do vậy, nhà kinh doanh phải nắm được các yếu tố văn hoá ảnh hưởng như phong tục tập quán, tôn giáo, giáo dục, đời sống vật chất,... Phải xác định đời sống của nhân dân nơi đó cao hay thấp để biết họ cần chủng loại hàng hoá nào, xa xỉ, thông thường hay thứ cấp và để biết mục tiêu hàng đầu của họ là giá cả hay chất lượng. Các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã nắm rất chắc về vấn đề này khi thâm nhập thị trường Việt Nam- nơi mà đời sống nhân dân còn tương đối thấp. Đối với đa số người Việt Nam, hàng hoá chỉ cần đảm bảo chức năng, mẫu mã hình thức chỉ cần tương đối, chất liệu không nhất thiết phải bền, miễn là giá thấp. Các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã triệt để khai thác khía cạnh này, sản xuất những mặt hàng với khối lượng lớn, phát huy lợi thế quy mô và nguồn nguyên liệu sẵn có. Nhờ vậy, sản phẩm họ làm ra có thể bán với giá thấp ngoài sức tưởng tượng, được người Việt Nam tiêu dùng rất nhiều. Có thể nói yếu tố lớn nhất dẫn đến thành công của Trung Quốc là do họ nắm rất chắc thị hiếu, thói quen tiêu dùng cũng như đời sống vật chất của người Việt Nam.
Phong tục tập quán quyết định nhu cầu và thẩm mỹ, thị hiếu. Phong tục tập quán có ảnh hưởng trực tiếp đến các nghi thức, lễ tiết giao tiếp trong gặp gỡ, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng. Điều này đòi hỏi những nhà kinh doanh ngoại thương phải am hiểu văn hoá các nước, từ đó có cách cư xử đúng đắn, phù hợp, gây thiện cảm với đối tác để việc thương lượng trở nên dễ dàng hơn.
Khâu xúc tiến bán hàng, tạo kênh phân phối cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố văn hoá. Ở nơi đời sống vật chất của dân cư còn thấp, ít các phương tiện truyền thông hiện đại như ti vi, máy tính,... như một số nước Châu Phi, việc quảng cáo trên các phương tiện này rõ ràng là không hiệu quả.
Mặc dù một số nước Châu Phi hiện nay còn nghèo đói, lạc hậu nhưng tình hình này hoàn toàn có thể thay đổi trong tương lai. Văn hoá là một phạm trù lịch sử nên nó cũng biến đổi theo thời gian. Chúng ta có thể thấy rõ nhất là ở khía cạnh đời sống vật chất của văn hóa. Kinh tế luôn vận động và khoa học kĩ thuật ngày càng tiến bộ hơn. Vì thế, để thành công trên thương trường, các doanh nhân phải thường xuyên cập nhật về kiến thức văn hoá cho phù hợp với sự phát triển đó. Thí dụ, những bé gái Nhật Bản trước kia chỉ thích chơi búp bê bằng vải mặc những bộ quần áo cầu kỳ với mắt nhỏ và tóc tết. Tuy vậy, do sự du nhập của văn hoá và lối sống phương Tây, trẻ em Nhật bây giờ thích chơi búp bê Barbie với mắt to chân dài hơn con búp bê truyền thống nhiều. Vài chục năm trước đây, ý tưởng kinh doanh búp bê Barbie ở Nhật Bản có thể bị coi là quá phiêu lưu, xa rời thực tế. Mặc dầu vậy, hiện nay ý tưởng ấy lại đem lại thành công lớn.
Ví dụ trên đã cho chúng ta thấy một điều: hoạt động thương mại không chỉ chịu ảnh hưởng của văn hoá một cách bị động. Do đặc tính của văn hoá là năng động nên các nhà kinh doanh có thể đón trước những trào lưu biến động của văn hoá để hướng dẫn tiêu dùng, tung ra những sản phẩm mới, góp phần thúc đẩy văn hoá biến động nhanh hơn.
Trong xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, nền văn hoá của các khu vực, các quốc gia đang xích lại gần nhau. Tuy nhiên, các nền văn hoá hoà nhập mà không hoà tan. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc vẫn cần giữ nguyên bản sắc văn hoá của mình vì các giá trị văn hoá riêng có đó chính là thế mạnh của họ khi hoà nhập vào quá trình thương mại quốc tế. Ví dụ, nền văn hoá Mỹ- với những đặc trưng như: coi trọng yếu tố cá nhân, sống tốc độ, phong cách người dân nhanh nhẹn, linh hoạt- là yếu tố chủ đạo tạo nên tính năng động và bứt phá của nền kinh tế Mỹ. Trong khi đó, các thương gia Nhật Bản vẫn rất thành công với phong cách làm ăn khôn ngoan cẩn trọng, phong cách đàm phán khéo léo, tỉ mỉ, nhiều thủ thuật vốn là đặc tính của người Nhật Bản từ xưa đến nay. Ngày nay, khi cạnh tranh trên thương trường quốc tế diễn ra gay gắt, trình độ sản xuất của các nước ngày càng tiến gần đến nhau, giá cả và chất lượng đều được tiêu chuẩn hoá, quốc tế hoá, người mua có nhiều cơ hội để lựa chọn hơn thì việc am hiểu về nền văn hoá nước đối tác, đặc biệt là phong tục tập quán sẽ là lợi thế đáng kể để các thương nhân giành được các hợp đồng với những điều kiện thuận lợi. Nói chung, nghiên cứu tìm hiểu văn hoá là một công việc thiết yếu và rất có ý nghĩa đối với tất cả các bên trong hoạt động kinh doanh nói chung và thương mại quốc tế nói riêng.
2.2 Rào cản văn hoá trong thương mại quốc tế
Như đã phân tích ở phần trước, rào cản có thể phát sinh do những sự khác biệt giữa các quốc gia, cũng có thể phát sinh do cơ chế bảo hộ riêng của các quốc gia. Trong những rào cản phát sinh do sự khác biệt giữa các quốc gia, rào cản văn hoá là một bộ phận lớn và có tác động mạnh mẽ đến hoạt động thương mại quốc tế. Ở đây, người viết đề cập đến những loại rào cản văn hoá sau:
2.2.1 Rào cản do sự khác biệt trong cách suy nghĩ
Cách tư duy có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của các nhà kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu, sản xuất và người tiêu dùng. Một trong số các rào cản tư duy rõ ràng nhất là sự khác biệt về tư duy kinh tế giữa các nước TBCN và các nước XHCN. Nền văn hoá các nước tư bản phát triển đặc biệt coi trọng yếu tố cá nhân, coi trọng thành công của cá nhân. Do đó mỗi doanh nhân khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế thì mục tiêu đầu tiên là lợi ích của chính cá nhân người đó chứ không phải lợi ích xã hội, môi trường,… Họ có thể thẳng thắn thừa nhận động cơ kinh doanh của họ chỉ là lợi nhuận và họ được tự do đưa ra các quyết định kinh doanh. Do đó, khi làm ăn với các doanh nghiệp này, phía đối tác chỉ phải thông qua rất ít “cửa”, mà chủ yếu là thông qua được doanh nghiệp bên kia là xong. Trái lại, mặc dù hiện nay tư duy kinh tế ở các nước XHCN cũ đã thay đổi, không còn nặng nề như trước song vấn đề lợi ích công luôn phải được đặt lên hàng đầu. Doanh nghiệp muốn xuất khẩu hay nhập khẩu còn tuỳ thuộc quyết định của rất nhiều cơ quan quản lý cấp trên. Do đó, làm ăn vói các doanh nghiệp này phải qua rất nhiều “cửa”, phải tuân thủ rất nhiều thủ tục và luật lệ nhưng có ưu điểm là khá an toàn do có sự quản lý chặt chẽ, để tâm sát sao của Chính phủ và các bộ ngành…
2.2.2 Rào cản do sự khác biệt trong giao tiếp
Trong giao tiếp, vấn đề cần đề cập đến hàng đầu là ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ có lời, bao gồm cả ngôn ngữ nói và viết. Thương mại quốc tế là hoạt động thương mại giữa các quốc gia khác nhau, thường là khác nhau về ngôn ngữ. Bản thân ngôn ngữ bất đồng là một bất lợi lớn trong hoạt động thương mại quốc tế. Ví dụ, chỉ xét quá trình đàm phán ký kết hợp đồng, quá trình này có thể do các bên trực tiếp bày tỏ quan điểm, có thể phải qua thông dịch viên nếu hai bên không biết tiếng nhau. Thông dịch viên không thể hiểu rõ về tình hình của mỗi bên như các doanh nhân- “người trong cuộc” nên họ khó có thể dịch một cách chính xác hoàn toàn, do đó rất dễ dẫn đến hiểu lầm lẫn nhau.
Không chỉ trong giao tiếp đàm phán, yếu tố ngôn ngữ còn là một rào cản đáng kể trong nhiều trường hợp khác. Ví dụ như trong việc làm nhãn mác sản phẩm tiêu thụ trên thị trường nước ngoài. Hãng General Motors đã rất khó khăn trong việc tiếp cận thị trường Puerto Rico khi quảng cáo sản phẩm mới với nhãn hiệu Cheverolet Nova. Đây là một loại xe đời mới, có nhiều ưu điểm và giá cả hợp lý song không hiểu sao rất ít người mua. Sau một thời gian, các nhà nghiên cứu thị trường đã tìm ra nguyên nhân “tuy nhỏ mà không nhỏ” là: đối với người Tây Ban Nha, Nova có nghĩa là ngôi sao, song khi phát âm nó tương tự như “nova” có nghĩa là không chạy. Do vậy, sau đó hãng General Motors lập tức đổi tên xe thành Caribe. Rõ ràng trong khó khăn của General Motors có sự hiện diện của một rào cản quan trọng, rào cản ngôn ngữ trong thương mại quốc tế.
Hiện nay trên thế giới, tiếng Anh được dùng rất phổ biến song không có nghĩa là tất cả đều dùng tiếng Anh, đặc biệt là người Nhật Bản và Trung Quốc vẫn giữ tư tưởng khá cực đoan về tiếng mẹ đẻ. Do đó, rào cản ngôn ngữ vẫn đang và sẽ là một rào cản lớn phải tính đến trong hoạt động thương mại quốc tế. Trong giao dịch quốc tế, tốt nhất là các doanh nhân nên am hiểu càng nhiều thứ tiếng của các nước đối tác càng tốt. Bên cạnh đó, họ cũng nên tuân theo những quy tắc an toàn khác như: xác nhận bằng phương tiện nghe nhìn, tránh dùng thuật ngữ, tiếng lóng…
Trong giao tiếp, ngôn ngữ không lời như điệu bộ, động tác, cử chỉ, nét mặt,…cũng là một bộ phận quan trọng. Sự khác biệt về ngôn ngữ không lời cũng có thể trở thành rào cản đáng kể trong thương mại quốc tế. Ngoài ra, sự khác biệt về những thói quen tập quán trong giao tiếp như sự đúng giờ, bối cảnh sắp xếp những cuộc gặp mặt, thói quen tặng quà cũng có thể trở thành rào cản trong thương mại quốc tế. Trong giao tiếp, cũng như người ở Nhật Bản, người ở Trung Đông và Mỹ La Tinh hầu như chỉ có thể giao tiếp khi hiểu biết tương đối rõ về người đối thoại, nắm được các đặc điểm chủ yếu về nhân thân như tuổi tác, vị thế xã hội, mục đích giao tiếp,… Đối với họ, một cuộc gặp bất ngờ và những lời mời làm ăn đường đột thường khiến họ có cảm giác như bị “bỏ bom”. Do đó những thương nhân nước ngoài có thể gặp thất bại nếu định ký kết một hợp đồng quan trọng với họ chỉ trong một ngày, vội vàng đi ngay vào vấn đề chính.
