Phần mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu:
Công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn: trong thời kỳ 1991-1995 kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh bình quân 8,2% một năm. Do kinh tế phát triển đời sống của nhân dân đã đủ ăn và bước đầu có tích luỹ, số hộ nghèo giảm xuống.
Kinh tế thị trường, đã làm phảt sinh sự phân hóa giàu nghèo trong dân cư. "Tình trạng phân hóa giàu nghèo, chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn,
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1487 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số phương pháp thống kê để phân tích thu nhập & tiêu dùng của dân cư tỉnh Yên Bái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giữa các vùng nông thôn với nhau, giữa hộ giầu và hộ nghèo trong từng cộng đồng đang diễn ra khá rộng. Chúng ta thừa nhận tình trạng phát triển không đều đó, nhưng bản chất chế độ của chúng ta không cho phép để nó diễn ra tự phát và khoảng cách giữa giầu và nghèo ngày càng lớn, tạo nên sự đối lập giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội" [13 ; 5].
"Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, một trong những nước nghèo nhất thế giới, lại bị thiên tai thường xuyên và hậu quả nặng nề của chiến tranh kéo dài nên tình trạng nghèo đói nặng nề của nhân dân là khó tránh khỏi. Đại bộ phận số hộ nghèo đói tập trung ở nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa ... Sự phân tầng thu nhập, phân hóa giàu nghèo những năm qua diễn ra nhanh chóng và mức độ chênh lệch lớn" [19 ; 117].
Do đó nhiệm vụ cải thiện nâng cao đời sống của dân cư xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ vừa cấp thiết vừa lâu dài đối với tất cả các cấp, các ngành, các địa phương. Đời sống của dân cư gắn bó chặt chẽ với thu nhập và tiêu dùng của họ. Thu nhập là yếu tố quyết định tiêu dùng, quyết định mức sống và mức độ tích luỹ tài sản. Tiêu dùng của dân cư cũng tác động rất rõ đến thu nhập của họ.
Do đó nghiên cứu thu nhập và tiêu dùng của dân cư, đề ra các giải pháp để cải thiện đời sống nhân dân, thu hẹp sự phân hóa giàu nghèo, đảm bảo công bằng xã hội có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết.
Đối với tỉnh Yên Bái là tỉnh miền núi còn nghèo nàn lạc hậu, công cuộc xóa đói giảm nghèo lại càng trở nên cấp thiết cả trước mắt và lâu daì.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
1/ Khẳng định sự cần thiết và tác dụng của việc phân tích thu nhập và tiêu dùng của dân cư trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
2/ Xác định cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu thống kê thu nhập và tiêu cùng của dân cư.
3/ Lựa chọn phương pháp tiên tiến sử dụng nguồn số liệu ở địa phương tính toán các chỉ tiêu phản ánh thực trạng thu thập và tiêu dùng của dân cư Yên Bái, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm ổn định và nâng cao đời sống, tăng thu nhập và tiêu dùng, xóa đói giảm nghèo trong dân cư.
4/ Cách thu thập thông tin về thu nhập, tiêu dùng của dân cư.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề giải quyết các vấn đề đã nêu ra, đề tài sử dụng một số biện phương pháp thống kê truyền thống (số tương đối, số bình quân, các chỉ tiêu đo độ biến thiên, chỉ số, phân tổ ...) và một số phương pháp thống kê hiện đại (đường cong Loremz, hệ số Gini, hệ số Elteto - Frigyes v.v...).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án:
Đề tài nghiên cứu thu nhập và tiêu dùng của dân cư trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
5. Những đóng góp của luận án:
- Nghiên cứu hoàn thiện các khái niệm, phạm trù liên quan đến thu nhập và tiêu dùng của dân cư.
- Nghiên cứu xác định các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập và tiêu dùng của dân cư.
- Nghiên cứu mối quan hệ thu nhập - tiêu dùng và tích luỹ trong dân cư.
- Các giải pháp xóa đói giảm nghèo, các kiến nghị về nghiệp vụ thống kê trong phân tích thu nhập - tiêu dùng của dân cư.
6. Kết cấu của luận án:
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thu thập và tiêu dùng của dân cư.
Chương 2: Hệ thống chỉ tiêu thống kê và phương pháp phân tích thu nhập và tiêu dùng của dân cư.
Chương 3: Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích thu nhập và tiêu dùng của dân cư tỉnh Yên Bái thời kỳ 1991-1996.
Chương 1
Những vấn đề lý luận chung về thu nhập
và tiêu dùng của dân cư
1.1. Quan điểm về thu nhập của dân cư.
Thu nhập của dân cư là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động trợ cấp của Nhà nước trợ giúp của xã hội mà dân cư (hộ) nhận được trong một thời gian nhất định (thường là 1 tháng hoặc 1 năm). Mức sống của dân cư cao hay thấp, sự phân hóa giàu nghèo, chênh lệch giữa hộ giầu và hộ nghèo phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quan trọng nhất là mức thu nhập của dân cư (từng hộ, từng lao động, hoặc từng nhân khẩu). Thu nhập là yếu tố quyết định đến quy mô và cơ cấu tiêu dùng - Thu nhập là yếu tố quyết định đến quy mô và cơ cấu tiêu dùng - Để đánh giá và phân tích thu nhập của dân cư, chúng ta cần xem xét một số khái niệm sau.
1.1.1. Tổng thu của dân cư:
Tổng thu của dân cư là biểu hiện bằng tiền của các kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh các ngành nghề, dịch vụ, do lao động của họ đem lại. Và các khoản thu từ Nhà nước, từ các tổ chức kinh tế xã hội, mà dân cư nhận được trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một tháng hoặc một năm).
Tổng thu của dân cư bao gồm các khoản sau đây:
- Thu do hoạt động sản xuất kinh doanh ngành nghề, dịch vụ.
- Thu về tiền công tiền lương.
- Thu về hoạt động tài chính lãi gửi tiền tiết kiệm, lãi mua cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu ...
- Thu do cho thuê tài sản.
- Thu do nhận được các khoản tài trợ, phụ cấp từ Nhà nước (hưu trí, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động, học bổng, trợ cấp gia đình chính sách) trợ giúp của dự án ...
- Thu do nhận được các khoản trợ giúp của các tổ chức xã hội (chữ thập đỏ, các tổ chức ttừ thiện ...), được tặng, biếu ...
Chỉ tiêu tổng thu nhưu xem xét trên đây trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính là tổng giá trị sản xuất (GO), bao gồm cả chi phí sản xuất, thuế và các chi phí khác. Tổng thu của dân cư là chỉ tiêu cơ bản đầu tiên làm cơ sở để tính tổng thu nhập của dân cư.
(Như vậy có các khoản thu của dân cư ngoài những khoản trên đây không được tính vào tổng thu của dân cư, thí dụ: khoản vay ngân hàng, thu do bán tài sản, thu do rút tiềt kiệm, thu do đòi được nợ ...).
1.1.2. Tổng thu nhập của dân cư:
Tổng thu nhập của dân cư là phần còn lại sau khi lấy tổng thu của dân cư trừ đi tổng chi phí sản xuất, kinh doanh.
Tổng thu nhập của dân cư
=
Tổng thu của dân cư
-
Tổng chi phí vật chất và dịch vụ
sử dụng cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của dân cư
Trong tổng thu nhập của toàn thể dân cư phần thu nhập do sản xuất kinh doanh đem lại thường chiếm phần lớn nhất. Vì thế có thể coi chỉ tiêu tổng thu nhập tổng thu nhập của dân cư là một trong những chỉ tiêu tổng hợp đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi nó không chỉ phụ thuộc vào tổng thu của dân cư mà còn phụ thuộc vào chi phí sản xuất kinh doanh. Xét trường hợp đơn giản nhất, nếu tổng thu của dân cư là cố định, chi phí sản xuất càng thấp thì tổng thu nhập của dân cư càng cao và ngược lại chi phí sản xuất càng cao thì tổng thu nhập của dân cư càng thấp.
Tổng thu nhập của dân cư càng cao phản ánh sản xuất kinh doanh của dân cư phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Tổng thu nhập của dân cư phản ảnh hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình đốn thua lỗ.
Như vậy, tổng thu nhập của dân cư là chỉ tiêu có ý nghĩa lớn khi nghiên cứu kinh tế dân cư.
1.1.3. Thu nhập cuối cùng của dân cư (thu nhập danh nghĩa).
Thu nhập cuối cùng của dân cư là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện bằng tiền của tổng thu sau khi trừ đi chi phí sản xuất, trừ đi các khoản nộp vào quỹ phân phối lại và cộng các khoản nhận được từ phân phối lại.
Trước khi đem tổng thu nhập ra chi dùng dân cư còn phải thanh toán các khoản thuế (trực thu) mua bảo hiểm và các khoản đóng gói khác (đoàn thể phí, đóng gói xã hội ...) mà người dân thực hiện theo nghĩa vụ. Họ cũng nhận được các khoản phân phối lại (như bồi thường bảo hiểm).
Thu nhập cuối cùng của dân cư là kết quả của quá trình phân phối và phân phối lại GDP, nói cách khác thu nhập cuối cùng của dân cư tương ứng với giá trị những của cải vật chất mà dân cư đã tiêu dùng và tích luỹ.
Thu nhập cuối cùng của dân cư cho phép đánh giá các khoản thu mà dân cư được sử dụng (thu nhập khả dụng) cho các nhu cầu của họ. Song việc sử dụng thu nhập cuối cùng của dân cư còn chịu ảnh hưởng
của biến động giá cả. Việc loại trừ ảnh hưởng của giá cả đến thu nhập cuối cùng của dân cư dẫn đến chỉ tiêu thu nhập thực tế của dân cư.
