mục lục
trang
Lời nói đầu
Trong sự phát triển chung của xã hội loài người cũng như của mỗi quốc gia, hoạt động ngoại thương luôn đóng một vai trò quan trọng. Không tạo ra của cải vật chất nhưng ngoại thương có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy quá trình sản xuất, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng giữa các quốc gia và các khu vực trên toàn thế giới.
Từ khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, hoạt động ngoại thương đ
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số phương pháp thống kê chủ yếu để phân tích và dự đoán trong nghiên cứu giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã phát triển mạnh mẽ và dần dần hoà nhập vào sự phát triển chung của thế giới. Quan điểm và chính sách điều hành kinh tế của Đảng và Nhà nước ta đã coi ngoại thương như một trong những mũi nhọn của nền sản xuất trong nước. Quan điểm đó được thể hiện trong chính sách lấy xuất khẩu làm một trong 3 chương trình kinh tế lớn của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Hàng năm, nghiệp vụ xuất nhập khẩu chiếm một vị thế hết sức quan trọng và là ngành mũi nhọn của nền kinh tế hướng ngoại. Xuất nhập khẩu không những mang lại giá trị và giá trị sử dụng của mỗi quốc gia mà còn tạo động lực thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá các ngành sản xuất trong khu vực và trên thế giới.
Xuất phát từ lợi ích kinh tế quốc tế nói chung, lợi ích kinh tế của nước ta nói riêng, nhằm góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam hoà nhập với cộng đồng kinh tế thế giới, tham gia tích cực vào quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế trên các phương diện khoa học-kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ, thanh toán quốc tế,...ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Đòi hỏi chúng ta cần phải đi sâu nghiên cứu, thông qua đó ta có thể hoàn thiện, tính toán và dự đoán được những hoạt động của ngoại thương nước ta trong tương lai. Từ đó ta có thể điều hành nền kinh tế hoà nhập với kinh tế thế giới và đưa nền kinh tế nước ta một bước tiến lên.
Nhận thức được tầm quan trọng của ngành ngoại thương nói chung và ngành xuất nhập khẩu nói riêng là lý do tôi chọn đề tài "Một số phương pháp thống kê chủ yếu để phân tích và dự đoán trong nghiên cứu giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam". Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, luận văn này được chia làm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề chung về phân tích và dự đoán thống kê.
Chương II: Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam, yêu cầu phân tích và dự đoán thống kê giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam.
Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê chủ yếu để phân tích và dự đoán trong nghiên cứu giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam.
Luận văn được hoàn thành với sự hướng dẫn của Thầy Tăng Văn Khiên-Viện trưởng Viện nghiên cứu Thống kê, các cán bộ ở Viện nghiên cứu Thống kê cùng các thầy cô trong Khoa Thống kê và sự nỗ lực của bản thân. Tuy nhiên, do thời gian hạn chế và sự hiểu biết có hạn nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy, cô cùng các bạn góp ý để bài viết này được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cám ơn các thầy, cô trong Khoa, các cán bộ ở Viện nghiên cứu Thống kê và đặc biệt là thầy Tăng Văn Khiên đã giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này.
Chương I
Một số vấn đề chung về phân tích và dự đoán thống kê
I. Khái niệm, ý nghĩa và yêu cầu của phân tích và dự đoán thống kê
1. Khái niệm, ý nghĩa của phân tích và dự đoán thống kê
a. Khái niệm của phân tích và dự đoán thống kê
Phân tích và dự đoán thống kê là nêu lên một cách tổng hợp bản chất cụ thể tính quy luật của các hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội trong điều kiện lịch sử nhất định biểu hiện bằng số lượng tính toán mức độ trong tương lai của hiện tượng nhằm đưa ra nhữnh căn cứ cho quyết định quản lý.
Nói một cách cụ thể, phân tích thống kê là xác định các mức độ nêu lên sự biến động biểu hiện tinh chất và trình độ chặt chẽ của mối liên hệ hiện tượng. Phân tích thống kê phải lấy con số thống kê làm tư liệu, lấy các phương pháp thống kê làm phương pháp nghiên cứu. Còn dự đoán thống kê là hình thức dự đoán tình huống có thể xảy ra trong tương lai của các hiện tương tự nhiên , kinh tế xã hội gắn với việc đề ra các nguyên tắc, lập dự toán và vận hành nó.
b. ý nghĩa của phân tích và dự đoán thống kê
Phân tích và dự đoán thống kê có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý kinh tế. Nhờ có lý luận và phương pháp luận phong phú mà qua thống kê ta có thể vạch ra được những nguyên nhân chính, phụ để tạo nên kết quả thông qua việc phân tích ảnh hưởng các nhân tố đế việc sử dụng các nguồn nhân lực, các yếu tố đầu vào thông qua việc xác định các mối liên hệ, các quy luật chung của hệ thống.
Thông qua kết quả phân tích ta xây dựng các dự đoán thống kê bằng nhiều phương pháp khác nhau nhằm xác định các mục tiêu phát triển, các nguồn tiềm năng, xây dựng các phương án để phục vụ cho việc ra quyết định quản lý .
Vai trò của phân tích và dự đoán thống kê ngày càng trở nên quan trọng trong quản lý kinh tế nói riêng và trong bộ máy nhà nước nói chung. Phân tích và dự đoán thống kê là một thể thống nhất, cùng phục vụ cho việc kế hoạch hoá và xây dựng các quyết định quản lý. Do vậy trong nhiều trường hợp nếu chỉ có phân tích thôi thì chưa đủ, mà còn phải tiến hành nghiên cứu những gì của hiện tượng có thể xẩy ra trong tương lai.
Trong quá trình phân tích và dự đoán, phương pháp tiếp cận theo cả hai hướng: hướng phân tích và hướng tổng hợp.
Theo hướng phân tích đối tượng nghiên cứu được tách ra nhiều yếu tố cấu thành, các nguyên nhân ảnh hưởng đến sự biến động của đối tượng cũng được chia ra thành nhiều nguyên nhân nhỏ hơn, nhằm tạo ra khả năng ngiên cứu một cách sâu sắc và chi tiết đối tượng. Do sự phân nhỏ đối tượng nghiên cưú cũng như các nguyên nhân ảnh hưởng mà qua đó ta có thể thấy được đâu là nhân tố có ảnh hưởng trội nhất đến sự biến động của hiện tượng nghiên cứu. Mức độ chi tiết của việc phân tích nhân tố chi tiết phụ thuộc vào nhiệm vụ phân tích thống kê và khả năng thực tế của việc phân tích nhân tố . Không phải lúc nào cũng phân tích nhân tố một cách chi tiết, vì trong nhiều trường hợp điều đó lại có khả năng làm "nhiễu"các quyết định quản lý.
Theo hướng tổng hợp có thể có một số cách làm khác nhau. Người ta có thể khảo sát sự biến động chung của cả đối tượng ngiên cứu, xây dựng các mô hình biến động của chúng trên một quy mô lớn hay một thời kỳ dài, nhằm phân tích quy luật của chúng. Cũng có thể ngiên cứu đối tượng trong mối liên hệ lẫn nhau với một số nhấn tố chủ yếu khác hay các hiện tượng và quá trình khác. người ta cũng có thể kết hợp nhiều nhân tố nhỏ thành nhóm các nhân tố ảnh hưởng có cùng tính chất chung trội hơn nào đó để khảo sát sự tác động theo hướng chủ yếu khác nhau. Hoặc biến các nhân tố khác nhau và không có cùng độ đo thành các nhân tố so sánh được.
Khi phân tích và dự đoán, đòi hỏi phải sử dụng kết hợp các phương pháp khác nhau. Bởi vì mỗi phương pháp đều có ưu nhược điêm riêng, điều kiện vận dụng riêng và lĩnh vực áp dụng riêng. Các hiện tượng và quá trình kinh tế ngày càng diễn ra một cách phức tạp hơn, do đó đòi hỏi phải biết sử dụng một cách kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để đạt được mục tiêu chính của việc nghiên cứu. Đặc biệt trong lĩnh vực dự đoán thống kê thì vấn đề trên lại trở nên quan trọng. Nghiên cứu các trạng thái của đối tượng trong tương lai, trong điều kiện không ổn định là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải sử dụng các công cụ dự đoán một cách hợp lý, linh hoạt và kết hợp một cách khoa học thì mới mang laị độ chính xác cao.
Trong dự đoán thống kê, nguồn thông tin chủ yếu là thông tin kinh tế. Ngoài ra còn sử dụng nguồn thông tin bổ sung bằng các nguồn khác như sử dụng lấy ý kiến khách hàng, dân cư.. .Yêu cầu của thông tin khi phân tích và dự đoán là phải chính xác, đầy đủ đảm bảo so sánh được và phải kịp thời. Do chu trình quản lý ngày càng rút ngắn, do sự phát triển của xã hội và cuả thị trường, do đó yêu cầu phải ra các quyết định thật nhanh và chính xác muốn vậy thông tin cần phải kịp thời và phải chính xác hơn phục vụ cho phân tích và dự đoán làm cơ sở cho ra quyết định quản lý. Đặc biệt trong dự đoán, do bản thân các phương pháp dự đoán hiện đại đòi hỏi phải cung cấp thông tin mới nhất để mô hình dự đoán có thể thích nghi với sự biến động thực tế, cho nên tính chât kịp thời của thông tin càng trở nên quan trọng hơn.
