trường đại học kinh tế quốc dân
khoa kế toán
&
đề án môn học
Đề tài:
một số phương pháp tính giá vật liệu
nhập xuất kho trong các doanh nghiệp
Giáo viên hướng dẫn: trần quý liên
Sinh viên thực hiện: trịnh thị kim nhung
Lớp: kế toán a
Hà Nội, 12/2000
Lời mở đầu
Sản xuất kinh doanh là hoạt động đòi hỏi có sự tính toán và tổ chức một cách phù hợp với yếu tố đầu vào để có được đầu ra hợp lý nhằm mục tiêu lợi nhuận tối ưu nhất. Vật liệu là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số phương pháp tính giá vật liệu nhập xuất kho trong các Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất kinh doanh. Giá trị vật liệu tiêu hao cho quá trình sản xuất kinh doanh được chuyển toàn bộ vào giá trị sản phẩm của một phần dưới dạng sản phẩm dở dang. Do vậy tổ chức hợp lý quá trình hạch toán trong các doanh nghiệp là rất cần thiết đặc biệt rong cơ chế thị trường hiện nay.
Tính giá vật liệu chỉ là một khẩu của công tác tổ chức hạch toán vật liệu nhưng lại giữ vai trò quyết định đến chất lượng của cả quá trình hạch toán cũng như các quá trình tiếp theo. Thứ nhất, tính giá vật liệu xuất kho để xác định chi phí vật liệu trong giá thành sản phẩm dịch vụ. Điêu này càng đặc biệt có ý nghĩa đối với doanh nghiệp sản xuất, chi phí vật liệu chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh. Thứ hai, đánh giá vật liệu là tiền đề để hình thành hệ thống thông tin chính xác về vật liệu tiêu dùng, dự trữ và sử dụng có hiệu quả số vật liệu đó trong công tác quản lý vật liệu.
Chính vì hai lý do trên, tính giá vật liệu theo phương pháp thích hợp là rất cần thiết và vấn đề đặt ra là lựa chọn phương pháp tính giá nào để phù hợp với tính chất kinh doanh và yêu cầu nhất định của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy em chọn đề tài "Một số phương pháp tính giá vật liệu nhập xuất kho trong các doanh nghiệp".
Trong giới hạn bài viết em xin trình bày đề án thành 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về hạch toán nguyên vật liệu.
Phần II: Các phương pháp tính giá vật liệu nhập xuất kho trong các doanh nghiệp.
Phần III: Một số nhận xét và kiến nghị.
Đây là bài viết đầu tiên có lượng kiến thức nguyên ngành nhiều, kiến thức chuyên môn còn nhiều hạn chế nên bài viết còn nhiều thiếu sót.. Em kính mong được sự góp ý kiến, nhận xét của thầy giáo để em rút kinh nghiệm và hoàn thiện tốt hơn khi viết chuyên đề thực tập sau này. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo.
Nội dung
Phần I
Lý luận chung về hạch toán nguyên vật liệu
I. Khái niệm, đặc điểm và phân loại vật liệu.
1. Khái niệm và đặc điểm.
Một trong những điều kiện thiết yếu để tiến hành sản xuất là đối tượng lao động. Vật liệu là những đối tượng lao động được thể hiện dưới dạng vật hóa, chỉ tham gia vào 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh nhất định và toàn bộ giá trị vật liệu được kết chuyển hết 1 lần vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Trong quá trình tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh dưới tác động của lao động, vật liệu bị tiêu hao toàn bộ hoặc bị thay đổi hình thái vật chất ban đầu để cấu thành thực thể của sản phẩm.
Vì vậy vật liệu thuộc tài sản lưu động, giá trị vật liệu thuộc vốn lưu động dự trữ của doanh nghiệp, vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp. Tỷ trọng của vật liệu trong giá trị sản phẩm, dịch vụ tuỳ thuộc vào loại vật liệu, loại hình doanh nghiệp.
2. Phân loại.
Do vật liệu trong doanh nghiệp có nhiều thứ, nhiều loại khác nhau nên để thuận tiện cho quản lý và hạch toán đòi hỏi phải phân loại vật liệu.
Trong thực tế của công tác quản lý và hạch toán ở các doanh nghiệp, đặc trưng dùng để phân loại vật liệu thông dụng nhất là vai trò và tác dụng của vật liệu trong sản xuất. Theo đặc trưng này vật liệu được phân thành.
+ Nguyên liệu và vật liệu chính: Là những nguyên liệu, vật liệu sau quá trình gia công chế biến cấu thành thành hình thái vật chất chủ yếu của sản phẩm (bông trong nhà máy dệt, thép trong nhà máy cơ khí...). Ngoài ra thuộc vật liệu chính còn bao gồm cả bán thành phẩm mua ngoài để tiếp tục chế biến.
+ Vật liệu phụ: Là những vật liệu có tác dụng phụ trong quá trình sản xuất được sử dụng kết hợp với vật liệu chính để hoàn thiện và nâng cao tính năng, chất lượng của sản phẩm hoặc để đảm bảo cho công cụ lao động hoạt động bình thường hoặc dùng cho nhu cầu kỹ thuật, quản lý (dầu nhờn, thuốc nhuộm, xà phòng, hương liệu...).