1.1.4. Thu nhập thực tế của dân cư:
Thu nhập cuối cùng của dân cư không phản ánh chính xác mức thu nhập của dân cư nếu không tính đến ảnh hưởng biến động của giá cả hàng hóa và dịch vụ (sức mua của đồng tiền) bởi vì giữa các vùng khác nhau, giữa các thời kỳ khác nhau, sức mua của đồng tiền là khác nhau. Vì vậy thu nhập cuối cùng của dân cư cần phải tính theo giá so sánh. Thu nhập cuối cùng của dân cư sau khi loại trừ ảnh hưởng giá tiêu dùng được gọi là thu nhập thực tế của dân cư.
(1)
=
Thu thập thực tế
Thu thập cuối cùng
(1')
của dân cư
chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
= Thu nhập cuối cùng x Ism
(Ism : chỉ số sức mua)
Thu nhập thực tế của dân cư cho phép chúng ta so sánh phân tích biến động của thu nhập của dân cư một địa phương qua các thời kỳ khác nhau, giữa các địa phương khác nhau trong cùng một thời kỳ và trong các thời kỳ khác nhau.
1.2. Quan điểm về bình đẳng trong thu nhập.
Thu nhập được hình thành trong quá trình phân phối, chịu sự tác động của hai yếu tố là kết quả sản xuất và phương thức phân phối thu nhập. Kết quả sản xuất quyết định khối lượng thu nhập nhiều hay ít. Phương thức phân phối thu nhập quyết định việc phân chia thu nhập cho từng ngành kinh tế, từng địa phương, từng cá nhân như thế nào. Phương thức phân phối phụ thuộc vào chính sách kinh tế, bản chất xã hội.
Thu nhập được phân phối bình đẳng, tức là những người có cống hiến như nhau được nhận thu nhập như nhau, những người có cống hiến khác nhau được nhận thu nhập khác nhau.
Phân phối thu nhập bình quân là phân phối thu nhập cho những người có cống hiến khác nhau nhưng lại nhận được thu nhập như nhau. Rõ ràng bình đẳng và bình quân là hoàn toàn khác nhau.
Cống hiến trong cả hai trường hợp được hiểu là cống hiến cho sản xuất, tức là sự đóng góp về số lượng, chất lượng lao động, về phương tiện sản xuất và về vốn.
Nếu chỉ xét thuần tuý phân phối thu nhập theo lao động thì vấn đề bình đẳng trong phân phối thu nhập được đặt ra theo hai góc độ sau đây: bình đẳng theo chiều dọc và bình đẳng theo chiều ngang.
1.2.1. Bình đẳng theo chiều dọc:
Bình đẳng theo chiều dọc có nghĩa là với trình độ chuyên môn khác nhau, chức năng và nhiệm vụ khác nhau, phải có mức thu nhập khác nhau.
Bình đẳng theo chiều dọc là đòi hỏi tất yếu khách quan, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Công bằng theo chiều dọc nếu được thực hiện tốt sẽ kích thích mọi người nâng cao trình độ, nâng cao tay nghề, nâng cao kỹ năng sản xuất, là động lực khuyến khích sản xuất phát triển. Sự vi phạm bình đẳng theo chiều dọc sẽ có tác dụng ngược lại, kìm hãm sự vươn lên của từng người.
1.2.2. Bình đẳng theo chiều ngang:
Có nghĩa là những người có trình độ tay nghề như nhau, cùng bỏ ra cường độ lao động như nhau, cùng làm một công việc đòi hỏi trình độ kỹ thuật như nhau, dù làm trong lĩnh vực nào cũng phải có thu nhập như nhau.
Bảo đảm bình đẳng theo chiều ngang là điều kiện để sử dụng lao động một cách ổn định. Nếu bình đẳng theo chiều ngang bị vi phạm, thì nơi có thu nhập cao sẽ thu hút số lao động tập trung rất lớn, gây khó khăn cho các mặt liên quan của đời sống xã hội. Ngược lại nơi có thu nhập thấp sẽ rất thiếu nhân lực (cả về số lượng và chất lượng) cho các nhu cầu sử dụng lao động ở mức bình đẳng.
Kết hợp một cách hài hòa bảo đảm cả hai mặt bình đẳng theo chiều dọc và bình đẳng theo chiều ngang là yếu tố cơ bản bảo đảm bình đẳng trong phân phối thu nhập, là nhân tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội.
Trong thực tế, việc bảo đảm bình đẳng trong phân phối thu nhập (theo lao động) được thể hiện qua các chính sách về thuế, tiền lương, trợ cấp, phụ cấp cho các vùng khó khăn, xa xôi, hẻo lánh và các ngành nghề được ưu đãi.
1.3. Quan điểm về tiêu dùng của dân cư.
Mức sống của dân cư không chỉ chịu sự chi phối có tính quyết định của thu nhập của họ mà còn phải được thể hiện ở mức tiêu dùng cho đời sống của họ.
Theo nghĩa rộng tiêu dùng là sử dụng các sản phẩm vật chất và dịch vụ vào quá trình sản xuất, hoặc vào đời sống hàng ngày của từng hộ gia đình và chung cho toàn xã hội.
Theo SNA (hệ thống tài khoản quốc gia) tiêu dùng của dân cư là tiêu dùng cuối cùng, các sản phẩm vật chất và dịch vụ dùng vào tiêu dùng sẽ tiêu phí đi trong quá trình sử dụng ("mất đi" trong quá trình sử dụng). Cũng theo SNA, tiêu dùng cho sản xuất là tiêu dùng trung gian, các sản phẩm vật chất và dịch vụ không "mất đi" mà được chuyển vào các sản phẩm dịch vụ được sản xuất ra. Về thực chất, tiêu dùng trung gian là chi phí sản xuất, là đối tượng nghiên cứu của quản trị kinh doanh.
Xét từ góc độ tài chính, tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình dân cư là khoản chi tiền mua hàng hóa dịch vụ để tiêu dùng, trong tiền mua hàng hóa dịch vụ đó có cả thuế doanh thu trả gộp (thuế gián thu). Tiêu dùng cuối cùng của dân cư còn bao gồm giá trị những sản phẩm và dịch vụ dân cư tự sản xuất và tiêu dùng (thí dụ nông sản thóc lúa, vải, thịt lợn, trâu, bò v.v...) kể cả dịch vụ nhà ở, mà nhà ở đó đang thuộc sở hữu của dân cư và giá trị quy ra tiền những hàng hóa dịch vụ được cấp, được cho (không phải trả tiền).
Tiêu dùng cuối cùng không bao gồm thuế thu nhập, các loại thuế trực thu khác, các khoản đóng góp, các khoản chuyển nhượng vốn.
Tiêu dùng của dân cư xét dưới hình thái vật chất, là việc dân cư sử dụng những sản phẩm và dịch vụ cho nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh, giải trí, các dịch vụ cần thiết khác cho đời sống vật chất và văn hóa thường ngày.
Trong thống kê kinh tế, tiêu dùng của dân cư là biểu hiện tổng hợp bằng tiền, của các vật phẩm vật chất và dịch vụ mà dân cư tiêu dùng cho đời sống hàng ngày (có thể thống kê được). Như thế, chỉ các vật phẩm và dịch vụ đem chi dùng cho đời sống dân cư có thể tính được bằng tiền mới được nghiên cứu dưới góc độ kinh tế, còn các vật phẩm hoặc dịch vụ không thể tính được bằng tiền không thuộc phạm vi nghiên cứu.
Xét về nguồn của tiêu dùng của dân cư, chúng được thanh toán (chi trả) bằng hai nguồn: một là của bản thân dân cư tự trang trải bằng thu nhập của mình (phần này chiếm gần như hầu hết trong tiêu dùng) và hai là của Nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân tài trợ, dân cư không phải trả tiền.
Chúng ta nghiên cứu thêm hai vấn đề sau đây:
- Một là: tiêu dùng của dân cư chỉ trình cho những sản phẩm, dịch vụ thực sự được chi dùng, không bao gồm phần bị mất mát, hao hụt (do thiên tai lũ lụt, hỏa hoạn ...) và chi pháp luật cấm, ma tuý, mại dâm ...
- Hai là: tiêu dùng của dân cư và chi tiêu của dân cư là hai chỉ tiêu khá gần gũi với nhau nhưng không thể đồng nhất. Hai chỉ tiêu này giống nhau ở chỗ chúng đều là những khoản chi của dân cư (bằng tiền và hiện vật quy tiền). Chỗ khác nhau của chúng là ở phạm vi. Tiêu dùng của dân cư chỉ bao gồm những khoản chi cho nhu cầu đời sống vật chất và văn hóa. Còn chi tiêu của dân cư ngoài các khoản chi cho tiêu dùng cho đời sống còn có rất nhiều khoản chi khác như chi cho sản xuất, cho vay mượn, để dành (giữ tiết kiệm) v.v... Ngoài ra có những khoản dân cư không phải chi tiêu nhưng lại được tính vào tiêu dùng, đó là khoản dân cư được cấp, được cho để tiêu dùng mà không phải trả tiền.
Tiêu dùng của dân cư gồm các khoản sau:
- Chi tiền mặt để mua hàng hóa và dịch vụ cho đời sống hàng ngày.
- Chi dùng các sản phẩm, dịch vụ tự sản xuất, kể cả tiêu dùng nhà ở của dân cư đang sở hữu.
- Giá trị những vật phẩm, dịch vụ mà dân cư được tài trợ, được cho (không phải trả tiền) dùng cho đời sống.
