Lời nói đầu
Theo quan điểm của người Babilon, người Ai Cập, Ấn Độ và Ba Tư cổ đại thì nước là “nguồn gốc của mọi nguồn gốc”, là cội nguồn của tất cả những gì tồn tại.
Nhà triết học cổ Hi Lạp Arixtot coi nước như một bộ phận của thiên nhiên - học thuyết về 4 yếu tố: lửa, không khí, nước và đất.
Từ xưa đến nay chúng ta đều nhận thức được tầm quan trọng của nước đối với sự sống như thế nào, không có nước thì sự sống trên trái đất này cũng sẽ không tồn tại. Nhưng hiện nay môi trường nước ở Việt
51 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số quy chế pháp lý về hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, từ đó sự sống của con người cũng bị đe dọa, rất nhiều bệnh tật phát sinh như ung thư, bệnh da liễu…, rất nhiều động vật sống dưới nước bị chết hàng loạt…Nước quan trọng như thế nào? Ô nhiễm nguồn nước ra sao? Vậy chúng ta cần có những giải pháp gì để khắc phục tình trạng đó?
Với sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Thủy, nhóm chúng tôi nghiên cứu về đề tài “Một số quy chế pháp lý về hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường nước” để cùng các bạn tìm ra câu trả lời xác đáng nhất cho những vấn đề chúng ta và cả xã hội đang quan tâm.
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Tổng quan về tài nguyên nước
Chương II : Quy chế pháp lý về hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam hiện nay
Chương III : Hiện trạng thực thi pháp luật.Một số kiến nghị
Nội dung
Chương I: Tổng quan về tài nguyên nước
Theo điều 3.1 của Luật bảo vệ môi trường: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”.
Nước là một thành phần của môi trường gắn liền với sự tồn tại và phát triển vủa con người cũng như sự sống trên hành tinh.
Nước đươc coi là loại khoáng sản đặc biệt vì nó tàng trữ một năng lượng lớn, hòa tan nhiều vật chất …phục vụ cho nhu cầu nhiều mặt của con người.
Các nền văn minh lớn của nhân loại cũng sớm nảy nở trên các con sông lớn như văn minh Ai Cập ở hạ lưu sông Nil, văn minh sông Hằng ở Ấn Độ, sông Hồng ở Việt Nam, sông Hoàng Hà ở Trung Quốc.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, nước giữ vai trò cực kì quan trọng, không những cần cho sự sống của mọi sinh vật mà còn là nhân tố quyết định sự phát triển nền văn minh của xã hội loài người. Đối với từng vùng hoặc quốc gia riêng biệt thì nước còn là một trong những yếu tố chủ yếu quyết định sự phân bổ của lực lượng sản xuất. Do nước có tầm quan trọng như vậy nên các quốc gia đều coi bảo vệ và sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên nước là một quốc sách.
* Vai trò của nước đối với thiên nhiên và con người:
Trái đất của chúng ta có 2/3 bề mặt là đại dương, 17% là nước mặn, 3% là nước ngọt (trong đó 77% đã bị đóng băng) .
Nước là chiếc nôi của sự sống, không có nước thì sẽ không có sự sống. Nước tham gia vào vòng vật chất của tự nhiên, tham gia vào các phản ứng hóa học, các quá trình biến đổi vật chất. Nước là nguồn vật chất cần thiết cho con người. Tham gia vào các cấu trúc tế bào, phản ứng sinh hóa, điều hòa thân nhiệt, hòa tan các chất hữu cơ. Nhu cầu của sinh vật là khoảng 10 tấn nước/ 1 tế bào sống. Nước đóng vai trò quan trọng trong các ngành sản xuất và các hoạt động phát triển của con người. Nước tạo thành mạng lưới giao thông, thủy lợi và nguồn điện năng phục vụ đời sống của con người.
Nước là một nhu cầu cần thiết cho sự sống trên trái đất, đặc biệt là sự sống của loài người. Song lượng nước trên trái đất đang tồn tại ở dạng phục vụ cho cuộc sống con người chiếm tỉ lệ rất ít nên việc sử dụng hợp lí nguồn nước, phân phối và giữ cho nguồn nước được trong sạch đang trở thành một thách thức cho cả nhân loại.
1.Tài nguyên nước trên thế giới:
Theo tính toán thì khối lượng nước ở trạng thái tự do phủ lên trái đất là trên 1,4 tỉ km3, nước rất phong phú, phân bố trong các môi trường khác nhau như đại dương, biển, ao , hồ, sông , suối, các núi tuyết ở Bắc cực và Nam cực.