+ Nhiên liệu: là những thứ dùng để tạo ra nhiệt năng như than đá, củi (nhiên liệu rắn); xăng, dầu (nhiên liệu lỏng). Nhiên liệu thực chất là vật liệu phụ nhưng được tách ra thành một loại riêng vì nó chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nhiên liệu cũng có yêu cầu kỹ thuật và quản lý hoàn toàn khác với các vật liệu thông thường.
+ Phụ tùng thay thế: là những chi tiết, phụ tùng máy móc, thiết bị phục vụ cho việc sửa chữa hoặc thay thế những bộ phận, chi tiết máy móc thiết bị.
+ Thiết bị và vật liệu xây dựng: là các loại vật liệu, thiết bị phục vụ cho hoạt động XDCB tái tạo TSCĐ.
+ Phế liệu thu hồi: là những loại vật liệu thu hồi từ quá trình sản xuất kinh doanh để sử dụng lại hoặc bán ra ngoài.
+ Vật liệu khác: bao gồm các loại vật liệu còn lại ngoài các thứ chưa kể trên như bao bì, vật đóng gói, các loại vật tư đặc trưng.
Khi phân loại vật liệu cần chú ý rằng phải căn cứ vào vai trò tác dụng chính của chúng vì có lúc chúng được sử dụng như vật liệu chính, có lúc lại sử dụng như vật liệu phụ. Trên cơ sở phân loại vật liệu doanh nghiệp chi tiết theo từng nhóm, từng thứ để hình thành nên "sẽ danh điểm vật liệu".
Ngoài ra còn phân loại vật liệu dựa trên chức năng của vật liệu đối với quá trình sản xuất. Theo cách này nguyên vật liệu bao gồm: nguyên vật liệu sử dụng cho sản xuất, nguyên vật liệu sử dụng cho bán hàng và quản lý doanh nghiệp. Và phân loại vật liệu theo quyền sở hữu thì gồm: nguyên vật liệu tự có; nguyên vật liệu giữ hộ hoặc nhận gia công.
II. Tính giá và vai trò của tính giá vật liệu trong công tác tổ chức hạch toán vật liệu.
1. Nhiệm vụ của hạch toán vật liệu.
Để thực hiện yêu cầu quản lý vật liệu, việc tổ chức tốt quá trình hạch toán vật liệu thúc đẩy việc cung cấp đầy đủ, kịp thời, đồng bộ những vật liệu cần thiết cho sản xuất, dự trữ và sử dụng vật liệu hợp lý, tiết kiệm tránh hiện tượng hư hao lãng phí vật liệu trong các khâu sản xuất kinh doanh. Tổ chức quá trình hạch toán nhằm.
- Tính toán ghi chép và phản ánh chính xác, trung thực và kịp thời số lượng, chất lượng và giá thực tế của vật liệu xuất kho. Đây là cơ sở để bộ phận quản lý xác định được số vật liệu nhập kho cả về mặt hiện vật lẫn giá trị, từ đó tiến hành đánh giá vật liệu xuất kho một cách hợp lý.
- Tập hợp và phản ánh đầy đủ, chính xác số lượng và giá trị vật liệu xuất kho kiểm tra tình hình chấp hành các định mức tiêu hao vật liệu. Giá trị vật liệu xuất kho là căn cứ để phân bổ giá trị vật liệu sử dụng để tính giá thành sản phẩm. Trong quá trình bảo quản và sử dụng vật liệu thì tuỳ mỗi loại vật liệu với định mức hao hụt do những nguyên nhân khách quan như do vận chuyển, bảo quản, thời tiết... Do vậy xây dựng định mức tiêu hao cho từng loại vật liệu là điều kiện quan trọng để tổ chức quản lý vật liệu và phải thường xuyên kiểm tra tình hình chấp hành các định mức tiêu hao vật liệu đã xây dựng.
- Phấn bố hợp lý giá trị vật liệu sử dụng vào các đối tượng tập hợp chi phi sản xuất kinh doanh. Giá trị vật liệu tiêu hao là một bộ phận cấu thành giá trị sản phẩm, do vậy cần xác định giá trị vật liệu đã được phân bổ vào giá trị sản phẩm hoàn thành là bao nhiêu, giá tị phân bổ cho sản phẩm dở dang là bao nhiêu để xác định được giá trị vật liệu thực tế đã hoàn thành một quá trình luân chuyển.
- Tính toán và phản ánh chính xác sản lượng và giá trị vật liệu tồn kho phát hiện kịp thời vật liệu thiếu, thừa, ứ đọng, kém phẩm chất để doanh nghiệp có biện pháp xử lý kịp thời, hạn chế mức thiệt hại có thể xảy ra. Đây là mục tiêu nhằm cung cấp thông tin cho quản lý để có kế hoạch quản lý vật liệu, lựa chọn đối tác mua vật liệu, nâng cao hệ thống kho bãi để bảo quản ... Từ trên ta thấy tính giá vật liệu là một khâu quan trọng trong công tác tổ chức hạch toán vật liệu, do vậy cần xây dựng phương pháp tính giá phù hợp.
