Lời mở đầu
Roney- Một nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh đã phát biểu: “ Là một công ty kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường muốn thắng trong cạnh tranh phải nắm được các thông tin và xây dựng cho mình những chiến lược và kế hoạch đầy tham vọng”. Thực tế đã chứng minh như vậy: ở nước ta sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì không ít các doanh nghiệp đã làm ăn thua lỗ và đi đến phá sản. Phần lớn những doanh nghiệp tồn tại và phát triển được là do có được đường lối kế hoạch đú
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1358 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số phương hướng và biện pháp nâng cao chất lượng quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh ở Công ty xây dựng Thủ Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng đắn, nắm bắt và tận dụng được những biến đổi của kinh tế thị trường.
Kế hoạch sản xuất kinh doanh gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh, một nhà quản trị làm công tác kế hoạch trước khi vạch ra kế hoạch cần cân nhắc tính toán các yếu tố của sản xuất kinh doanh như lao động, thiêt bị, nguyên vật liệu, yếu tố quản lý sản xuất...đó là các bộ phận của kế hoạch.
Kế hoạch sản xuất kinh doanh được thực hiện nhằm:
-Đánh giá hiệu quả đạt được hoặc dự kiến đạt được so với kế hoạch
-Định hướng lựa chọn những phương án tối ưu của các giải pháp cho hoạt động của công ty trong tương lai và thời gian tới.
Mục tiêu của quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh là thông qua phân tích đánh giá để đưa ra được kế hoạch sản xuất kinh doanh đúng đắn nhất. Để làm được công việc đó cần thu thập các thông tin qua thời gian, các tài liệu và thông qua qúa trình phân tích tổng hợp để đưa ra kế hoạch tối ưu nhất, đồng thời giúp cho công ty phân bổ các khả năng và nguồn lực hạn chế của mình vào việc thực hiện mục tiêu sản xuất kinh doanh của công ty.
Quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh là một nội dung quan trọng của quản trị doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng hoạt động này sẽ là biện pháp quan trọng để định hướng phát triển và thực hiện được các mục tiêu phát triển của doanh nghiệp.
Xuất phát từ ý nghĩa đó trong em đã chọn đề tài đề tài: “Phương hướng và biện pháp nâng cao chất lượng quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh ở công ty xây dựng Thủ Đô” cho luận văn tốt nghiệp.
Mục đích nâng cao của luận văn là hệ thống hoá những vấn đề cơ bản của hoạt động quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh, đi sâu phân tích đánh giá thực trạng của quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh ở công ty xây dựng Thủ Đô, từ đó đề xuất một số phương hướng và biện pháp góp phần nâng cao chất lượng quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh ở công ty xây dựng Thủ Đô.
Nội dung luận văn được kêt cấu thành 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về kế hoạch và quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chương II: Phân tích thực trạng về chất lượng quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh ở công ty xây dựng Thủ Đô.
Chương III: Phương hướng và biện pháp nâng cao chất lượng quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh ở công ty xây dựng Thủ Đô.
Chương I
Một số vấn đề lý luận cơ bản về kế hoạch và quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
I. Thực chất và nôi dung của kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Thực chất kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1.1. Hoạt động sản xuất kinh doanh
Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.(1)
Như vậy kinh doanh không chỉ bao gồm các hoạt động thương mại (Theo cách hiểu truyền thống) mà có nội dung rất rộng bao gồm: Đầu tư, sản xuất chế biến, các hoạt động thương mại gắn với sản xuất, chế biến, hoạt động thương mại thuần tuý.
Sản xuất là hoạt động tạo ra vật phẩm cho xã hội bằng cách dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong dó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Do vậy, sản xuất kinh doanh phải gắn liền với thị trường, không có thị trường thì không có khái niệm kinh doanh.
Hoạt động sản xuất kinh doanh phải gắn liền với vận động của đồng vốn. Chủ thể kinh doanh không chỉ có vốn mà còn cần phải biêt cách thực hiện vận động đồng vốn đó không ngừng. Nếu gạt bỏ nguồn gốc bóc lột trong công thức tư bản của C.Mac có thể xem công thức này là công thức kinh doanh T-H-SX...H’-T’: chủ thể kinh doanh dùng vốn của mình dưới hình thức tiền tệ (T) mua những tư liệu sản xuất (H) để sản xuất (SX) ra những hàng hoá (H’) theo nhu cầu của thị trường nhằm thu được số tiền lớn hơn (T’).
Mục đích của kinh doanh chủ yếu là sinh lợi- lợi nhuận (T’-T>0).
1.2. Thực chất của kế hoạch sản xuất kinh doanh
Kế hoạch sản xuất kinh doanh là một công cụ quản lý của các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế nhằm đem lại hiệu qủa cho các doanh nghiệp và tổ chức đó.
Cũng như mọi phạm trù quản lý khác, công tác kế hoạch có nhiều cách tiếp cận khác nhau theo một góc độ riêng và đều cố gắng biểu hiện đúng bản chất của phạm trù quản lý này.