Nước đại dương : 1 tỷ 300 triệu km3.
Nước lục địa (sông ngòi, ao, hồ): 83,320 km3.
Nước trong đất : 7500 km3.
Nước băng hà : 24 km3.
Nước trong khí quyển : 14 km3.
Hơi nước trong khí quyển cứ 9 ngày thì thay đổi hoàn toàn. Hàng năm lượng mưa rơi xuống 105.000 km3 thì có 2/3 quay lại khí quyển. Song nguồn tài nguyên nước phân bổ không đồng đều trong không gian và thời gian. Nước thưa ở vùng nhiệt đới, khô hạn ở vùng Trung Á, Bắc Phi, Tây Nam nước Mĩ.
Khả năng sử dụng nuớc của loài người đã đạt tới 9000km3/năm. Nhìn chung thì thiên nhiên cung cấp đủ nước cho 10 tỷ người. Song nước bây giờ bị thiếu do sử dụng lãng phí, thất thoát nước, do bốc hơi nước và bị ô nhiễm. Từng quốc gia trên thế giới sử dụng nước không đồng đều.
2. Tài nguyên nước ở Việt Nam:
Nét riêng về khí hậu của Việt Nam là vùng nhiệt đới ẩm, lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2000mm, nhưng lựợng mưa lại phân bố không đều, 85% lượng mưa tập trung về mùa mưa.
Hệ thống sông ngòi nước ta khá dày đặc, phân bố tương đối đồng đều trên lãnh thổ. Trung bình cứ 20km dọc theo bờ biển thì có 1 con sông.
Nước ta có bờ biển dài hơn 3260km, trong đó chứa nhiều tài nguyên khoáng sản như mỏ dầu, khí đốt, nhiều động thực vật, hải sản quý.
So với nhiều nước trên thế giới thì Việt Nam có tài nguyên nước khá dồi dào, lượng nước trung bình đầu người là 17.000m3/năm. Hệ số khai thác đạt 3% tổng lượng nước tự nhiên.
Theo Luật tài nguyên nước 2005 của nước CHXHCHVN: “Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước; mặt khác nước cũng có thể gây ra tai họa cho con người và môi trường;
Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân trong việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra “;
Tài nguyên nước là thuộc sở hữu toàn dân và thuộc sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Tổ chức, cá nhân được quyền khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho đời sống và sản xuất, Nhà nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
Quản lý tài nguyên nước: Nhà nước có chính sách quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên nước, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên nước và mọi hoạt động bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước.
Bảo vệ tài nguyên nước chính là bảo vệ sự sống còn của loài người cũng như sự sống của trái đất. Vậy nên bảo vệ tài nguyên nước là một nội dung không thể thiếu của pháp luật môi trường.
Tính tất yếu phải bảo vệ tài nguyên nước: Nước có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người, nước dùng cho nhu cầu ăn uống, vệ sinh, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…không có nước thì không có sự sống của con người cũng như sư sống trên trái đất.
Tùy theo tính chất, đặc điểm cũng như yêu cầu quản lí, sử dụng tài nguyên nước vào những mục đích khác nhau, pháp luật phân chia nước nói chung thành các loại cụ thể:
Nước mặt (là nước tồn tại trên bề mặt đất liền hoặc hải đảo)
Nước dưới đất (là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới mặt đất)
Nước sinh hoạt (nước dùng cho ăn uống ).
Nước sinh hoạt (là nguồn nước có thể cung cấp nước sinh họat hoặc mới có thể xử lí thành nước sạch một cách kinh tế ).
Nước quốc tế (là nguồn nước từ lãnh thổ Việt Nam chảy sang lãnh thổ các nước khác, từ lãnh thổ các nước khác chảy sang lãnh thổ Việt Nam hoặc nằm trên biên giới giữa Việt Nam và nước láng giềng)…
3. Ô nhiễm nước:
Theo điều 3.6 Luật tài nguyên nước năm 2005: ”Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật“.
“Ô nhiễm nguồn nước” là sự thay đổi tính chất vật lý, tính chất hoá học, thành phần sinh học của nước vi phạm tiêu chuẩn cho phép.
Trong quá trình sử dụng nước sạch vào mục đích khác nhau của đời sống, con người đã thải ra môi trường xung quanh 1 lượng nước bị ô nhiễm. Nước bẩn thải từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp đô thị đã đưa vào nguồn nước sạch 1 khối lượng khá lớn chất bẩn và làm thay đổi những đặc tính cơ bản của nước tự nhiên làm cho nước bị ô nhiễm. Hàng năm nền công nghiệp Hoa Kì đã dùng 400 ngàn kg thủy ngân để chế tạo thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ dại nhằm sử dụng cho nhu cầu công nghiệp, và độc tố thì thải ra vùng nước mặt.