Trong 4 giai đoạn của quá trình sản xuất: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng, tiêu dùng là khâu cuối cùng nhưng lại giữ vị trí hết sức quan trọng. Tiêu dùng và sản xuất là hai mặt đối lập của một thể thống nhất. Tiêu dùng là mục đích của sản xuất. Tiêu dùng làm cho quá trình sản xuất diễn ra thông suốt, liên tục không ngừng, và chính tiêu dùng nêu lên các yêu cầu, đề ra các nhu cầu để sản xuất phát triển. Vai trò của tiêu dùng do đó không phải là thụ động mà là tích cực. Đối với từng cá nhân, thì để có tiêu dùng với số lượng nhiều hơn; với chất lượng tốt hơn, có mức tiêu dùng cao hơn thì phải có thu nhập cao hơn, nhiều hơn mức cũ. Động cơ mong muốn nâng cao thu nhập kích thích cá nhân nâng cao trình độ, năng lực, tay nghề, kỹ năng sản xuất kinh doanh v.v..., do đó làm cho chất lượng đội ngũ lao động xã hội được nâng lên.
Tiêu dùng của dân cư trong một thời kỳ ngắn có tính ổn định tương đối, song xét trong một thời kỳ dài, nó luôn biến động, thường có xu hướng tăng lên. Sự vận động theo hướng tăng lên của tiêu dùng là sự vận động cùng chiều với sự tăng lên của lực lượng sản xuất. Giới hạn của sự vận động của tiêu dùng của dân cư được quy định một cách khách quan bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tiêu dùng cho đời sống của dân cư thực chất là quá trình tái sản xuất sức lao động cho bản thân người lao động, cho gia đình họ, bao gồm cả quá trình đào tạo kỹ năng lao động cho thế hệ kế tiếp. Tiêu dùng củ dân cư cho đời sống trên ý nghĩa đó là sự tiếp tục không ngừng của chu trình sản xuất xã hội.
1.4. Quan điểm về giàu nghèo.
Vấn đề giàu nghèo luôn gắn trực tiếp với việc nghiên cứu thu nhập và tiêu dùng của dân cư, bởi vì biểu hiện của giàu nghèo là ở mức độ cao thấp của thu nhập và tiêu dùng của dân cư.
Giàu nghèo là vấn đề được quan tâm khá nhiều ở các quốc gia khác nhau, dù là nước lạc hậu, kém phát triển kinh tế đến những nước siêu cường về kinh tế; tất nhiên là với mức độ quan tâm không giống nhau.
1.4.1. Khái niệm về giàu nghèo.
Giàu nghèo là khái niệm tương đối, biểu hiện mối tương quan về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư trong từng thời gian và không gian cụ thể.
Thế nào là nghèo và có thể định ra được ranh giới để xác định được một hộ ở tình trạng nghèo hay không nghèo hay không ? Trong những năm 60 và gần đây, ESCAP cho rằng có nghèo khổ tuyệt đối và nghèo khổ tương đối.
1.4.2. Theo ESCAP, nghèo khổ tuyệt đối có nghĩa là thu nhập thực tế của hộ không đảm bảo đủ cho hộ được hưởng những cái mà xã hội cho phép họ được hưởng ở mức tối thiểu để duy trì được tái sản xuất sức lao động như ăn uống, học tập, ở, vui chơi giải trí, chữa bệnh v.v... Nghèo đói tuyệt đối còn bao gồm các hiện tượng như suy dinh dưỡng, thiếu ăn hoặc chết đói, hoặc phải lao động cực nhọc.
Nghèo khổ tuyệt đối như vậy gắn liền với mức tiêu dùng của dân cư. Việc đo lường nghèo đói tuyệt đối là việc làm hết sức phức tạp, để xác định ranh giới nghèo khổ tuyệt đối phải lấy một mức tiêu dùng cơ bản tối thiểu làm chuẩn so sánh, nếu tiêu dùng của hộ dân cư nào từ chuẩn đó trở xuống là thuộc loại nghèo khổ, mức tiêu dùng ở trên mức chuẩn đó là không thuộc loại nghèo khổ.
Trong thời gian gần đây, một số nước ở châu á lấy mức tiêu dùng cơ bản tối thiểu là khẩu phần ăn duy trì của một người trong 1ngày làm chuẩn ranh giới, như Bakixtan lấy mức 2.100 colo, ấn Độ lấy mức 2.2500 calo v.v... ở Việt Nam, năm 1993 trong cuộc điều tra giàu nghèo, Tổng cục Thống kê sử dụng mức nghèo khổ là: 2.100 calo. Trong thực tế, việc điều tra về mức tiêu dùng tối thiếu đó được quy về thu thập, và như vậy mức nghèo khổ được sử dụng thực tế là: mức thu thập đảm bảo mua được một lượng lương thực, thực phẩm đủ khẩu phần ăn duy trì với lượng calo tiêu dùng một người 1 ngày là 2.100 ca lo. [16 ; 132].
Mức nghèo khổ là số tuyệt đối nên khi nền kinh tế tăng trưởng khá thu nhập của dân cư tăng lên, số hộ nghèo khổ tuyệt đối có thể giảm xuống rất nhiều khi nền kinh tế tăng trưởng cao và liên tục, thu nhập của dân cư tăng lên cao, có thể không còn hộ nghèo khổ tuyệt đối.
1.4.3. Nghèo khổ tương đối:
Nghèo khổ tương đối thể hiện ở sự bất bình đẳng trong thu nhập. Thu nhập của người nghèo khổ tương đối là thấp hơn mức thu nhập trung bình trong cộng đồng.
Sự chênh lệch về thu nhập của các tầng lớp dân cư trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu. Ngay cả khi đến giai đoạn kinh tế phát triển cao, ổn định thì sự chênh lệch về thu nhập của dân cư không thể tự tiêu biến đi, mà chỉ có thể là khoảng biên độ chênh lệch được thu hẹp lại. Tuy nhiên số người có thu nhập dưới mức trung bình trong cộng đồng thì luôn tồn tại, cũng tức là nghèo khổ tương đối còn tồn tại trong một thời kỳ rất dài nữa của lịch sử.
Đối lập với nghèo khổ là giàu có. Các hộ dân cư giàu có là những hộ có thu nhập ở mức cao, ổn định, có mức tiêu dùng cao, và có tích luỹ.
Chúng tôi cũng tán thành ý kiến của một số tác giả là giàu có nên hiểu theo hai khái niệm tương tự như nghèo khổ: đó là giàu có tuyệt đối và giàu có tương đối.
1.4.4. Giàu có tuyệt đối là hiện tượng một bộ phận dân cư có thu nhập rất cao, ổn định, có mức tiêu dùng cao, đồng thời có tích luỹ lớn bằng tiền và tài sản. Ranh giới mức thu nhập rất cao có thể lấy mức thu nhập của người phải nộp thuế thu nhập thường xuyên ở nước ta hiện nay (theo Luật thuế thu nhập) là 2 triệu đồng/ tháng làm ranh giới.
1.4.5. Cũng tương tự như nghèo khổ tương đối, giàu có tương đối thể hiện ở thu nhập của người giàu có tương đối, giàu có tương đối thể hiện ở mức thu nhập của người giàu cao hơn mức thu nhập trung bình trong cộng đồng.
1.5. Quan hệ giữa thu nhập với tiêu dùng, tích luỹ với tiêu dùng.
Giữa thu nhập và tiêu dùng, tiêu dùng và tích luỹ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, vận dụng xử lý tốt các mối quan hệ này là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc nâng cao mức sống dân cư.
1.5.1. Trong quan hệ giữa thu nhập và tiêu dùng của dân cư, thu nhập giữ vai trò quyết định chi phí tiêu dùng.
Mức tiêu dùng cao hay thấp do mức thu nhập quy định một cách khách quan, người ta không thể thường xuyên tiêu dùng vượt quá mức thu nhập được.
Số lượng, chất lượng sản phẩm tiêu dùng, cơ cấu chủng loại của sản phẩm tiêu dùng của dân cư tuỳ thuộc mức thu nhập cao hay thấp của hộ dân cư. Nếu thu nhập ở mức thấp (từ đường ranh giới nghèo trở xuống) sản phẩm tiêu dùng chỉ có thể là lương thực thực phẩm để duy trì đời sống. Nếu mức thu nhập cao hơn (từ đường ranh giới nghèo trở lên) thì ngoài nhu cầu tốt cần thiết là ăn, nhu cầu mặc mới có thể từng bước được đáp ứng. Sau khi thu nhập vượt qua việc đáp ứng nhu cầu mặc, các nhu cầu khác như nhà ở, chăm sóc sức khoẻ, học tập, vui chơi giải trí ... dần dần được đáp ứng.
Nếu như thu nhập giữ vai trò quyết định đối với tiêu dùng thì ngược lại tiêu dùng cũng có tác dụng mạnh mẽ đến thu nhập. Tiêu dùng của dân cư về thực chất là tái sản xuất sức lao động, nếu sức lao động được tái sản xuất có số lượng và chất lượng kém sẽ kéo theo thu nhập giảm sút, còn nếu sức lao động được tái sản xuất có số lượng và chất lượng cao sẽ tác động mạnh mẽ tới sự thúc đẩy tăng thu nhập của dân cư.
Các hộ nghèo khổ, mức tiêu dùng chỉ đảm bảo được khẩu phần ăn duy trì, biểu hiện của tình trạng đó là suy dinh dưỡng, sức khoẻ yếu, học vấn thấp kém, kỹ năng lao động, kinh nghiệm sản xuất hầu như không có, họ chỉ có thể làm được những việc đơn giản với thu nhập thấp. Đó là vòng luẩn quẩn sau đây:
Sơ đồ 1
Thu nhập thấp Tiêu dùng thấp kém
Năng suất Nghề nghiệp
động thấp đơn giản
Vượt qua được mức tiêu dùng thấp kém, nhu cầu ăn uống chăm sóc sức khoẻ được thỏa mãn tương đối đầy đủ (ăn đủ no, mặc đủ ấm, ốm đau có thuốc men, có nhà ở) thể lực được nâng lên. Cùng với thể lực được nâng lên, việc học tập (học vấn, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh ...) và đào tạo kỹ năng nghề nghiệp đem lại trình độ lao động hơn hẳn lao động giản đơn ở mức tinh thông nghề nghiệp, tay nghề cao, kỹ năng kỹ xảo điêu luyện, có khả năng sáng tạo. Với sức lao động có trình độ như vậy, là đảm bảo cho một thu nhập cao.