2. Tính giá vật liệu, quá trình hạch toán vật liệu và vai trò của nó trong việc kiểm soát tài sản chi phí, hàng tồn kho, tính giá thành sản phẩm.
a/ Tính giá vật liệu.
Tính giá vật liệu là một vấn đề quan trọng trong việc tổ chức hạch toán vật liệu. Tính giá vật liệu là dùng tiền để biểu hiện giá trị của chúng. Thực tế giá vật liệu thường xuyên biến động và nhiều khi giá mua thực tế không được cung cấp kịp thời vì vậy cần sử dụng phương pháp tính giá nhập xuất nguyên vật liệu để sao cho phản ánh chính xác giá trị nguyên vật liệu tồn kho, doanh thu tạo ra trong kỳ là phù hợp chi phí.
Nội dung của chi phí.
+ Dựa trên những chứng từ kế toán hợp pháp để xác định giá thành thực tế của vật liệu nhập kho.
+ Theo dõi lượng xuất và dùng những phương pháp nhất định đánh giá chính xác giá trị vật liệu xuất kho.
+ Xác định lượng tồn và giá trị tồn trên cơ sở đối chiếu thực tế:
Tính giá vật liệu lại gồm nhiều phương pháp. Mỗi phương pháp tính giá được doanh nghiệp áp dụng dựa trên cơ sở phù hợp đặc điểm luân chuyển vật liệu mà đặc điểm này lại được qui định bởi qui mô, loại hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời phải tuân theo 2 nguyên tắc của hạch toán vật liệu là phải mở sổ theo dõi vật liệu theo từng nhóm từng thứ, từng loại và về hiện vật và giá trị và phải thống nhất phương pháp tính giá vật liệu.
Lựa chọn phương pháp tính giá vật liệu hợp lý là để phán ánh được chính xác chi phí vật liệu trong giá thành sản phẩm và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ tiêu: doanh thu, giá thành, lợi nhuận... Ngoài ra còn cung cấp những thông tin kịp thời và quan trọng cho doanh nghiệp và các quyết định kinh doanh và tổ chức quản lý một cách hiệu quả.
b/ Vai trò của tính giá và tổ chức hạch toán vật liệu trong việc kiểm soát tài sản chi phí, hàng tồn kho, tính giá thành sản phẩm.
- Đối với kiểm soát tài sản chi phí, hàng tồn kho dự trữ cuối kỳ.
Bảo quản vốn kinh doanh, nhất là vốn lưu động cả về mặt hiện vật lẫn giá trị là mối quan tâm của các doanh nghiệp. Vật liệu là tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình luân chuyển vật liệu thể hiện
Sử dụng ngay
Vật liệu mua về
Xuất theo
yêu cầu
Sản phẩm
hàng hóa dịch vụ
Tiêu thụ sản phẩm
Tái sản xuất
Nhập kho
Đây là sơ đồ phản ánh giá trị vật liệu sử dụng cho sản xuất kinh doanh và tiêu hao vào sản xuất sản phẩm. Qua đó việc kiểm soát sự tham gia của vật liệu vào quá trình sản xuất kinh doanh cần phải có một quá trình hạch toán vật liệu hợp lý. Để đạt được điều này cần có phương pháp tính giá đúng để xác định đúng giá trị thực của vật liệu tồn, nhập, xuất và đó là cơ sở để xác định giá trị đích thực của vật liệu tiêu hao cho quá trình sản xuất. Đồng thời với việc xác định giá trị vật liệu xuất dùng ta có thể xác định giá trị hàng tồn kho. Giá trị hàng tồn kho có thể được phản ánh thấp hơn hay cao hơn so với giá thực tế là do phương pháp tính giá. Một yêu cầu quan trọng của doanh nghiệp là phải có thông tin về mức tồn kho thực tế về nguyên vật liệu, chênh lệch của mỗi loại vật liệu tồn kho so với định mức dự trữ an toàn của kinh doanh và định mức tối đa, tối thiểu, phải luôn đảm bảo mức tồn vật liệu để cân đối trong dự trữ, sản xuất.
- Đối với giá thành sản phẩm dịch vụ.
Giá thành là chi phí sản xuất cho khối lượng hoặc đơn vị sản phẩm (công việc, lao vụ) do doanh nghiệp đã sản xuất hoàn thành. Cơ sở để tính giá thành sản phẩm là các chi phí sản xuất trong kỳ. Cùng với chi phí nhân công và chi phí sản xuất chung, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là căn cứ quan trọng để tính giá thành sản phẩm.