Cách tiếp cận theo quá trình cho rằng: Kế hoạch sản xuất kinh doanh là một quá trình có tính chất liên tục, xoáy chôn ốc với chất lượng ngày càng cao, kể từ khi chuẩn bị xây dựng kế hoạch cho tới lúc tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm đưa hoạt động của doanh nghiệp phát tiển theo các mục tiêu đã xác định.
Thei Steiner thì :“ Kế hoạch hoá là một quá trình bắt đầu bởi việc thiết lập các mục tiêu và việc quyêt định chiến lược, các chính sách kế hoạch chi tiết để đạt được mục tiêu. Nó cho phép thiết lập các quyết định thực thi và nó bao gồm chu kỳ mới của việc thiết lập mục tiêu và quyết định chiến lược nhằm hoàn thiện hơn nữa.”
Suy cho cùng kế hoạch sản xuất kinh doanh là hệ thống các văn bản phản ánh các ý đồ, mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp và những giải pháp để thực hiện những mục tiêu, mong muốn đó trong tương lai nhất định với hiệu quả kinh tế cao nhất. Nó phục vụ cho việc xác định các nguồn lực, tìm kiếm các nguồn lực để đạt được các mục tiêu kinh doanh.
Kế hoạch của các doanh nghiệp nhằm: “Mục tiêu sử dụng một cách hợp lý nhất toàn bộ tài sản Nhà nước giao cho tập thể lao động trong xí nghiệp, trực tiếp quản lý để phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế xã hội, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cần thiết cho xã hội, tạo nguồn thu cho ngân sách quốc gia và cải thiện từng bước đời sống công nhân viên chức”.(2) Kế hoạch sản xuất kinh doanh nhằm xác định số lượng từng loại sản phẩm để đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường với hiệu quả ngày càng cao.
2.Vai trò của kế hoạch sản xuất sản xuất kinh doanh đối với hoạt động quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
Một chương trình quản trị sẽ không có ý nghĩa nếu không đề cập đến việc xây dựng kế hoạch. Sau khi đã xác định được hệ thống mục tiêu kinh doanh, kế hoạch được coi là con đường để thực hiện mục tiêu đã đề ra.
Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chỉ là những chi tiêu pháp lệnh Nhà nước giao cho các đơn vị. Cùng với các chỉ tiêu đó, Nhà nước quy định giá bán, điạ điểm tiêu thụ, ba vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp đều do Nhà nước quy định. Do vậy nhiều xí nghiệp hoạt động không có tính sáng tạo, tự chủ, không kích thích sản xuất phát triển.
Khi chuyển sang mô hình kinh tế hỗn hợp, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, kế hoạch là khâu đầu tiên, là bộ phận quan trọng của công tác quản lý. Không có kế hoạch, một doanh nghiệp hay bất kỳ tổ chức nào sẽ như con thuyền không lái, chỉ chạy vòng quanh vì chẳng ai biết nó định đi tới đâu. Hoạt động kế hoạch hoá giúp các doanh nghiệp chủ động hoạch định các mục tiêu cũng như thực hiện chúng. Nó giúp cho mọi người biết mục tiêu cần đạt được và cần phải làm gì để thực hiện mục tiêu đó. Thiếu kế hoạch doanh nghiệp sẽ không tiến tới mục tiêu một cách hữu hiệu. Hơn nữa nó vạch ra những tác động quản trị nhằm đối phó với các khó khăn khác nhau theo thời gian (tuỳ thuộc vào thời gian của chiến lược, chương trình, dự án kế hoạch tác nghiệp...) là công cụ để điều hành và chỉ huy sản xuất, là cơ sở xác định nhiệm vụ và mối quan hệ công tác giữa các bộ phận và giữa những người lao động trong quá trình thực thi các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
(1) Văn bản luật kinh tế nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
(2) Văn kiện Đại Hội Đảng VIII
Kế hoạch hoá góp phần giúp doanh nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh bằng cách xây dựng các kế hoạch khai thác triệt để lợi thế so sánh, tập trung các biện pháp tận dụng thế mạnh của doanh nghiệp. Kế hoạch sản xuất kinh doanh bảo đảm sự an toàn, chống rủi ro kinh doanh cho các doanh nghiệp thông qua việc định ra những vùng an toàn, trong đó khả năng rủi ro vẫn có thể xảy ra nhưng chỉ là thấp nhất. Các kế hoạch dự phòng cho phép ứng đối một cách nhanh nhạy với những thay đổi trước đây chưa lường hết được. Tuy vậy cần tránh tư tưởng được ăn cả ngã về không. Khi xây dựng kế hoạch người ta thường phải tính toán sao cho khắc phục tình trạng dàn trải nguồn lực, hoặc tránh không sử dụng hết nguồn lực nhằm khai thác tối đa nguồn lực của doanh nghiệp. Kế hoạch là sự kết hợp giữa độ chín muồi với thời cơ, tồn tại và phát triển không ngừng của doanh nghiệp.
Lập kế hoạch là khâu đầu tiên trong chu trình quản lý doanh nghiệp với việc phác thảo các mục tiêu và phương án thực hiện góp phần không nhỏ vào việc xác định đúng các mục tiêu, hướng đi, xác lập, đánh giá lựa chọn phương án phối hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài để thực hiện có kết quả tốt các mục tiêu sản xuất kinh doanh.