Ở Ấn Độ khoảng 70% nước mặt đang bị nhiễm bẩn.
Ở Trung Quốc thì 70 con sông đang bị ô nhiễm nặng. Ô nhiễm đại dương cũng đã trở thành một thực tế rất đáng lo ngại.
Những con sông nổi tiếng như sông Ranh đang biến thành “đường cống công cộng “ khổng lồ của Châu Âu , sông Hoàng Hà ( Trung Quốc ) đã bị chuyển màu và bị sủi bọt…Sông Mê Kông trở thành nơi giấu rác của Châu Á.
Biển cũng có nước đã đổi màu và tương lai có thể sẽ đổi dòng. Biển chiếm 65% bề mặt trái đất, không còn là lá phổi của trái đất mà đã trở thành hố rác của loài người.
Ngày nay vấn đề cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nước còn đang là vấn đề khó khăn và gay gắt đối với toàn thể loài người..
Chương II:Quy chế pháp lý về hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam hiện nay
I. Thực trạng ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay vấn đề thiếu nước ở một số nơi đang trở thành vấn đề cấp bách, nguồn nước ở hầu hết các nơi có sự xuất hiện của con người đều đã và đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Các nhà bác học nói rằng nước trên hành tinh này là rất nhiều nhưng cũng là rất ít. Rất nhiều bởi vì nào biển cả, sông hồ, băng tuyết, mưa rơi… Nhưng rất ít vì nhu cầu ngày nay của loài người đã ngang bằng với những nguồn nước ngọt có khả năng tái sinh. Trong quá trình sản xuất và sinh hoạt chúng ta đã làm nhiễm bẩn quá nhiều.
Theo WHO, hằng ngày có một lượng lớn nước cống chưa được xử lý đổ vào các sông, hồ, đại dương trên khắp thế giới. Theo báo cáo tổng hợp về sức khoẻ trẻ em và môi trường (Atlas of children’s health and the environment) của WHO, mỗi gram nước cống chứa khoảng 10 triệu vi trùng, 1 triệu vi khuẩn, 1000 nang kí sinh trùng và 100 trứng sán các loại. Riêng ở sông Hằng, Ấn Độ, cứ mỗi phút dòng sông này “tiếp nhận” đến 1 triệu lít nước như thế. WHO cũng cho biết rằng trước tình hình ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng như thế việc rửa tay trước và sau khi ăn sẽ cứu sống khoảng 1 triệu người mỗi năm.
Như vậy ô nhiễm môi trường nước cùng với những tác nhân độc hại khác trong môi trường sống đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ con người trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam hiện nay thực trạng ô nhiễm môi trường nước cũng đang ở mức báo động. Cùng với tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số đã gây áp lực ngày càng nặng nề đối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ.
1.Ô nhiễm nước sinh hoạt:
Tài nguyên nước có vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta nhưng trữ lượng nước là có hạn. Để đảm bảo nhu cầu hàng ngày, con người đã khai thác triệt để nguồn nước từ nước ở sông hồ ao suối đến nguồn nước ngầm, nước mưa. Nhưng chúng ta lại không có sự quản lý và sử dụng hợp lý làm cho nguồn nước vừa sụt giảm về trữ lượng vừa bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Theo báo cáo của ngành cấp thoát nước thành phố Hồ Chí Minh năm 2007 thì khối lượng nước sạch được cung cấp 1 ngày là 1.160.000 m3/ngày. Ở những nơi được cung cấp nước sạch thì tình trạng lãng phí nước vẫn xảy ra rất nhiều trong khi đó nhiều vùng lại chưa có nước sạch mà việc cấp nước cho sinh hoạt chủ yếu lấy từ việc khai thác nước ngầm như từ các giếng khoan, giếng đào, ... hoặc từ các bể chứa nước mưa. Song việc khai thác này không có quy hoạch hợp lý và hầu hết không qua xử lý ô nhiễm dẫn tới việc cạn kiệt nguồn nước ngầm, gây sụt, lún đất và việc sử dụng nguồn nước không đảm bảo vệ sinh. Tình trạng cạn kiệt nguồn nước diễn ra ở hầu hết các thành phố lớn có nhu cầu khai thác sử dụng rất cao.