Để tính toán và tập hợp chính xác chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kế toán cần xác định được giá trị nguyên vật liệu đưa vào sử dụng. Giá trị vật liệu xuất dùng này là kết quả của các phương pháp tính giá, lựa chọn phương pháp tính giá để tạo ra lượng lớn hay nhỏ của vật liệu tiêu hao trong kỳ là tuỳ mục đích của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp muốn lãi ít để nộp thuế ít thì cần chọn phương pháp xuất lượng lớn như phương pháp nhập sau xuất trước, hay doanh nghiệp muốn tạo lãi nhiều làm tăng uy tín đối với các nhà đầu tư, tài trợ có thể chọn phương pháp nhập trước, xuất trước, giá thực tế đích danh...
Nguyên vật liệu là đối tượng lao động, là thành phẩn chủ yếu để hình thành sản phẩm mới. Do đó để sản xuất liên tục, đảm bảo khối lượng và chất lượng như mục tiêu đề ra cần cung cấp đủ giá trị nguyên vật liệu cần đến. Để đạt được điều này cần tổ chức hạch toán vật liệu và tính giá thành một cách khoa học, lựa chọn phương pháp nhập xuất nguyên vật liệu đơn giản, tiện lợi phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp; lựa chọn phương pháp kế toán vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên, hay kiểm kê định kỳ, từ đó qui định cách hạch toán và ghi sổ kế toán hợp lý nhằm mục đích phân bổ chi phí vật liệu cho tính giá thành sản phẩm.
Phần II
Các phương pháp tính giá vật liệu nhập xuất kho trong doanh nghiệp
I. Cách đánh giá giá trị vật liệu nhập xuất kho.
Theo cách phân loại nguyên vật liệu trên ta thấy chúng bao gồm nhiều loại, nhiều thứ và giá cả của chúng lại thay đổi thường xuyên. Do đó thông thường người ta có thể đánh giá vật liệu theo 2 phương pháp.
Phương pháp giá hach toán.
Phương pháp giá thực tế.
1. Sử dụng giá hạch toán.
Giá hạch toán có thể lấy theo giá kế hoạch hoặc giá cuối kỳ trước được qui định thống nhất trong một kỳ hạch toán. Giá hạch toán không có ý nghĩa trong việc thanh toán và hạch toán tổng hợp về vật liệu. Mục đích của việc sử dụng giá hạch toán là đơn giản công việc hạch toán vật liệu hàng ngày khi sử dụng một loại giá ổn định và cuối kỳ mới tiến hành điều chỉnh. Cụ thể hàng ngày kế toán ghi sổ về nghiệp vụ nhập, xuất tồn vật liệu theo giá hạch toán.
= x
Đến cuối kỳ hạch toán, kế toán tiến hành điều chỉnh giá thành thực tế theo các bước:
+ Xác định hệ số giá của từng loại vật liệu.
Hệ số giá =
+ Xác định giá thực tế vật liệu xuất trong kỳ.
= x Hệ số giá
2. Sử dụng giá thực tế.
Giá thực tế của vật liệu là loại giá được hình thành trên các chứng từ hợp lệ chứng minh các khoản chi hợp pháp để tạo ra vật liệu. Hàng ngày kế toán dùng giá mua thực tế để phản ánh tình hình biến động nguyên vật liệu. Do giá thực tế của mỗi loại vật liệu thường không nhất quán giữa các lần nhập kho nên doanh nghiệp có thể lựa chọn 1 trong số các phương pháp tính giá thực tế vật liệu xuất dùng nhất định (trình bày ở phần sau).
II. Xác định giá vật liệu nhập kho.
Chứng từ hợp lệ của nghiệp vụ nhập kho vật liệu.
+ Hóa đơn bán hàng (hoặc hóa đơn kiêm phiếu xuất kho), phiếu mua hàng.
+ Phiếu nhập kho.
+ Hợp đồng mua nguyên vật liệu.
+ Vận đơn.
+ Hóa đơn thuế VAT.
+ Biên bản kiểm nghiệm.
Căn cứ vào các hóa đơn chứng từ trên xác định giá thực tế của vật liệu nhập kho. Giá thực tế này được xác định tuỳ theo từng nguồn nhập:
a/ = Giá mua + + -
Giá mua là giá ghi trên hóa đơn người bán. Nếu doanh nghiệp mua với khối lượng lớn, hoặc số vật liệu mua không đúng qui cách, chất lượng sẽ được bên cung cấp giảm giá theo một tỷ lệ nhất định trên số tiền phải thanh toán. Và số giảm giá này trừ trực tiếp vào giá mua.
- Chi phí thu mua bao gồm chi phí kho bãi, vận chuyển, bốc dỡ, chi cho nhân viên thua mua, chi phí hao hụt... Trong quá trình thu mua, nếu chi phí vận chuyển cho nhiều loại nguyên vật liệu trên cùng một phương tiện cần phân bổ chi phí này hợp lý cho từng loại.
Ví dụ: Mua một số vật liệu chính theo tổng giá thanh toán (cả VAT) là 220 triệu đồng. Chi phí vận chuyển bỏ dỡ là 0,5 triệu trả bằng TM. Đơn vị đã thanh toán toàn bộ tiền hàng bằng chuyển khoản. Do vật liệu chất lượng không đảm bảo nên người bán chấp nhận giảm giá 1% là 2,2 triệu (cả VAT) đã nhận lại bằng TM.