3. Hệ thống kế hoạch sản xuất kinh doanh và nội dung chủ yếu của kế hoạch sản xuất kinh doanh
3.1. Hệ thống kế hoạch sản xuất kinh doanh
Trong thực tế, hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng, có thể phânloại theo các tiêu thức khác nhau:
- Nếu căn cứ vào thời gian, hệ thống kế hoạch bao gồm:
+ Kế hoạch chiến lược: Nhằm xác định các lĩnh vực sẽ tham gia, đa dạng hoá hoặc cải thiện hoạt động trên các lĩnh vực hiện tại; Xác định các mục tiêu, chính sách và giải pháp dài hạn về tài chính, đầu tư, nghiên cứu, phát triển, con người...
+ Kế hoạch trung hạn: Thường là 2- 3 năm nhằm phác thảo các chương trình trung hạn để thực hiện các mục tiêu, chính sách, giải pháp được hoạch định trong chiến lược lựa chọn.
+ Kế hoạch hàng năm: Là sự cụ thể hoá nhiệm vụ sản xuất kinh doanh dựa vào định hướng mục tiêu chiến lược, kế hoạch trung hạn, kết quả nghiên cứu điều tra các căn cứ xây dựng kế hoạch phù hợp với điều kiện của năm kế hoạch.
+ Kế hoạch tác nghiệp và các dự án: Kế hoạch triển khai các mục tiêu gắn liền với việc thực thi các chương trình hoặc chương trình đồng bộ có mục tiêu.
Kế hoạch chiến lược, trung hạn và kế hoạch hàng năm có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Kế hoạch chiến lược giữ vai trò trung tâm, chỉ đạo trong hệ thống kế hoạch sản xuất kinh doanh, là cơ sở để xây dựng kế hoạch hàng năm. Mặt khác thông qua việc lập kế hoạch hàng năm, có thể phát hiện những chỗ chưa cân đối, không hợp lý của kế hoạch chiến lược thể hiện trong nhiệm vụ và nội dung của kế hoạch hàng năm, có thể phát hiện những chỗ chưa cân đối, không hợp lý của kế hoạch chiến lược để kịp thời điều chỉnh và có những biện pháp thích hợp.
- Nếu căn cứ vào mối quan hệ gắn bó giữa các loại hoạt động kế hoạch hoá thì hệ thống kế hoạch bao gồm:
+ Bộ phận kế hoạch mục tiêu là bộ phận quan trọng nhất nhằm hoạch định các mục tiêu chính sách giải pháp về sản phẩm, thị trường, quy mô và cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó cũng xác định các chỉ tiêu tài chính cơ bản nhằm xác định hiệu quả của sản xuất kinh doanh gắn với từng phương án được hoạch định.
+ Các kế hoạch điều kiện hay hỗ trợ nhằm xác định các mục tiêu, giải pháp phương án huy động, khai thác các khả năng và nguồn lực nhằm thực hiện có hiệu quả các phương án kế hoạch mục tiêu. Việc xác định kế hoạch này căn cứ và gắn bó với kế hoạch mục tiêu nhằm đảm bảo tính đồng bộ trong mục tiêu, giải pháp, điều kiện thực hiện các hoạt động kế hoạch hoá và quản lý. độ dài về thời gian và yêu cầu của kế hoạch mục tiêu sẽ quyết định các vấn đề tương ứng của kế hoạch điều kiện. Hơn nữa, việc xây dựng và thực hiện kế hoạch điều kiện là nhằm đảm bảo và nâng cao tính khả thi của phương án và chương trình kế hoạch của doanh nghiệp.
3.2.Nội dung của kế hoạch sản xuất kinh doanh
Nội dung của kế hoạch dài hạn là xác định một cách đúng đắn các chỉ tiêu quan trọng nhất như mặt hàng, cơ cấu mặt hàng và sản lượng mặt hàng; khối lượng vật tư kỹ thuật; tổng số công nhân viên chức; tổng quỹ tiền lương và nhịp độ tăng năng suất lao động; chỉ tiêu tiến bộ khoa học kỹ thuật; vốn đầu tư cơ bản, mức độ cải thiện đời sống công nhân viên chức.
Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch dài hạn là nghiên cứu và đưa và áp dụng các biện pháp tích cực, thích hợp nhằm huy động hợp lý và có hiệu quả đến mức cao nhất năng lực sản xuất hiện có và sẽ có. Sử dụng hợp lý có hiệu quả toàn bộ tài sản, vốn, cải tiến tổ chức sản xuất, tổ chức cung ứng vật tư kỹ thuật, tổ chức lao động để tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm với chi phí thấp nhất và thị trường, xã hội chấp nhận; nghiên cứu và đưa vào áp dụng các loại đòn bẩy kinh tế nhằm nâng cao không ngừng hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nội dung của kế hoạch hàng năm bao gồm những bộ phận chủ yếu sau đây:
+ Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm: Là bộ phận chủ đạo và trung tâm của kế hoạch hàng năm, nó còn là căn cứ để tính toán các chỉ tiêu khác. Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ gồm hai bộ phận: Kế hoạch sản xuất và kế hoạch tiêu thụ.