Trong phân tích và dự đoán thống kê bất kỳ hiện tượng nào, đều đòi hỏi ta phải có cách nhìn tòan diện, phải nghiên cứu hiện tượng đó trong mối liên hệ với các nhân tố khác.
2. Yêu cầu trong phân tích và dự đoán thống kê
Để đảm bảo kết quả đúng đắn, khách quan, phân tích và dự đoán thống kê phải tuân theo một số các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất: Phải tiến hành trên cơ sở phân tích lý luận kinh tế xã hội.
Các hiện tượng có tính chất và xu hướng phát triển khác nhau, có thể tăng lên là tốt nhưng cũng có thể giảm đi là tốt. Vì vậy thông qua phân tích và lý luận ta có thể hiểu được tính chất xu hướng của hiện tượng, trên cơ sở đó dùng số liệu và phương pháp phân tích khẳng định tính chất cụ thể của nó.
Thứ hai: Phải căn cứ vào toàn bộ sự kiện và đặt chúng vào trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau.
Sự tồn tại của hiện tượng không phải là kết quả của phép cộng giản đơn các mặt của nó mà là các mối liên kết với nhau, mặt này làm cơ sở cho mặt kia và ngược lại, đồng thời chịu tác động lẫn nhau. Do đó khi phân tích và dự đoán thống kê phải sử dụng một loạt tài liệu, mỗi tài liệu phản ánh mỗi khía cạnh của hiện tượng, bằng phương pháp tổng hợp ta mới có thể thấy được thực chất của hiện tượng .
Thứ ba: Đối với những hiện tượng có tính chất hình thức khác nhau, có các thông tin ở các mức độ khác nhau, nên phải áp dụng các phương pháp khác nhau.
Mỗi phương pháp thống kê chỉ có ý nghĩa và tác dụng với một hay một số hiện tượng nào đó mà thôi. Do đó để chọn được phương pháp thích hợp ta phải dựa vào yêu cầu, mục đích phân tích và dự đoán, dựa vào số liệu thu thập, tác dụng của mỗi phương pháp .
II. Một số phương pháp phân tích thống kê
1. phương pháp phân tổ
a.Khái niệm
Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hay một số tiêu thức nào đó để tiến hành phân chia tổng thể nghiên cứu thành các tổ có tính chất khác nhau.
Sau quá trình phân tổ, các đơn vị có tính chất giống nhau hoặc gần giống nhau được đưa về cùng một tổ. Các đặc trưng số lượng cuỉa tổ giúp ta thấy được các đặc trưng của tổng thể, nhận thức được bản chất và quy luật của hiện tượng.
Phương pháp phân tổ là phương pháp cơ bản để tổng hợp thống kê và cũng là một trong các phương pháp quan trọng trong phân tích thống kê đồng thời là cơ sở vận dụng các phương pháp phân tích khác. Phương pháp phân tổ cho phép ngiên cứu cái chung và cái riêng một cách kết hợp.
Việc xác định số tổ phụ thuộc vào tiêu thức phân tổ .
Có các loại phân tổ sau:
+ Phân tích theo tiêu thức thuộc tính.
Tiêu thức thuộc tính phản ánh các tính chất của đơn vị tổng thể, không biểu hiện trực tiếp bằng con số. Tiêu thức thuộc tính có thể biểu hiện trực tiếp và gián tiếp.
Khi phân tích theo tiêu thức thuộc tính, các tổ thường được hình thành theo các loại hình khác nhau.
Đối với loại hình ít, giản đơn thường mỗi biểu hiện hình thành lên một tổ.Vì vậy có bao nhiêu loại hình sẽ hình thành nên bấy nhiêu tổ.
Đối với trường hợp số loại hình thực tế có nhiều, có khi tới hàng trăm hàng nghìn. Sẽ là quá nhiều tổ nếu coi mỗi loại hình là một tổ, không khái quát chung và nêu lên đặc điểm khác nhau giữa các tổ. Trong trường hợp này, phải ghép những loại nhỏ thành một tổ theo nguyên tắc: Các loại hình nhỏ được ghép với nhau phải giống nhau hoặc gần giống nhau về tính chất hay đặc điểm nổi bật nào đó .
+ Phân tổ theo tiêu thức số lượng.
Tiêu thức số lượng là tiêu thức có biểu hiện trực tiếp bằng con số. Khi phân tổ theo tiêu thức số lượng tuỳ theo lượng biến của tiêu thức lầ nhiêu hay ít mà việc phân tổ sẽ được quyết định khác nhau. Ngoài ra còn chú ý đến số lượng đơn vị tổng thể để xác định số tổ thích hợp.
Đối với trường hợp lượng biến của tiêu thức biến thiên ít (lượng biến chính là biểu hiện của các tiêu thức số lượng).
Trong trường hợp này, sự biến thiên lượng giữa các đơn vị chênh lệch nhau không nhiều, lượng biến thiên của các tiêu thức phân tổ chỉ thay đổi trong phạm vi hẹp và biến động rời rạc nên việc xác định số tổ sẽ đơn gản. Số tổ sẽ có giới hạn nhất định, mỗi lượng biến sẽ là một tổ.
Đối với trường hợp lượng biến của tiêu thức biến thiên lớn.
Trong trường hợp này cần chú ý đến quan hệ lượng chất để xem lượng biến tích luỹ đến mức độ nào đó thì chất thay đổi làm nảy sinh tổ mới. Như vậy, mỗi tổ sẽ bao gồm phạm vi lượng biến có hai giới hạn là giới hạn trên và giới hạn giới.
Trong đó:
Giới hạn dưới là lượng biến nhỏ nhất hình thành nên tổ đó.
Giới hạn trên là lượng biến lớn nhất mà nếu vượt qua giới hạn này thì chất sẽ biến đổi dần đến hình thành nên tổ mới. Chênh lệch giữa giới hạn trên và dưới được gọi là khoảng cách tổ (h). Khoảng cách tổ có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau. Nếu số tổ có khoảng cách tổ bằng nhau thì trị số khoảng cách tổ được xác định bằng công thức:
h =
Xmax - Xmin
n
Trong đó: Xmax: Lượng biến lớn nhất trong dãy số.
Xmin: Lượng biến nhỏ nhất trong dãy số.
n : Số tổ định chia.
Khi phân phối các đơn vị vào tổ ta căn cứ vào lượng biến của các tổ, thực chất là đếm số lần lặp lại của các lượng biến đó chính là tần số.
2. Phương pháp hồi quy tương quan
Hồi quy tương quan là phương pháp toán học được vận dụng trong thống kê để biểu hiện và phân tích mối liên hệ tương quan giữa các hiện tượng kinh tế -xã hội.
Phương trình hồi quy tuyến tính:
= a + bx
Trong đó:
x: là trị số tiêu thức nguyên nhân.
: là trị số điều chỉnh của tiêu thức kết quả.
a: là tham số tự do nói lên ảnh hưởng của các nhân tố khác ngoài nhân tố x.
b: là hệ số hồi quy nói lên ảnh hưởng của x đối với y tăng bình quân là b đơn vị
a, b: được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất. Theo đó a và b thoã mãn hệ phương trình:
hay:
b=
Để đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan tuyến tính ta sử dụng hệ số tương quan (r). Là một số tương đối ( Đơn vị: lần).
Hệ số tương quan tuyến tính được tính theo công thức:
r =
Bằng các phương pháp biến đổi ta có thể tính hệ số tương quan theo một số công thức sau:
Chu ý: hệ số tương quan có một số tính chất sau.
-hệ số tương quan lấy giá trị trong khoảng: -1 r 1 .
-khi r mang dấu (+) ta có tương quan thuận, khi r mang dấu (-) ta có tương quan nghịch.
- r =1 thì giữa x và y có liên hệ hàm số.
- r càng gần thì liên hệ tương quan càng chặt chẽ.
- r = 0 thì giữa x và y không có liên hệ tuyến tính.
*ngoài dạng phương trình hồi quy tương quan tuyến tính mà ta đã xét trên trong thực tế ta cón gặp một số dạng phương trình mà mối liên hệ của nó là liên hệ tương quan phi tuyến tính, tức là phương trình hồi quy là một đường cong.
+ Phương trình parabol.
Với a, b,c, là các tham số được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất.
Trong đó a, b, c phải thoã mãn hệ phương trình.