+ Nếu doanh nghiệp tính VAT theo phương pháp khấu trừ.
Giá thực tế = 200 + 0,5 = 198,5 (triệu đồng)
+ Nếu doanh nghiệp tính VAT theo phương pháp trực tiếp.
Giá thực tế = 220 +0,5 - 2,2 = 218,3 (triệu đồng)
b/ =( + Chi phí chế biến).
c/ = + +
d/ = giá trị vốn góp (do các bên thỏa mãn).
e/ Giá thực tế của vật liệu thu hồi là giá ước tính có thể sử dụng được.
f/ Giá vật liệu được tặng, thưởng là giá thực tế tính theo giá thị trường tương đương cộng chi phí liên quan đến tiếp nhận.
III. Xác định giá thực tế của nguyên vật liệu xuất kho.
- Khi xuất kho vật liệu cần sử dụng các chứng từ hóa đơn như: phiếu xin lĩnh vật tư, phiếu xuất kho, đơn đặt hàng sản xuất.
- Tuỳ theo đặc điểm hoạt động các doanh nghiệp, yêu cầu quản lý và trình độ kế toán có thể chọn một trong các phương pháp sau nhưng phải đảm bảo tính nhất quán trong hạch toán và nếu có thay đổi phải giải thích rõ ràng.
1. Phương pháp giá đơn vị bình quân.
Theo phương pháp này giá trị vật liệu xuất dùng trong thời kỳ được tính theo giá trị bình quân (bình quân cả kỳ dự trữ, bình quân, cuối kỳ trước, bình quân sau mỗi lần nhập).
= x
= + -
a/ Phương pháp bình quân cuối kỳ trước.
=
Phương pháp này mặc dầu khá đơn giản trong việc tính toán và phản ánh kịp thời tình hình biến động vật liệu trong kỳ nhưng lại không tính đến sự biến động của giá cả vật liệu trong kỳ. Kết quả vật tư tồn cuối kỳ phụ thuộc lớn vào đơn giá bình quân cuối kỳ trước. Nếu đơn giá này chênh lệch lớn so với giá trong kỳ thì sẽ không phản ánh được đúng giá trị tồn cuối kỳ.
Ví dụ: Tài liệu tại 1 doanh nghiệp vào tháng 2 - N về vật liệu X
Ngày tháng
Nội dung
Số lượng (m)
Đơn giá (1000đ)
Thành tiền (1000đ)
1-2-N
Tồn đầu kỳ
1.000
25
25.000
7-2-N
Mua nhập kho
1.600
25,225
40.360
28-2-N
Mua nhập kho
400
25
10.000
Tổng
3.000
75.360
Theo dõi xuất trong tháng:
Ngày 3-2-N: Xuất 600m để sản xuất sản phẩm.
Ngày 15-2-N: Xuất 500m để tiếp tục sản xuất.
Này 24: Xuất 1.100m cho sản xuất chi phí.
Yêu cầu tính giá vật liệu xuất kho.
- Theo phương pháp bình quân cuối kỳ trước.
Giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước là 25 (nghìn đồng).
Tổng giá trị xuất dùng: (600 + 500 + 1.100) x 25 = 55.000 (ng.đồng).
Tồn cuối kỳ: 75.360 - 55.000 = 20.360 (ng.đồng)
- Giả sử vật liệu X tồn đầu kỳ 1-2-N là 1000m, đơn giá 45 (ng.đồng) ta lại có kết quả:
Giá trị vật liệu xuất dùng: (600 + 500 + 1.100) x 45 = 99.000 (ng.đồng).
Giá trị vật liệu tồn: (10.000 x 45) + 40.360 + 10.000 = 99.000 = -3,64 (ng.đồng)
Do vậy nếu giá vật liệu trong kỳ giảm, giá bình quân cuối kỳ trước cao hơn giá thực nhập trong kỳ thì giá trị tồn kho là không đúng với giá thực tế (cụ thể khối lượng tồn là 800m nhưng giá trị tồn -3,64 (nghìn đồng).
b/ Phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ.
=
Cũng ví dụ trên ta có:
Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ: =25,12 (ng.đồng)
Giá trị vật liệu xuất dùng (600 + 500 + 1.100) x 25,12 = 55.264 (ng.đồng)
Bảng kê tính giá nhập xuất theo phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ
Ngày
Đơn giá
Nhập
Xuất
Tồn
Số lượng
Thành tiền
Số lượng
Thành tiền
Số lượng
Thành tiền
1-2
25
1.000
25.000
3-2
25,12
600
15.072
400
9.928
7-2
25,225
1.600
40.360
2.000
50.288
15-2
25,12
500
12.560
1.500
37.728
24-2
25,12
1.100
27.632
400
10.096
28-2
25
400
10.000
800
20.096
50.360
55.264
20.069
Phương pháp này giá để xác định vật tư xuất kho là giá của cả kỳ dự trữ nên cũng có tính đến biến dộng của giá nhưng mức độ chính xác không cao. Giá bình quân được tính khi tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Do vậy công việc tính toán dồn dập vào cuối tháng gây ảnh hưởng đến công tác quyết toán. Hơn nữa nếu doanh nghiệp có nhiều danh điểm vật liệu thì càng khó khăn và gây ảnh hưởng cho việc xác định chi phí vật liệu và giá thành.