Nội dung của kế hoạch sản xuất thể hiện qua các chỉ tiêu sản lượng sản phẩm chủ yếu và các loại sản phẩm khác tính bằng đơn vị hiện vật.
Nội dung của kế hoạch tiêu thụ phản ánh qua các chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện, số lượng sản phẩm mỗi loại được tiêu thụ...
+ Kế hoạch vật tư kỹ thuật: là bộ phận kế hoạch đảm bảo tái sản xuất của doanh nghiệp. Nó phản ánh khả năng thu mua, sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu, đảm bảo thực hiện có hiệu quả kế hoạch sản xuất, tiêu thụ. Nội dung chủ yếu thể hiện qua các chỉ tiêu: Số lượng vật tư cần dùng, dự trữ, cần thu mua trong năm kế hoạch.
+ Kế hoạch lao động tiền lương: là bộ phận kế hoạch đảm bảo số lượng và chất lượng lao động. Nó thể hiện khả năng sử dụng có hiệu quả sức lao động, quỹ tiền lương, tiền thưởng. Nội dung thể hiện qua năng suất lao động, tổng số công nhân viên chức...
+ Kế hoạch nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật: là bộ phận quan trọng của kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch phản ánh khả năng thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của kế hoạch sản xuất kinh doanh. Nội dung của kế hoạch được thể hiện qua các đề tài nghiên cứu khoa học, phương pháp ứng dụng quy trình công nghệ tiên tiến, sử dụng máy móc kỹ thuật mới.
Kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản: là bộ phận kế hoạch đảm bảo phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh trên cơ sở xác định hợp lý vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản và sưả chữa tài sản cố định của doanh nghiệp. Nội dung của kế hoạch được thể hiện qua các chỉ tiêu về xây dựng cơ bản.
Kế hoạch giá thành sản phẩm: là kế hoạch đảm bảo việc xác định hợp lý và tiết kiệm các loại chi phí sản xuất cho một đơn vị sản phẩm. Nội dung bao gồm các chỉ tiêu như: giá thành đơn vị sản phẩm chủ yếu, giá thành toàn bộ, tỷ lệ giá thành...
Kế hoạch tài chính: là kế hoạch tổng hợp toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dưới hình thức tiền tệ. Nó phản ánh tổng chi phí cho các dự án, hiệu quả kinh tế sẽ đạt được của dự án đó... nội dung gồm các chỉ tiêu khấu hao tài sản cố định, định mức vốn lưu động, các chỉ tiêu luân chuyển vốn lưu động.
Kế hoạch đời sống: là bộ phận kế hoạch phản ánh mức độ cải thiện đời sống của công nhân viên chức, mức độ sử dụng quỹ phúc lợi.
Các bộ phận kế hoạch trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy khi xây dựng cũng như khi chỉ đạo thực hiện phải chú ý đến các mối quan hệ đó.
II. Những nội dung chủ yếu của quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Những nội dung chủ yếu của quản trị quá trình xây dựng kế hoạch của doanh nghiệp .
1.1.Xác lập các căn cứ và các bước xây dựng kế hoạch phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp
Để xây dựng kế hoạch, mọi doanh nghiệp phải phân tích và xác lập những căn cứ cần thiết bao gồm các căn cứ chủ yếu sau:
Quán triệt các định hướng phát triển, chính sách chế độ của Nhà nước có liên quan đến lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Mô hình kinh tế phát triển theo tinh thần nghị quyết Đại Hội Đảng lần thứ VII nêu rõ “nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(2) thì trước khi trực tiếp điều tiết và hướng dẫn hoạt động của doanh nghiệp thị trường đã được Nhà nước điều tiết thông qua các chính sách, pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô khác. Do vậy, mặc dù doanh nghiệp lấy thị trường làm căn cứ chủ yếu cho việc xây dựng kế hoạch của mình thì việc căn cứ vào các chính sách chế độ quy định của Nhà nước là rất cần thiết, nó góp phần làm cho phương án kinh doanh của doanh nghiệp hợp lý và đúng hướng.
Kết quả điều tra nghiên cứu thị trường về nhu cầu đối với từng loại sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, tình hình cạnh tranh, sự biến động giá cả trên thị trường.
Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế nên lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Kết quả nghiên cứu nhu cầu thị trường phản ánh được quy mô, cơ cấu đối với từng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, có tính đến tác động của các nhân tố làm tăng hoặc giảm cầu để đáp ứng yêu cầu của công tác hoạch định. Những kết quả nghiên cứu này có thể tập hợp theo mức giá để định hướng mục tiêu kinh doanh phù hợp với phân đoạn thị trường hoặc theo khách hàng để đảm bảo sự gắn bó giữa sản xuất với các yếu tố hỗ trợ. Căn cứ vào số lượng các đối thủ cạnh tranh, sự biến động giá cả trên thị trường sẽ làm tăng hiệu quả thực hiện của kế hoạch .
Kết quả phân tích và dự báo về tình hình sản xuất kinh doanh, về khả năng và nguồn lực có thể khai thác.