2.2.3 Rào cản do sự khác biệt về tiêu dùng
Có thể hai sản phẩm tương tự nhau được vào một nước mà một sản phẩm bán chạy còn sản phẩm kia thì ế ẩm. Cùng một mặt hàng đưa vào những nước khác nhau mà ở nước này tiêu thụ nhanh trong khi ở nước khác thì hầu như ._.không có doanh số. Vì sao có hiện tượng này? Câu trả lời chính là sự khác biệt về tiêu dùng giữa các quốc gia. Sự khác biệt có thể trở thành rào cản rất lớn đối với các doanh nghiệp có ý định thâm nhập thị trường nước ngoài. Ví dụ, trong lĩnh vực thiết kế chế tạo sản phẩm: công ty General Milks đưa vào thị trường Nhật Bản loại bột làm bánh hiệu Bitty Cracker có thể nấu thành bánh trong nồi cơm điện. Sản phẩm mới này có thể thành công trên một số thị trường châu Á song lại thất bại thảm hại trên thị trường Nhật. Nguyên nhân chính là do người Nhật luôn tôn trọng sự tinh khiết trong nồi cơm của họ và họ không có thói quen nấu những thứ khác trong nồi cơm.
Sự khác biệt trong tiêu dùng cũng là vấn đề các doanh nghiệp gặp phải khi thiết lập hệ thống phân phối. Hãng Mỹ phẩm Avon thành công trong việc sủ dụng phương pháp bán hàng tại nhà và các phương pháp bán hàng trực tiếp khác tại Mỹ song lại không thành công ở châu Âu. Nguyên nhân là do người Mỹ có thói quen mua hàng trực tiếp, kể cả mua tại nhà trong khi phụ nữ châu Âu lại không có thói quen ấy. Thậm chí, họ còn phản ứng gay gắt vì cho rằng đời tư của họ bị xâm phạm.
Tóm lại, rào cản văn hoá trong thương mại quốc tế rất đa dạng và phức tạp. Yếu tố rào cản có thể xuất hiện trong từng khâu và xuyên suốt quá trình. Do vậy, các nhà kinh doanh ngoại thương trước khi có ý định làm ăn với thị trường, với đối tác nào thì nên cố gắng tìm hiểu nền văn hoá của thị trường, của nước đối tác đó.
3. RÀO CẢN VỀ LUẬT PHÁP TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
3.1 Yếu tố luật pháp trong thương mại quốc tế
3.1.1 Khái quát về luật pháp
1/ Khái niệm luật pháp
Văn hoá có từ buổi bình minh của xã hội loài người còn luật pháp chỉ thực sự ra đời khi xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định. Nói đến pháp luật là nói đến Nhà nước vì pháp luật ra đời cùng với sự phân hoá giai cấp, cùng với sự ra đời của Nhà nước. Khái niệm pháp luật có thể được định nghĩa như sau:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, chủ yếu và trước hết thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. ("Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật", NXB Giáo dục)
2/ Tính chất của luật pháp
+ Pháp luật có tính giai cấp
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết là ở chỗ pháp luật phản ánh ý chí Nhà nước của giai cấp thống trị. Ví dụ, pháp luật tư sản là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật.
+ Pháp luật có tính xã hội
Pháp luật là những quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc đối với mọi người. Tính giai cấp của xã hội còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội, quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp. Với ý nghĩa hướng các quan hệ xã hội theo một trật tự phù hợp với ý chí giai cấp thống trị, bảo vệ, củng cố địa vị giai cấp thống trị, pháp luật chính là công cụ để thể hiện sự thống trị giai cấp. Tuy nhiên, vì pháp luật do Nhà nước, đại diện cho toàn xã hội ban hành nên nó còn mang tính chất xã hội, nghĩa là ở mức độ ít hay nhiều, pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai cấp khác trong xã hội.
Tóm lại, pháp luật là hiện tượng vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện tính xã hội. Luật pháp là một bộ phận lớn thuộc kiến trúc thượng tầng, có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của con người trong xã hội nói chung. Không chỉ tác động như những yếu tố văn hoá, mọi yếu tố luật pháp mang tính bắt buộc và cưỡng chế thi hành, mọi cá nhân phải tuân theo pháp luật, pháp luật điều chỉnh mọi hoạt động của con người.
3/ Các hình thức pháp luật
Hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình lên thành pháp luật. Trong lịch sử đã có 3 hình thức pháp luật là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản pháp luật mà chúng ta có thể thấy sự hiện diện của chúng trong hệ thống luật pháp các nước hiện nay. Tuy vậy, không phải mọi hệ thống luật pháp đều có đủ 3 hình thức pháp luật này, có những hệ thống chỉ công nhận hình thức văn bản pháp luật song cũng có những hệ thống công nhận cả hình thức bất thành văn.
+ Tập quán pháp
Tập quán pháp là hình thức Nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền trong xã hội, phối hợp với lợi ích của giai cấp thống trị này thành những quy tắc sử xự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Đây là hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất và được sử dụng nhiều trong các nhà nước chủ nô và phong kiến. Trong Nhà nước tư sản, hình thức này vẫn được sử dụng nhiều, nhất là ở các nước theo chế độ TBCN.
+ Tiền lệ pháp
Tiền lệ pháp là hình thức Nhà nước thừa nhận các quyết định của các quan hành chính khi xét xử giải quyết những vụ viêc cụ thể để áp dụng đối với các vụ việc tương tự. Hình thức này đã được sử dụng trong các Nhà nước chủ nô, được sử dụng rộng rãi trong các Nhà nước phong kiến và hiện nay vẫn chiếm vị trí quan trọng trong pháp luật tư sản, nhất là ở Anh, Mỹ và những nước theo hệ thống Common Law mà đặc biệt là trong bộ phận dân luật.
Tiền lệ pháp có điểm đặc biệt là nó hình thành không phải do hành động của cơ quan lập pháp mà xuất hiện từ hành động của cơ quan hành pháp và tư pháp. Vì vậy, hình thức này dễ tạo ra sự tuỳ tiện không phù hợp với những nguyên tắc pháp chế đòi hỏi phải tôn trọng nguyên tắc tối cao của luật và phải phân định rõ chức năng, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước trong việc xây dựng và thực thi pháp luật.
+ Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật tiến bộ nhất. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành trong đó quy định những nguyên tắc sử xự chung (quy phạm đối với mọi người) được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội. Có nhiều loại văn bản pháp luật. Ở mỗi nước trong những điều kiện cụ thể lại có những quy định riêng về tên gọi và hiệu lực pháp lý của các loại văn bản pháp luật. Nhưng nhìn chung các văn bản pháp luật đều được ban hành theo một trình tự và thủ tục nhất định và chứa đựng những quy định cụ thể (các quy phạm pháp luật). Trong pháp luật chủ nô và phong kiến, các văn bản pháp luật còn chưa hoàn chỉnh và kĩ thuật xây dựng chưa cao, nhiều đạo luật chỉ là sự ghi chép lại một cách có hệ thống các án lệ và các tập quán đã được thừa nhận. Pháp luật tư sản đã có nhiều hình thức phong phú và được xây dựng với kỹ thuật cao, đặc biệt ở giai đoạn đầu, sau khi Cách mạng Tư sản thành công, nguyên tắc pháp chế được đề cao làm cho pháp luật tư sản có hệ thống văn bản tương đối thống nhất dựa trên cơ sở của luật. Nhưng với bản chất của nó, sau thắng lợi hoàn toàn đối với chế độ phong kiến, giai cấp tư sản tự mình phá vỡ nguyên tắc pháp chế do mình đề ra bằng nhiều cách hạ thấp vai trò của nghị viên, mở rộng quyền của Tổng thống và Chính phủ, sử dụng rộng hình thức tập quán và tiền lệ pháp (thấy rõ ở các nước theo hệ thống Common Law).
Trái lại, pháp luật Xã hội chủ nghĩa có hệ thống các văn bản pháp luật thống nhất xây dựng theo những nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng tính tối cao của hiến pháp và pháp luật. Sự khác nhau về nguyên tắc này chính là cơ sở dẫn đến những khác biệt giữa các hệ thống pháp luật.
Tóm lại, qua tìm hiểu chung về pháp luật, đặc biệt là các hình thức pháp luật được sử dụng ở các nước có hệ thống luật khác nhau, chúng ta có thể có được một cái nhìn tổng quan nhất về pháp luật trên toàn Thế giới. Đây sẽ là cơ sở để tiếp tục tìm hiểu pháp luật và những rào cản pháp luật trong thương mại quốc tế.
3.1.2 Các nguồn luật chủ yếu điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế
Khác với các hoạt động thương mại diễn ra trong nội bộ một quốc gia, giữa các chủ thể trong cùng một quốc gia chỉ chịu sự điều chỉnh của luật pháp quốc gia đó, hoạt động thương mại quốc tế là hoạt động mua bán có yếu tố nước ngoài nên rất phức tạp, chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật khác nhau như luật quốc gia, luật quốc tế, tập quán quốc tế, án lệ. Hoạt động thương mại quốc tế được thực hiện chủ yếu qua các hợp đồng mua bán quốc tế. Tính chất phức tạp của luật pháp điều chỉnh hoạt động thương mại quốc có thể thấy ngay trong những cách định nghĩa khác nhau của các hệ thống luật về hợp đồng mua bán quốc tế. Chẳng hạn với Pháp: “hợp đồng mua bán quốc tế là hợp đồng ký kết giữa các chủ thể có quốc tịch khác nhau, hàng hoá đối tượng có sự di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia và quy trình ký kết, đàm phán được thực hiện ở các lãnh thổ khác nhau”. Trong khi đó, theo luật của Ý, Hà Lan thì “hợp đồng mua bán quốc tế là hợp đồng ký kết giữa các chủ thể có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau”. Ngay trong vấn đề xác định yếu tố nước ngoài của chủ thể, luật các quốc gia quy định khác nhau và các nguồn luật quốc tế cũng quy định không giống nhau. Chẳng hạn Công ước La Hague 1964 và Công ước Viên 1980 đều khẳng định tiêu chuẩn: “chủ thể hợp đồng là các bên có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau”. Tuy vậy tiêu chuẩn thứ hai lại khác nhau: theo Công ước La Hague, hàng hoá là đối tượng hợp đồng phải là hàng hoá chuyển được qua biên giới (loại trừ bất động sản), trong khi đó, theo Công ước Viên, đối tượng hợp đồng là hàng hoá có thể chuyển qua biên giới (gồm cả hàng hoá trao đổi với khu chế xuất, có thể không cần di chuyển vật chất qua biên giới).