Phương pháp này thường áp dụng trong điều kiện doanh nghiệp sử dụng phương pháp kiểm kê định kỳ để hạch toán vật liệu. Nếu doanh nghiệp sử dụng phương pháp kê khai thường xuyên thì thường tính giá theo phương pháp bình quân sau mỗi lần nhập.
c/ Phương pháp bình quân sau mỗi lần nhập.
=
Giá bình quân theo phương pháp này sẽ được tính mỗi khi có nhập vật tư vào kho và giá đó sẽ được dùng để tính giá vật liệu xuất kho cho đến khi nhập kho đợt tiếp theo. Sau mỗi lần xác định giá vật liệu xuất kho, kế toán tính lượng tồn để làm cơ sở tính giá bình quân của lần nhập tiếp theo.
Phương pháp giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập khắc phục được nhược điểm 2 phương pháp trên, vừa chính xác, vừa cập nhật vì nó phản ánh đúng giá trị vật tư mỗi lần nhập. Nhưng nhược điểm là tồn nhiều công sức, tính toán nhiều lần. Do vậy chỉ thích hợp với những đơn vị sử dụng máy vi tính.
Theo số liệu trên ta có:
- Giá đơn vị bình quân ngày 3 - 2: 25 (ng.đồng)
- Giá đơn vị bình quân sau ngày 7-2:
= 25,18 (ng.đồng).
- Giá đơn vị bình quân sau ngày 28-2:
= 25,09 (ng.đồng)
Bảng kê tính giá nhập - xuất như sau:
Đơn vị: 1000 đồng
Ngày
Nhập
Xuất
Tồn
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
1-2
1.000
25
25.000
3-2
600
25
15.000
400
25
10.000
7-2
1.600
25,225
40.360
2.000
25,18
50.360
15-2
500
25,18
12.590
1.500
25,18
37.770
24-2
1.100
25,18
27.698
400
25,18
10.072
28-2
400
25
10.000
500
25,09
20.072
50.360
55.288
20.072
2. Phương pháp nhập trước, xuất trước (Fifo)
Theo phương pháp này, giả thiết rằng số vật liệu nào nhập trước thì xuất trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số hàng xuất. Do vậy giá trị vật liệu tồn cuối kỳ sẽ là giá thực tế của vật liệu mua vào sau cùng. Phương pháp này thích hợp với những vật liệu qui định thời hạn bảo quản, giá cả ổn định hoặc có xu hướng giảm nhưng lại làm cho giá trị vật liệu xuất dùng không đúng với giá thị trường.
Theo ví dụ trên ta có bảng tính giá nhập xuất vật liệu:
Đơn vị: 1000đ
Ngày
Nhập
Xuât
Tồn
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
1-2
1.000
25
25.000
3-2
600
25
15.000
400
25
10.000
7-2
1.600
25,225
40.360
1.600
25,225
40.360
15-2
400
25
10.000
1.500
25,225
37.837,5
100
25,225
2522,5
24-2
1.100
25,225
27.747,5
400
25,225
10.090
28-2
400
25
10.000
500
25,225
10.090
50.360
55.270
20.090
Giá vật liệu xuất dùng: 55.270 (ng.đồng)
Tồn cuối kỳ: 20.090 (ng.đồng)
3. Phương pháp nhập sau xuất trước (Lifo).
Phương pháp này ngược với phương pháp Fifo, ở trên, giả định những vật liệu mua sau cùng sẽ được xuất trước tiên. Vì vậy giá của vật liệu xuất kho luôn ứng với giá lô vật liệu trên thị trường. Phương pháp nhập sau xuất trước phù hợp với trường hợp lạm phát và phù hợp với doanh nghiệp có ít danh điểm vật liệu, số lần nhập kho của mỗi danh điểm vật liệu không nhiều.
Bảng tính giá theo phương pháp nhập sau xuất trước
Đơn vị: 1000 đồng
Ngày
Nhập
Xuât
Tồn
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
1-2
1.000
25
25.000
3-2
600
25
15.000
400
25
10.000
7-2
1.600
25,225
40.360
400
25
10.000
1.600
25,225
40.360
15-2
500
25,225
12.612,5
1.100
25,225
27.747,5
400
25
10.000
24-2
1.100
25,225
27.747,5
400
25
10.000
28-2
400
25
10.000
800
25
20.000
50.360
55.360
20.000
Tổng vật liệu xuất dùng: 55.360 (ng.đồng)
Giá trị vật tư tồn: 20.000 (ng.đồng)
4. Phương pháp giá thực tế đích danh (phương pháp trực tiếp)
Nguyên tắc của phương pháp là nguyên vật liệu kho thuộc lô vật tư nào thì tính theo giá của lô vật tư đó. Theo phương pháp này vật liệu được xác định giá trị theo đơn chiếc hay lô và giữ nguyên từ lúc nhận vào cho đến lúc xuất dùng. Và thích hợp đối với những doanh nghiệp có điều kiện bao gồm riêng từng loại từng lô vật liệu nhập kho và vật liệu có giá trị lớn còn những doanh nghiệp có nhiều vật tư thì không thể áp dụng được.