Ở nông thôn, tình trang ô nhiễm môi trường nước cũng rất đáng báo động. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, hàng năm các dịch bệnh này giảm tới 35% tiềm năng sức lao động và tiêu tốn một khoản không nhỏ cho chi phí phòng chống dịch. Có nơi người ta vừa sử dụng nước ao, hồ để ăn vừa để giặt giũ gây mất vệ sinh là nguyên nhân của rất nhiều căn bệnh về da và đường tiêu hoá. Ví du như: Ở xã Hoàng Tây, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt là nguyên nhân làm cho tỉ lệ người chết do bệnh ung thư tăng từ 28,5% năm 2003 lên 37% năm 2006, bệnh viêm da dị ứng tăng tương ứng từ 28% lên 41%.
Tình trạng trên đặc biệt xảy ra ở các vùng nông thôn nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không qua xử lý mà thải thẳng vào hệ thống thoát nước hoặc sông ngòi. Hệ thống cống rãnh đều thiết kế nổi có nơi con không có nắp cống. Ở những nơi đó, người dân còn nghèo nên không có điều kiện để xây dựng bể biogas và công trình vệ sinh đảm bảo tiêu chuẩn.
Có nơi là do sự hiểu biết không đầy đủ của người dân về tác hại của ô nhiễm môi trường. Ví dụ như ở xã Hoàng Tây, tỉnh Hà Nam mặc dù chính quyền xã đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xây dựng trạm cung cấp nước sạch, thành lập các đội thu gom rác thải, chất thải và hỗ trợ người dân xây dựng bể biogas để giảm chất thải chăn nuôi nhưng đến nay chỉ co vỏn vẹn 30 chiếc bể còn 2 trạm cung cấp nước sạch với kinh phí 1,5 tỉ đồng từ chương trình quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường hứa hẹn mang đến nguồn nước cũng chỉ hoạt động 3 tháng rồi nằm đắp chiếu. Nguyên nhân trên làm cho tinh trạng ô nhiễm moi trường nước về mặt hữu cơ ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến đổi từ 1.500- 3.500MNP/ 100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông Hậu tăng lên tới 3.800-12.500MNP/100ml ở các kênh tưới tiêu.
Ngay cả ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh thì tình trạng ô nhiễm môi trường nước do nước thải sinh hoạt cũng rất trầm trọng. Hầu hết nguồn nước thải không có hệ thống xử lý tập trung mà xả trực tiếp ra nguồn tiếp nhận như sông, hồ, kênh mương. Moi trường nước là nơi tiếp nhận chất thải đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất lơ lửng SS, BOD, COD, oxy bão hoà đều vượt 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCCP. Theo thống kê của sở KHCN&MT Cần Thơ, trung bình mỗi ngày một người dân đô thị Cần Thơ thải ra hơn 0,89 Kg rác. Lượng rác thu gom đổ vào bãi rác chỉ khoảng 60%, số còn lại người dân đổ ra sông, ao, hồ, cống rãnh, kênh, rạch gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Lượng rác thải này cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm biển hiện nay. Theo thống kê thì có hơn ¾ số chất ô nhiễm là từ đất liền theo sông chảy ra biển hoặc trực tiếp xả ra biển hoặc từ khí quyển. Hơn 90% toàn bộ rác thải, hoá chất và các loại vật liệu đều đọng lại trên bờ biển, ở vùng ngập nước, trong vùng san hô và các hệ sinh thái bờ biển.
Việc ô nhiễm nước mặt còn kéo theo sự ô nhiễm nước ngầm.