Vì vậy để phá vỡ, thoát khỏi vòng luẩn quẩn nêu trên, cần phải tạo một đột phá về thu nhập, về tiêu dùng cho các hộ nghèo để họ có thể tự vươn lên vượt ra khỏi vòng luẩn quẩn bế tắc của nghèo khổ. Việc tạo ra đột phá đó có thể tự bản thân người nghèo khổ vươn lên, song phần lớn cần có sự trợ giúp một cách có tổ chức của Nhà nước và cộng đồng xã hội dân cư.
1.5.2. Tiêu dùng và tích luỹ:
Thu nhập của dân cư được chi dùng cho hai mục tiêu chủ yếu là tiêu dùng va tích luỹ. Tiêu dùng của dân cư có xu hướng không ngừng nâng cao do nhu cầu đời sống luôn theo sát sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng để có thu nhập cao hơn thì phải phát triển sản xuất, do đó cần phải tăng đầu tư cho sản xuất. Nguồn để tăng đầu tư cho sản xuất chủ yếu là từ tích luỹ. Nếu phần tiêu dùng nhiều lên thì tích luỹ ít đi, nếu thu nhập và tiêu dùng bằng nhau thì không có tích luỹ, nếu tiêu dùng ít đi thì tích luỹ nhiều lên. Như vậy quan hệ giữa tiêu dùng và tích luỹ là quan hệ phụ thuộc ngược chiều nhau. Bởi vì để sống, người ta phải không ngừng tiêu dùng, nên trong quan hệ này, tiêu dùng có vai trò lớn trong việc phân phối thu nhập thành tích luỹ và tiêu dùng.
Chương 2
Hệ thống chỉ tiêu thống kê và phương pháp
phân tích thu nhập tiêu dùng của dân cư
2.1. Sự cần thiết xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê thu nhập và tiêu dùng của dân cư.
Thu nhập và tiêu dùng của dân cư luôn biến động theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, theo thời gian và không gian, liên quan phụ thuộc nhiều yếu tố, có ảnh hưởng qua lại với nhiều vấn đề kinh tế, xã hội khác nhau, là kết quả của các chính sách kinh tế, xã hội của Đảng, Nhà nước. Để nghiên cứu thu nhập và tiêu dùng của dân cư nhất thiết phải xây dựng và hoàn thiện từng bước hệ thống chỉ tiêu thống kê để đo lường, tính toán và phân tích chúng.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê được xây dựng phải đảm bảo có tính hệ thống, đồng bộ (có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau để trở thành một chính thể) và tính toán việc (đầy đủ) để thông tin cần thiết cho yêu cầu lãnh đạo và quản lý của các cấp, các ngành.
2.1.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê thu nhập và tiêu dùng của dân cư.
Để xây dựng các chỉ tiêu thống kê thu nhập và tiêu dùng của dân cư có tính hệ thống và tính toàn diện cần dựa vào các căn cứ và các yêu cầu sau:
2.1.1.1. Những căn cứ xây dựng hệ thống chỉ tiêu:
- Hệ thống chỉ tiêu thông kê phải có nội dung phù hợp với các khái niệm về thu nhập và tiêu dùng của dân cư tức là phải xuất phát từ lý luận về thu nhập và tiêu dùng của dân cư và từ các mối quan hệ chủ yếu của chúng.
- Phải đảm bảo tính khả thi: hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo có thể thu thập tính toán được trong điều kiện hiện tại về tài chính, nhân lực và hoàn thiện từng bước khi điều kiện tài chính và nhân lực cho phép có thể đáp ứng tốt hơn.
- Hệ thống chỉ tiêu được xây dựng phải chú ý đến tính chất và đặc điểm của thu nhập và tiêu dùng, đó là tính chất phức tạp về mặt xã hội của chúng (khái niệm có tính tương đối, xã hội có nhiều tầng lớp dân cư, thu thập số liệu khó khăn ...) và các đặc điểm của chúng như: luôn gắn liền với các vấn đề biến động giá cả, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ...
- Hệ thống chỉ tiêu phải xuất phát từ mục đích nghiên cứu là đánh giá thực trạng và các quan hệ của thu nhập tiêu dùng của dân cư.
2.1.1.2. Những yêu cầu trong xây dựng hệ thống chỉ tiêu.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thu nhập và tiêu dùng của dân cư phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
- Phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung, về phương pháp tính toán và phạm vi tính toán. Đây là yêu cầu cơ bản nhằm làm cho các chỉ tiêu là đồng nhất theo không gian, theo thời gian khác nhau. Bởi vì chỉ một trong ba mặt trên bị vi phạm, các chỉ tiêu được xây dựng sẽ không đảm bảo dược sự đồng nhất của chúng.
- Đảm bảo tính so sánh được của các chỉ tiêu trong hệ thống, yêu cầu của tính so sánh là yêu cầu tất yếu của việc phân tích nói chung và nghiên cứu phân tích thống kê nói riêng. Yêu cầu đảm bảo tính so sánh được chính là bước tiếp theo của yêu cầu đảm bảo sự thống nhất về nội dung, phương pháp và phạm vi tính toán.
Nếu các chỉ tiêu trong hệ thống không đảm bảo tính so sánh được thì việc nghiên cứu phân tích chung là không thể thực hiện được.
2.2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê thu nhập và tiêu dùng.
2.2.1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê về thu nhập.
Từ các khái niệm về thu nhập của dân cư đã nghiên cứu: tổng thu nhập thuần tuý, thu nhập cuối cùng, thu nhập thực tế của dân cư và qua khảo sát thực tế thu thập thông tin về thu nhập và tiêu dùng của dân cư hiện nay chủ yếu là điều tra chọn mẫu các hộ dân cư, xuất phát từ đặc điểm của thu nhập của dân cư: đó là thành quả hoạt động kinh tế của dân cư sau một thời kỳ nhất định (mùa vụ tỏng nông nghiệp, chu kỳ sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, lĩnh lương tháng ...) nên các chỉ tiêu về thu nhập là chỉ tiêu thời kỳ. Để đảm bảo tính đồng nhất, các chỉ tiêu và dân cư cũng phải là chỉ tiêu thời kỳ (dân số bình quân, số hộ bình quân...). Phạm vi tính toán các chỉ tiêu thu nhập về lãnh thổ (vùng, tỉnh, huyện...) phải đảm bảo thống nhất cho cả chỉ tiêu thu nhập và chỉ tiêu về dân cư.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê về thu nhập có các nhóm chỉ tiêu sau đây:
- Nhóm chỉ tiêu về quy mô thu nhập.
- Nhóm chỉ tiêu về thu nhập bình quân.
- Nhóm chỉ tiêu về kết cấu thu nhập.
2.2.1.1. Nhóm các chỉ tiêu về quy mô thu nhập:
Quy mô thu nhập của tổng thể dân cư được phản ảnh bằng các chỉ tiêu:
- Tổng thu của dân cư.
- Tổng thu nhập của dân cư.
- Thu nhập cuối cùng của dân cư.
- Thu nhập thực tế của dân cư.
Bốn chỉ tiêu này tuỳ theo mục đích nghiên cứu có thể phân theo lãnh thổ và tời kỳ khác nhau.
2.2.1.2. Các chỉ tiêu thu nhập bình quân:
Các chỉ tiêu về thu nhập bình quân là loại số tương đối cường độ biểu hiện hai loại chỉ tiêu thống kê các loại nhưng có quan hệ với nhau. Việc kết hợp quy mô thu nhập, của tổng thể dân cư với chỉ tiêu về số lượng dân cư bình quân.
Công thức chung là:
Chỉ tiêu thu nhập
Chỉ tiêu về thu nhập
(2)
=
=
bình quân
Chỉ tiêu về dân cư bình quân
Chỉ tiêu về số lượng dân cư lấy theo ba tiêu thức chính là: hộ, nhân khẩu và lao động. Nhóm chỉ tiêu việc thu nhập bình quân như sơ đồ số 2 sau đây:
Sơ đồ 2
C.tiêu T. nhập
CT SL D. cư BQ
Tổng thu
(TT)
Tổng thu nhập
(TTN)
Thu nhập cuối cùng (TNCC)
T. nhập thực tế (TNTT)
Số dân bình quân
Số hộ bình quân
Số lao động bình quân
Chỉ tiêu thu nhập bình quân theo nhân khẩu phản ảnh thu nhập để đảm bảo tiêu dùng cho dân cư không phụ thuộc quy mô hộ.
Chỉ tiêu thu nhập bình quân hộ phản ảnh mức thu nhập đảm bảo tiêu dùng của hộ.
Chỉ tiêu thu nhập bình quân lao động phản ảnh một lao động làm ra được bao nhiêu thu nhập
2.2.1.3. Nhóm chỉ tiêu về kết cấu thu nhập:
Chỉ tiêu kết cấu thu nhập là loại số tương đối kết cấu biểu hiện quan hệ so sánh giữa mức độ của từng bộ phận của tổng thể thu nhập với tổng thu nhập của dân cư.
Công thức chung là:
(3)
=
Cơ cấu (kết cấu
Thu nhập của bộ phận A
thu nhập
Tổng._. thu nhập của dân cư
Tổng thu nhập là bất biến (xét trong một khoảng thời gian 1 tháng, 1 năm). Thu nhập bộ phân A là khả biến, nó phụ thuộc vào cách phân loại: phân theo ngành kinh tế quốc dân, phân theo nguồn thu nhập (tiền lương, tiền công, sản xuất kinh doanh ...).