Giả sử ở ví dụ trên trong số 800m vật liệu X tồn kho cuối kỳ bao gồm 500m chưa xuất dùng ở lô mua ngày 7-2 và 300m vật liệu chưa xuất dùng ở lô mua ngày 28. Ta có giá trị hàng tồn kho cuối kỳ.
Ngày 7: 500 x 25,225 = 12.612,5 (ng.đồng)
Ngày 28: 600 x 25 = 7.500 (ng.đồng)
Cộng 20.112,5 (ng.đồng)
Giá trị vật liệu xuất dùng: 75.300 - 20.112,5 = 55.247,5 (ng.đồng)
Với các phương pháp trên để tính giá thực tế của vật liệu xuất kho đòi hỏi phải xác định được lượng vật liệu xuất kho căn cứ vào chứng từ xuất. Trong thực tế có những doanh nghiệp có nhiều chủng loại vật liệu với qui cách, mẫu mã khác nhau và giá trị thấp, xuất dùng thường xuyên, doanh nghiệp không có điều kiện kiểm kê từng nghiệp vụ xuất do vậy việc tính giá được tiến hành theo phương pháp giá tồn kho cuối kỳ.
5. Phương pháp giá vật tư tồn kho cuối kỳ.
Việc tính giá được tiến hành cho số lượng vật liệu tồn kho thực tế cuối kỳ sau đó mới xác định được giá thực tế của vật liệu xuất trong kỳ.
= x
= + -
Với tài liệu trên:
Giá vật liệu tồn cuối kỳ: 800 x 25 = 20.000 (ng.đồng)
Giá vật liệu xuất dùng: 25.000 + 40.360 + 10.000 - 20.000 = 55.360
Phương pháp này thích hợp với doanh nghiệp tổ chức hạch toán vật liệu theo phương pháp kiểm kê định kỳ, công việc tính toán khá đơn giản song lại phụ thuộc nhiều vào giá nhập vật liệu lần cuối do đó tính chính xác không cao.
6. Phương pháp giá hạch toán.
Như đã trình bày ở trên (mục I - Phần II), cũng ví dụ trên giả sử giá hạch toán 25 (ng) ta có:
Hệ số giá:
25.000 + 40.360 + 10.000
1.000 x 25 + (1.600 + 400) x 25
= 1,0048
Bảng kê tính giá vật liệu theo phương pháp này là:
Chỉ tiêu
Hạch toán
Thực tế
I. Tồn đầu kỳ
25.000
25.000
II Nhập trong kỳ
50.000
50.360
Ngày 7-2
40.000
40.360
Ngày 28-2
10.000
10.000
III. Nhập cộng tồn
75.000
75.360
IV. Hệ số giá
1,0048
V. Xuất
55.000
55.264
VI. Tồn cuối kỳ
20.000
20.096
Giá trị vật tư xuất dùng thực tế là 55.264 (ng.đồng)
Giá trị tồn kho là 20.096 (ng.đồng)
Phương pháp này khá đơn giản nhưng dồn công việc kế toán vào cuối kỳ gây ảnh hưởng công việc quyết toán. Thực hiện phương pháp này phải kết hợp chặt chẽ hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp.
Bảng tổng hợp kết quả 6 phương pháp tính giá
Chỉ tiêu
Bình quân cuối kỳ trước
Bình quân cả kỳ dự trữ
Bình quân sau mỗi lần nhập
Fifo
Lifo
Giá thực tế đích danh
Giá vật tư tồn kho cuối kỳ
Giá hạch toán
1. Giá trị thực tế VL xuất
55.000
55.264
55.288
55.270
55.360
55.247,5
55.360
55.264
2. Giá trị VL tồn kho
20.360
20.096
20.072
20.090
20.000
20.112,5
20.000
20.096
Phần III
Một số nhận xét và kiến nghị
I. Đánh giá vật liệu nhập kho.
Trị giá nguyên vật liệu được đánh giá dựa trên những chi phí liên quan trực tiếp đến giá trị nguyên vật liệu. Hiện nay đối với doanh nghiệp thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ giá trị vật liệu mua vào là giá không bao gồm thuế GTGT đầu vào lên đối với doanh nghiệp thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, giá trị nguyên vật liệu là tổng giá thanh toán. Cách hạch toán trong đó thuế được khấu trừ tách riêng giúp kế toán phản ánh chính xác trị giá vật liệu nhập kho. Trường hợp doanh nghiệp áp dụng phương pháp trực tiếp thì khoản thuế được tính vào giá trị vật liệu mua vào coi như là một khoản chi phí (tương tự thuế xuất nhập khẩu). Điều này phù hợp với chuẩn mực kế toán hàng tồn kho, ở đó qui định giá gốc của hàng tồn kho bao gồm các thuế khác nhưng không bao giờ các khoản thuế mà doanh nghiệp được hoàn lại.