Theo số liệu điều tra của Liên đoàn địa chất thuỷ văn miền Bắc cho thấy hàm lượng sắt, mangan, kẽm trong nước ngầm ở khắp mọi nơi ở Hà Nội đều cao hơn tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt là Mangan. Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường (bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) cũng đã phối hợp điều tra nhiễm bẩn asen ở vùng Hà Nội, Việt Trì và đã ghi nhận rằng các mẫu nước giếng ở Quỳnh Lôi, Thanh Nhàn (Hà Nội) chứa hàm lượng asen cao hơn tiêu chuẩn cho phép 25%. Tình trạng trên không chỉ xảy ra ở Hà Nội mà là thực trạng phổ biến trên thế giới hiện nay. Nó không còn là vấn đề xa xôi nữa mà đã và đang tác động trực tiếp đến đời sống của mỗi chúng ta: mỗi ngày tình trạng ô nhiễm nước đã gây ra xấp xỉ 14000 cái chết cho dân cư trên thế giới, mà nguyên nhân chủ yếu là do ăn nước bẩn chưa qua xử lý. Rất nhiều những căn bệnh phát sinh do sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm như ung thư, dị ứng da, ngộ độc, các bệnh về tiêu hoá, về mắt, …
Còn đối với hệ sinh thái việc ô nhiễm nước từ chất thải sinh hoạt sẽ gây ra tác hại rất lớn làm cho chu kỳ phát triển của tảo tăng nhanh do lượng muối khoáng và hàm lượng các chất hữu cơ quá dư thừa làm cho nước bị mất oxy, các khí CO2, CH4, H2S tăng lên, tăng độ đục của nước, do đó hệ sinh thái bị đổ vỡ như đã xảy ra ở biển Ban tích và ở một số sông hồ nước ta như hồ Ba Mẫu. Qua nghiên cứu các nhà khoa học cũng đã khẳng định rằng chính các chất thải do con người gây ra là nguyên nhân gây ra những biến đổi lưu lượng mưa trogn thế kỷ 20. Có thể nói, tại những vùng ôn đới ở Bắc bán cầu trong đó có Châu Âu, Mỹ và Canada, hoạt động sống của con người đã làm cho lượng mưa trên trái đất tăng nhanh từ 50% lên tới 85%. Còn ngược lai ở những vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới ở phía Bắc thì lượng mưa lại giảm từ 20% tới 40%. Điều này khiến hiện tượng hạn hán ở Mexico và sa mạc Sahara trở nên trầm trọng hơn.
Ngoài những ảnh hưởng do hoạt động của con người còn có những ảnh hưởng mang tính tự nhiên gây ô nhiễm, suy thoái nước như hiện tượng động đất, núi lửa phun, lũ lụt, sóng thần, hạn hán … Do đó, bảo vệ, phát triển nguồn nước cần phải xem xét các nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan gây ô nhiễm môi trường nước để có giải pháp thích hợp.
Qua đây chúng ta có thể thấy rõ ô nhiễm môi trường nước đã và đang gây ra những hậu quả hết sức nặng nề. Nghiêm trọng và cấp bách là vậy nhưng hàng năm ngân sách nhà nước ta chi cho vấn đề bảo vệ môi trường chỉ là 0,1%GDP, thua xa so với các nước khác.
2. Ô nhiễm môi trường nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh:
Hoạt động sản xuất kinh doanh có đặc thù là sử dụng nguồn nước tập trung với một lưu lượng lớn. Điều đó dễ gây tình trạng khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt nguồn nước ở những khu vực nhất định (nhất là cạn kiệt mạch nước ngầm) biểu hiện cụ thể trong các mặt sau:
a. Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp :
Ở nước ta nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế, nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các nhu cầu sử dụng nước. Nhu cầu tưới tiêu năm 2000 là 76,6 % m2, chiếm 84 % tổng nhu cầu sử dụng nước toàn quốc và sẽ còn tiếp tục gia tăng khi mục tiêu đảm bảo nước tưới cho nông nghiệp đến năm 2010 là 12 triệu ha tương ứng với lượng nước sử dụng khoảng 88,8%.
Phải nói rằng sự phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đã tạo nên sự chuyển đổi mạnh mẽ cả về cơ cấu kinh tế cũng như quá trình đô thị hóa khu vực nông thôn, cũng đặt những thách thức mới trong việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước .
Có một thực tế là một số vùng nông thôn mới đã hình thành ngay ở những vùng rừng nguyên sinh, vùng đồi núi, vùng đầm lầy, vùng đất cát ven biển và hải đảo, … đã làm mất dần rừng phòng hộ đầu nguồn gây ô nhiễm nguồn nước và gây những tác động xấu cho môi trường nước như lũ lụt, hạn hán.
Ngành chăn nuôi tập trung theo quy mô công nghiệp, kể cả chăn nuôi gia súc và thủy hải sản cũng dẫn tới tình trạng tương tự thậm chí còn nguy hại hơn khi dư lượng thuốc kích thích tăng trưởng, bảo quản thức ăn … được hòa tan và xả vào nguồn nước.
Việc lạm dụng phân bón (kể cả phân hữu cơ và phân hóa học) thuốc kích thích tăng trưởng, thuốc trừ sâu, diệt cỏ trong nông nghiệp; việc chế biến nông, lâm, thủy, hải sản tập trung cũng xả vào nguồn nước một lượng không nhỏ hóa chất độc hại làm suy giảm chất lượng nguồn nước kể cả nước mặn và nước ngầm.