Pương trình này thường được sử dụng khi các trị số của tiêu thức nguyên nhân tăng lên thì các trị số của tiêu thức kết quả tăng (hoặc giảm), việc tăng (hoặc giảm) này đạt đến trị số cực đại (hoặc cực tiểu), rồi sau đó giảm (hoặc tăng).
+Phương trình hàm mũ.
Với a,b là các tham số được xác định từ hệ phương trình sau:
Phương trình này đươc áp dụng trong trường hợp cùng với sự tăng lên của các trị số tiêu thức nguyên nhân thì các trị số của tiêu thức kết quả thay đổi theo cấp số nhân, nghĩa là có tốc độ phát triển xấp xỉ nhau.
+ Phương trình Hypebol:
= a +
Với a, b là các tham số được xác định từ hệ phương trình sau đây.
Phương trình này được áp dụng trong trường hợp khi các chỉ số của tiêu thứ nguyên nhân tăng lên thì các trị số của kết quả có thể giảm và đến một giới hạn nào đó thì hầu như không giảm .
Để đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan giữa tiêu thức nguyên nhân và tiêu thức kết quả ta sử dụng trị số tương quan ().
Vì :
Nên ta cũng có thể tính bởi công thức.
Trong đó:
+ là phương sai chung phản ánh sự biến thiên của tiêu thức y do ảnh hưởng của tất cả các nguyên nhân (trong đó có nguyên nhân x).
+ là phương sai phản ánh sự biến thiên tiêu thức y do ảnh hưởng của các tiêu thức nguyên nhân khác.
Chú ý: tỷ số tương quan có một số tính chất sau :
- Lấy giá trị trong khoảng [ 0;1].
- Nếu = 0 thì không có liên hệ tương quan giữa x và y.
- Nếu = 1 có liên hệ hàm số giữa x và y .
- Nếu càng gần tới 1 thì liên hệ càng chặt chẽ.
-Tỷ số tương quan lớn hơn hoặc bằng giá trị tuyệt đối của hệ số tương quan. Tức là :
-Nếu thì giữa x và y có liên hệ tương quan tuyến tính.
3. Phương pháp dãy số thời gian
Dãy số thời gian là dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian .
Mỗi dãy số thời gian được cấu tạo bởi hai thành phần là thời gian và chỉ tiêu về hiện tượng được ngiên cứu. Thời gian có thể là giờ ngày, tuần, tháng, quý năm...Độ dài giữa hai thời gian liền nhau được gọi là khoảng cách thời gian. Chỉ tiêu về hiện tượng được ngiên cứu có thể là số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân. Trị số của chỉ tiêu được gọi là mức độ của dãy số.
Trong dãy số thời gian, người ta có thể biểu diễn chỉ tiêu trong từng khoảng thời gian hay vào những thời điểm nhất định. Do đó dãy số thời gian được chia làm hai loại .
+ Dãy số thời kỳ: Là dãy số thời gian phản ánh quy mô của hiện tượng trong từng khoảng thời gian nhất định. Mỗi mức độ của dãy số thời kỳ là sự tích luỹ về lượng qua thời gian, vì vậy độ dài khoảng cách thời gian ảnh hưởng trực tiếp đến trị số của chỉ tiêu và có thể cộng các trị số của chỉ tiêu để phản ánh quy mô của hiện tượng trong khoảng thời gian dài hạn.
+ Dãy số thời điểm: Là dãy số thời gian phản ánh quy mô của hiện tượng trong những thời điểm nhất định. Mức độ của hiện tượng ở thời điểm sau thường bao gồm toàn bộ hoặc một phần mức độ của hiện tượng ở thời điểm trước đó. Do đó việc cộng các trị số của chỉ tiêu không phản ánh quy mô của hiện tượng.
Dãy số thời gian là phương pháp thống kê nghiên cứu đặc điểm sự biến động của hiện tượng qua thời gian. Từ đó rút ra xu thế biến động chung và có thể dự đoán sự phát triển của hiện tượng trong tương lai.
Để có thể phản ánh đúng đắn sự phát triển của hiện tượng qua thời gian thì khi xây dựng một dãy số thời gian phải đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số. Cụ thể là: Nội dung và phương pháp tính các chỉ tiêu qua thời gian phải thống nhất; phạm vi tính toán của hiện tượng qua thời gian phải nhất trí; khoảng cách thời gian trong dãy số nên bằng nhau nhất là với dãy số thời kỳ. Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều lý do khác nhau nên các yêu cầu thường bị vi phạm. Để đảm bảo tính chất có thể so sánh được người ta thường phải tiến hành chỉnh lý lại tài liệu.
4. Các chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian
ã Mức độ trung bình theo thời gian
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại biểu của tất cả các mức độ tuyệt đối trong một dãy số thời gian.
Tuỳ theo dãy số thời gian là dãy số thời kỳ hay dãy số thời điểm người ta có cách tính khác nhau.
- Đối với dãy số thời kỳ, mức độ bình quân theo thời gian được xác định theo công thức:
Trong đó:
: Mức độ bình quân theo thời gian.
yi: Các mức độ dãy số thời kỳ. (i=1,2…n)
n: Số các mức độ trong dãy số.
- Đối với dãy số thời điểm có thể có khoảng cách tổ bằng nhau hoặc không bằng nhau. Vì vậy phải có các phương pháp tính khác nhau trong mỗi trường hợp này.
+ Trường hợp dãy số thời điểm có khoảng cách tổ bằng nhau để tính mức độ bình quân ta có công thức:
yi: là mức độ của dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau.(i=1,2…n)
+ Trường hợp dãy số thời điểm có khoảng cách tổ không bằng nhau ta có mức độ bình quân theo thời gian được tính theo công thức:
ti : Là độ dài thời gian có các mức yi tương ứng. (i=1,2..n)
ã Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối
Đây là chỉ tiêu phản ánh mức chênh lệch tuyệt đối của chỉ tiêu giữa hai thời gian nghiên cứu. Nếu mức độ của hiện tượng tăng lên thì trị số của chỉ tiêu mang dấu dương và ngược lại.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu khác nhau mà có các chỉ tiêu lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối giữa hai thời gian liền nhau. Ký hiệu là di.
di = yi – yi-1. (i = 2, 3, .. , n)
Với yi: Mức độ nghiên cứu.
yi-1: Mức độ liền trước kỳ nghiên cứu.
+ Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc (hay tính dồn) (Di) phản ánh mức độ tăng (hoặc giảm) tuyệt đối giữa kỳ nghiên cứu và kỳ nào đó được chọn làm gốc cố định (thường lấy mức độ đầu).
Di = yi – y1 (i = 1, 2, .. , n)
Với .
yi: Mức độ của hiện tượng ở kỳ nghiên cứu.
y1: Mức độ của hiện tượng kỳ gốc cố định.
Giữa lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn và định gốc có mối quan hệ tổng.
(i = 1, 2, … , n)
+ Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối bình quân là trung bình của các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn.
ã Tốc độ phát triển
Tốc độ phát triển là số tương đối (thường được biểu hiện bằng lần hoặc phần trăm) phản ánh tốc độ và xu hướng phát triển của hiện tượng qua thời gian. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà tính toán các chỉ tiêu sau:
Tốc độ phát triển liên hoàn (ti): phản ánh sự phát triển của hiện tượng giữa hai thời gian liền nhau:
(i = 2,3,…n)
Trong đó:
yi : Mức độ của hiện tượng ở thời gian i.
yi-1: Mức độ của hiện tượng ở thời gian liền trước.
+ Tốc độ phát triển định gốc (Ti): phản ánh sự phát triển của hiện tượng trong những khoảng thời gian dài; thường lầy mức độ đầu làm gốc.
(i = 2,3,..n)
Trong đó:
yi: Mức độ của hiện tượng ở thời gian i.
y1: Mức độ của hiện tượng ở thời gian đầu tiên của dãy số.
Giữa tốc độ phát triển liên hoàn và tốc độ phát triển định gốc có mối liên hệsau đây.
Thứ nhất: Tích tốc độ phát triển liên hoàn bằng tốc độ phát triển định gốc.
t2. t3… tn = Tn
Pti = Ti (i = 2,3,..n)
Thứ hai: Thương của hai tốc độ phát triển định gốc liền nhau bằng tốc độ phát triển liên hoàn giữa hai thời gian đó.
( i=2,3...n)
- Tốc độ phát triển bình quân: là trị số đại biểu của các tốc độ phát triển liên hoàn.
Khi sử dụng chỉ tiêu tốc độ phát triển bình quân, chỉ nên tính với những hiện tượng phát triển theo một xu hướng nhất định (cùng tăng hoặc cùng giảm).
ã Tốc độ tăng (hoặc giảm)
Phản ánh mức độ của hiện tượng nghiên cứu giữa hai thời gian đã tăng hoặc giảm bao nhiêu lần (hay bao nhiêu %). Đây là chỉ tiêu nói lên nhịp độ tăng (hoặc giảm theo thời gian). Dựa trên cơ sở lượng tăng (hoặc giảm) liên hoàn hay định gốc người ta có phương pháp tính khác nhau.
+ Tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn ai (i= 2,3,..n) là tỷ số so sánh giữa lượng tăng (hoặc giảm) liên hoàn với mức độ kỳ gốc liên hoàn.
ai = ti – 1.
Nếu tính bằng % thì.
ai(%) = ti(%) – 100
- Tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc Ai (i= 2,3,..n) là tỷ số giữa lượng tăng (hoặc giảm) định gốc với mức độ kỳ gốc cố định.
Nếu Ti tính bằng % thì.
Ai(%) = Ti(%) – 100
+ Tốc độ tăng (hoặc giảm) bình quân là chỉ tiêu tương đối thể hiện nhịp điệu tăng (hoặc giảm) đại diện trong một thời kỳ nhất định.
Hoặc
ã Giá trị tuyệt đối của t% tăng (hoặc giảm)
Ký hiệu là: gt.
Đây là chỉ tiêu phản ánh cứ 1% tăng (hoặc giảm) của tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn thì tương ứng với một rị số tuyệt đối là bao nhiêu.
(i = 2, 3, … , n)
Trong thực tế người ta không sử dụng giá trị tuyệt đối của 1% tăng hoặc giảm định gốc vì nó luôn là một hằng số và bằng .
5. Phương pháp chỉ số
Chỉ số là số tương đối (đơn vị là lần hoặc %) biểu hiện quan hệ so sánh hai mức độ của hiện tượng.
Đối tượng nghiên cứu của phương pháp chỉ số là các hiện tượng phức tạp, gồm các phần tử, đơn vị có đặc điểm, tính chất khác nhau mà người ta không thể cộng trực tiếp để so sánh.
Đặc điểm của phương pháp chỉ số:
+ Khi muốn so sánh các mức độ của hiện tượng kinh tế phức tạp, trước hết phải chuyển các đơn vị, phần tử, hiện tượng cá biệt có tính chất, đặc điểm khác nhau về một dạng đồng nhất có thể trực tiếp cộng chúng lại với nhau.
+ Khi có nhiều nhân tố cùng tham gia vào việc tính toán phải giả định chỉ có một nhân tố nào đó thay đổi còn các nhân tố khác thì không đổi (gọi là quyền số) nhằm loại trừ ảnh hưởng biến động của các nhân tố này tới kết quả so sánh.
Khi nghiên cứu sự biến động của nhân tố chất lượng thì người ta cố định nhân tố số lượng ở kỳ báo cáo còn khi ta nghiên cứu sự biến động của nhân tố số lượng, người ta thường cố định nhân tố chất lượng ở kỳ gốc. Chỉ số có nhiều tác dụng khác nhau tuỳ theo từng loại. Chỉ số được dùng để phản ánh sự biến động của phần tử qua thời gian gọi là chỉ số thời gian; chỉ số phản ánh sự biến động của hiện tượng qua không gian được gọi là chỉ số không gian; chỉ số phản ánh nhiệm vụ kế hoạch gọi là chỉ số kế hoạch. Ngoài ra, chỉ số còn được dùng để phân tích vai trò ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối với sự biến động của toàn bộ hiện tượng.
ã Phân loại chỉ số
Để phân loại chỉ số, người ta thường căn cứ vào phạm vi tính hoặc tính chất của chỉ tiêu mà chỉ số phản ánh.
Căn cứ vào phạm vi tính, phân chỉ số thành hai loại.
+ Chỉ số đơn (chỉ số cá thể) nêu lên sự biến động của từng đơn vị cá biệt. Ví dụ: chỉ số giá của một loại hàng hoá, chỉ số lượng của từng mặt hàng.
+ Chỉ số tổng hợp (chỉ số chung) là chỉ số phản ánh sự biến động của hiện tượng phức tạp gồm nhiều đơn vị hoặc phần tử khác nhau. Ví dụ: chỉ số giá của một ngành hàng, lượng hàng hoá tiêu thụ của một số mặt hàng hay của tất cả các mặt hàng…
Căn cứ vào tính chất của chỉ tiêu mà chỉ số phản ánh, gồm có hai loại chỉ số:
+ Chỉ số chỉ tiêu chất lượng phản ánh sự biến động chỉ tiêu chất lượng nào đó. Ví dụ: chỉ số giá thành, chỉ số giá cả…
+ Chỉ số chỉ tiêu khối lượng phản ánh sự biến động của một chỉ tiêu khối lượng nào đó. Ví dụ: chỉ số khối lượng sản phẩm sản xuất, chỉ số khối lượng hàng hoá tiêu thụ…
Việc phân chia này được áp dụng chủ yếu với một số chỉ tiêu thông thường trong từng mối quan hệ cụ thể.
Dưới đây là một vài nét về phương pháp tính chỉ số, cụ thể là với hai chỉ tiêu giá cả (p) và chỉ tiêu lượng hàng hoá tiêu thụ (q), là hai chỉ tiêu đại diện cho hai dòng chỉ tiêu chất lượng và khối lượng.
4.1. Chỉ số đơn (chỉ số cá thể)
+ Đối với chỉ tiêu giá cả:
+ Đối với chỉ tiêu sản lượng hàng hoá tiêu thụ:
Trong đó:
+ p0 và p1 giá cả của một loại hàng hoá nào đó ở kỳ gốc và kỳ nghiên cứu.
+ q0 và q1 sản lượng của một loại hàng hoá nào đớ ở kỳ gốc và kỳ nghiên cứu.
4.2. Chỉ số tổng hợp
a. Chỉ số phát triển:
ã Chỉ số phát triển về giá cả:
Trong đó:
Ip: Chỉ số chung về giá cả.
p1, p0: giá cả mỗi mặt hàng kỳ nghiên cứu và kỳ gốc.
q: lượng hàng hoá tiêu thụ của mỗi mặt hàng được cố định ở một kỳ nào đó đóng vai trò là quyền số.
- Nếu chọn quyền số ở kỳ gốc, ta có chỉ số chung về giá cả:
- Nếu chọn quyền số ở kỳ nghiên cứu, ta có chỉ số chung về giá cả:
- Nếu sự sai lệch giữa hai chỉ số trên là đáng kể thì dùng chỉ số Fisher:
ã Chỉ số phát triển về lượng hàng hoá tiêu thụ:
Trong đó:
Iq: Chỉ số chung về lượng hàng hoá tiêu thụ.
q1, q0: lượng hàng hoá tiêu thụ mỗi mặt hàng kỳ nghiên cứu và kỳ gốc.
pC: giá bán lẻ mỗi mặt hàng được cố định ở kỳ nào đó được chọn là quyền số.
- Nếu chọn quyền số ở kỳ nghiên cứu, ta có chỉ số chỉ chung về lượng hàng hoá tiêu thụ là:
- Nếu chọn quyền số ở kỳ nghiên cứu, ta có chỉ số chỉ chung về lượng hàng hoá tiêu thụ là:
- Nếu sự sai lệch giữa hai chỉ số trên là đáng kể thì dùng chỉ số Fisher:
ã Chỉ số không gian:
Chỉ số không gian đối với chỉ tiêu giá cả:
Trong đó:
PA: giá bán lẻ của địa phương A.
PB: giá bán lẻ của địa phương B.
qA: lượng hàng hoá đã tiêu thụ ở địa phương A
qB: lượng hàng hoá đã tiêu thụ ở địa phương B.
+ Chỉ số không gian về chỉ tiêu sản lượng:
Trong đó:
qA: sản lượng từng loại sản phẩm của địa phương A.
qB: sản lượng từng loại sản phẩm của địa phương B.
: giá cố định hoặc giá bình quân của cả hai địa phương A và B.
4.3. Hệ thống chỉ số
Hệ thống chỉ số là một đẳng thức nêu lên mối quan hệ với nhau giữa các chỉ số.
Căn cứ để xây dựng hệ thống chỉ số đó là mối quan hệ giữa các chỉ tiêu mà ta nghiên cứu. Có một số loại hệ thống chỉ số chủ yếu sau:
+ Hệ thống chỉ số của các con số kế hoạch: Biểu hiện mối liên hệ giữa các chỉ số kế hoạch với chỉ số phát triển, được dùng để phân tích trình độ hoàn thành kế hoạch của một doanh nghiệp, của một vùng, lãnh thổ.
Chỉ số phát triển = Chỉ số hoàn thành kế hoạch ´ Chỉ số kế hoạch.
Với k là mức kế hoạch.
+ Hệ thống chỉ số phát triển với quyền số bất biến: Tích các chỉ số liên hoàn bằng chỉ số định gốc.
+ Hệ thống chỉ số của các chỉ tiêu có liên hệ với nhau.
Cơ sở hình thành hệ thống chỉ số này là mối liên hệ thực tế giữa các chỉ tiêu kinh tế, biểu hiện dưới dạng phát triển như sau:
Doanh thu = Giá bán lẻ đơn vị hàng hoá ´ Lượng hàng đã tiêu thụ.