Nhóm chỉ tiêu này có:
=
1. Tỷ lệ thu nhập của
Thu nhập của ngành i
dân cư theo ngành KT i
Thu nhập của dân cư
=
2. Tỷ lệ thu nhập của
Thu nhập của nguồn j
dân cư theo nguồn thu nhập j
Thu nhập của dân cư
Trong các chỉ tiêu trên, thu nhập có thể được tính bằng tổng thu, tổng thu nhập, thu nhập cuối cùng và thu nhập thực tế.
Trong nhóm này có thể kết hợp với việc phân tích thu nhập theo ngành kinh tế và nguồn thu nhập để tính thu nhập bình quân theo ngành và và nguồn thu nhập như ở nhóm (2.2.1.2) đã xây dựng, chú ý rằng phạm vi là theo ngành và nguồn thu nhập.
2.2.2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê phản ánh tiêu dùng của dân cư:
Cũng như các chỉ tiêu về thu nhập của dân cư, các chỉ tiêu về tiêu dùng của dân cư là chỉ tiêu thời kỳ, vì vậy các vấn đề cần chú ý đối với hệ thống chỉ tiêu thu nhập đều được áp dụng cho hệ thống chỉ tiêu dùng (đặc điểm, thời kỳ, phạm vi và phương pháp tính toán).
Tuy nhiên tiêu dùng có đặc điểm riêng là có một số sản phẩm tiêu dùng thiết yếu có tính thống nhất chung như lương thực, thực phẩm, điện v.v... cho nên có thể dùng chỉ tiêu hiện vật để đo lường, so sánh.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê phản ánh tiêu dùng có hai nhóm sau đây:
2.3.2.1. Nhóm chỉ tiêu về giá trị:
Chỉ tiêu về giá trị phản ánh tổng quỹ tiêu dùng của dân cư, mức tiêu dùng bình quân của hộ dân cư, của nhân khẩu và kết cấu (cơ cấu) của tiêu dùng:
Nhóm này gồm có các chỉ tiêu:
1/ Tổng quỹ tiêu dùng của dân cư: là tổng hợp giá trị bằng tiền tiền các vật phẩm và dịch vụ dân cư dùng cho đời sống (kể cả phần dân cư được hưởng không phải trả tiền).
=
2. Tiêu dùng bình quân
Tổng quỹ tiêu dùng của dân cư
một hộ
Số hộ bình quân
=
3. Tiêu dùng bình quân
Tổng quỹ tiêu dùng của dân cư
một nhân khẩu
Số nhân khẩu bình quân
4. Chỉ tiêu về cơ cấu tiêu dùng: cơ cấu tiêu dùng được phân chia theo nhu cầu tiêu dùng về các mặt: ăn, ở, mặc, điện nước, chữa bệnh, học tập, đi lại, giải trí mua đồ dùng gia đình, chi khác (cưới, tang, lễ hội). Chỉ tiêu tổng quỹ tiêu dùng được chia thành các chỉ tiêu về chi cho từng mặt (lĩnh vực) của tiêu dùng:
- Chi cho ăn uống.
- Chi cho may mặc.
- Chi cho điện nước.
- Chi cho y tế.
- Chi cho đi lại.
- Chi cho giáo dục.
- Chi cho văn hóa, giải trí du lịch.
- Chi cho mua đồ dùng gia đình.
- Các khoản đóng góp xã hội.
- Chi khác ...
Trên cơ sở chỉ tiêu về cơ cấu tiêu dùng trên đây, xây dựng các chỉ tiêu về bình quân hộ và bình quân nhân khẩu, tỷ trọng tiêu dùng từng mặt của đời sống nhân dân tương tự như chỉ tiêu 2. và 3. trên đây.
2.2.2.2. Nhóm chỉ tiêu về hiện vật:
Nhóm chỉ tiêu về hiện vật là các chỉ tiêu bổ sung quan trọng cho nhóm chỉ tiêu về giá trị. Nó cho phép phân tích trực tiếp về số lượng tiêu dùng, mức độ bảo đảm đời sống xã hội (y tế, giáo dục ...) theo thời gian và không gian khác nhau, không phụ thộc và bị ảnh hưởng của biến động giá cả. Chỉ tiêu hiện vật trên dùng thường tính bình quân theo hộ đối với những vật phẩm tiêu dùng gắn với hộ, hoặc trên 100 người dân, 1000 người dân.
Thuộc nhóm chỉ tiêu này có:
- Theo nhân khẩu: tiêu dùng gạo, thịt, vải, diện tích nhà ở.
- Theo hộ (hoặc 100 hộ): số tài sản trang bị như ti vi, máy thu thanh, máy bơm nước, số giếng nước ...
- Theo 100 người dân: số máy điện thoại.
- Trên 1000 dân: số bác sĩ, số giường bệnh.
2.3. Xác định một số phương pháp thống kê phân tích thu nhập và tiêu dùng của dân cư.
2.3.1. Các hướng phân tích thu nhập và tiêu dùng của dân cư.
2.3.1.1. Phân tích thu nhập của dân cư:
Thu nhập của dân cư cần được phân tích về biến động quy mô thu nhập, về chênh lệch thu nhập, cơ cấu nguồn thu nhập và các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập.
- Phân tích biến động thu nhập của dân cư: phân tích sự biến động thu nhập của dân cư theo thời gian là sự biến động thu nhập giữa các thời kỳ khác nhau của cùng một địa phương, hoặc giữa các địa phương khác nhau trong cùng một thời kỳ, hoặc các thời kỳ khác nhau. Đây là hướng phân tích quan trọng cho phép nghiên cứu sự vận động của thu nhập trong mối quan hệ với các chính sách kinh tế xã hội tỏng các thời kỳ khác nhau, giữa các vùng khác nhau.
- Phân tích chênh lệch về thu nhập: chênh lệch thu nhập của các hộ dân cư, các nhóm dân cư được biểu hiện qua chỉ tiêu bình quân một nhân khẩu (bình quân hộ bị ảnh hưởng quy mô hộ nên kém chính xác hơn). Chênh lệch trong các nhóm dân cư phản ánh sự phân phối của cải xã hội như thế nào, đó là mặt có tác động trực tiếp đến phân hóa giàu nghèo, đến sự ổn định xã hội.
Mức độ chênh lệch thu nhập trong các nhóm dân cư, trong các vùng kinh tế xã hội khác nhau, giữa các ngành kinh tế khác nhau và các nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch đó là những thông tin quan trọng cho công tác lãnh đạo và quản lý, đề ra chính sách.
Kết hợp phân tích biến động của thu nhập và chênh lệch của thu nhập của dân cư là hướng phân tích quan trọng, nó phản ánh sự vận động của thu nhập và tác động qua lại ảnh hưởng đến sự phân hóa giàu nghèo như thế nào, làm rõ tình hình bình đẳng trong khu vực theo chiều ngang và chiều dọc có được đảm bảo trong thu nhập theo chiều ngang và chiều dọc có được đảm bảo hay không.
- Phân tích cơ cấu nguồn thu nhập: thu nhập của dân cư có nguồn gốc phần lớn từ sản xuất, phân tích cơ cấu nguồn thu nhập là phân tích thu nhập chủ yếu từ các ngành sản xuất, từ các nguồn thu nhập theo các mức độ như thế nào. Kết hợp so sánh với sự chênh lệch về mức thu nhập của dân cư theo các ngành, nguồn thu nhập cho phép rút ra kết luận ngành kinh tế và nguồn thu nhập có vai trò ra sao trong việc hình thành thu nhập của dân cư.
- Phân tích nhân tố tác động đến thu nhập: đó là việc phân tích các ảnh hưởng tác động theo các chiều hướng đến thu nhập của dân cư. Các yếu tố đó là: chính sách kinh tế xã hội, vùng địa lý, trình độ công nghệ, tác động của giá cả (lạm phát) việc làm v.v... Đối với một hộ dân cư, các yếu tố đó là: quy mô đất đai, vốn đầu tư, số lao động, ngành nghề kinh doanh v.v...
Phân tích các nhân tố tác động đến thu nhập là hướng phân tích cho phép đánh giá sự tác động của từng nhân tố đến thu nhập, cả các yếu tố làm tăng thu nhập và các yếu tố giảm thu nhập.
2.3.1.2. Phân tích tiêu dùng của dân cư:
Ngoài yếu tố chi phối có tính quyết định đến quy mô và cơ cấu tiêu dùng là thu nhập của dân cư, tiêu dùng của dân cư còn chịu sự chi phối ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác, như tiêu dùng có quan hệ với nguồn thu nhập, tính ổn định của nguồn thu nhập, độ tuổi, giới tính, vùng kinh tế xã hội ...
Phân tích tiêu dùng của dân cư có các hướng chính sau:
- Phân tích biến động quy mô tiêu dùng: là phân tích biến động quy mô tiêu dùng qua thời gian và không gian, mức độ biến động tiêu dùng bình quân đầu người giữa các thời kỳ khác nhau của một địa phương, hoặc giữa các địa phương khác nhau trong cùng một thời kỳ, hoặc các thời kỳ khác nhau. Hướng phân tích này cho phép đánh giá tổng quát sự biến động tăng giảm của tiêu dùng như thế nào, có phù hợp với mục tiêu cải thiện nâng cao đời sống nhân dân của Đảng, Nhà nước hay không.
- Phân tích chênh lệch về tiêu dùng của dân cư: phân tích chênh lệch tiêu dùng của các nhóm dân cư khác nhau: nông thôn, thành thị, hội giàu và hộ nghèo ... thông qua mức tiêu dùng bình quân một nhân khẩu.