Doanh nghiệp căn cứ vào kết quả phân tích hoạt động kinh tế thời kỳ trước và dự báo khả năng tương lai ứng với các nguồn lực có thể có, đặc biệt dựa vào những lợi thế vượt trội của doanh nghiệp về các mặt chất lượng sản phẩm, kênh tiêu thụ, hợp tác liên doanh, khoa học công nghệ để cạnh tranh... sẽ góp phần làm tăng tính khả thi của các phương án kế hoạch. Trọng tâm nghiên cứu cần tập trung vào các chỉ tiêu chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật: Đây là căn cứ quan trọng làm cơ sở cho công tác hoạch định. Môi trường kinh doanh biến đổi rất nhanh, đòi hỏi hệ thống này cần được hoàn thiện và sửa đổi sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Hệ thống định mức của doanh nghiệp phải gắn bó và phù hợp với hệ thống tiêu chuẩn định mức của ngành và nền kinh tế quốc dân.
- Kết quả nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, hợp lý hoá sản xuất: Kết quả nghiên cứu là căn cứ hàng đầu cho hoạt động nghiên cứu triển khai, xác định phương án sản phẩm, hoạch định dự trữ và nâng cao hiệu quả kinh doanh ...các kết quả có liên quan đến đổi mới công nghệ thường gắn với các phương án đầu tư phát triển sản xuất trong thời kỳ dài. Mặt khác, đổi mới cũng có những tác động khác nhau đối với sự biến đổi nhu cầu của thị trường, điều đó cần được tính trong hoạch định sản xuất về mặt hiện vật.
Căn cứ vào sự phát triển khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý kinh tế cũng như kinh nghiệm quản lý kinh tế: Căn cứ này có vai trò quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch vì tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật có ảnh hưởng sâu sắc đến sản xuất kinh doanh như chất lượng sản phẩm, giá cả, năng suất.
1.2.Thực hiện nội dung trong các bước xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh
Quá trình xây dựng trong các doanh nghiệp bao gồm nhiều khâu từ việc chuẩn bị đến hoạch định, thực hiện và kết thúc ở khâu đánh giá quyết định và lượng hoá phương án. Quá trình được mô tả theo quy trình sau:
Nhận thức cơ hội kinh doanh
Xác định các mục tiêu kinh doanh
Lượng hoá các phương án thông qua lập kế hoạch hỗ trợ
Lập kế hoạch hỗ trợ
Lựa chọn phương án
Đánh giá so sánh các phương án dựa vào các mục tiêu phải đạt
Hoạch định các phương thức kinh doanh
Soát xét các tiền đề căn cứ
Bước 1: Nhận thức cơ hội kinh doanh là điểm bắt đầu thực sự của việc lập kế hoạch. Trong bước này doanh nghiệp phải thực hiện một loạt các phân tích và dự báo nhằm nhận biết các cơ hội dựa trên sự hiểu biết và thông tin về thị trường cạnh tranh, quy mô, cơ cấu của nhu cầu, điểm mạnh, điểm yếu cùng với khả năng và nguồn lực của doanh nghiệp.
Bước 2: Xác định các mục tiêu tổng quát của hoạt động kinh doanh. Từ mục tiêu sẽ xác định các kết quả cần thu được các điểm kết thúc trong các việc cần làm, nơi nào cần thu được ưu tiên và cái gì cần hoàn thành bằng một mạng lưới các chiến lược, còn trong ngắn hạn đó là các định hướng mục tiêu về tốc độ tăng trưởng sản xuất kinh doanh, lợi nhuận...
Bước 3: Soát xét các tiền đề căn cứ. Đây là bước quan trọng có liên quan trực tiếp đến kết quả phân tích và dự báo về môi trường, điều kiện kinh doanh và nội bộ doanh nghiệp. Dự báo đóng vai trò quan trọngtrong việc xác định các tiền đề: Loại thị trường, số lượng, cơ cấu sản phẩm, các triển khai, các triển khai kỹ thuật công nghệ, chi phí, mức lương, mức thuế và chính sách thuế, môi trường chính trị- xã hội, luật pháp. Tương lai lại biến đổi rất phức tạp nên việc xác định các giả thuyết, căn cứ về mọi chi tiết của môi trường tương lai trong hoạch định kế hoạch sẽ không có lợi hoặc không thực tế. Do đó các tiền đề, căn cứ giới hạn theo các giả thiết hoặc cấp thiết.
Bước 4: Hoạch định các phương án kinh doanh. Để đạt được các mục tiêu có nhiều cách khác nhau, ứng với nó có nhiều phương án khác nhau. Yêu cầu cơ bản của bước này không phải là tìm ra tất cả các phương án mà là việc giảm bớt các phương án cần lựa chọn để sao cho chỉ có những phương án có nhiều triển vọng nhất được đưa ra phân tích với các điểm mạnh điểm yếu đã xác định.
Bước 5: Đánh giá so sánh các phương án trên cơ sở các căn cứ mục tiêu. Hầu hết mọi tình huống đều có rất nhiều phương án, có vô số các biến số và các ràng buộc cần phải xem xét, việc đánh giá trở nên rất khó khăn. Do vậy, sau khi tìm được các phương án và xem xét các điểm mạnh, điểm yếu của chúng, tiếp theo là phải tìm cách định lượng dựa trên các tiêu đề và các mục đích.