Chỉ qua một định nghĩa hợp đồng mua bán quốc tế, chúng ta đã có thể thấy được tính chất phức tạp và đa dạng của các nguồn luật điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế. Sau đây ta sẽ xem xét cụ thể hơn những nguồn luật chủ yếu điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế mà cụ thể là các hợp đồng mua bán quốc tế:
+ Luật quốc gia
Một điều đặc biệt là trong hoạt động thương mại quốc tế, luật quốc gia là luật nước ngoài đối với ít nhất một bên đương sự. Có thể luật quốc gia áp dụng là luật nước của một bên đương sự, song cũng có thể không phải là của bên nào mà là luật của quốc gia thứ ba được dẫn chiếu đến.
Luật quốc gia được áp dụng trong những trường hợp sau: (1)Hợp đồng mua bán quốc tế quy định luật quốc gia áp dụng, (2)Điều ước quốc tế hữu quan quy định luật quốc gia áp dụng, (3)Một bên dẫn chiếu luật quốc gia trong đơn kiện ra toà và bên kia chấp nhận bằng các hình thức như im lặng, không phản bác..., (4)Hai bên không thống nhất được, toà án sẽ lựa chọn luật quốc gia nào đó liên quan dựa vào nguyên tắc của tư pháp quốc tế.
Một số hệ thống luật quốc gia chủ yếu trên thế giới:
Trên thế giới, luật quốc gia của các nước có thể theo một số hệ thống luật chủ yếu sau:
Common Law (chủ yếu Anh, Mỹ và các thuộc địa)
Đặc điểm luật quốc gia của các nước theo hệ thống luật này là: chủ yếu là luật bất thành văn như tập quán pháp và án lệ (Case law). Ở Mỹ có quá nhiều Case Law khác nhau. Mặc dù Bộ luật Thương mại thống nhất đầu tiên của Mỹ ra đời năm 1982, song nó không có giá trị tuyệt đối mà chỉ tuỳ ý, các toà án áp dụng Case Law là chủ yếu.
Civil Law (các nước châu Âu lục địa, Pháp, Ý, Hà Lan..)
Luật các quốc gia theo Civil Law là luật thành văn, được quy định bài bản, logic, hệ thống tới mức cụ thể chi tiết.
Ngoài ra còn có các hệ thống luật Islamic Law (luật của các quốc gia Hồi giáo), Chinesse Law (luật của Trung Quốc), Indian Law (luật Ấn Độ) và Hệ thống luật XHCN.
+ Luật quốc tế
Luật quốc tế điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế là các điều ước quốc tế hữu quan. Các điều ước quốc tế cũng là nguồn luật quan trọng điều chỉnh hoạt động mua bán quốc tế.
Điều ước quốc tế được áp dụng trong các trường hợp sau: (1) Khi điều ước quốc tế được các chính phủ ký kết và/hoặc phê chuẩn, (2)Chính phủ đã tham gia hoặc mặc nhiên thừa nhận điều ước quốc tế theo trình tự công khai.
Điều ước quốc tế gồm 2 loại chủ yếu:
Điều ước quốc tế có tính nguyên tắc:
Chỉ đưa ra những nguyên tắc có tính chất chỉ đạo, bao trùm để điều tiết hoạt động thương mại giữa 2 quốc gia, đưa ra các chế độ pháp lý quốc tế mà người bán và người mua có thể hưởng lợi thông qua đó. Chẳng hạn Hiệp định thương mại Việt- Mỹ (HĐTM Việt- Mỹ) vừa có hiệu lực đưa ra các chế độ pháp lý quốc tế như: cho nhau hưởng nguyên tắc Tối Huệ quốc, nguyên tắc Đối xử Quốc gia.
Điều ước quốc tế có tính cụ thể:
Đây là loại điều ước quốc tế trực tiếp đưa ra những điều chỉnh quy định về việc ký kết, thực hiện hợp đồng mua bán quốc tế bằng cách quy định quyền người bán- mua một cách cụ thể. Chẳng hạn Công ước Viên 1980 quy định cụ thể về: trình tự ký kết hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của người bán, mua, chế độ trách nhiệm cụ thể do vi phạm nghĩa vụ của cả hai bên.
+ Tập quán thương mại quốc tế:
Tập quán thương mại là những thói quen thương mại được công nhận rộng rãi. Thông thường, các tập quán thương mại quốc tế được chia thành ba nhóm: các tập quán có tính chất nguyên tắc, các tập quán thương mại quốc tế chung và các tập quán thương mại khu vực. Tập quán có tính chất nguyên tắc là những tập quán cơ bản, bao trùm được hình thành trên cơ sở của nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và bình đẳng giữa các dân tộc. Ví dụ: “toà án (hoặc trọng tài) của nước nào thì có quyền áp dụng các quy tắc tố tụng của nước đó khi giải quyết các tranh chấp về hợp đồng mua bán Ngoại thương”
Tập quán thương mại quốc tế chung là các tập quán thương mại được nhiều nước công nhận và áp dụng ở một nơi, nhiều khu vực. Ví dụ các điều kiện quốc tế do Phòng Thương mại Quốc tế tập hợp và soạn thảo (gọi tắt là Incoterms 1953- 1980- 1990- 2000) trong đó quy định các điều kiện thương mại khác nhau (như điều kiện FOB, CFR…) được rất nhiều nước trên thế giới thừa nhận và áp dụng. Các tập quán thương mại khu vực (địa phương) là các tập quán thương mại quốc tế được áp dụng ở từng nước, từng khu vực và từng cảng. Ví dụ, ở Mỹ cũng có điều kiện FOB nhưng theo điều kiện FOB Mỹ, nghĩa vụ của người bán sẽ nặng nề hơn nhiều (như người bán phải thuê tàu hộ người mua) so với nghĩa vụ của người bán FOB trong Incoterms 2000.
Tập quán quốc tế về thương mại sẽ được áp dụng cho hợp đồng mua bán ngoại thương trong các trường hợp: (1) Khi chính hợp đồng mua bán Ngoại thương quy định; (2) Khi các điều ước quốc tế liên quan quy định; (3) Khi luật thực chất (luật quốc gia) do các bên thoả thuận lựa chọn, không có hoặc có nhưng không đầy đủ, còn khiếm khuyết về vấn đề tranh chấp, về vấn đề cần được điều chỉnh.
Ngoài 3 nguồn luật nói trên, thực tiễn buôn bán của các nước phương Tây còn thừa nhận cả án lệ (tiền lệ xét xử) và các bản điều kiện chung, các hợp đồng mẫu chuyên nghiệp làm nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán Ngoại thương.
Luật pháp chi phối rất mạnh mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có hoạt động thương mại. Hoạt động thương mại quốc tế rất phức tạp nên luật điều chỉnh nó cũng hết sức phức tạp. Giao dịch giữa các thương nhân Mỹ và Việt Nam cũng vậy. Các giao dịch này có thể chịu sự điều chỉnh của luật pháp Mỹ (điển hình của hệ thống Common Law) hoặc luật Việt Nam (thuộc hệ thống luật pháp XHCN), Hiệp định thương mại song phương hay các tập quán quốc tế hoặc các công ước mà hai bên tham gia. Thực tế đó đòi hỏi các nhà kinh doanh ngoại thương phải có sự am hiểu toàn diện và sâu sắc về các nguồn luật nếu muốn mở rộng hoạt động của mình ra các thị trường ngoài.
3.2 Rào cản luật pháp trong thương mại quốc tế
Ở phần trước chúng ta đã đề cập đến vấn đề rào cản văn hoá trong thương mại quốc tế. Trong phần này, chúng ta hãy xem xét ảnh hưởng của rào cản luật pháp trong thương mại quốc tế.
Khác với rào cản văn hoá chủ yếu là rào cản vô hình, bất thành văn. Rào cản luật pháp phần lớn phát sinh từ những quy định rõ ràng, cụ thể bằng văn bản có tính chất bắt buộc, cưỡng chế. Nhìn chung, rào cản luật pháp trong thương mại quốc tế được phân thành hai loại chính sau:
3.2.1 Rào cản pháp sinh từ sự khác biệt về luật pháp
Sự khác biệt ở đây có thể là khác về luật quốc gia, quốc tế, tập quán, án lệ. Ví dụ, các doanh nhân thuộc các nước tư bản phát triển với hệ thống luật đơn giản và chặt chẽ rất “dị ứng” với hệ thống luật mơ hồ và chồng chéo, với hàng loạt thủ tục rườm rà khi làm ăn với doanh nghiệp thuộc các quốc gia đang phát triển.
Những nhà kinh doanh tư bản, vốn quen với việc tự do kinh doanh luôn thắc mắc rằng tại sao làm ăn với phía đối tác ở các nước đang phát triển lại phải qua nhiều cấp từ Chính phủ, bộ, ngành…thẩm duyệt như thế. Rõ ràng, hệ thống luật quốc gia khác nhau có những quy định khác nhau, rồi trình độ phát triển luật pháp quốc gia cũng khác nhau cũng dẫn đến những khác biệt trong những quy định cụ thể. Chẳng hạn Luật Thương mại Việt Nam 1997 quy định “hình thức hợp đồng mua bán quốc tế có thể là điện tín, fax, thư điện tử, telex hoặc bất cứ một hình thức thông tin điện tử nào khác và không cho phép ký kết bằng miệng, telephone”. Điểm này quy định hoàn toàn trái với luật các nước tư bản như Anh, Mỹ cho phép hợp đồng ký kết bằng miệng, telephone. Do đó, những doanh nhân Anh, Mỹ khi làm việc với phía Việt Nam phải hết sức chú ý đến vấn đề này để tránh tranh chấp. Một ví dụ nữa là quy định về những điều khoản chủ yếu mà một đề nghị ký kết hợp đồng phải có. Luật của Pháp quy định chỉ cần 3 điều khoản: đối tượng, giá cả, điều kiện giao hàng. Luật Anh thậm chí chỉ cần điều khoản đối tượng. Tuy nhiên, Việt Nam quy định cần những 6 điều khoản chủ yếu là: tên, số lượng, chất lượng, giá cả, thời hạn thanh toán, thời hạn giao hàng. Sự khác biệt này đòi hỏi các nhà hoạt động thương mại quốc tế phải tìm hiểu kỹ càng các quy định luật pháp nước đối tác và các nước liên quan để khỏi bỡ ngỡ, tránh vấp phải những rào cản do sự khác biệt trong những quy định luật pháp.