- Phân tích cơ cấu tiêu dùng: trên cơ sở tỷ trọng tiêu dùng về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, giải trí ... so với tổng mức tiêu dùng bình quân nhân khẩu giữa các vùng (thành thị, nông thôn, miền núi, đồng bằng ...) giữa các nhóm hộ giàu, nghèo v.v... để rút ra kết luận về mức độ ảnh hưởng của các tiêu thức nghiên cứu đến cơ cấu tiêu dùng.
2.3.1.3. Hướng phân tích kết hợp thu nhập - tiêu dùng:
- Phân tích cân bằng thu nhập - tiêu dùng: trên cơ sở tỷ trọng các loại hộ có thu nhập vượt tiêu dùng, thu nhập cân bằng tiêu dùng và thu nhập ít hơn tiêu dùng, phân tích về khả năng tích luỹ và đảm bảo tiêu dùng của dân cư, từ đó đánh giá đời sống của dân cư được cải thiện và tích luỹ để phát triển sản xuất như thế nào.
- Phân tích sự phụ thuộc của tiêu dùng vào thu nhập: làm rõ mối quan hệ chi phối của thu nhập đối với quy mô và cơ cấu tiêu dùng thông qua phân tích quy mô thu nhập và cơ cấu, quy mô tiêu dùng của các nhóm hộ nghèo, trung bình và giàu.
2.4. Một số phương pháp thống kê phân tích thu nhập và tiêu dùng của dân cư.
Thống kê học có khá nhiều phương pháp phân tích kinh tế - xã hội, mỗi loại có tác dụng riêng cho mục tiêu nhiệm vụ thích hợp; vì vậy cần phải lựa chọn các phương pháp phù hợp với nhiệm vụ phân tích. Nguyên tắc của việc lựa chọn đó như sau: phải xuất phát từ nhiệm vụ, mục đích của phân tích thu nhập và tiêu dùng, cũng như từ đặc điểm của thu nhập và tiêu dùng. Ngoài ra, phải căn cứ vào đặc điểm và điều kiện vận dụng của phương pháp để lựa chọn.
Dựa vào các nguyên tắc lựa chọn đó, để phân tích thu nhập và tiêu dùng của dân sự, có các phương pháp sau đây:
2.4.1. Các phương pháp của thống kê truyền thống.
2.4.1.1. Phân tổ thống kê:
Phân tổ thống kê là việc sắp xếp các thông tin thống kê theo một, hai hoặc ba tiêu thức để từ những thông tin "thô" ban đầu, ta thu được những thông tin mới tổng quát, rõ ràng hơn đáp ứng mục đích nghiên cứu.
Phân bổ thống kê còn có thể được sử dụng trong trường hợp phân tổ lại những tài liệu đã có, nhất là trong những trường hợp tài liệu bị hạn chế.
Trong phân tích thu nhập và tiêu dùng, phân tổ thống kê giúp ta phân loại thu nhập của dân cư theo 5 nhóm thu nhập, hoặc phân tổ thu nhập của các hộ nông - lâm nghiệp theo diện tích đất họ được quyền sử dụng, hoặc phân tổ hộ nghèo đói, hoặc phân tổ tiêu dùng của dân cư theo vùng thành thị hoặc nông thôn v.v...
Phân tổ thống kê dễ hiểu, đơn giản được áp dụng khá rộng rãi, khắc phục được sự hạn chế về số liệu, và là tiền đề để vận dụng, sử dụng các công cụ thống kê khác.
2.4.1.2. Các số đo thống kê truyền thống:
Trong nghiên cứu thống kê thu nhập và tiêu dùng của dân cư, các thông tin (số liệu) về thu nhập và tiêu dùng qua điều tra thu được có độ chênh lệch khá lớn về các trị số thu được, tức là chúng có độ phân tán. Để đo độ phân tán này có thể dùng các tham số đo độ phân tán.
+ Đo khoảng cách phân tích: sử dụng chỉ tiêu khoảng biến thiên, đo độ chênh lệch giữa lượng biến lớn nhất với lượng biến nhỏ nhất.
(4)
R = Xmax - Xmin
Trong đó: R : khoảng biến thiên
Xmax: lượng biến lớn nhất.
Xmin: lượng biến nhỏ nhất.
Dùng R, ta có thể đo độ chênh lệch về tiền lương, tiền công, thu nhập, mức tiêu dùng của các nhóm dân cư.
Chỉ tiêu này tính toán dễ dàng và có độ khái quát cao. Nhưng cũng chính vì thếe mà nó đã bỏ qua sự biến động bên trong của tổng thể và không thể áp dụng cho dãy số có khoảng cách mở. Mặt khác, nó cũng kém tính thuyết phục khi hai tập hợp hoàn toàn khác nhau lại có cùng một độ biến thiên R (trường hợp Xmax của hai tập hợp hơn nhau một lượng K và tương ứng của hai tập hợp cũng như hơn nhau đúng bằng một lượng K thì hai tập hợp này đều có cùng một trị số R).
+ Độ lệch trung bình:
Độ lệch trung bình đo độ phân tán của các lượng biên so với trung bình của tổng thể, gồm có các chỉ tiêu:
1/ Độ lệch tuyệt đối trung bình:
(5)
Trong đó: : độ lệch tuyệt đối trung bình.
: trung bình cộng của các lượng biến xi.
xi : các lượng biến .
fi : các tần số tương ứng của xi .
Độ lệch tuyệt đối trung bình đo độ phân tán tốt hơn khoảng biến thiên R vì nó đo tất cả độ lệch từng lượng biến xi so với trung bình .
2/ Phương sai: phương sai là trung bình cộng của bình phương các độ lệch giữa lượng biến với số trung bình của các lượng biến đó.
(6)
Trong đó: : phương sai
xi : các lượng biến
: trung bình cộng của các lượng biến xi
fi : các tần số tương ứng của xi .
3/ Độ lệch chuẩn: độ lệch chuẩn là căn bậc hai của phương sai:
(7)
(Các giải thích như ở công thức phương sai).
Các tham số , đo độ lệch của lượng biến trong tổng thể so với trung bình cộng tốt hơn so với R vì chúng đã tổng hợp tất cả các độ lệch của tất cả các lượng biến chứ không chỉ đo độ lệch của lượng biến lớn nhất và nhỏ nhất như R. Chúng được vận cụng để đo độ lệnh của thu nhập và tiêu dùng của dân cư trong một tổng thể (cùng địa phương, cùng một thời gian).
Nhược điểm chung của , của các tập hợp khác nhau đó lại đều như nhau vì:
D () = D (+ c) trong đó c là hằng số.
+ Các hệ số biến thiên đo độ phân tán tương đối: các số đo độ phân tán (khoảng cách phân tán R, độ lệch trung bình , ) đều sử dụng số tuyệt đối của lượng biến thiên. Do vậy, chúng không thể so sánh độ phân tán của các tổng thể khác nhau, hoặc giữa các tổng thể cùng loại nhưng có số trung bình không bằng nhau.
Thí dụ: thu nhập của dân cư ở cùng một địa phương trong hai thời kỳ cách nhau 5 năm cả hai kỳ đều có độ lệch chuẩn là 10 nhưng thu nhập của dân cư ở hai thời kỳ này có số trung bình rất khác nhau, thời kỳ thứ nhất có số trung bình là 50, thời kỳ thứ hai có số trùnh bình là 200 thì sự biến đổi của độ lệch chuẩn so với số trung bình của hai tổng thể là rất khác nhau. Vì vậy để so sánh độ chênh lệch giữa hai thời kỳ ta sử dụng hệ số biến thiên đo độ phân tán tương đối.
(8)
(9)
Trong đó: và là các hệ số biến thiên.
: độ lệch tuyệt đối trung bình.
: độ lệch chuẩn.
: trung bình cộng của tổng thể.
(Chú ý: kết quả tính và là khác nhau).
Các hệ số biến thiên được vận dụng để đo sự biến động của thu nhập và tiêu dùng của của dân cư ở cùng một địa phương trong hai thời kỳ khác nhau hoặc của hai địa phương khác nhau trong cùng một thời kỳ, hoặc giữa hai địa phương khác nhau trong hai thời kỳ khác nhau.
2.4.2. Đường cong Lorenz và hệ số Gini:
Các tham số đo độ phân tán R, , cho phép ta nghiên cứu về tần số phân bố, về độ phân tán tuyệt đối và tương đối của thu nhập và tiêu dùng của dân cư. Một vấn đề quan trọng các tầng lớp dân cư, tức là toàn bộ tổng sản phẩm trong nước phân phối cho tổng thể dân cư như thế nào. Thông thường tầng lớp dân cư nghèo chiếm tỷ trọng lớn trong dân cư lại có thu nhập ít ỏi trong tổng thu nhập của xã hội, ngược lại thiểu số người giầu có chiếm số ít trong dân cư lại có số thu nhập nhiều lần hơn số thu nhập của đông đảo dân cư nghèo. Nói một cách hình ảnh, phần "cái bánh kinh tế" dành cho số đông dân cư nghèo lúc thua nhiều lần "cái bánh kinh tế" của số ít người giàu.
Các số đo truyền thống và phân tổ dùng nghiên cứu sự chênh lệch về thu nhập của các tầng lớp dân cư mới chỉ nói lên được một phần của vấn đề. Để đo lường, phân tích sự chênh lệch về phân phối thu nhập của dân cư, thống kê hiện đại dùng đường cong Lorenz và hệ số Gini.