Việc khai thác nước dưới đất phục vụ sinh hoạt, chăn nuôi, trồng trọt một cách bừa bãi, không theo quy hoạch, thiếu quản lý chặt chẽ đã dẫn tới việc hạ thấp mức nước ngầm thậm chí làm suy giảm cả về số lượng và chất lượng nguồn nước ngầm tới mức khó hồi phục xảy ra ở một số địa phương.
Việc khoan giếng lấy nước ngầm không đúng quy trình kỹ thuật, không chèn lấp khi sử dụng là nguyên nhân dẫn tới hiện tượng ô nhiễm xuyên tầng, làm giảm chất lượng các nguồn nước ngầm rất có giá trị ở tầng sâu. Khai thác nước ngầm với quy mô lớn gây nên sự sụt lún đất, làm hư hỏng các công trình xây dựng và ở một số địa phương, có thể làm trầm trọng thêm mức độ ngập lụt. Đây là vấn đề phải được quan tâm đúng mức, đặc biệt là với các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long nơi có địa hình tương đối bằng phẳng và có cao trình mặt đất thấp.
Thực tế còn cho thấy: Có một số điạ phương do không tính toán đến khả năng nguồn nước tự nhiên mà vẫn chuyển đổi cơ cấu cây trồng với quy mô lớn dẫn tới tình trạng thiếu nước, cây trồng chết hoặc không mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn là những bài học không nhỏ.
Ví dụ: Ở thành phố Hà Nội, hàng năm 5 huyện ngoại thành sử dụng trung bình 30.000 tấn phân tươi để bón rau đã làm mất vệ sinh và gây ô nhiễm nước mặt và nước ngầm tầng trên ở các khu vực ngoại thành. Ngoài ra, hiện tượng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) ở những vùng chuyên canh cây trồng gây hậu quả nghiêm trọng: Phá vỡ sự cân bằng môi trường và hệ sinh thái, tồn đọng một lượng lớn dư lượng thuốc BVTV trong đất, gây ảnh hưởng lâu dài và khó khắc phục. Một số làng nghề truyền thống như gốm Bát Tràng, bún Phú Đô, chế biến phế thải tại Triều Khúc ... đang thách thức ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Các hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản tràn lan không những làm cạn kiệt nguồn thủy sản mà còn làm ô nhiễm vùng biển, đặc biệt là các hoạt động nuôi tôm gây ra những hiệu quả tiêu cực:
Cạn kiệt nguồn nước ngọt và nước ngầm
Sự khác biệt lớn giữa nuôi tôm trên cát và nuôi tôm thông thường là ở chỗ nuôi tôm trên cát cần rất nhiều nước, cả nước biển lẫn nước ngọt. Các khu vực nuôi tôm trên cát đều nằm sát biển, có thể bơm trực tiếp từ biển vào. Tuy nhiên vấn đề khó khăn nhất lại là nguồn nước ngọt. Các khu vực nuôi tôm trên cát thường xây dựng ở các bãi ngang ven biển, nơi mà nguồn nước ngọt rất hạn chế so với các nơi khác. Nhiều nơi nước ngọt thậm chí còn không đủ cung cấp cho sản xuất nông nghiệp. Mặt khác mùa vụ nuôi chính lại rơi vào mùa khô - thời điểm khan hiếm nước ngọt trong năm. Nếu việc khai thác nước ngầm phục vụ hoạt động nuôi tôm trên cát vượt quá giới hạn cho phép có thể dẫn tới sụt lở địa tầng, cạn kiệt nguồn nước ngầm ngọt, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước sinh hoạt của nhân dân và cho sản xuất nông nghiệp tại các khu vực lân cận.
Ô nhiễm biển và nước ngầm do chất thải từ nuôi trồng.
Vấn đề chất thải từ nuôi tôm, dù bất kỳ ở đâu, đều là một vấn đề lớn cần quan tâm.
Trong các mô hình nuôi tôm trên cát hiện nay, việc xả nước thải chưa qua xử lý còn tương đối tuỳ tiện, đa số được thải trực tiếp ra biển. Nếu ở quy mô nhỏ thì trong một vài năm đầu có thể chưa gây ra ảnh hưởng đáng kể. Nhưng nếu diện tích nuôi lớn và việc phát thải diễn ra trong thời gian dài thì nó có thể gây ô nhiễm môi trường nước biển ven bờ, gây phù dưỡng, ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển của nguồn lợi hải sản tự nhiên.
Ngoài việc xả nước thải ra biển, nhiều hộ nuôi còn thải trực tiếp nước thải và bùn ao ngay trên khu vực đất cát cạnh bờ đầm nuôi, gây ô nhiễm và mặn hoá nguồn nước ngầm ngọt. Dịch bệnh có thể lây lan qua các đầm nuôi khác do sử dụng nước ngầm đã bị ảnh hưởng bởi nước thải xuống từ các đầm nuôi bị nhiễm bệnh, đem mầm bệnh từ đầm này qua đầm khác tạo cơ hội bùng phát dịch bệnh tràn lan, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất.