Ngoài ra, nhắc đến luật pháp trong hoạt động thương mại quốc tế không thể không nhắc đến các tập quán quốc tế. Các tập quán được sử dụng cũng rất đa dạng, thậm chí trái ngược nhau cũng là một trở ngại không nhỏ đối với các thương nhân kinh doanh trên phạm vi quốc tế.
3.2.2 Rào cản phát sinh do cơ chế bảo hộ của từng quốc gia
Đối với hoạt động thương mại quốc tế, mọi quốc gia đều cần có cơ chế bảo hộ riêng, dù là đối với hoạt động xuất khẩu hay nhập khẩu. Mặc dù đối với hầu hết các quốc gia, xuất khẩu nhìn chung là có lợi, song vượt quá một mức nào đó thì tác dụng hoàn toàn ngược lại. Bên cạnh đó, nhập khẩu thái quá cũng có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế nước nhập khẩu như gây thâm hụt cán cân thanh toán, chảy máu ngoại tệ, sản xuất trong nước bị bóp nghẹt,… Do vậy, các quốc gia cần đưa ra những quy định luật pháp riêng hoặc ký kết những điều ước thống nhất nhằm quản lý và hạn chế hoạt động xuất nhập khẩu, mà hiện nay chủ yếu là nhằm hạn chế nhập khẩu. Những quy định này sẽ trở thành rào cản đối với hoạt động thương mại quốc tế nói chung. Các hàng rào thương mại gồm hai loại: Hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan. Về hàng rào thuế quan, các nước nhập khẩu thường quy định mức thuế suất cao đối với những mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu, hàng hoá từ những nước hoặc khu vực không có quan hệ thương mại thân thiết, hoặc cũng có thể đánh thuế cao để trả đũa, trừng phạt,…mà cuộc chiến tranh về thép giữa Mỹ, Nga, EU vừa qua là một ví dụ điển hình. Để trả đũa lại việc Mỹ đánh thuế rất cao đối với thép nhập khẩu (chủ yếu từ Nga và EU), Nga và các nước này đã tuyên bố tăng thuế đối với một số mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ. Hàng rào phi thuế cũng là một rào cản đáng kể đối với hàng xuất nhập khẩu. Hàng rào phi thuế tồn tại dưới nhiều hình thức như: hạn ngạch, giấy phép xuất nhập khẩu, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn thực phẩm, các quy định về nhãn mác, xuất xứ,…
Hiện nay, trước xu thế tự do hoá thương mại quốc tế, các quốc gia đều đã tiến hành cắt giảm các hàng rào thương mại. Tuy nhiên, do nhu cầu bảo hộ, những rào cản thương mại vẫn còn tồn tại. Hàng rào thuế quan có xu hướng giảm bớt và chuyển hoá sang các hàng rào phi thuế. Muốn vượt qua cả hai loại rào cản này để đưa hoạt động thương mại phát triển, phải có sự nỗ lực và kết hợp nỗ lực từ nhiều phía: Nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức, hiệp hội, ngành hàng,…
CHƯƠNG II
MỘT SỐ RÀO CẢN VỀ LUẬT PHÁP VÀ VĂN HOÁ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ
1. TÌM HIỂU VỀ THỊ TRƯỜNG MỸ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA THỊ TRƯỜNG MỸ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
1.1 Tổng quan về thị trường Mỹ
1.1.1 Vài nét về nước Mỹ
1/ Điều kiện tự nhiên
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (The United States of America– USA) gọi tắt là nước Mỹ hay Hoa Kỳ là một quốc gia vô cùng rộng lớn gồm 50 bang với phần lớn lãnh thổ nằm ở trung tâm lục địa Bắc Mỹ. Ngoài ra còn có một số vùng đất và lãnh thổ hải ngoại. Mỹ là nước rộng thứ tư thế giới sau Liên bang Nga, Canada và Trung Quốc với tổng diện tích là 9.397.000 km2.
Do lãnh thổ rộng lớn, khí hậu của nước Mỹ rất đa dạng song đại bộ phận là khí hậu ôn đới. Mỹ có một nguồn tài nguyên rất đa dạng và dồi dào. Mỹ là một trong số các quốc gia giàu tài nguyên nhất thế giới. Những nguồn tài nguyên quan trọng của Mỹ là đất đai, rừng, khoáng sản,… Nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú là một lợi thế rất lớn để Mỹ phát triển các ngành công nghiệp. Tuy nhiên, khoáng sản trong nước vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu khổng lồ của nền kinh tế Mỹ, do vậy hàng năm Mỹ vẫn phải nhập khá nhiều nguyên nhiên liệu, đặc biệt là dầu mỏ từ nước ngoài.
2. Điều kiện xã hội :
Mỹ là một trong số những nước đông dân nhất thế giới. Dân số Mỹ tăng rất nhanh qua các năm, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 1,03%. Năm 2002 dân số Mỹ là 273.300.000 người và Mỹ là nước đông dân thứ tư trên thế giới.
Thành phần dân cư Mỹ tương đối phức tạp. Những người da trắng gốc Châu Âu là thành phần chính của dân cư Mỹ (75% dân số), Người Mỹ gốc Phi chiếm khoảng 12% dân số, người Mỹ gốc Hispanic (người Tây Ban Nha hay người Mỹ gốc Tây Ban Nha) chiếm khoảng 9% dân số Mỹ. Ngoài ra, còn có một bộ phận đáng kể người Mỹ gốc Châu Á và người da đỏ.
Mỹ là một nước Cộng hoà liên bang (50 bang). Nền dân chủ cuả Mỹ là một nền dân chủ đại nghị (Presidential parliamentary democracy). Cơ quan lập pháp tối cao của nước Mỹ là Quốc hội gồm 2 viện: Thượng viện và Hạ viện. Người đứng đầu quốc gia đồng thời cầm đầu Chính phủ là Tổng thống. Quyền tư pháp cao nhất thuộc về Toà án tối cao, ngoài ra còn có các toà án Liên bang. Mỗi bang của Mỹ lại có một Chính phủ riêng với một Thống đốc cùng với các bộ và một cơ quan lập pháp của bang, các toà án quận và một toà án tối cao.
3. Nền kinh tế Mỹ
Hiện nay, Mỹ là một trong những nước có nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Tình hình về các ngành kinh tế của Mỹ cụ thể như sau:
-Công nghiệp :
Mỹ là một cường quốc công nghiệp, một quốc gia thuộc nhóm G7 và luôn đi đầu trong việc nghiên cứu và phát triển các ngành công nghiệp mới. Trong nền công nghiệp của Mỹ, các ngành công nghiệp nặng chiếm ưu thế. Những thập niên gần đây, các ngành công nghiệp hiện đại như công nghiệp điện tử, sản xuất máy và thiết bị tự động, công nghiệp hàng không vũ trụ, sản xuất vật liệu tổng hợp phát triển rất nhanh. Công nghiệp chế tạo cơ khí là ngành công nghiệp quan trọng nhất của Mỹ, trong đó ô tô là sản phẩm quan trọng nhất.
-Nông nghiệp:
Mỹ là một trong những nước có nền nông nghiệp lớn nhất Thế giới. Mỹ có vị trí nổi bật trên thị trường nông sản Thế giới từ nhiều năm nay, nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu ngũ cốc. Xuất khẩu nông sản năm 2000 đem lại cho Mỹ 46 tỷ USD. Mỹ đứng đầu Thế giới về xuất khẩu lúa mì, bắp, đậu tương, thịt các loại và đứng thứ ba về xuất khẩu gạo và thuỷ sản.
-Dịch vụ:
Ngành dịch vụ của Mỹ rất phát triển và có vị trí quan trọng trong nền kinh tế Mỹ. Tỉ trọng đóng góp của ngành dịch vụ vào tổng thu nhập quốc dân của Mỹ ngày càng tăng. Dự tính đến năm 2010, thu nhập từ khu vực này chiếm khoảng 93% GDP của Mỹ trong khi công nghiệp và nông nghiệp chỉ còn chiếm 7%. Ngành dịch vụ của Mỹ rất đa dạng và phong phú về loại hình. Rất nhiều ngành dịch vụ của Mỹ chiếm tỉ trọng lớn trong hoạt động thương mại dịch vụ Thế giới (khoảng từ 7-22% thị phần dịch vụ quốc tế).
-Tài chính
Trong hơn nửa thế kỉ qua, nước Mỹ luôn duy trì được sức mạnh và khả năng chuyển đổi của đồng đôla Mỹ. Đô la Mỹ hiện nay vẫn là đồng tiền thống trị trong hoạt động thương mại và tài chính toàn cầu. Cụ thể là gần 50% tổng lưu lượng thanh toán và đầu tư quốc tế được thực hiện thông qua đồng tiền này. Sở giao dịch chứng khoán NewYork của Mỹ luôn là một trong những trung tâm giao dịch chứng khoán hàng đầu thế giới. Cùng với EU và Nhật Bản, Mỹ là một trong ba nước chủ đầu tư lớn nhất toàn cầu.
1.1.2 Đặc trưng của thị trường Mỹ
Tất cả các yếu tố nêu trên, từ điều kiện tự nhiên, xã hội đến sự phát triển của nền kinh tế Mỹ đều góp phần hình thành nên các đặc trưng thị trường Mỹ.
Một điều dễ dàng nhận thấy là thị trường Mỹ là một thị trường đầy tiềm năng mà bất cứ một nước xuất khẩu nào cũng muốn hướng đến. Với quy mô dân số vào khoảng 280 triệu người và thu nhập bình quân đầu người ước tính hiện nay vào khoảng 32.000 USD, với một nhu cầu nguyên nhiên liệu khổng lồ cho việc phát triển nền công nghiệp trong nước, thị trường Mỹ được xem là thị trường có sức tiên thụ lớn nhất trong các nước phát triển. Hàng năm kim ngạch nhập khẩu của Mỹ là vào khoảng 900 tỷ đôla (số liệu năm 2000).
Thị trường Mỹ là thị trường nhập khẩu hàng rất đa dạng và không quá khó tính như thị trường Tây Âu và Nhật Bản. Hàng nhập khẩu vào Mỹ đa dạng về chủng loại do nhu cầu tiêu dùng khác nhau của các nhóm người, các chủng tộc và do cơ cấu đa dạng, nhiều ngành nghề của nền kinh tế Mỹ. Mỹ nhập khẩu đủ loại hàng từ hàng nông sản cho đến các sản phẩm tinh vi hiện đại, từ nguyên nhiên liệu cho đến thành phẩm. Hàng nhập khẩu vào Mỹ cũng rất linh hoạt về chất lượng vì dân Mỹ có mức thu nhập rất khác nhau. Chính nhờ vậy mà hàng nhập khẩu có thể dễ dàng tiếp cận thị trường Mỹ để phục vụ cho các phân đoạn thị trường khác nhau.