Bước 6: Lựa chọn phương án được đánh giá: là thời điểm phương án kế hoạch được chấp thuận.Trong thực tế doanh nghiệp có thể lựa chọn một phương án tối ưu và một hoặc nhiều phương án dự phòng.
Bước 7: Xây dựng các phương án kế hoạch hỗ trợ. Các kế hoạch này được xác định trong dài hạn đó là việc xác lập các chính sách, các biện pháp chiến lược. Còn trong ngắn hạn là việc xác định về vốn và lao động... Nhằm thực thi có hiệu quả phương án kinh doanh.
Bước 8: Lượng hoá các phương án bằng việc lập các quỹ ngân sách. Ngân quỹ chung của một doanh nghiệp biểu thị toàn bộ thu nhập và chi phí với lợi nhuậnhoặc số dư tổng hợp. Trong thực tiễn kinh doanh ngân quỹ trở thành một phương tiện để kết hợp các bộ phận kế hoạch khác nhau đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng để đo lường sự tăng tiến của kế hoạch.
1.3. Phương pháp xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh
Trong thực tế người ta sử dụng nhiều phương pháp như cân đối, quan hệ động, phương pháp tỉ lệ, phương pháp kinh tế... Tuy nhiên, phương pháp cân đối vẫn được sử dụng rộng rãi nhất, ơhương pháp này được tiến hành qua 3 bước:
Bước 1: Xác định nhu cầu về các yếu tố sản xuất để thực hiện các mục tiru kinh doanh dự kiến.
Bước 2: Xác định khả năng (bao gồm khả năng đã có và chắc chắn sẽ có) của doanh nghiệp về các yếu tố sản xuất.
Bước 3: Cân đối giữa nhu cầu và khả năng về các yếu tố sản xuất
Trong cơ chế thị trường, phương pháp cân đối được xác định với những yêu cầu sau:
- Cân đối được thực hiện là cân đối động. Cân đối để lựa chọn phương án chứ không phải cân đối theo phương án đã đựợc chỉ định. Các yếu tố của cân đối đều là những yếu tố biến đổi, đó là nhu cầu thị trường và khả năng có thể khai thác của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
- Thực hiện cân đối liên hoàn, tức là tiến hành cân đối kế tiếp nhau dể bổ xung và điều chỉnh phương án cho phù hợp với thay đôỉ của môi trường.
- Thực hiện cân đối trong những yếu tố trước khi tiến hành cân đối tổng thể các yếu tố. Kết quả cân đối tổng hợp là căn cứ xác định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là cơ sở để xác định hoặc điều chỉnh phương án kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Những nội dung chủ yếu của quản trị trong quá trình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
2.1. Xác định vị trí, vai trò và chức năng của hệ thống các cấp quản lý trong quá trình thực hiện kế hoạch
- Vai trò của các cấp kế hoạch trong nội bộ doanh nghiệp
Trên góc độ lý thuyết và việc phân cấp kế hoạch, doanh nghiệp là một hệ thống bao gồm các cấp doanh nghiệp phân xưởng. Mỗi cấp có vai trò khác nhau trong công tác kế hoạch, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò chỉ đạo và trung tâm. Do vậy, ở cấp doanh nghiệp, kế hoạch chỉ cần đi sâu và tập trung vào việc xác định các phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, những chỉ tiêu chủ yếu và các cân đối lớn để có hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày càng cao. Trong doanh nghiệp các cấp đều có vai trò làm chủ kế hoạch ở cấp dưới phải cụ thể hoá phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch của doanh nghiệp. Mặt khác, việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện và tiềm năng hiện có trong từng thời kỳ kế hoạch. Về phía doanh nghiệp cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các cấp thực sự làm chủ kế hoạch về các mặt quản lý thiết bị, máy móc, vật tư, lao động, nửa thành phẩm và chất lượng sản phẩm... kết hợp hài hoà các loại lợi ích trong doanh nghiệp.
- Trách nhiệm và quyền hạn của các cấp kế hoạch trong doanh nghiệp
Trong việc thực hiện kế hoạch, một vấn dề rất quan trọng là phải xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của mỗi cấp đối với từng mặt quản lý cụ thể như nguyên nhiên vật liệu, năng lượng, thiết bị máy móc, lao động, tiền lương, số lượng và chất lượng sản phẩm... Để làm được điều đó cần phải quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ, trách nhiệm đi đôi với quyền hạn, mặt khác phải xây dựng nội dung cụ thể của mỗi cấp. Chẳng hạn trong lĩnh vực quản lý nghuyên vật liệu, áp dụng hình thức “bán nguyên liệu, mua thành phẩm”. Các đơn vị chủ động gửi nguyên liệu đối với doanh nghiệp, phòng vật tư có yêu cầu mua lại sản phẩm theo khối lượng nguyên liệu được bán. Số chênh lệch giữa giá mua nguyên liệu và giá bán sản phẩm chính là phần thu nhập của các phân xưởng. Bằng cách này phát huy quyền chủ động sáng tạo trong các bộ phận sử dụng, khuyến khích việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm, bảo đảm hạch toán đầy đủ, chính xác, hạn chế hư hỏng mất mát vật tư trong khâu sử dụng.