Mặn hoá đất và nước ngầm
Vùng cát thuộc loại cố kết địa tầng yếu, nên việc lạm dụng quá mức nước ngầm ngọt cho nuôi tôm trên cát như hiện nay sẽ dẫn đến tình trạng sụt lún địa tầng khu vực, nước ngầm bị cạn kiệt gây mất cân bằng áp lực tạo điều kiện cho nước mặn xâm nhập từ biển vào, gây mặn hoá nước ngầm ngọt. Thiếu nước ngầm, độ ẩm của đất giảm, nước bị nhiễm mặn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển cây nông nghiệp ở khu vực lân cận.
Mặt khác đất cát dễ thẩm thấu, nếu nuôi tôm ở quy mô lớn, việc thất thoát, thẩm thấu nước trong quá trình bơm nước từ biển vào, thải nước ra cũng như trong quá trình nuôi sẽ làm một lượng lớn nước mặn ngấm vào trong lòng đất, gây mặn hoá đất và nguồn nước ngầm ngọt, thậm chí ở tầng sâu hơn
Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng cách các loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì các thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển một số loài sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt Nam.
b. Trong hoạt động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Hoạt động sản xuất công nghiệp thải ra một lượng lớn nước thải công nghiệp (thường chứa các chất gây ô nhiễm môi trường với mức độ đáng kể) và các chất thải khác. Lượng nước thải các chất này thường chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn, được thải trực tiếp vào các nguồn nước mặt, hoặc ngấm qua đất tới các mạch nước ngầm. Đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm hiện nay ở Việt Nam.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay ở Việt Nam có khoảng trên 100 khu, cụm công nghiệp đã và đang được xây dựng nhưng rất ít khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải công nghiệp đạt tiêu chuẩn. Hàng triệu m3 nước thải công nghiệp xả ra môi trường mỗi ngày làm cho nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng hơn. Như khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên, nước thải đã biến nước sông Cầu thành màu đen, mặt nước sủi bọt hàng chục cây số, giấy Phú Thọ đang ngày đêm đe dọa tính mạng của hàng trăm người dân sống ở khu vực gần nhà máy. Hàng loạt ngôi làng “ung thư“ đã xuất hiện trong thời gian gần đây là hệ quả của những nhà máy xả nước thải ra môi trường chưa qua xử lý. Thực tế đã chứng minh, tăng trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với việc ô nhiễm nguồn nước,… Song hành với những bước chuyển về kinh tế, cái giá phải trả là nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm nặng nề.
Hầu hết các nước thải tại các nhà máy khu công nghiệp, làng nghề ở các đô thị đều xả trực tiếp vào cống rãnh, sông ngòi mà không qua bất kỳ khâu xử lý nào. Nước thải bao gồm các loại hóa chất hóa học, hữu cơ, chất rắn lơ lửng, kim loại nặng, a xit, kiềm, các loại hợp chất phenol vô cùng độc hại mang mầm mống dịch bệnh lan tỏa ra hệ thống sông ngòi. Hệ thống sông ngòi, hồ ao ở gần những đô thị lớn đều bị ô nhiễm; ni lon, giấy, rác thải, xác động vật, dập dềnh trôi nổi làm tắc nghẽn dòng sông. Theo các nhà khoa học, cứ 1m3 nước thải lan tỏa làm ô nhiễm 40-60m3 nước sạch. Nếu không có các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời, nước thải sẽ gây ô nhiễm môi trường sống, lãng phí nguồn nước mặt, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe người dân.