1.1.3 Tìm hiểu về nền văn hoá Mỹ
Nền văn hoá Mỹ là một nền văn hoá độc đáo và đa dạng. Tính đa dạng của nền văn hoá Mỹ có được là do dân cư Mỹ bao gồm người từ khắp mọi nơi trên thế giới. Những con người đến từ các nước, các dân tộc, chủng tộc khác nhau mang theo những phong tục tập quán, lối sống, giá trị khác nhau hoà nhập vào nền văn hoá Mỹ tạo nên một sự pha trộn văn hoá của các dân tộc toàn cầu. Điểm nổi bật của nền văn hoá Mỹ là tính trẻ trung, sống động, chống công thức và luôn luôn thay đổi. Tuy nền văn hoá Mỹ rất đa dạng song có thể nêu lên một số các giá trị văn hoá tiêu biểu sau:
+Bình đẳng
Đối với người Mỹ, “nhất thân nhì thế” không quan trọng bằng khả năng cá nhân. Hầu hết người Mỹ tin tưởng rằng cơ hội trở thành Tổng thống của mọi người là ngang nhau, ai cũng có thể trở thành Tổng thống, bất kể giàu nghèo hay thuộc thành phần nào.
+Lạc quan và luôn hướng tới tương lai
Khác với người châu Á thường hay hoài cổ, hay lấy dĩ vãng làm chuẩn mực hay người Ả Rập hay tin vào định mệnh dẫn đến cách sống xa rời thực tế và dễ buông xuôi trước hoàn cảnh, người Mỹ chỉ gắn bó với hiện tại và luôn hướng tới tương lai.
+Ý thức tự lập mạnh mẽ
Ở Mỹ, cá nhân là người quyết định chính. Đối với người Mỹ, mỗi người là một cá thể độc lập và số phận mỗi người nằm trong tay chính họ. Do đó một đặc điểm nổi bật của người Mỹ là họ có đầu óc độc lập.
+Tinh thần lao động
Người Mỹ lao động cật lực và đa số người Mỹ coi công việc là thú vui và sở thích. Trong xã hội, mức độ thành đạt trong nghề nghiệp và số của cải tạo ra do lao động cá nhân là một trong các tiêu chí chủ yếu để đánh giá một người Mỹ.
+Quý trọng thời gian
Đối với người Mỹ, thời gian đúng là tiền bạc. Xã hội Mỹ luôn khẩn trương và sôi động, người dân Mỹ luôn biết cách tận dụng thời gian. Các chương trình làm việc được xếp kín mít và dày đặc, nhiều người Mỹ thậm chí còn không có thời gian để nghỉ ngơi hưởng thụ kết quả lao động của mình.
+Một xã hội không an bài
Tại Mỹ, người ta luôn tìm cách vươn lên và không tự thoả mãn với chính mình, ít phụ thuộc vào tập thể, kể cả gia đình. Với tâm lý tự lực, ở Mỹ không có thành kiến giai cấp như nơi khác. Người Mỹ rất coi trọng những nỗ lực cá nhân vươn lên, nhiều người nổi tiếng không ngần ngại khi tiết lộ gốc gác hèn kém của mình.
+Chủ nghĩa cá nhân và đa nguyên
Trong xã hội Mỹ, cá nhân rất được ưu tiên, thành công cá nhân rất được coi trọng. Người Mỹ quan niệm cá nhân có nhiệm vụ thành công để đẩy cả xã hội đi lên. Chủ nghĩa cá nhân đi kèm với đa nguyên. Ở Mỹ, tất cả các tư tưởng, khuynh hướng đều có cơ hội được bộc lộ. Mỹ có rất nhiều đảng phái chính trị đối lập nhau được tự do hoạt động và đại biểu của các đảng này được tự do ứng cử.
Một số nét về tâm lý của người Mĩ
Mỹ là một “Hợp chủng quốc”, dân cư Mỹ hiện nay bao gồm các nhóm người đến từ các dân tộc, thuộc các chủng tộc khác nhau nên khó có một khuôn mẫu nào cho người Mỹ nói chung. Chúng ta chỉ có thể nêu ra đây một số đặc điểm tâm lý tiêu biểu cho số đông dân chúng Mỹ , đó là nhóm người da trắng thuộc các tầng lớp trung lưu Hoa Kỳ:
+Sự thân thiện
Người nước ngoài khi tiếp xúc với người Mỹ đều công nhận là người Mỹ rất cởi mở. Người dân Mỹ rất hiếu khách, khi gặp người lạ, ngưòi Mỹ luôn mỉm cười và chào một cách thân thiện bằng từ “Hi!”.
+Thân thiện nhưng không có nghĩa là bạn bè
Người Mỹ rất thân thiện nhưng theo họ thân thiện chẳng qua chỉ thể hiện một hành vi dân chủ. Có những người ngoại quốc vội vàng cho đó là tình bạn thì quả là hơi vội. Thực sự, bạn với đúng nghĩa của từ này ở Mỹ thì cũng hiếm như ở bất kỳ nơi nào khác
+Tình cảm
Người Mỹ cho rằng không cần giấu diếm tình cảm. Nhiều khi người Mỹ biểu lộ tình cảm hơi thái quá. Về mặt này thì họ có vẻ như rất bộc trực, khi hài lòng, người Mỹ mỉm cười rạng rỡ, khoa chân múa tay hoặc tuyên bố ầm ĩ. Khác với người châu Á, người Mỹ không mỉm cười để che đậy sự lúng túng hay thất vọng mà thường thể hiện ra ngoài nét mặt.
+Nghi thức xã giao
Người Mỹ không coi trọng nghi thức xã giao như các nước khác, có lẽ vì thế mà nước Mỹ mới có thể du nhập được người từ khắp nơi. Người Mỹ cũng dễ tha thứ cho người nước ngoài về sự vụng về trong xã giao.
1.1.4 Tìm hiểu về luật pháp Mỹ
Đặc điểm nổi bật của hệ thống luật pháp Mỹ là tính đa dạng và phức tạp. Luật pháp Mỹ bao gồm hệ thống luật pháp liên bang và luật pháp tiểu bang. Bản thân luật liên bang của Mỹ đã bao gồm rất nhiều quy định khác nhau, mỗi bang của Mỹ lại có hệ thống quy chế luật riêng và tự tập hợp các quyết định đã công bố của họ. Luật pháp các tiểu bang quy định về từng trường hợp cụ thể không giống nhau, điều này gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nhân nư._.Zealand 5%
Các khu vực khác 2%
2.2 Phương hướng và mục tiêu đối với thị trường Mỹ
Căn cứ vào những phương hướng và mục tiêu đề ra, có thể thấy rằng thị trường Mỹ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Theo những nhà hoạch định chiến lược của Việt Nam và các chuyên gia phân tích kinh tế, trong giai đoạn 2001-2010, xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ, mà chủ yếu là thị trường Mỹ cần phải tăng mạnh để đạt được tỷ trọng vào khoảng 15- 20% vào năm 2010 so với 5-6% như hiện nay. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ theo dự tính phải đạt tới 8-10 tỷ USD so với khoảng hơn 1 tỷ như hiện nay. Những mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ là dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí- điện, sản phẩm gỗ, đồ thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt tiêu, nhân điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến.
Những mục tiêu nêu trên là hoàn toàn hợp lý và không quá tham vọng nhưng cũng đòi hỏi những nỗ lực rất lớn từ phía Doanh nghiệp và Chính phủ Việt Nam. Để hoàn thành những mục tiêu đó, trước mắt, phía Việt Nam cấp thiết phải có những giải pháp để loại bỏ những rào cản đang cản trở trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, mở đường cho hoạt động này phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VƯỢT QUA RÀO CẢN LUẬT PHÁP VÀ VĂN HOÁ
3.1 Các giải pháp vĩ mô từ phía Nhà nước
Tăng cường các công tác tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi cho hoạt động xuất khẩu sang Mỹ
1/ Đàm phán cắt giảm các hàng rào thương mại
Trong phần trên, chúng ta đã đề cập đến vấn đề rào cản pháp lý do các quy định hạn chế xuất khẩu và bảo hộ của Mỹ. Những rào cản đó hoàn toàn có thể được loại bỏ hoặc giảm bớt nhờ hoạt động đàm phán của Nhà nước. Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã thực hiện rất tốt công tác đàm phán với thị trường Mỹ. Việc Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam cho đến việc ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt- Mỹ là những thành công lớn của phía Nhà nước. Với cam kết của Mỹ cho Việt Nam hưởng quy chế Tối Huệ quốc được ghi nhận trong bản Hiệp định, hàng rào thuế quan đối với hàng hoá Việt Nam đã được cắt giảm đáng kể. Tuy nhiên, trong thời gian tới, Nhà nước cần phát huy chức năng này hơn nữa, đặc biệt là đàm phán để phía Mỹ nới lỏng các hàng rào phi thuế như hạn ngạch, lệ phí và đàm phán để thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn thực phẩm,... của hai nước nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này.
2/ Cải thiện môi trường pháp lý trong nước
Trước hết, Việt Nam cần sửa đổi các quy định liên quan trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Như đã phân tích ở phần trước, các thương nhân Mỹ chỉ mong muốn được giao dịch trực tiếp với các đối tác Việt Nam chứ không phải với nhiều cấp, ngành như hiện nay. Cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn rất phức tạp và chồng chéo đang là một vấn đề khiến họ lo ngại. Vì vậy, để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, Việt Nam cần có nhiều sự điều chỉnh. Ví dụ như: để đơn giản hoá cơ chế quản lý và cấp phép xuất khẩu, Nhà nước cần rà soát, giảm thiểu danh mục quản lý hàng hoá theo chuyên ngành; công khai hoá chính sách pháp luật liên quan đến xuất khẩu để doanh nghiệp có thể tự chủ hơn trong hoạt động kinh doanh của họ; phân định rõ hơn chức năng của các cơ quan quản lý, bãi bỏ những quy định sai thẩm quyền,...