Từ đó ta có hệ thống chỉ số về mối quan hệ này như sau:
Chỉ số doanh thu = Chỉ số giá bán lẻ đơn vị hàng hoá ´ Chỉ số lượng hàng hóa đã tiêu thụ.
Hay:
Ipq = Ip ´ Iq
Hệ thống chỉ số tổng hợp bao gồm các chỉ số nhân tố (hay còn gọi là chỉ số bộ phận) và chỉ số toàn bộ. Mỗi chỉ số nhân tố nêu lên sự biến động của một nhân tố cấu thành hiện tượng và ảnh hưởng của biến động này đối với biến động của cả hiện tượng. Chỉ số toàn bộ nêu lên sự biến động của toàn bộ hiện tượng.
ã Hệ thống chỉ số có tác dụng
+ Phân tích mối liên hệ giữa các hiện tượng trong quá trình biến động, xác định vai trò ảnh hưởng biến động của mỗi nhân tố đối với sự biến động của hiện tượng gồm nhiều nhân tố, tìm ra nguyên nhân chủ yếu.
+ Trong nhiều trường hợp, lợi dụng hệ thống chỉ số có thể tính toán các chỉ số chưa biết khi biết các chỉ số khác trong hệ thống chỉ số.
III. một số phương pháp biểu hiện xu hướng biến động cơ bản của hiện tượng
Sự biến động của hiện tượng qua thời gian chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Ngoài các nhân tố chủ yếu, cơ bản quyết định xu hướng biến động của hiện tượng (xu hướng được hiểu là chiều hướng biến đổi chung nào đó, một sự biến hoá kéo dài theo thời gian và xác định tính quy luật về sự vận động của hiện tượng theo thời gian), còn có những nhân tố ngẫu nhiên làm cho hiện tượng phát triển lệch ra khỏi xu hướng cơ bản. Tác động của các nhân tố này theo chiều hướng ngược nhau và độ lớn không giống nhau.
Việc xác định xu hướng biến động cơ bản của hiện tượng có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu thống kê. Vì vậy cần sử dụng một số phương pháp thích hợp nhằm loại bỏ tác động của những nhân tố ngẫu nhiên để nêu lên xu hướng và tính quy luật về sự biến động của hiện tượng.
1. Phương pháp mở rộng khoảng cách thời gian
Mở rộng khoảng cách thời gian là ghép một số khoảng thời gian liền nhau lại thành một khoảng thời gian dài hơn. Chẳng hạn như ghép 3 tháng thành một quý, tức là mở rộng khoảng cách thời gian từ tháng sang quý.
Đây là phương pháp được sử dụng khi một dãy số có khoảng cách thời gian tương đối ngắn, có nhiều mức độ mà chưa phản ánh được xu hướng phát triển của hiện tượng. Phương pháp này chỉ sử dụng đối với dãy._. số thời kỳ. Tuy phương pháp này đơn giản nhưng có hạn chế là số lượng các mức độ trong dãy số đã mất đi quá nhiều.
2. Phương pháp dãy số bình quân trượt
Số bình quân trượt là bình quân cộng của một nhóm nhất định các mức độ đầu trong dãy số. Nó được tính bằng cách lần lượt loại dần các mức độ đồng thời thêm dần các mức độ tiếp theo, sao cho số lượng các mức độ tham gia tính số bình quân không đổi.
Giả sử có dãy thời gian y1, y2, y3,…, yn-2, yn-1, yn
Nếu tính trung bình trượt cho nhóm ba mức độ, ta có dãy số mới:
…
Việc chọn nhóm bao nhiêu mức độ để tính bình quân trượt phải dựa vào tính chất biến động của hiện tượng và số lượng các mức độ của dãy số nhiều hay ít. Nếu sự biến động của hiện tượng tương đối đều đặn và số lượng các mức độ dãy số không nhiều thì có thể tính trung bình trượt từ ba mức độ. Nếu độ biến động của hiện tượng lớn và dãy số có nhiều biến động thì có thể tính trung bình trượt từ ba đến năm mức độ. Bình quân trượt càng được tính từ nhiều mức độ thì càng có tác dụng san bằng ảnh hưởng của các tham số ngẫu nhiên. Nhưng mặt khác lại làm giảm số lượng các mức độ của dãy trung bình trượt, do làm giảm khả năng nói rõ xu hướng phát triển của hiện tượng trong thời gian nghiên cứu và gây khó khăn cho việc nghiên cứu. Nếu dãy số ban đầu có n mức độ thì dãy số bình quân trượt có n – k + 1 mức độ. Với k là số lượng các mức độ trong tính bình quân trượt.
3. Phương pháp hồi quy
Phương pháp hồi quy là phương pháp được sử dụng để biểu hiện xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng có nhiều dao động ngẫu nhiên, mức độ tăng giảm thất thường. Nội dung của phương pháp này là người ta tìm một phương trình hồi quy được xây dựng trên cơ sở dãy số thời gian gọi là hàn xu thế.
Hàm xu thế tổng quát có dạng:
Trong đó:
: mức độ lý thuyết.
t: thứ tự thời gian.
: Là các tham số của phương trình hồi quy và được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất.
Tức là:
Để lựa chọn dạng phương trình đúng đắn đòi hỏi phải dựa vào sự phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian đồng thời kết hợp với một số phương pháp thống kê khác.
Một số dạng phương trình hồi quy thường gặp
- Phương trình đường thẳng:
Phương trình này được sử dụng khi lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn xấp xỉ nhau (sai phân bậc một xấp xỉ nhau).
Các tham số a0, a1 được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất a0, a1 thoả mãn hệ phương trình sau:
- Phương trình parabol:
Phương trình này được sử dụng khi các sai phân bậc hai (tức là sai phân của sai phân bậc một) xấp xỉ nhau.
Các tham số được xác định bằng phương pháp bình quân nhỏ nhất; thoả mãn hệ phương trình sau:
- Phương trình hàm mũ:
Phương trình này được sử dụng khi các tốc độ phát triển liên hoàn xấp xỉ nhau.
Các tham số a0, a1 thoả mãn hệ phương trình:
4. Phương pháp biểu hiện biến động thời vụ
Biến động thời vụ là biến động mang tính chất lặp đi lặp lại trong từng thời gian nhất định của từng năm. Nguyên nhân gây ra biến động thời vụ là do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, tập quán sinh hoạt của dân cư.
Việc nghiên cứu biến động thời vụ giúp ta chủ động trong công tác quản lý kinh tế xã hội, hạn chế những ảnh hưởng của biến động thời vụ đối với sản xuất và sinh hoạt của xã hội. Trong nghiên cứu, chúng ta phải dựa vào số liệu của nhiều năm để xác định tính chất và mức độ của biến động thời vụ. Phương pháp thường sử dụng là tính các chỉ số thời vụ.
Tuỳ theo đặc điểm về sự biến động của hiện tượng qua thời gian, người ta có các phương pháp tính chỉ số biến động thời vụ khác nhau.
+ Trường hợp biến động thời vụ qua những thời gian nhất định của các năm tương đối ổn định, không có hiện tượng tăng (hoặc giảm) rõ rệt, chỉ số biến động thời vụ được tính theo công thức:
Trong đó:
Ii: chỉ số thời vụ của thời gian t.
: số trung bình các mức độ của các thời gian cùng tên i.
: số trung bình các mức độ trong dãy số.
+ Trường hợp biến động thời vụ qua những thời gian nhất định của các năm có sự tăng giảm rõ rệt, chỉ số biến động thời vụ được tính theo công thức:
Trong đó: yij: mức độ thực tế ở thời gian i của năm j.
: mức độ tính toán ở thời gian i của năm j.
IV. Một số phương pháp dự đoán thống kê ngắn hạn
1. Phương pháp dự đoán dựa vào dãy số thời gian
Ngày nay, dự đoán có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc ra quyết định cả trong thời gian dài lẫn trong một khoảng thời gian ngắn, nó được sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện nay người ta thường sử dụng phương pháp dự báo ngắn hạn, nó giúp chúng ta có cơ sở để lập các kế hoạch ngắn hạn, cung cấp những thông tin để từ đó có thể điều chỉnh và ra các quyết định đúng đắn. trong khoảng thời gian tương đối ngắn, các nhân tố ít có sự thay đổi do đó người ta thường sử dụng phương pháp dãy số thời gian trong việc dự báo thống kê ngắn hạn.
Sau đây là một vài phương pháp đơn giản nhất của dự đoán thống kê ngắn hạn.
1.1. Dự đoán bằng phương pháp ngoại suy hàm xu thế
Nội dung phương pháp này chính là dựa vào phương trình hồi quy theo thời gian để dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai.
Mô hình dự đoán:
(L = 1, 2,…)
Trong đó:
: Là mức độ dự đoán ở thời gian t + L.
e1: thành phần ngẫu nhiên phản ánh ảnh hưởng của các nhân tố ngoài mô hình.