Tại các đô thị lớn, hệ thống thoát nước dùng chung cho tất cả: nước mưa, nước thải sinh hoạt, nước công nghiệp. Do hệ thống thoát nước không đảm bảo, cứ mùa mưa lại bị ngập lụt, nước bẩn tràn lên đường phố, chảy vào các hộ gia đình, ảnh hưởng đến sức khỏe, môi trường sống của người dân. Các thành phố đa phần chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Hầu hết sông ngòi trong cả nước tiếp nhận nước thải sinh hoạt từ các đô thị ở khu dân cư, nhà hàng; nước thải của các cơ sở y tế, cơ sở công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, … chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép đổ vào. Hiện nay, việc đầu tư và áp dụng các công nghệ xử lý nước thải chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường. 70% các khu công nghiệp không có hệ thống xử lý nước thải tập trung, hoặc một số cơ sở sản xuất có xử lý nước thải nhưng không đạt tiêu chuẩn cho phép. Qua kiểm tra các cơ sở sản xuất hóa chất trên toàn quốc cho thấy, chỉ có 12% các cơ sở xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Các làng nghề ở đô thị với nhiều loại hình sản xuất tiểu thủ công nghiệp như: chế biến thực phẩm, cơ khí, thủ công mỹ nghệ, chế biến lâm sản, vật liệu xây dựng phát triển góp phần cải thiện đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, phần lớn các cơ sở này đều phát triển tự phát theo nhu cầu của thị trường với thiết bị và công nghệ sản xuất lạc hậu, không đầu tư xây dựng trạm xử lý nước thải trực tiếp qua các hệ thống cống rãnh. Kiểm tra 3 làng nghề tái chế nhựa ở Triều Khúc, dệt nhuộm Tân Triều và bún Phú Đô Hà Nội cho thấy nước thải tại mương thải chung của các làng nghề, trước khi thải ra ngoài bị ô nhiễm nghiêm trọng, các chất hữu cơ BOD vượt đến 14,4 lần; COD vượt 10,8 lần, chất rắn lơ lửng vượt 1,4 lần, dầu mỡ vượt 5,5 lần.
Ông Đặng Dương Bình, trưởng phòng môi trường - khí tượng thủy văn Sở Tài Nguyên môi trường và nhà đất Hà Nội cho biết: Xử lý nước thải đang là một thách thức lớn, thành phố với hơn 2,7 triệu dân tổng lượng nước thải của thành phố khoảng hơn 500.000 m3/ngày đêm, trong đó lượng nước thải sinh hoạt khoảng 400.000 m3, nước thải công nghiệp 85.000- 90.000m3. Hà Nội có 5 khu công nghiệp tập trung, 13 cụm công nghiệp vừa và nhỏ, mới có khu vực Bắc Thăng Long, Sài Đồng có trạm xử lý nước thải. Nước thải qua hệ thống cống, mương đô thị chảy ra 4 con sông thông nối nhau: Tô Lịch , sông Lừ, sông Sét , Kim Ngưu , theo dòng sông Châu giang chảy vào sông Nhuệ - Đáy , hồ Yên Sở ra các tỉnh lân cận. Nhưng dòng sông này, nước bị ô nhiễm do các chất hóa học, hữu cơ. Hàm lượng DO ở các điểm đo trên các sông Nhuệ , Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ và Sét dao động từ 1,6 -5 mg/l, trong đó DO ở sông Lừ, Kim Ngưu và Tô Lịch đều có giá trị thấp hơn 2 mg/l. Trên 99% các điểm quan trắc chất lượng nước mặt trên lưu vực sông Nhuệ - Đáy có hàm lượng các chất ô nhiễm hữu cơ không đảm bảo tiêu chuẩn đối với nguồn nước sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt .
Tại thành phố Việt Trì, nước thải công nghiệp cũng được đổ trực tiếp vào sông Hồng không qua xử lý làm cho hàm lượng kim loại nặng, các chất hữu cơ đặc biệt là hợp chất phenol được clo hóa, BOD, COD rất cao. Sông Hồng tiếp nhận gần 100.000m3 /ngày đêm của thành phố Việt trì, trong đó nước thải công nghiệp chiếm 30 % .
Ở thành phố Hồ Chí Minh, lượng nước thải công nghiệp xả ra môi trường hơn 400.000 m3 ngày đêm. Theo sở tài nguyên môi trường TP Hồ Chí Minh, trong đó số 12 KCN trên địa bàn, mới có KCN Lê Minh Xuân, Tân Tạo có hệ thống xử lý nước thải, còn lại các KCN với khoảng hơn 30.000 m3/ngày đêm thải ra sông ngòi, kênh rạch. Thành phố với gần 5 triệu dân, tổng lượng nước thải sinh hoạt khoảng 600.000 m3/ ngày đêm, chỉ 60% được xử lý sơ bộ. Nước thải xả trực tiếp ra các kênh Nhiêu Lộc, kênh Tân hóa lan tỏa đi các sông Sài Gòn – Đồng Nai, Nhà Bè, chợ Đệm, sông Tranh … Hiện nay, lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai bị ô nhiễm trên diện rộng với mức độ tăng dần từ thượng lưu đến hạ lưu, chủ yếu là ô nhiễm hữu cơ, vi sinh vật và bị ax._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32909.doc