Cải thiện môi trường pháp lý còn nhằm tăng cường thu hút đầu tư nâng cao năng lực sản xuất trong nước, đặc biệt là năng lực sản xuất hàng xuất khẩu. Những hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn thực phẩm rất khắt khe được quy định cụ thể trong luật Mỹ cũng như đời sống cao và thói quen tiêu dùng của người Mỹ đòi hỏi hàng xuất khẩu của Việt Nam phải có chất lượng cao tương ứng. Muốn vậy, Việt Nam phải tích cực cải tiến nền sản xuất trong nước. Khi nguồn vốn trong nước còn quá nhỏ bé thì việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài là một hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài không chỉ giúp giải quyết vấn đề thiếu vốn mà còn có tác động mạnh đến trình độ công nghệ và năng lực của đội ngũ lao động. Vì vậy, Việt Nam cần chú ý cải thiện môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trực tiếp, đặc biệt là thu hút đầu tư từ các tập đoàn xuyên quốc gia và các nhà sản xuất theo phương thức “Chìa khoá trao tay”. Trong số các yếu tố của môi trưòng đầu tư, đáng quan tâm nhất đối với Việt Nam là môi trường pháp lý. Nhà nước ta cần nỗ lực hoàn thiện hệ thống luật pháp sao cho ngày càng gần luật quốc tế và phải đảm bảo được tính ổn định, chặt chẽ của luật pháp vì một trong những lý do khiến nhà đầu tư nước ngoài còn ngần ngại chính là sự mâu thuẫn và thay đổi liên tục trong hệ thống luật pháp của chúng ta.
3.1.2 Thông tin thương mại xúc tiến xuất khẩu
Ngoài chức năng đàm phán nhằm giảm bớt các rào cản đối với hoạt động xuất hàng sang Mỹ của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, Nhà nước còn cần thực hiện tốt chức năng thông tin thị trường và xúc tiến xuất khẩu. Tác dụng của hoạt động thông tin thương mại là: giúp các doanh nghiệp xuất khẩu của ta nắm được những thông tin về thị trường Mỹ, nắm được hệ thống luật pháp và nền văn hoá Mỹ, từ đó tránh được hoặc khắc phục được những rào cản do tính chất phức tạp của những yếu tố này mang lại, tiếp cận nhanh chóng với thị trường Mỹ hơn. Trong thời gian tới, Nhà nước Việt Nam cần tăng cường mạnh mẽ công tác thu thập, nghiên cứu và phổ biến thông tin về thị trường Mỹ, từ tình hình chung cho đến các chính sách, quy định cụ thể về hoạt động xuất nhập khẩu của Mỹ. Việc phổ biến thông tin cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể được tiến hành thông qua các hoạt động sau: Nhà nước lập các Website thông tin về thị trường Mỹ, đặc biệt là hoàn thiện trang chủ của Bộ Thương mại và tăng cường phát hành tài liệu theo chuyên đề. Nhà nước cần thường xuyên phối hợp với Chính phủ và các tập đoàn, công ty Mỹ tổ chức các cuộc hội thảo, các hội trợ triển lãm giới thiệu về thị trường Mỹ, lối sống, thói quen tiêu dùng của người Mỹ,... Trong đó Bộ Thương mại và Cục Xúc tiến thương mại phải thực hiện tốt vai trò chỉ đạo và tổ chức quản lý.
Chức năng xúc tiến thương mại của Nhà nước cũng không kém phần quan trọng. Chức năng này được thực hiện chủ yếu bởi Bộ Thương mại và Tham tán thương mại. Tại thị trường Mỹ, Tham tán thương mại phải thực sự là tác nhân gắn kết doanh nghiệp xuất khẩu trong nước và các khách hàng Mỹ. Xúc tiến thương mại còn có thể thông qua việc thiết lập hệ thống các trung tâm thương mại tại các thành phố lớn như New York, Los Angeles, Boston... nhằm tạo cầu nối giảm chi phí giao dịch cho các công ty xuất nhập khẩu trong nước. Các trung tâm này do Nhà nước đứng ra bảo trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và Việt Kiều tổ chức. Bên cạnh đó, thương vụ cũng cần phát huy hơn nữa các biện pháp xúc tiến thương mại khác như phối hợp với các công ty trong nước tổ chức các cuộc triển lãm giới thiệu hàng hoá Việt Nam, lập hồ sơ về các công ty xuất khẩu của Việt Nam, mở Website giới thiệu hàng hoá Việt Nam trên mạng Internet,... Đặc biệt, nhà nước ta cũng mới lập ra một tổ chức mà hiện nay được coi như ngôi nhà chung của các doanh nghiệp tại thị trường Mỹ, đó chính là Trung tâm Xúc tiến Thương mại và đầu tư mang tên “VIET NAM EXPO” có trụ sở tại Long Beach- Canifornia- Mỹ. Trung tâm này được thành lập nhằm mục đích hỗ trợ cho các thành phần kinh tế Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, tìm kiếm bạn hàng, thu hút vốn đầu tư từ thị trường Mỹ thông qua việc giới thiệu các loại sản phẩm, dịch vụ, dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam tới thị trường Mỹ.
3.1.3 Hỗ trợ cho các doanh nghiệp tăng cường đầu tư ra nước ngoài
Hàng hoá của Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ chịu sự hạn chế của các cơ chế quản lý nhập khẩu của Mỹ. Những rào cản này có thể được giảm bớt nếu hàng hoá được sản xuất trực tiếp tại Mỹ. Trong những năm gần đây, một số doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu đủ sức vươn ra thị trường nước ngoài. Ngoài xuất khẩu trực tiếp, một số doanh nghiệp đã bắt đầu có nhu cầu mở các văn phòng giao dịch hoặc thậm chí đầu tư trực tiếp tại nước ngoài. Vì vậy, Nhà nước cần sớm có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra thị trường bên ngoài, cụ thể là Mỹ, đặc biệt là đầu tư trong khâu hoàn thiện nông sản, thực phẩm (thí dụ như chế biến và đóng gói chè, mỳ ăn liền,…) để tránh các hàng rào thuế quan và phi thuế quan do Mỹ đặt ra. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần xoá bỏ thủ tục cấp phép thành lập văn phòng đại diện tại nước ngoài và đơn giản hoá thủ tục mở tài khoản để tạo thuận lợi cho giao dịch trên thị trường ngoài.
3.2 Các giải pháp về phía doanh nghiệp
3.2.1 Tăng cường tiếp cận, tìm hiểu về thị trường Mỹ
Doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường tiếp cận, thu thập và phân tích thông tin về thị trường Mỹ. Việc thu thập và xử lý thông tin có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu sang thị trường Mỹ vì đối với Việt Nam, Mỹ là một thị trường còn rất mới, có nền văn hoá rất khác biệt với Việt Nam và một hệ thống luật pháp hết sức phức tạp. Doanh nghiệp Việt Nam có thể thu thập thông tin về thị trường Mĩ bằng các hình thức khác nhau, từ nhiều nguồn khác nhau. Tại Việt Nam, doanh nghiệp có thể tìm đến các địa chỉ sau: - Thương vụ thuộc Sứ quán Việt Nam tại Mỹ
Phòng Bắc Mỹ- Vụ Âu Mỹ thuộc Bộ Thương mại Việt Nam
Ban Xúc tiến thương mại
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Các Hiệp hội ngành hàng
Doanh nghiệp cũng có thể thu thập thông tin từ các địa chỉ trên mạng, từ Website của Chính phủ, Bộ thương mại, Ngân hàng Dữ liệu quốc gia Mỹ,... Ngoài ra, thông tin về thị trường Mỹ còn có thể được tìm thấy qua các báo cáo nghiên cứu thị trường của các tập đoàn, các nhóm chuyên gia, các hiệp hội của Mỹ, qua các cơ quan phát triển của Nhà nước ở từng tiểu bang, qua các công ty tư vấn thương mại của Mỹ,...
Những thông tin mà doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu bao gồm:: tình hình cung cầu trên thị trường Mỹ, các chính sách thương mại của Mỹ, hệ thống luật pháp Mỹ cùng các văn bản quy định hiện hành (đặc biệt là pháp luật thương mại mà cụ thể là các quy định hạn chế quản lý nhập khẩu, các luật lệ tập quán có thể trực tiếp điều chỉnh các hợp đồng xuất khẩu ký kết giữa thương nhân Việt Nam và thương nhân Mỹ, các hàng rào tiêu chuẩn của Mỹ), văn hoá Mỹ (đặc biệt là phong tục tập quán kinh doanh, thói quen tiêu dùng của người Mỹ), những thông tin về bạn hàng, đối thủ cạnh tranh,... Thông tin chuyên đề về từng lĩnh vực có thể tìm kiếm qua các địa chỉ cụ thể sau:
- : thông tin về thị trường Mỹ.
- :Thông tin về luật pháp Mỹ.
- : Hỏi đáp về luật pháp Mỹ.
- : Các thủ tục pháp lý khi xuất hàng sang Mỹ.
- : Các vấn đề về Hiệp định thương mại Việt- Mỹ.
- : thông tin về bạn hàng và đối thủ cạnh tranh.
- : thông tin về các tập quán và cơ chế xuất nhập khẩu...
Hình thức tìm kiếm thông tin trực tiếp và hiệu quả nhất là các doanh
nghiệp Việt Nam tiếp xúc với thị trường Mĩ thông qua các hoạt động như cử người tham gia vào các phái đoàn sang nghiên cứu thị trường, tham gia triển lãm giới thiệu hàng xuất khẩu Việt Nam trên đất Mỹ, tham gia các cuộc hội thảo tiếp xúc với các đoàn đại biểu, các doanh nghiệp Mỹ,...
3.2.2 Xây dựng chính sách mặt hàng xuất khẩu hợp lý và thực hiện tiêu chuẩn hoá sản phẩm
Chất lượng sản phẩm xuất khẩu vừa phải thoã mãn người tiêu dùng về mặt thực tế, vừa phải thoả mãn những quy định luật pháp của nước nhập khẩu. Thị trường Mỹ là thị trường có mức sống cao nên tương đối khó tính. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ cần xem xét một cách nghiêm túc chất lượng các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu của mình cũng như các điều kiện để được thị trường Mỹ chấp nhận. Bước đầu, do người tiêu dùng Mỹ chưa quen với hàng Việt Nam nên các doanh nghiệp cần chọn những mặt hàng có tính cạnh tranh cao và ít bị khống chế bởi các quy định pháp lý cũng như ít chịu ảnh hưởng khi thay đổi điều kiện thời tiết khí hậu. Về lâu dài, các doanh nghiệp phải có chính sách mặt hàng thích hợp dựa trên những thông tin thị trường sản phẩm chính xác, đảm bảo uy tín với người tiêu dùng Mỹ. Có như vậy mới có thể được người tiêu dùng Mỹ chấp nhận và mới có thể làm ăn lâu dài trên thị trường này được.