1.2. Dự đoán dựa vào lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối bình quân
Phương pháp ngày được áp dụng khi các lượng tăng giảm tuyệt đối liên hoàn xấp xỉ nhau.
Ta có mô hình dự đoán:
Trong đó:
: lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối bình quân.
yn: mức độ cuối cùng của dãy số thời gian.
y1: mức độ đầu tiên của dãy số thời gian.
h: tầm xa của dự đoán.
1.3. Dự đoán dựa vào tốc độ phát triển bình quân
Phương pháp này được áp dụng khi các tốc độ phát triển liên hoàn xấp xỉ nhau.
Mô hình của dự đoán:
n+h = yn()h
Trong đó:
y1: mức độ đầu tiên của dãy số thời gian.
yn: mức độ cuối cùng của dãy số thời gian.
h: tầm xa của dự đoán.
: tốc độ phát triển liên hoàn.
1.4. Phương pháp bảng Buys – Ballot (BB)
Ngoài các phương pháp dự đoán đã nêu ở trên, còn có một phương pháp thống kê tương đối quan trọng để nghiên cứu xu hướng phát triển của hiện tượng trong tương lai. Nội dung của phương pháp này là xác định mô hình biểu hiện xu hướng biến động của hiện tượng trong tương lai, có kết hợp cả hai thành phần xu thế và thời vụ.
Thành phần thứ nhất là xu thế (f) phản ánh xu hướng cơ bản của hiện tượng kéo dài theo thời gian.
Thành phần thứ hai là biến động thời vụ (S). Biến động thời vụ là sự hoạt động lặp đi lặp lại của hiện tượng trong khoảng thời gian nhất định hàng năm.
Thành phần thư ba là biến động ngẫu nhiên (Z).
Ba thành phần này có thể kết hợp với nhau theo hai dạng: kết hợp cộng với kết hợp nhân.
-Dạng kết hợp cộng, đây là dạng phù hợp với biến động thời vụ có biến động ít.
y=f+S+Z
-Dạng kết hợp nhân phù hợp với biến động thời vụ có biên độ biến đổi tăng.
y= f.S+Z
hoặc y= f.S(1+Z)
Thông thường người ta dùng bảng Buys-Ballot (bảng BB) để phân tích thành phần của dãy số thời gian.
Giả sử xu thế là dạng tuyến tính.
f= a + bt
Biến động thời vụ theo tháng S= C ( tháng i= , năm j=)
Z có độ lệch bằng 0.
Kết hợp ba thành phần này theo dạng cộng.
y= a + bt + C +Z
Trong thực tế biến động ngẫu nhiên Zrất khó xác định vì vậy ta có:
y= a + bt + C
Các tham số a, b, C được ước lượng bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất.
Bảng BB có dạng như sau
Tháng,quý(i)
Năm(j)
1
…
i
…
m
T=
y=
j.T
1
y
….
y
…
….
j
y
…
y
…
….
n
…
…
T=
…
…
T=
S=
=
…
…
=
C
c
c
c
Trong đó:
t: mức độ thời gian.
: Trị số của chỉ tiêu ở tháng i năm j.
m: Số tháng (hoặc số quý) trong năm.
n: số năm nghiên cứu.
Từ các số liệu ở bảng trên, ta tính được giá trị các tham số của phương trình:
b=.-
a=.b
C=--b.
hay C=-- b.
Nhận xét: Phương pháp dự báo dựa vào hàm xu thế tuyến tính và biến động thời vụ có một số ưu điểm và hạn chế sau:
Ưu điểm: Phương pháp này cho kết quả tốt hơn so với 3 phương pháp (dự báo dựa vào lượng tăng hoặc (giảm) tuyệt đối, dự baó dựa vào tốc độ phát triển và ngoại suy hàm xu thế) vì sự biến động của dảy sốđược phân: xu thế, thời vụ, ngẫu nhiên.
Hạn chế: Trong trường hợp dãy số tiến hành đự đoán biến động tăng giảm không theo mùa vụ, lúc tăng, lúc giảm thì kết quả áp dụng theo phương pháp này thiếu chính xác.
2. Dự đoán dựa vào mối liên hệ tương quan giữa các hiện tượng kinh tế - xã hội
Bản chất của phương pháp này chính là dựa vào mối liên hệ tương quan giữa các hiện tượng để ngoại suy cho tương lai.
Mô hình dự đoán:
y = Ư(x1, x2, … ,xk,a0, a1, …, ak) + e
Trong đó:
y: biến phụ thuộc (tiêu thức kết quả).
xi: biến độc lập (tiêu thức nguyên nhân) . (i=1,2…k)
ai: hệ số hồi quy. (i=1,2…k)
e : thành phần ngẫu nhiên phản ánh ảnh hưởng của các nhân tố ngoài mô hình.
Các dự đoán thu được bằng phương pháp này có dạng dự đoán điều kiện tức là căn cứ vào mô hình biểu diễn quy luật liên hệ đã được xác định trên ta có dự đoán: Nếu các biến độc lập xi có giá trị dự đoán là (i = 1, 2… k) thì biến phụ thuộc sẽ có giá trị dự đoán là y*.
CHƯƠNG II
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, yêu cầu phân tích và dự đoán thống kê ở Việt nam
I. khái niệm và những vấn đề chung về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá
1. Một số khái niệm chung
Khái niệm xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ: là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài và với các khu chế xuất làm giảm hoặc tăng nguồn vật chất trong nước.
Trị giá xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá là toàn bộ giá trị hàng hoá đưa ra hoặc đưa vào lãnh thổ Việt nam làm giảm (xuất khẩu), làm tăng (nhập khẩu) nguồn của cải vật chất của Việt nam trong một thời kỳ nhất định và được tổng hợp theo hệ thống thương mại đặc biệt mở rộng.
Hàng xuất khẩu gồm: Toàn bộ hàng hoá có xuất xứ trong nuớc và hàng tái xuất, được xuât khẩu trực tiếp ra nước ngoài hoăc gữi vào các kho ngoại quan, trong đó:
+ Hàng có xuất xứ trong nước là hàng hoá được sản xuất, kinh doanh, khai thác, chế biến trong nước (kể cả hàng gia công cho nước ngoài, hàng hoá xuất khẩu ra nứơc ngoài của các doanh nghiệp chế xuất ở trong hoặc ngoài khu chế xuất).
+ Hàng tái xuất là nhũng hàng hoá đã nhập khấu, sau đó lại xuất khẩu nguyên dạng hoặc chỉ sơ chế bảo quản, đóng gói lại không làm thay đổi về chất của hàng hoá đó.
Hàng nhập khẩu gồm: Toàn bộ hàng hoá nhập ngoại và hàng tái nhập, việc nhập khẩu được phục vụ cho các mục đích sản xuất, kinh doanh, gia công tiêu dùng trong nước và để tái xuất khẩu, kể cả hàng nhập khẩu vào các doanh nghiệp chế xuất ở trong và ngoài khu chế xuất, trong đó:
+Hàng hóa nước ngoài: là những hàng hoá được nhập khẩu trực tiếp từ các nước kể cả hàng hoá của Việt nam được gia công ở nước ngoài sau đó nhập vào trong nước (Nếu có) và những hàng hoá nhập vào trong nước từ các kho ngoại quan.
+ Hàng tái nhập: là những hàng hoá của nước ta đã xuất khẩu ra nước ngoài, sau đó được nhập khẩu nguyên dạng hoặc chỉ qua sơ chế, đóng gói lại, bản chất của hàng hoá không thay đổi.
- Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển của mình. Do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý nguồn nhân lực, các nguồn tài nguyên thiên nhiên ...mà mỗi quốc gia có một thế mạnh về một hay một số lĩnh vực này nhưng lại không có thế mạnh về lĩnh vực khác. Để có thể khắc phục các hạn chế và tận dụng các cơ hội thuận lợi vốn có và tạo ra sự cân bằng các yếu tố trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia cần phải tiến hành trao đổi hàng hoá và dịch vụ cho nhau, họ bán những hàng hoá mà đối với họ mà có lợi thế sản xuất và mua những hàng hoá không có lợi thế sản xuất. Tuy nhiên hoạt động xuất nhập khẩu không phải chỉ diến ra giữa các quốc gia có những lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vức khác mà ngay cả khi quốc gia đó không có những lợi thế thì họ vẫn thu được lợi nhuận khi họ tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Đó chính là lợi thế tương đối được nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đưa ra khi ông đề cập về vấn đề lợi thế so sánh .