2.2. Tiến hành phân phối nhiệm vụ kế hoạch của doanh nghiệp cho từng quý trong năm kế hoạch
Nội dung phân phối:
Sau khi xây dựng xong kế hoạch sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải tiến hành phân phối nhiệm vụ sản xuất theo kế hoạch cho các quý trong năm, nhằm tạo điều kiện sử dụng hợp lý thiết bị, máy móc, lao động. Phân phối nhiệm vụ cho các quý là việc cụ thể hoá nhiệm vụ sản xuất kinh doanh cả năm cho các quý.
Nội dung phân phối về nhiệm vụ sản xuất bao gồm phân phối về giá trị sản lượng. Trong việc phân phối mặt hàng, cần nêu rõ danh mục sản phẩm chủ yếu và các loại sản phẩm khác được tính bằng đơn vị hiện vật. Trong phân phối về giá trị sản lượng nêu rõ các phần: giá trị sản lượng hàng hoá, giá trị hàng hoá thực hiện và giá trị tổng sản lượng.
Các phương pháp phân phối nhiệm vụ sản xuất cho các quý trong năm kế hoạch
Thông thường khi đề cập đến phân phối nhiệm vụ sản xuất cho các quý, các doanh nghiệp thường quan tâm tới việc phân phối mặt hàng. Do vậy phần này chỉ đề cập đến vấn đề đó.
+ Phương pháp song song: Các sản phẩm được bố trí sản xuất ở tất cả các quý. Nhờ áp dụng phương pháp này, doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu thị trường tại bất kỳ thời điển nào. Tuy nhiên doanh nghiệp mất nhiều thời gian chuẩn bị, công tác chỉ đạo phức tạp. Phương pháp này chỉ thích hợp với các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất khối lượng lớn và hàng loạt lớn.
+ Phương pháp tuần tự: Các sản phẩm được bố trí dứt điểm trong từng quý, sản xuất xong sản phẩm này mới chuyển sang sản xuất sản phẩm khác. Mặc dù có thuận lợi cho việc chuẩn bị sản xuất, có điều kiện nâng cao năng suất lao động... nhưng nó lại không đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường trong một thời điểm. Phương pháp này thích hợp với doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất nhỏ và đơn chiếc.
+ Phương pháp hỗn hợp: Có loại sản phẩm được bố trí theo quý, có loại sản phẩm bố trí dứt điểm trong từng quý. Phương pháp này kết hợp được những ưu điểm và hạn chế được những nhược điểm của hai phương pháp trên. Vì vậy, nó được phổ biến trong các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất hàng loạt.
Để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, có thể sử dụng các chỉ tiêu tỉ lệ phần trăm hoàn thành kế hoạch, tốc độ tăng các chỉ tiêu giá trị như doanh thu, sản lượng, tiền lương, tiền thưởng, chi phí so với kỳ kế hoạch hoặc so với kỳ trước, tỉ lệ tăng trưởng bình quân các chỉ tiêu giá trị...
2.3. Kiểm tra, điều chỉnh và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch để tạo lập căn cứ cho xây dựng kế hoạch ở chu kỳ tiếp theo
- Các yêu cầu của phân phối nhiệm vụ sản xuất
+ Nhiệm vụ sản xuất về mặt giá trị sản lượng được phân phối cho mỗi quý trong năm cộng lại phải bằng nhiệm vụ sản xuất cả năm
+ Nhiệm vụ sản xuất phân phối cho quý sau thường cao hơn quý trước, nó thể hiện xu hướng phát triển của doanh nghiệp.
+ Để nâng cao mức độ sử dụng công suất của máy móc thiết bị cần coi trọng việc bố trí và phối hợp các mặt hàng.
Để đánh giá và kiểm tra kế hoạch một cách dễ dàng người ta sử dụng phương pháp PERT. Đây là một công cụ chính của lập kế hoạch và kiểm tra trong mọi hệ thống từ doanh nghiệp đến các cơ quan Nhà nước. Sử dụng phương pháp này có ưu điểm lớn nhất là tập trung sự chú ý vào những yếu tố trọng yếu.
- Kiểm tra: Căn cứ vào các yêu cầu các nhà quản trị sẽ xem hoạt động có đúng với yêu cầu không? Kiểm tra sẽ giúp những nhà quản trị xem xét hiệu quả hoạt động lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và điều hành. Tuy nhiên quy mô của công tác kiểm tra thay đổi theo cấp bậc của các nhà quản trị, họ đều có trách nhiệm đối với việc thực thi kế hoạch và do đó kiểm tra là chức năng quản trị cơ bản ở mọi cấp.
- Đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch: Thực chất của công việc này là xem xét sự phù hợp với các kết quả đã đo lường được với các tiêu chuẩn. Nếu các kết quả thực hiện phù hợp với các tiêu chuẩn, nhà quản trị có thể kết luận mọi việc vẫn diễn ra theo đúng kế hoạch và không cần điều chỉnh. Nếu kết quả không phù hợp ._.với tiêu chuẩn thì sự điều chỉnh sẽ có thể là cần thiết. Lúc này phải tiến hành phân tích nguyên nhân của sự sai lệch và những hậu quả đối với hoạt động của doanh nghiệp để đi tới kết luận có cần điều chỉnh hay không.