Thu nhập (%)
100 y
I
80
60
a
40
P
20 b
0 20 40 60 80 100 (%) Dân số
Hình 1. Đường cong Lorenz
Phương pháp đường cong Lorenz dùng đồ thị và hệ tọa độ vuông góc để biểu diễn dân số và thu nhập tương ứng cuả dân số (hình 1.2). Điều này cần chú ý là dân số và thu nhập biểu diễn trên hai hệ trục là tỷ trọng dân số (%) cộng dồn và tỷ trọng thu nhập (%) tương ứng của dân số cộng dồn. Nếu trong xã hội phân phối thu nhập là tuyệt đối công bằng có nghĩa là:
10% dân số được hưởng 10% thu nhập
20% dân số được hưởng 20% thu nhập
40% dân số được hưởng 40% thu nhập
80% dân số được hưởng 80% thu nhập
v.v...
thì đồ thị đường phân phối thu nhập sẽ là đường phân giác Oy. Các điểm trên đường Oy có tọa độ số % dân số và số % thu nhập là bằng nhau. Đó là đường phân phối tuyệt đối công bằng.
Trong thực tế phân phối thu nhập không diễn ra như điều lý tưởng đó, mà sự phân phối đó rất chênh lệch. Thông thường 10% số lượng dân số nghèo khổ nhất chỉ có thu nhập là từ 2% đến 3% tổng thu nhập cuả xã hội, ngược lại 10% dân số giầu có nhất lại có số thu nhập 20% đến 30% số thu nhập của xã hội.
Nếu ta biểu diễn trên hệ tọa độ vuông góc, trục hoành là tỷ trọng (%) dân số cộng dồn sắp xếp từ nhóm có thu nhập thấp nhất (rất nghèo) đến nghèo, trung bình khá, giàu và rất giàu, cộng dồn tất cả là 100% dân số; trên trục tung là tỷ trọng (%) thu nhập (trong tổng thu nhập toàn xã hội) cộng dồn tương ứng thì ta xác định được các điểm có tọa độ là % dân số cộng dồn và % thu nhập cộng dồn tương ứng. Nối vào các điểm có tọa độ được xác định này lại ta có đường gấp khúc được gọi là đường cong Lorenz thực nghiệm (hình 2.2.).
Thu nhập 100
100
80
60
40
y
P
20
0 20 40 60 80 100 (%) Dân số
Hình 2. Đường cong Lorenz thực nghiệm
Đường cong Lorenz không bao giờ trung với đường Oy ; vì đường Oy là đường phân phối tuyệt đối công bằng nên đường con Lorenz càng sát đường Oy thì phân phối thu nhập càng tiến gần đến công bằng. Khoảng cách giữa đường cong Lorenz với đường Oy được gọi là độ võng của đường cong Lorenz; độ võng càng tăng tức đường cong Lorenz càng xa đường Oy thì sự bình đẳng trong phân phối thu nhập càng tăng lên
Đường cong Lorenz mới chỉ cho phép ta nhận biết bằng trực giác sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, chưa lượng hóa được sự bất bình đẳng ấy ở mức độ nào. Để đo lường sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, người ta dùng hệ số Gini.
Hệ số Gini: Trong hình 1.2. đường cong Lorenz chia tam giác OPI thành hai phần:
- Phần a giới hạn bởi đường cong Lorenz Oy.
- Phần b là phần còn lại của tam giác OPI sau khi lấy đi phần a.
Để lượng hóa độ võng của đường cong Lorenz người ta tính tỷ số giữa diện tích vùng a với tổng diện tichs vùn a và vùng b. Tỷ số đó được gọi là hệ số Gini (HG). Công thức tính hệ số HG như sau:
(10))
=
HG =
Diện tích vùng a
Diện tích vùng a
Diện tích vùng a + DT vùng b
Diện tích tam giác OPI
Bằng cách phân tích diện tích vùng b dưới đường cong thực nghiệm thành các hình thanh nhỏ (hình 2,2), người ta tính được diện tích vùng b dựa vào các hoành độ và tung độ trên đồ thị, và đi đến công thức tính HG như sau:
HG = 1 =
Trong đó: HG : hệ số Gini.
pi : tỷ trọng dân số của nhóm có mức thu nhập i
Qi: % thu nhập tính cộng dồn đến nhóm có mức thu nhập i.
Qi - 1: thu nhập tính cộng dồn đến nhóm có mức thu nhập i - 1.
(Chú ý: theo cách tính như trên thì: 0 < HG < 1).
Ví dụ minh họa tính HG : có tài liệu về thu nhập của một tỉnh như sau:
Bảng 1. Số liệu ví dụ để minh họa
TN BQ người/tháng (1000đ)
70-80
80-100
100-150
150-250
250-400
400-800
Cộng
Tỷ lệ % DS
22
20
17
15
14
12
100
TL % T.nhập
8
11
15
18
22
260
100
Ta lập bảng tính.
Bảng 2. Tính hệ số HG số liệu ở bảng 1.2
TT dòng
Mức TN BQ (1000đ)
% dân số (pi)
% thu nhập (qi)
Cộng dồn thu nhập (Qi)
Qi + Qi - 1
pi (Qi+Qi -1)
1
75
22
8
8
8
176
2
90
20
11
19
27
540
3
125
17
15
34
53
901
4
200
15
18
52
86
1290
5
325
14
22
74
126
1764
6
600
12
26
100
174
2088
6759
(Cách tính cột Qi + Q i - 1 :
Dòng 2 cột Qi + Qi - 1 : 19 + 8 = 27
Dòng 3 34 + 19 = 53
Dòng 4 52 + 34 = 86 v.v...).
HG = 1 -
Hệ số HG lượng hóa độ võng của đường cong Lorenz nên trị số của HG càng gần tới 0 thì sự phân phối thu nhập càng công bằng và HG càng lớn thì phân phối bât bình đẳng càng tăng lên.
Đường cong Lorenz và hệ số Gini được vận dụng chủ yếu vào đo độ chênh lệch trong phân phối thu nhập của dân cư. Vì dùng số tương đối (%) để tính toán nên chúng không phụ thuộc vào biên độ biến động của số tuyệt đối. Vì thế chúng có phạm vi ứng dụng rộng rãi.
2.4.3. Hệ số Elteto - Frigyes:
Hệ số Elteto - Frigyes được dùng để nghiên cứu sự chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa các vùng nhóm nghèo và không nghèo (giàu).
Nội dung chủ yếu của hệ số Elteto - Frigyes là so sánh mức thu nhập bình quân đầu người của những người nghèo dưới mức thu nhập bình quân chung và của những người giàu, có mức thu nhập trên mức thu nhập bình quân chung:
Hệ số Elteto - Frigyes gồm 3 hệ số sau:
Nếu mặt là thu nhập bình quân đầu người của một địa phương, là thu nhập bình quân đầu người của những người có mức thu nhập dưới ; và là thu nhập bình quân đầu người của những người có mức thu nhập trên :
(12)
- Hệ số đo mức độ chênh lệch giữa bình quân chung với bình quân nhóm nghèo: u =
- Hệ số đo mức chênh lệch giữa bình quân chung nhóm giàu bình quân chung:
(13)
- Hệ số đo mức chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo:
(14)
2.4.4. Phương pháp hồi quy tương quan.
Thu nhập của dân cư chịu sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó có một số dân cư chịu sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó có một số nhân tố có tác động chi phối mạnh, trực tiếp thu nhập như vốn đầu tư, số lượng lao động, diện tích đất đai. Mối liên hệ tác động này không hoàn toàn chặt chẽ như mối liên hệ hàm số. (Mối liên hệ hàm số là mối liên hệ hoàn toàn chặt chẽ, được biểu diễn dưới dạng hàm số như y = f (x); khi đạt được x biến đổi thì ta có thể xác định được giá trị chính xác của đại lượng y theo một quy tắc nào đó).
Liên hệ tương quan không hoàn toàn chặt chẽ như liên hệ hàm số, khi một hiện tượng (nhân tố) biến đổi thì làm cho hiện tượng liên quan biến đổi theo, nhưng sự biến đổi này không chịu ảnh hưởng hoàn toàn của hiện tượng biến đổi ban đầu. Ngoài yếu tố đang nghiên cứu tác động đều sự biến động của yếu tố liên quan, còn có sự tác động của một vài yếu tố khác đến sự biến động ucả nó (yếu tố liên quan). Để phản ánh mối liên hệ tương quan một cách đúng đắn, phải nghiên cứu hiện tượng trên nhiều đơn vị, tức là phải nghiên cứu hiện tượng số lớn.
Phương pháp hồi quy và tương quan là phương pháp được dùng để nghiên cứu mối liên hệ tương quan. Nó cho phép giải quyết hai nhiệm vụ:
- Một là: xác định mối liên hệ tương quan bằng phương trình hồi quy, qua việc phân tích đặc điểm và bản chất mối liên hệ để chọn dạng hàm số phù hợp, và căn cứ vào các giá trị lượng biến quan sát được, tính giá trị các phương trình hồi quy, mà thực chất là lượng hóa sự tác động của các yếu tố có liên quan với nhau.
- Hai là: đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ, bằng cách thông qua các giá trị lượng biến quan sát được, và các giá trị của tham số phương trình hồi quy, tính các hệ số tương quan (r) hoặc tỷ số tương quan (), thực chất cũng là lượng hóa trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan.
Để minh họa, xin nêu trường hợp đơn giản nhất là nghiên cứu sự liên heej tương quan giữa hai tiêu thức: một tiêu thức nguyên nhân và một tiêu thức kết quả.
Để chọn dụng hàm số phù hợp, người ta dùng đồ thị (trên hệ tọa độ vuông góc). Căn cứ vào các cặp giá trị nguyên nhân và kết quả, xác định các điểm có tọa độ là giá trị tương ứng đã có (trục hoành biểu thị các trị số nguyên nhân, trục tung biểu thị các trị số kết quả).