Nội dung của quy luật lợi thế so sánh là: nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với quốc gia khác trong việc sản xuất hầu hết các sản phẩm của quốc gia đó thì họ có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu để tạo ra lợi nhuận cho chính mình. Nghĩa là nếu quốc gia này tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu (thương mại quốc tế) thì trong những điểm bất lợi vẫn tìm ra những điểm có lợi để khai thác có hiệu quả phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế. Khi tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu, quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra tất cả mặt hàng thì vẫn có thể thu được lợi ích cho chính mình bằng việc chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mà việc sản xuất nó có lợi ích nhất, chi phí ít nhất so với các quốc gia khác. Những mặt hàng này được coi là những mặt hàng có lợi thế so sánh và chúng dược sản xuất ra để dùng và trao đổi với các quốc gia khác đồng thời họ sẽ nhập khẩu các mặt hàng mà việc sản xuất ra nó bất lợi nhất có chi phi sản xuất cao nhất .
2. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu trong nền kinh tế
Hoạt động xuất nhập khẩu là nội dung cơ bản của các hoạt động kinh tế đối ngoại đối với tất cả mọi quốc gia, vai trò của xuất nhập khẩu ngày càng được nâng cao và dần dần trở thành một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế .
Như chúng ta đã biết một nước muốn tăng trưởng đòi hỏi phải có 4 điều kiện là: Nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn và khoa học công nghệ .
Trong điều kiên một nền kinh tế nhỏ công nghệ lạc hậu thì xuất khẩu chỉ trông chờ vào những sản phẩm có sẵn trong nước (chủ yếu là những sản phẩm do sức lao động thủ công tạo ra) và những sản phẩm thô vừa khai thác chưa qua chế biến. Đó là những mặt hàng nông -lâm - hải sản, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng dệt may và các loại tài nguyên thiên nhiên khác. Việc tạo ra những hàng hoá này cũng là những điều kiện cần thiết để, tạo ra ngoại tệ cho việc nhập khẩu khoa học công nghệ mới, giải quyết việc làm, mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống của người lao động .
2.1. Vai trò của xuất khẩu
Sự tác động của xuất khẩu với nền kinh tế quốc dân thể hiện ở một số vấn đề sau :
- Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động nhập khẩu khoa học công nghệ mới, là tiền đề cho công cuộc CNH-HĐH đất nước.
- Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khoa học khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu và chậm phát triển của đất nước. CNH -HĐH đòi hỏi chúng ta phải có một lượng vốn lớn để có thể nhập khẩu máy móc, thiết bị kỹ thuật chuyển giao công nghệ hiện đại bằng cách thức đầu tư nước ngoài vay nợ và viện trợ. Các nguồn vốn này các quốc gia sẽ phải trả lại ở những thời kỳ sau và như vậy để vừa nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật tiên tiết để phát triển kinh tế vừa có thể trả nợ các nguồn vay thì nguồn vốn quan trọng nhất chỉ có thể dựa vào xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định đến quy mô tăng trưởng qua hoạt động xuất nhập khẩu. Nước ta vào thời kỳ 86-90 xuất khẩu chiếm 50% tổng nguồn thu ngoại tệ. Nguồn thu từ xuất khẩu năm 1994 đủ đảm bảo 60% nguồn vốn nhập khẩu, năm 1995 theo tỷ kệ này là 66%, 1996 là 65%, 1997 là 67%. Đối với những nước kém phát triển vốn từ ngoài được coi là nguồn vốn chủ yếu song mọi cơ hội đầu tư, vay nợ và viện trợ từ nước ngoài chí có thể thuận lợi khi chủ đầu tư hay người cho vay thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu của đất nước.
- Xuất khẩu đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thông qua việc xuất khẩu sẽ thúc đẩy nền sản xuất trong nược phát triển điều đó có tác dụng khá tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động của nó thể hiện ở chỗ:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khai thác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo điều kiện thúc đẩy cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu, dầu thực vật, chè,...có thể kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng, khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế-kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này thể hiện ở chỗ xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới.
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Quan hệ cạnh tranh này đòi hỏi mỗi quốc gia phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường.
+ Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới và hoàn thiện công việc, quá trình công việc sản xuất kinh doanh.
Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
+ Sản xuất hàng hoá xuất khẩu sẽ thu hút rất nhiều lao động làm việc.
+ Xuất khẩu tạo ra nguồn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng của nhân dân.
+ Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Như vậy, xuất khẩu và các quan hệ đối ngoại có tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Cụ thể, hoạt động có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ giữa xuất khẩu và quan hệ đối ngoại ngày càng phát triển hơn. Chẳng hạn, xuất khẩu và ngành sản xuất hàng xuất khẩu đã thúc đẩy các quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng quan hệ vận tải quốc tế.
2.2. Vai trò của nhập khẩu
Bên cạnh xuất khẩu, nhập khẩu có một vai trò cũng hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp, quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu nhằm bổ sung những hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những mặt hàng mà nó có lợi thế so sánh lớn hơn so với trong nước.
Nhập khẩu kích thích sự đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất để đáp ứng được yêu cầu cao của thị trường thế giới về quy cách, chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh để tạo nên sự cạnh tranh giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu. Một mặt trong quá trình sử dụng sản xuất chúng ta cũng cần phải đổi mới trang thiết bị, khoa học công nghệ và để nâng cao tay nghề đối với người lao động. Vì vậy, nhập khẩu hàng hoá sẽ đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược kinh tế, nó sẽ tạo nên một thị trường sản phẩm hàng hoá mới có tính cạnh tranh cao hơn, mạnh mẽ hơn và quyết liệt hơn.
Nhập khẩu thường có hai loại là nhập khẩu thay thế và nhập khẩu bổ sung. Chúng ta cần phải có một chiến lược đúng đắn trong nhập khẩu thì sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt là làm cân đối giữa công cụ lao động, đối tượng lao động và lao động.
3. Sự tác động tích cực của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam là một nước đang phát triển, hoạt động xuất nhập khẩu không những làm sứ mệnh đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với thế giới mà còn tác động tích cực đến nền kinh tế trong nước thể hiện ở một số khía cạnh sau:
3.1. Làm tăng nguồn ngoại tệ trong nước
Xuất nhập khẩu hàng hoá, máy móc mang lại nguồn thu nhập ngoại tệ chủ yếu cho đất nước, góp phần quan trọng trong việc cải thiện cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán, tăng lượng dự trữ ngoại hối, tăng khả năng nhập máy móc thiết bị và nhiên liệu để phát triển công nghiệp. Trong điều kiện nước ta hiện nay, với một nền công nghiệp còn thấp thì các hoạt động nhập khẩu ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Đối với nhiều nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu đã trở thành nguồn tích luỹ cơ bản cho giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá.
3.2. Tăng thu nhập
Nhờ có xuất nhập khẩu mà khả năng thu nhập của nền kinh tế quốc dân tăng lên, từ đó tạo ra nguồn thu để nhập các máy móc, thiết bị, khoa học công nghệ mới, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế và đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá.
Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về các mặt hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tái sản xuất và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
3.3. Tạo điều kiện để phát triển các ngành sản xuất
Hoạt động xuất nhập khẩu sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bổ sung kịp thời và làm giảm sự mất cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế ổn định và mạnh mẽ.
Thông qua các hoạt động xuất nhập khẩu mà các ngành công nghiệp chế biến và sản xuất hàng hoá phát triển. Sự phát triển của các ngành này đã đáp ứng những kỹ thuật tiên tiến nhằm sản xuất hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật cao, chất lượng tốt, rút ngắn thời gian sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự cạnh tranh là tất yếu và nó đã dẫn đến sự thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh doanh. Vì vậy, muốn tồn tại và phát triển được, các doanh nghiệp cần phải hoạt động có hiệu quả nhằm thu lợi nhuận cao với chi phí ít nhất. Muốn vậy các doanh ngiệp cần phải áp dụng kịp thời những tiến bộ của khoa hạc công nghệ mới vào trong sản xuất cũng như kinh doanh, đồng thời phải có đội ngũ sáng tạo trong công việc. Đối với nước ta trong những năm gần đây, nhập khẩu còn có vai trò tích cực đến việc thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam ra nước ngoài.
3.4. Giải quyết việc làm
Có thể nói việc làm là một vấn đề rất nan giải ngay cả thời gian trước đây và hiện giờ. Từ khi hoạt động xuất nhập khẩu ra đời và phát triển, nó đã làm nhẹ đi gánh nặng cho Nhà nước cũng như Chính phủ và các nhà chức trách. Nhờ có hoạt động xuất nhập khẩu mà hàng chục vạn người có công ăn việc làm, không những thế mà còn có thu nhập cao hơn các ngành khác.
4. Thực trạng xuất nhập khẩu của nước ta
Ngành ngoại thương nước ta từ năm 1979 trở về trước được tổ chức theo cơ chế tập trung quan hệ ngoại thương của nước ta chủ yếu là với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa trước đây. Nhà nước chịu trách nhiệm ký kết các nghị định thư với các nước và giao chỉ tiêu kế hoạch xuất nhập khẩu cho các đơn vị chuyên doanh trên cơ sở những nghị định thư đó. Trên cơ sở đó các đơn vị ký hợp đồng ngoại và giao hàng cho các nước. Mọi hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đều thông qua các đơn vị kinh doanh ngoại thương Trung ương (gọi là các Tổng công ty ngoại thương Trung ương) thuộc quản lý Bộ Ngoại thương. Các Bộ, Ngành khác và các địa phương có nhiệm vụ sản xuất, khai thác, thu mua rồi giao hàng cho các đơn vị kinh doanh của Bộ ngoại thương xuất khẩu, nhập khẩu theo kế hoạch Nhà nước.