Một trong những rào cản lớn đối với hàng hoá Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ là hàng rào tiêu chuẩn hết sức nghiêm ngặt của Mỹ. Để vượt qua rào cản này, khi đã xác định rõ các sản phẩm xuất khẩu chiến lược của mình, các doanh nghiệp Việt Nam phải tập trung tiêu chuẩn hoá sản phẩm. Các doanh nghiệp phải tuân thủ một cách nghiêm túc các quy định trong các tiêu chuẩn quốc tế mà Mỹ áp dụng như GMP (Tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt), HACCP (Tiêu chuẩn xác định tình trạng nguy hiểm) và ISO 9000. HACCP là một loại tiêu chuẩn được dùng để kiểm nghiệm hàng nhập khẩu của Mỹ. Chương trình kiểm soát vệ sinh an toàn chất lượng này được áp dụng với nhiều loại hàng trong đó có thuỷ sản, thực phẩm,... và từ lâu đã nổi tiếng vì sự khó khăn của nó cũng như việc nó không chấp nhận một tiêu chuẩn quốc tế nào khác, kể cả tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng của EU. Muốn xây dựng được HACCP theo quy định của Mỹ, doanh nghiệp Việt Nam cần đảm bảo đầy đủ các điều kiện sản xuất bao gồm nhà xưởng, kho tàng, dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị và cả con người theo các quy định cơ bản GMP (Good Manufacture Procedure) và của SSOP (Sanitation Standard Operating Procedure- Tiêu chuẩn vệ sinh).
3.2.3 Đăng ký thương hiệu tại thị trường Mỹ
Những vụ tranh chấp lớn xảy ra trong thời gian vừa qua đã giúp cho các
doanh nghiệp rút ra bài học là phải quan tâm đúng mức đến vấn đề thương hiệu. Nếu một hãng có uy tín của Việt Nam không đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm của mình, để một công ty khác cũng đăng ký nhãn hiệu đó thì điều này gây tác hại giống như trường hợp hàng giả, hàng nhái. Hậu quả là người tiêu dùng dễ nhầm lẫn hàng của các hãng này với hãng khác kém chất lượng, dẫn đến tẩy chay cả hàng chính hãng, hoạt động xuất khẩu do đó gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề bảo vệ thương hiệu. Khi bắt đầu có ý định thương mại hóa sản phẩm trên thị trường Mỹ là phải nộp đơn đăng ký bảo hộ thương hiệu lên USPTO để tránh trường hợp bị đối tác Mỹ “hớt tay trên”. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam xuất hàng sang Mỹ qua trung gian, sản phẩm của doanh nghiệp mang các thương hiệu khác nhau do đối tác đặt nên nhiều doanh nghiệp chưa thấy được tầm quan trọng của việc đăng ký thương hiệu. Tuy vậy, nếu các doanh nghiệp dự định một chiến lược kinh doanh dài hạn, muốn nâng cao vị thế cho sản phẩm của mình và không phải dính líu vào bất cứ một vụ tranh chấp nào thì việc đầu tiên các doanh nghiệp phải nghĩ đến là xây dựng một nhãn hiệu cho riêng mình trên đất Mỹ. Mặt khác, chi phí đăng ký thương hiệu của Mỹ không cao và thà tốn vài nghìn USD lúc đầu còn hơn là mất hàng triệu USD khi có tranh chấp phát sinh.
Một số điều cần chú ý khi đăng ký nhãn hiệu tại Mỹ là:
- Giá đăng ký nhãn hiệu hàng hóa trực tiếp tại Mỹ khoảng 1600 USD cho một nhãn hiệu (hay một nhóm nhãn hiệu).
- Cơ quan để các doanh nghiệp nộp đơn đăng ký tại Mỹ là “Cục
Sáng chế và Thương hiệu” (USPTO) ( mọi khiếu nại, đình chỉ, huỷ bỏ cũng có thể liên lạc tại USPTO. USPTO cũng cho phép đăng ký qua mạng (chi phí có thể thấp hơn), nhưng dù đăng ký trực tiếp hay qua mạng, doanh nghiệp cũng phải có địa chỉ liên lạc tại Mỹ.
- Các thông tin cần chuẩn bị cho việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá bao gồm: Mẫu nhãn hiệu hàng hoá; Mẫu nhãn sản phẩm; Mô tả công dụng sản phẩm, Nhóm đăng ký bảo hộ; Ngày sử dụng tại Mỹ (hoặc ngày muốn sử dụng tại Mỹ).
Ngoài ra, trước khi tiến hành đăng ký, doanh nghiệp nên kiểm tra xem nhãn hiệu của mình có ai đăng ký chưa. Nếu nhãn hiệu sản phẩm chưa được đăng ký mà mới chỉ được nộp đơn lên USPTO thì bất kỳ ai cũng có thể phản đối việc đăng ký trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhãn hiệu hàng hóa được đăng trên công báo (hoặc dài hơn nếu được USPTO chấp nhận) với một lý do, trong đó có lý do mình là người sử dụng nhãn hiệu từ trước và cần phải chứng minh qua những bằng chứng về ngày sử dụng đầu tiên ở bất cứ đâu và ở tại Mỹ. Vì vậy, doanh nghiệp phải lưu giữ đầy đủ các chứng từ có liên quan đến hàng hoá hay dịch vụ sử dụng nhãn hiệu như hợp đồng, hoá đơn, vận đơn,… Đối với các mặt hàng không thể đề tên công ty, logo, nói chung là nhãn hiệu hàng hoá lên sản phẩm (ví dụ như tranh thêu tay) thì có thể dùng các chứng từ trên để chứng minh nhãn hiệu đã được sử dụng trước. Doanh nghiệp thiết kế Website có đăng ký tên miền, logo và qua mạng đã có được những hợp đồng bán hàng thì Website có thể được coi là bằng chứng sử dụng nhãn hiệu. Doanh nghiệp muốn đăng ký nhãn hiệu tại Mỹ nhưng được biết có một cửa hàng tại đấy trùng tên thì doanh nghiệp cần xét xem sản phẩm hay dịch vụ có bị trùng không. Nếu không trùng thì nhanh chóng đăng ký, còn nếu trùng mà người sử dụng trước không có khiếu nại gì thì vẫn không ảnh hưởng đến việc đăng ký.
3.2.4 Thực hiện tốt các quy định về nhãn mác, bao bì, xuất xứ.
Các doanh nghiệp Việt Nam phải nắm vững những quy định về nhãn mác, bao bì vì Mỹ có những quy định rất chi tiết và khắt khe về vấn đề này. Nhãn hàng hoá đối với các hàng tiêu dùng nhất thiết phải có mã số mã vạch; thực phẩm dược phẩm phải ghi rõ thành phần hoá học chủ yếu, hướng dẫn sử dụng, hạn sử dụng, hướng dẫn bảo quản; hàng dệt may phải ghi rõ thành phần cotton là bao nhiêu,... Đặc biệt là các doanh nghiệp cần nắm vững các quy định về ghi nhãn của FDA- Cơ quan Quản lý Thực phẩm, dược phẩm của Mỹ như: “Nhãn phải được ghi bằng tiếng Anh, các thông tin chủ yếu phải ghi ở vị trí trưng bày, dễ thấy khi mặt hàng được bày bán, đơn vị đo lường ghi theo hệ Anh- Mỹ và theo hệ quốc tế SI,...” Ngoài ra, sản phẩm phải được bao gói phù hợp với yêu cầu của Mỹ. Mỹ cấm sử dụng một số loại vật liệu trong khi khuyến khích sử dụng một số loại vật liệu khác có khả năng tái chế. Các nhà xuất khẩu Việt Nam nên tìm hiểu thông tin về các loại vật liệu bao bì được nhà nhập khẩu chấp nhận.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần chú ý tới khâu xuất xứ để hàng dễ dàng được thông quan. Nước Mỹ là nước có quy định việc ghi xuất xứ hàng hoá khá cụ thể. Chẳng hạn, đối với sản phẩm có đa số chi tiết được sản xuất ở một nước thứ ba nhưng việc lắp ráp phức tạp thì khi xuất sang Mỹ phải ghi xuất xứ ở nước lắp ráp. Đối với sản phẩm có đa số chi tiết được sản xuất ở nước thứ ba nhưng việc lắp ráp không phức tạp khi xuất sang Mỹ ghi xuất xứ là chính nơi sản xuất chi tiết đó. Doanh nghiệp nước ngoài đến Mỹ sản xuất muốn lấy nhãn “Made in USA” thì 97% linh kiện của sản phẩm phải được sản xuất tại Mỹ,...
3.2.5 Giải quyết tốt vấn đề “Trách nhiệm sản phẩm” trên thị trường Mỹ
Sự khinh suất, thiếu cẩn trọng của nhiều doanh nghiệp đã phải trả giá đắt trong những vụ kiện của người tiêu dùng Mỹ. Một giải pháp khá hữu hiệu cho vấn đề này và đã được nhiều nhà xuất khẩu lớn của Việt Nam thực hiện trong thời gian gần đây là việc mua bảo hiểm thương mại đối với các hàng hoá xuất khẩu tại các Công ty bảo hiểm có tiếng. Các nhà xuất khẩu Việt Nam nên mua bảo hiểm rủi ro khi xuất hàng sang Mỹ. Những công ty cung cấp loại hình bảo hiểm này thường là các công ty bảo hiểm quốc tế lớn.
Mặt khác, trong các vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm, toà án tiểu bang thường hay thiên vị người tiêu dùng Mỹ, không khách quan như toà án liên bang. Tuy vậy, theo luật pháp Mỹ thì ở các tiểu bang, một nhà sản xuất hoặc xuất khẩu nước ngoài chỉ phải hầu toà nếu có “mối liên hệ tối thiểu” với tiểu bang nơi người tiêu dùng Mỹ khởi kiện. Do đó, các nhà xuất khẩu Việt Nam khi đưa hàng vào Mỹ nên hạn chế các quan hệ có tính thủ tục hay những hợp đồng pháp lý riêng rẽ với tiểu bang nhỏ.
Một điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý nữa là hệ thống phân phối ở Mỹ. Hệ thống phân phối ở Mỹ được chia thành hai loại: Các đại lý và nhà phân phối. Trách nhiệm của hai hệ thống được phân biệt rạch ròi. Đại lý là người bán trung gian ăn hoa hồng không có trách nhiệm gì về sản phẩm, còn nhà phân phối phải có trách nhiệm đối với sản phẩm mà mình nhận phân phối cho một doanh nghiệp nào đó. Do đó, nhà xuất khẩu Việt Nam có thể quyết định chỉ bán sản phẩm thông qua nhà phân phối Mỹ độc lập, đồng thời tránh đặt cơ sở sản xuất trực tiếp trên lãnh thổ Mỹ. Trong hợp đồng, nhà sản xuất có thể tìm cách hạn chế trách nhiệm hoặc chuyển trách nhiệm cho nhà phân phối. Tuy nhiên điều khoản nói trên là rất khó thương lượng và việc chuyển giao rủi ro có thể không có giá trị vì hiệu quả của nó còn phụ thuộc vào phán quyết của toà án.