Nối các điểm đã được xác định tọa độ, ta có đường hồi quy thực nghiệm. Căn cứ vào dạng của đường hòi quy thực nghiệm để chọn dạng hàm lý thuyết, phản ánh xu hướng biến động của hiện tượng. Giả thử đường hồi quy lý thuyết là dạng đường thẳng, phương trình hồi quy sẽ chọn là:
Trong đó: là trị số tiêu thức kết quả được điều chỉnh.
x là trị số tiêu thức nguyên nhân.
a và b là các tham số.
Các tham số a và b của phươn trình hồi quy được tính bằng phương pháp bình phương bé nhất, tức là:
S =
Hay thay vào ta có: S =
Lấy đạo hàm bậc nhất của biến thiên trên theo a rồi theo b, cho hai đạo hàm này bằng 0 rồi rút gọn lại, ta sẽ được hệ 2 phương trình chuẩn tắc để tính 2 tham số a và b như sau:
(15)
Trong đó n là số các quan sát.
Giải hệ phương trình này có giá trị cụ thể của tham số a và b.
Hệ số tương quan (ký hiệu r) đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan tuyến tính công thức tính r như sau:
(16)
Trong đó và là giá trị trung bình cộng của các giá trị x và y.
Hệ số r có giá trị trong khoảng - 1 ≥ r ≥ 1.
Khi r càng gần 1 (hoặc - 1) thì liên hệ tương quan càng chặt chẽ.
Trong nghiên cứu thu nhập của dân cư, hồi quy và tương quan được vận dụng để nghiên cứu mối liên hệ giữa tiêu thức kết quả là thu nhập của dân cư với sự tác động của một hoặc hai tiêu thức nguyên nhân như lượng vốn đầu tư và quy mô đất đai (trong nông - lâm nghiệp) v.v...
Chương 3
Vận dụng một số phương pháp thống kê
để phân tích thu nhập và tiêu dùng của dân cư
tỉnh Yên Bái thời kỳ 1991 - 1996
3.1. Khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở Yên Bái.
Tỉnh Yên Bái thuộc miền phía Bắc Việt Nam, diện tích tự nhiên 6.882, dân số đến cuối năm 1996 có trên 70 vạn người, mật độ dân số 102 người/km2. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện thị và 180 đơn vị hành chính cấp xã phường, thị trấn. Dân cư của tỉnh bao gồm trên 20 dân tộc, trong đó các dân tộc ít người chiếm gần 60% dân số của tỉnh.
Yên Bái là tỉnh miền núi nghèo, kinh tế chủ yếu là nông lâm nghiệp, nhưng ruộng đất canh tác bình quân đầu người ít (930 m2/ người), lương thực tự sản xuất chưa đảm bảo đủ ăn. Toàn tỉnh có 72 xã vùng cao (40% số xã toàn tỉnh) độc canh nương rẫy sản xuất lúa, kỹ thuật sản xuất hết sức thô sơ, thu nhập thấp, đời sống nhân dân nghèo khổ.
Kết cấu hạ tầng của tỉnh lạc hậu, thiếu thốn, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Tỉnh có diện tích gần 700 km2 nhưng chỉ có 497 km đường ô tô (trên 1 km2 diện tích tự nhiên có 72 m đường ô tô), phương tiện vận tải đường bộ cuối năm 1996 cả tỉnh có 390 xe ô tô. Đường thuỷ có 90 km với 230 tàu thuyền gắn máy. Đường sắt qua tỉnh là 88 km.
Thông tin liên lạc chưa phát triển, đến cuối năm 1996 thời kỳ phát triển mạnh của viễn thông, tỉnh mới đạt mức 0,54 máy điện thoại/ 100 dân, số này tập trung hầu hết ở thị xã, thị trấn lớn, còn 76% số cơ sở vùng cao chưa có điện thoại.
Cơ sở y tế tuy có nhiều cố gắng vượt bậc song cũng mới đạt mức 0,46 bác sĩ và 0,97 giường bệnh trên 1000 người dân vào cuối năm 1996.
Trình độ học vấn của dân cư thấp, những năm gần đây giáo dục phát triển mạnh nhưng số học sinh còn ít: cứ 5 người dân có 1 học sinh các cấp, và cứ 80 người dân có 1 học sinh trung học.
Điện lưới quốc gia đã đến được các thị xã và một số huyện. Có 40% số hộ được dùng điện lưới, song hầu hết tập trung ở thị xã, thị trấn, ở nông thôn trên 70% số hộ chưa được dùng điện.
Hệ thống ngân hàng: tỉnh mới có ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng đầu tư, chưa có ngân hàng công thương.
Tình hình lạc hậu, thiếu thốn kết cấu hạ tầng có nhiều ảnh hưởng làm chậm sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Trong thời kỳ 1991 - 1996, cùng với cả nước, tỉnh Yên Bái nhờ thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng về phát triển kinh tế nên kinh tế của tỉnh, đã có bước phát triển khá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân thời kỳ này là 6,21%/ năm. Sản xuất lương thực tăng bình quân 4,52% một năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tốt: nhóm ngành nông lâm nghiệp giảm dần, nhóm ngành công nghiệp xây dựng và thương mại dịch vụ tăng dần.
Đời sống dân cư được cải thiện rõ nét: thu nhập và tiêu dùng của các tầng lớp dân cư đều tăng.
3.2. Vật tư một số phương pháp thống kê để phân tích thu nhập và tiêu dùng của dân cư Yên Bái thời kỳ 1991 - 1996.
Thời kỳ 1991-1996 là thời kỳ ở Yên Bái cũng như trong cả nước, kinh tế hộ đã được trở thành đơn vị kinh tế tự chủ (sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 6 BCHTW (Khóa VI) năm 1998), có bước phát triển mạnh mẽ, làm tăng thu nhập và tiêu dùng của dân cư. Nhờ có các ưu thế về quản lý lao động, về sở hữu phân phối trong hộ mà ở thời kỳ hợp tác hóa không thể có nên mức thu nhập của các hộ tăng. Do thu nhập tăng nên tiêu dùng của các hộ cũng được nâng lên. Song không phải có kinh tế hộ tự chủ tất cả các hộ đều tăng thu nhập, mà tình hình đó diễn ra không đều, làm cho khoảng cách về thu nhập tăng lên cả về số tuyệt đối và số tương đối.
3.2.1. Biến động thu nhập theo thời gian.
Từ năm 1989 đến năm 1996 thu nhập của dân cư Yên Bái theo bảng sau đây:
Bảng 3: Thu nhập bình quân nhân khẩu tỉnh Yên Bái (giá hiện hành)
Đơn vị: ngàn đồng/ ngàn đồng/ tháng
Năm
1989
1993
1994
1996
Thu nhập BQ nhân khẩu
18,79
85,07
126,25
175,5
(Nguồn: Điều tra nông thôn 1989 - TCTK - Điều tra giàu nghèo 1993
Điều tra hộ gia đình đa mục tiêu 1994 - 1996
Thu nhập bình quân nhân khẩu các năm trên là thu nhập cuối cùng (thu nhập danh nghĩa) theo giá hiện hành:
Thu nhập của dân cư gồm có phần thu bằng hiện vật và bằng tiền (như tiền lương, tiền công, lãi ngân hàng ...) đặc điểm này không cho phép áp dụng giá so sánh (giá cố định) để phân tích biến động thu nhập của dân cư theo thời gian. Vì vậy sử dụng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chọn năm đầu của thời kỳ nghiên cứu làm năm gốc để tính thu nhập cuối cùng (thu nhập dánh nghĩa) của các năm về thu nhập thực tế năm gốc theo công thức (1)
Thu nhập cuối cùng
Thu nhập thực tế =
CPI
là thích hợp hơn cả.
Bảng 4: Chỉ số giá tiêu dùng tỉnh Yên Bái 1990 - 1996.
Đơn vị: %
Năm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Chỉ số giá (%)
140,84
210,22
123,47
104,98
113,18
125,68
107,63
(Năm trước = 100% ; nguồn: Niên giám Thống kê Yên Bái
các năm 1994 - 1995 - 1996)
Đây là các chỉ số liên hoàn nên nếu lấy năm 1989 làm năm gốc (=100%) thì chỉ số giá và thu nhập thực tế các năm sau năm 1989 như trong bảng 5.
Bảng 5: Chỉ số giá tiêu dùng và thu nhập thực tế tỉnh Yên Bái
các năm 1989 đến 1996, lấy năm 1989 làm gốc.
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Chỉ số giá (%)
100
140,84
241,41
296,08
383,77
434,35
545,89
587,54
Thu nhập thực tế (1000đ)
18,79
22,17
29,06
29,97
Như vậy, tính theo thu nhập thực tế năm gốc, thu nhập thực tế bình quân đầu người của dân cư Yên Bái sau 7 năm bằng 158,96% thu nhập thực tế năm gốc, bình quân thu nhập thực tế mỗi năm tăng 6,84%.
Thu nhập thực tế của dân cư Yên Bái tăng phản ánh đúng tình hình của địa phương, là bằng chứng có sức thuyết phục nhất về đường lối đổi mới kinh tế của Đảng.
3.2.2. Phân tích chênh lệch thu nhập trong dân cư.
Chênh lệch thu nhập trong dân cư là một thực tế khách quan, có tác động nhiều mặt đến phân hóa giàu nghèo, đều ổn định xã hội, đến việc thúc đẩy tính năng động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh v.v...
Phân tích chênh lệch trong thu nhập của dân cư cần phải đo lường được mức chênh lệch đó, xem xét biến động của nó theo thời gian như thế nào.
3.2.2.1. Để phần tích cụ thể chênh lệch trong thu nhập của dân cư Yên Bái, trước hết cần tính các số đo truyền thống.
Tài liệu điều tra năm 1989 và năm 1996 cho ở bảng 4.3.
Bảng 6: Bình quân thu nhập đầu người phân theo nhóm thu nh._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- S0023.doc