Từ năm 1980 đến nay, Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách mới nhằm khuyến khích, mở rộng và tăng hiệu quả của hoạt động ngoại thương, Nhà nước trao quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu cho các Bộ, Ngành sản xuất, thực hiện chủ trương khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ của mỗi Bộ, Ngành. Đồng thời để phát huy tiềm năng của các địa phương, Nhà nước cũng cho phép nhiều địa phương có đủ những điều kiện do Nhà nước quy định, được phép trực tiếp xuất, nhập khẩu với nước ngoài.
Với chủ trương thay đổi chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, số đơn vị kinh doanh ngoại thương tăng lên nhanh chóng. Năm 1979, số đơn vị kinh doanh ngoại thương Trung ương là 11 đơn vị, không có đơn vị kinh doanh nào thuộc địa phương. Năm 1985, đã có 23 đơn vị kinh doanh ngoại thương Trung ương và 15 đơn vị kinh doanh ngoại thương địa phương. Năm 1990, tổng số các đơn vị được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp thường xuyên và từng chuyến là 270 đơn vị trong đó 170 đơn vị TW và 163 đơn vị địa phương. Năm 1991, số đơn vị xuất khẩu trực tiếp là trên 400 đơn vị, đến nay là hơn 7000 đơn vị.
Sự phát triển của hoạt động ngoại thương không chỉ thể hiện ở sự gia tăng mạnh mẽ số lượng các đơn vị xuất nhập khẩu mà kim ngạch xuất nhập khẩu qua mỗi năm đều tăng đáng kể, nhất là trong những năm gần đây. Năm 1976, tổng mức lưu chuyển ngoại thương của cả nước chỉ đạt 1,2 tỷ USD, năm 1985 là 2,6 tỷ USD, năm 1990 là 5,1 tỷ USD, năm 1995 là 13,6 tỷ USD và năm 2000 đạt trên 30 tỷ USD, ssơ bộ năm 2001 là 31.1 tỷ USD.
Số nước có quan hệ thương mại với Việt nam cũng tăng lên nhanh chóng, năm 1985 nước ta có quan hệ ngoại thương với 67 nước, năm 1990 là 57 nước, đến nay con số này đã là trên 160 nước.
Hoạt động xuất nhập khẩu đã đóng góp phần quan trọng trong những thành tựu kinh tế xã hội của đất nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, tăng trưởng kinh tế hàng năm trên 8%, lạm phát giảm từ 3 con số vào cuối những năm 80 xuống còn 2 con số vào đầu những năm 90 và còn một con số từ năm 1996 đến nay. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.
Kết quả của hoạt động của ngoại thương được tạo ra và gắn liền với hệ thống thống kê xuất nhập khẩu. Mặt khác, những đặc điểm của hệ thống thống kê xuất nhập khẩu cũng chịu ảnh hưởng nhiều chính sách, cơ chế điều hành, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương.
5. Vai trò của thống kê xuất nhập khẩu
Thống kê xuất nhập khẩu đảm bảo cung cấp những số liệu cần thiết cho lãnh đạo và các cơ quan quản lý, dùng làm cơ sở để định ra các quyết định đúng đắn và xây dựng kế hoạch cho công tác xuất nhập khẩu.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động thống kê xuất nhập khẩu là kiểm tra mức độ hoàn thành trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, kế hoạch nhập khẩu và phân phối trên cơ sở các chỉ tiêu đã được giao.
Qua các số liệu thống kê về xuất nhập khẩu hàng hoá của tháng, quý, năm của các đơn vị hoạt động xuất nhập khẩu. Tổng Cục Thống kê sẽ lập nên các Bảng thống kê tổng hợp tình hình xuất nhập khẩu.
Số liệu của xuất nhập khẩu nói lên mối quan hệ của nước ta với các nước khác, quá trình tham gia vào sự phân công và hợp tác kinh tế quốc tế.
Số liệu của thống kê xuất nhập khẩu còn giúp Ban lãnh đạo đề ra các chính sách để làm cho nền kinh tế phát triển một cách toàn diện, ổn định...
Thống kê xuất nhập khẩu là một chỉ tiêu thống kê kinh tế quan trọng trong đáp ứng nhu cầu sử dụng. Cùng với các thống kê kinh tế cơ bản khác, thống kê xuất nhập khẩu góp phần tính toán các chỉ tiêu của hệ thống tài khoản quốc gia, cán cân thanh toán quốc tế, tạo ra bức tranh của nền kinh tế đất nước, đồng thời thể hiện mối giao lưu kinh tế của nước ta.
Số liệu thống kê xuất nhập khẩu có thể được thu từ nhiều nguồn:
+ Báo cáo định kỳ của các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp.
+ Tờ khai Hải quan về xuất nhập khẩu.
+ Các cuộc điều tra doanh nghiệp bổ sung thống kê về thuế giá trị gia tăng, thống kê về trao đổi tiền tệ (qua hệ thống ngân hàng).
chương iii
vận dụng một số phương pháp thống kê chủ yếu để phân tích và dự đoán giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá ở việt nam
i. vài nét về xuất nhập khẩu hàng hoá ở việt nam
1. Tình hình phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam
Từ Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng ta là mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc của nước ta. Trong đó có sự đổi mới về quan điểm kinh tế. Đại hội VI đã rút ra một bài học kinh nghiệm đó là phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Từ đó chính sách kinh tế đối ngoại đã đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế cũng như an ninh quốc gia.
Với những mục tiêu đề ra sau Đại hội VI và ngày càng được chỉnh lý hoàn thiện. Cho đến nay, hệ thống xuất nhập khẩu của nước ta đã phần nào đuổi kịp được các nước trong khu vực và ngày càng có nhiều bạn hàng quốc tế. Việt Nam giờ đây đang chiếm một vị trí quan trọng đối với một số nước cũng như trên thị trường quốc tế.
Trong chính sách đổi mới, Nhà nước đã khuyến khích xuất khẩu, xoá bỏ độc quyền về ngoại thương. Các đơn vị kinh doanh được tạo mọi điều kiện cần thiết để tiếp xúc với mọi bạn hàng và thị trường bên ngoài. Do đó, công tác xuất nhập khẩu của nước ta trong những năm gần đây đã đạt được những kết quả khá khích lệ. Các doanh nghiệp sản xuất được thành lập theo đúng quy định của pháp luật, có cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu ổn định và đã có thị trường xuất khẩu ở nước ngoài. Có nhiều doanh nghiệp còn có cả văn phòng đại diện ở nước ngoài. Hiện nay, trong ngành xuất nhập khẩu nước ta đã có một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn có kinh nghiệm, đó là một thuận lợi lớn cho quan hệ ngoại thương. Với hệ thống pháp luật hiện nay, rất đơn giản nhưng cũng khá chặt chẽ, là điều kiện thuận lợi cho mọi doanh nghiệp có mọi ý định xuất nhập khẩu hàng hoá.
Từ tháng 3 năm 1989, Việt Nam đã thực hiện chính sách một tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố dựa trên cơ sở xem xét, tổng hợp các yếu tố lạm phát, cán cân thanh toán quốc tế, lãi suất, tỷ giá xuất nhập khẩu và giá ngoại tệ trên thị trường tự do. Đây là một điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi trao đổi hàng hóa xuất nhập khẩu, nó giúp cho quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá được nhanh hơn và làm quay nhanh vòng vốn hơn.
Trong những năm gần đây, xuất nhập khẩu của nước ta có nhiều bước thay đổi lớn. Hàng nhập khẩu ngày càng được giảm tỷ trọng của các thiết bị toàn bộ và tăng tỷ trọng của các hàng lẻ gồm nguyên, nhiên liệu, thiết bị, phụ tùng và hàng tiêu dùng. Điều này phản ánh sự chuyển hướng chính sách công nghiệp của Việt Nam vừa quan tâm xây dựng các công trình có quy mô lớn nhưng bên cạnh đó cũng rất quan tâm đến sản xuất những sản phẩm, hàng hoá để phục vụ cho người tiêu dùng trong nước. Không những thế mà Việt nam ngày càng có nhiều mặt hàng được xuất khẩu sang các thị trường quốc tế và có những mặt hàng hiện đang dẫn đầu về chất lượng trên thị trường nước bạn.
Trong những năm gần đây, hoạt động xuất nhập khẩu cũng khá cao mặc dù nó có bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á. Cụ thể là:
Tốc độ tăng trưởng tổng mức lưu chuyển n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29097.doc