Hiện nay thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ là một cải tiến mới trong chế độ hiện hành giúp thuế không bị đánh trùng như thuê doanh thu cũng như tạo thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh khi không phải nộp thuế GTGT đầu ra cho một số mặt hàng trong khi lại được khấu trừ thuế GTGT đầu ra. Tuy nhiên, khi mua hàng, nhiều doanh nghiệp đã lập chứng từ giả nhằm khấu trừ khống thuế đầu vào gây thất thoát ngân sách nhà nước. Vì vậy Bộ tài chính cần có sự kiểm soát chặt chẽ về việc lưu hành các loại chứng từ. Ngoài ra một số doanh nghiệp áp dụng thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, các loại vật tư mua vào là không tránh khỏi, Nhà nước nên chăng khấu trừ một tỷ lệ nhất định cho loại vật tư này.
Trường hợp doanh nghiệp mua vật liệu theo phương thức trả chậm, nếu thanh toán tiền trước thời hạn thì sẽ được hưởng chiết khấu mua hàng. Trước đây triết khấu mua hàng trừ vào giá trị vật liệu mua, đây là một bấp cập vì người bán có thể tính lãi suất cho giá trị lô hàng đó và cộng vào giá bán. Theo chế độ hiện hành, Bộ tài chính đã sửa đổi bất cập này chỉ thị 120/1999/TTBTC xem khoản chiết khấu này là thu nhập hoạt động tài chính.
II. Đánh giá vật liệu xuất kho trong doanh nghiệp.
Trong một thị trường ổn định việc lựa chọn một phương pháp định giá nhập xuất nguyên vật liệu nói riêng và hàng tồn kho nói chung là không quan trọng lắm. Khi giá không đổi từ kỳ này sang kỳ khác thì tất cả các phương pháp đều cho cùng một kết quả. Tuy nhiên trong một thị trường không ổn định, giá cả lên xuống thất thường việc lựa chọn phương pháp tính giá là một vấn đề quan trọng. Để lựa chọn phương pháp tính giá vật liệu nhập xuất kho doanh nghiệp cần dựa vào ưu nhược điểm của từng phương pháp, dựa vào đặc điểm và loại hình kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng trước tiên doanh nghiệp cần chú ý xem xét đến sự biến động của giá cả. ở Việt Nam hệ thống kế toán có qui định các phương pháp tính giá thực tế hàng xuất kho bao gồm:
Phương pháp giá đích danh.
Phương pháp giá bình quân (bình quân đầu kỳ, bình quân cả kỳ dự trữ, bình quân sau mỗi lần nhập).
Phương pháp nhập trước xuất trước.
Phương pháp nhập sau xuất trước.
Phương pháp hệ số.
Thực tế hàng tồn kho nói chung, nguyên vật liệu nói riêng có những đặc trưng riêng biệt khó có thể phù hợp với việc áp dụng các phương pháp trên, vì vậy cần có qui định rõ ràng về hướng dẫn các phương pháp tính giá. Các doanh nghiệp cần xác định đúng mục tiêu của kỳ kinh doanh như cố gắng về tạo ra doanh thu phù hợp với chi phí, lợi nhuận cao nhất hay nghĩa vụ nộp thuế là ít nhất để lựa chọn phương pháp phù hợp.
Ngoài ra hệ thống kế toán Việt Nam còn qui định hai phương pháp kế toán hàng tồn kho là phương pháp kê khai thường xuyên và phương pháp kiểm kê định kỳ. Trong công tác tổ chức hạch toán nguyên vật liệu cũng sử dụng hai phương pháp này. Phương pháp kê khai thường xuyên cho ta thấy tình hình nhập xuất, tồn kho vật liệu trên sổ kế toán một cách liên tục. Còn phương pháp kiểm kê định kỳ chỉ căn cứ vào kế quả kiểm kê cuối kỳ phản ánh giá trị vật tư tồn cuối kỳ từ đó xác định giá trị vât tư xuất dùng. Hai phương pháp này mang tính quyết định đối với việc sử dụng phương pháp tính giá vật liệu xuất kho, có phương pháp chỉ phù hợp với phương pháp kê khai thường xuyên và có phương pháp chỉ thích hợp với kiểm kê định kỳ. Vì vậy doanh nghiệp nên căn cứ vào phương pháp hạch toán mà lựa chọn phương pháp tính giá.
1. Phương pháp bình quân.
Phương pháp này được xác định trên cơ sở bình quân hóa giá trị của tất cả các loại vật liệu, khi so sánh 2 kỳ với nhau ta chỉ thấy._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35014.doc