3.2.6 Tăng cường công tác tiếp thị sản phẩm
Một trong những trở ngại đáng kể đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất hàng sang thị trường Mỹ là việc các thương nhân Mỹ và người tiêu dùng Mỹ đặc biệt coi trọng uy tín của nhà cung cấp và các mối quan hệ làm ăn lâu dài. Trong khi đó, các nhãn hiệu sản phẩm và các doanh nghiệp Việt Nam còn tương đối xa lạ đối với thị trường Mỹ. Thêm vào đó, theo đánh giá của nhiều chuyên gia nước ngoài thì điểm yếu nhất của các doanh nghiệp Việt Nam là cách tiếp thị và quảng bá sản phẩm của mình. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam thường tiếp thị sản phẩm của mình một cách “thủ công”. Theo các chuyên gia, cách tốt nhất là các doanh nghiệp tham gia các hội chợ triển lãm Mỹ. Tuy nhiên, trước khi sang Mỹ phải tìm hiểu thị trường này thật kỹ thông qua các văn phòng đại diện tại Việt Nam hay một số nước lân cận để tiết kiệm tiền và thời gian tìm hiểu. Đặc biệt, như lời của ngài Sam Korsmoe thuộc công ty Mekong Sources thì: “Phải dùng thương mại điện tử để làm ăn trong thời buổi toàn cầu hoá này. Lập một Website riêng để giới thiệu quảng bá cho doanh nghiệp và sản phẩm của mình sẽ rất hiệu quả, tiện lợi và tiết kiệm được chi phí”.
3.2.7 Tăng cường đầu tư ra thị trường ngoài
Một trong những biện pháp có thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam khắc phục những hàng rào thuế và phi thuế của Mỹ một cách hiệu quả là sản xuất hàng hoá ngay tại thị trường Mỹ. Hiện nay đã có một số doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu đầu tư sang thị trường Mỹ. Tuy nhiên, biện pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải có năng lực kinh tế nhất định, phải am hiểu luật pháp Mỹ một cách sâu sắc. Hơn nữa, sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất phải có chất lượng cao để đảm bảo cho doanh nghiệp không gặp nhiều rắc rối về vấn đề trách nhiệm sản phẩm trên thị trường Mỹ.
Một số vấn đề doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý khi xuất
hàng sang Mỹ
Ngoài những biện pháp trên, sâu đây là một số vấn đề các doanh nghiệp cần chú ý để tránh vướng phải những rắc rối, vướng mắc khi xuất hàng sang thị trường Mỹ, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động này:
1/ Sử dụng luật sư trong giao dịch với đối tác Mỹ
Người dân Mỹ nói chung và thương nhân Mỹ nói riêng rất có tinh thần tôn trọng pháp luật. Mọi mối quan hệ nếu nảy sinh tranh chấp rất có thể được xem xét, phán xử tại toà án Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ là nước có hệ thống luật pháp vô cùng phức tạp, chủ yếu lại là luật án lệ (case law), khiến cho các thương nhân Việt Nam rất khó nắm bắt. Do đó để tránh vướng vào những rào cản do không hiểu luật, để bảo vệ quyền lợi của mình trước pháp luật, các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự trợ giúp tư vấn của các luật sư. Sự tư vấn đúng lúc của họ sẽ rất có lợi cho các doanh nghiệp và cũng để các doanh nghiệp tránh được những rắc rối, tổn hại về uy tín hay tiền của. Mặt khác, không đâu trên thế giới này có nhiều toà án và luật sư như ở Mỹ. Tại Mỹ cũng không một vị giám đốc nào dám ký một hợp đồng mà không có luật sư của công ty kiểm tra trước. Vì thế, các đối tác Mỹ sẽ tỏ ra nghi ngờ khi thấy đại diện của đối tác Việt Nam sẵn sàng ký các hợp đồng do phía họ soạn thảo mà không có sự kiểm tra trước của các luật sư. Họ lo ngại rằng phía Việt Nam vì không đọc kỹ hợp đồng mà đã ký nên không đảm bảo khả năng thực hiện hợp đồng. Về phía Việt Nam, hàng loạt mẫu hợp đồng do đối tác đưa ra thường gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi đàm phán. Không thể xem xét kỹ càng các hợp đồng này mà không có các luật sư. Vì vậy, có thể coi luật sư là một phần tất yếu trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.
2/ Thận trọng trong việc ra các quyết định ký kết hợp đồng với đối tác Mỹ
Một hiện tượng rất gây “dị ứng” đối với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp Mỹ là tình trạng “hứa liều” của các doanh nghiệp Việt Nam. Tình trạng này khiến cho nhiều doanh nghiệp Mỹ ngần ngại giao dịch với các đối tác Việt Nam. Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là nhỏ và vừa (các doanh nghiệp lớn thường có quy chế hoạt động chặt chẽ và tầm nhìn lâu dài nên thận trọng hơn) nên khi có đối tác muốn ký hợp đồng thì đặt bút ký ngay mà không suy nghĩ hoặc suy nghĩ rất ít về tính khả thi của hợp đồng. Các doanh nghiệp Việt Nam thường lạm dụng từ “Có” trong mọi trường hợp mà không lường trước được khả năng thực sự của mình. Đối với thương nhân Mỹ, đôi khi từ “Không” lại gây ấn tượng tốt hơn. Do vậy, một điều các doanh nghiệp Việt Nam cần ghi nhớ nếu không muốn thất bại khi giao dịch với đối tác Mỹ là phải biết tự kiềm chế trước những hợp đồng béo bở.
3/ Tham gia các hiệp hội và phối hợp chặt chẽ với các ban ngành liên quan
Thị trường Mỹ là một thị trường mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam nên tổ chức thành các hiệp hội để có thể nâng cao sức mạnh và ưu thế của mình (ví dụ ngành thuỷ sản có Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam- VASEP).
Các Hiệp hội ngành hàng là các tổ chức phi Chính phủ, được thành lập trên cơ sở tự nguyện nhằm tập hợp và đại diện cho các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh trong từng ngành hàng. Doanh nghiệp cần tận dụng các chức năng của Hiệp hội này như: thống nhất hành động trong các doanh nghiệp hội viên nhằm tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm một cách có hiệu quả nhất, đảm bảo lợi ích cho toàn ngành; phối hợp nỗ lực đấu tranh của các doanh nghiệp thành viên khi phát sinh tranh chấp với phía nước ngoài,... Có thể thấy, trong những vụ tranh chấp phát sinh gần đây, các hiệp hội ngành hàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó, khi tranh chấp nổ ra, các doanh nghiệp cũng cần huy động sự tham gia của các ban ngành liên quan (Chẳng hạn như trong tranh chấp thương hiệu là Bộ Thương mại, Cục Sở hữu Công nghiệp, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường,..) để giúp bảo vệ lợi ích của mình được tốt nhất.
KẾT LUẬN
“Cuộc chiến Catfish” giữa các nhà xuất khẩu cá tra và cá Basa Việt Nam với Hiệp hội Các chủ trại cá nheo Mỹ; cà phê Trung Nguyên bị chính đối tác của mình tranh mất nhãn hiệu và rất nhiều vụ tranh chấp xảy ra ngay khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết và bắt đầu có hiệu lực đã nhấn mạnh với các nhà xuất khẩu Việt Nam rằng: Hiệp định mở ra nhiều cơ hội làm ăn cho các doanh nghiệp Việt Nam song cũng là khởi đầu của nhiều thách thức mới. Làm ăn với một đối tác đầy tiềm năng nhưng khó tính như Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn. Hoạt động thương mại phát triển, giao dịch giữa doanh nghiệp hai nước ngày càng nhiều một mặt khiến cho các rào cản bộc lộ rõ hơn trong thực tiễn, mặt khác cũng khiến cho các bên phải quan tâm thích đáng hơn đến vấn đề rào cản thương mại. Hệ thống luật pháp vô cùng phức tạp và nền văn hoá hết sức đa dạng của Mỹ cùng với những sự khác biệt, thậm chí đối lập giữa hai quốc gia đã dựng lên rất nhiều rào cản luật pháp và văn hoá đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Để vượt qua những rào cản này, phía Việt Nam cần nỗ lực rất nhiều, trong đó, các doanh nghiệp phải chủ động giữ vai trò chủ chốt, bên cạnh đó cũng không thể thiếu sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức, hiệp hội ngành hàng liên quan. Có như vậy, Việt Nam mới có thể đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ, hoàn thành những mục tiêu trên thị trường chiến lược này, góp phần thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội của cả nước nói chung./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
A. Sách
Lê Văn Chưởng, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, TP Hồ Chí Minh 1996
Nguyễn Thị Mơ- Hoàng Ngọc Thiết, Giáo trình Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, NXB Giáo dục, 1997
Hữu Ngọc, Hồ sơ văn hoá Mỹ, NXB Thế Giới, Hà Nội 2000
Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục 1996
Đinh Văn Tiến- Phạm Quyền, Tìm hiểu để hợp tác kinh doanh với Mỹ, NXB Thống kê, 1997
Nhiều tác giả, Muôn mặt nước Mỹ: những điều chủ yếu cần biết về nước Mỹ ngày nay, NXB Trẻ, 1994
Bộ luật Thương mại thống nhất của Mỹ- UCC (Uniform Commercial Code of USA)
Bộ Thương mại, Đề tài: Chính sách và giải pháp phát triển thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001-2010, Hà Nội, 2001
Bộ Thương mại, Một số cơ chế và tập quán cần biết khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Hà Nội, 2001
Bộ Thương mại, Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, 2001
Bộ Tài chính Mỹ- Tổng cục Hải quan, Xuất khẩu vào thị trường Mỹ, 2001
Trung tâm thông tin VCCI, Tìm hiểu để hợp tác và kinh doanh với Hoa Kỳ, 1997.
Phòng thông tin văn hoá- Đại sứ quán Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ đã có hiệu lực, Hà Nội, 2002
Kỷ yếu Hội nghị khoa học trường ĐHNT, Chủ đề: Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào thị trường Âu- Mỹ, Hà Nội, 2002
Hội nghị khoa học khoa kinh tế ngoại thương trường ĐHNT, Nền kinh tế Mỹ- Tác động của nó đến nền kinh tế thế giới và hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam, Hà Nội, 2001.
B. Báo và Tạp chí
Báo Thương mại, Số 22-29/ 2002
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số 56/2002
Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, Số 1,3,4,5/ 2002
Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương, Số 2/2002
Tạp chí Kinh tế và phát triển, Số 56/2002
Tạp chí Nghiên cứu Châu Á, Số 2/ 2002
Tạp chí Ngoại thương, Số 4+5/ 2002
Tạp chí Những vấn đề kinh tế Thế giới, Số 1/ 2002
Tạp chí Phát triển kinh tế, Số 136/2002
II. Tài liệu tiếng nước ngoài
A. Sách
1. Will Martin, The effect of the U.S granting MFN status to Vietnam, World Bank, Washington D.C, USA, 1999.
B. Báo và Tạp chí
ASIA Week 2000-2001
The ASean Wall Street Journal, 12/2001.
C. Các Website
uspto.gov
/wwwfbtacrsrpt.pdf
/wwwhcatfish011231.html
Số liệu: Bộ Thương mại Việt Nam, Niên giám thống kê, Bộ Thương mại Hoa Kỳ./.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19412.doc