Điều chỉnh và tạo lập căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch ở chu kỳ tiếp theo: Việc điều chỉnh phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
+ Chỉ điều chỉnh khi cần thiết.
+ Điều chỉnh đúng mức độ, tránh tuỳ tiện, tránh gây tác động xấu.
+ Tính tới hậu quả sau khi điều chỉnh.
+ Tránh lỡ thời cơ và tránh bảo thủ.
+ Tuỳ điều kiện mà kết hợp các phương pháp điều chỉnh cho hợp lý.
III. Một số yêu cầu và ý nghĩa đối với nâng cao chất lượng quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1. Một số yêu cầu đối với việc nâng cao chất lượng quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh
1.1.Hệ thống chỉ tiêu phản ánh nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong kế hoạch sản xuất kinh doanh phải đảm bảo toàn diện đồng bộ và chính xác
Chỉ tiêu kế hoạch là các đích, các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu kế hoạch có thể tính toán được. Do vậy, người ta có thể so sánh, đối chiếu, phân tích thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu kế hoạch khác với các chỉ tiêu khác (tài chính, hạch toán...) ở chỗ chúng là các đích và mục tiêu phác thảo cho hoạt động trong tương lai. Vì vậy, ngoài kết quả phân tích hiện trạng khi xác định các chỉ tiêu kế hoạch còn phải căn cứ vào các kết quả dự toán và dự báo.
- Nếu căn cứ vào tính chất của các chỉ tiêu chia thành
+ Các chỉ tiêu số lượng phản ánh hướng phấn đấu của doanh nghiệp về mặt quy mô, số lượng của các hoạt động, bao gồm giá trị tổng sản lượng, số lượng lao động, giá trị tài sản cố định.
+ Các chỉ tiêu chấtlượng phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh như năng suất lao động, tỉ lệ doanh lợi, lợi nhuận...
- Nếu căn cứ vào đơn vị tính toán chia thành
+Các chỉ tiêu hiện vật là các chỉ tiêu đo lường bằng đơn vị hiện vật: kg, lít, nhiên liệu tiêu chuẩn.
+ Các chỉ tiêu giá trị là các chỉ tiêu đo lường bằng đơn vị tiền tệ.
- Nếu căn cứ vào phân cấp quản lý chia thành:
+ Các chỉ tiêu pháp lệnh là chỉ tiêu Nhà nước giao kế hoạch cho các doanh nghiệp Nhà nước. Nó quy định thống nhất về nội dung, phương pháp tính toán và có tính chất bắt buộc trong thực hiện. Hiện nay Nhà nước giao cho các doanh nghiệp 2-3 chỉ tiêu pháp lệnh: Số lượng và chất lượng các sản phẩm chủ yếu, giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện, các khoản nộp ngân sách. Trong tương lai các chỉ tiêu này được thay thế bằng cá đơn đặt hàng của Nhà nước có điều kiện và các bộ luật tương ứng.
+Các chỉ tiêu hướng dẫn là ccác chỉ tiêu không có ý nghĩa bắt buộc trong thực hiện, song lại bắt buộc về nội dung và phương pháp tính toán. Các chỉ tiêu này có ý nghĩa trong tập hợp và quản lý vĩ mô, nên Nhà nước hướng dẫn tính toán thống nhất. Trong nền kinh tế thị trường các chỉ tiêu này được áp dụng rộng rãi nhằm phục vụ cho hoạt động thông tin kinh tế và phân tích các chỉ tiêu kinh tế quốc dân.
+ Các chỉ tiêu tính toán: Đó là các chỉ tiêu doanh nghiệp tự quy định và tính toán phục vụ công tác quản lý và kế hoạch hoá trong phạm vi doanh nghiệp.
1.2. Mục tiêu và hệ thống các biện pháp thực hiện kế hoạch phải lấy hiệu quả kinh tế làm căn cứ và tiêu chuẩn đánh giá
Các doanh nghiệp hoạt động đều hướng tới mục tiêu hiệu quả, nó là tiêu chuẩn hàng đầu cho việc xây dựng, lựa chọn và quyết định phương án kế hoạch của doanh nghiệp.
1.3. Các bộ phận kế hoạch và biện pháp thực hiện kế hoạch phải bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ và đúng hướng
Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống thống nhất, bao gồm các phân hệ là các doanh nghiệp. Thực hiện yêu cầu này, trong các khâu công tác kế hoạch phải bảo đảm cho mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp đồng hướng và góp phần thúc đẩy việc thực hiện bao trùm của cả hệ thống.
Hệ thống mục tiêu và nhiệm vụ kế hoạch phải “ Vừa mang tính tham vọng vừa mang tính khả thi”
Với mục tiêu lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng và thực hiện phương án dầy tham vọng. Tuy nhiên các kế hoạch này phải có khả năng hiện thực.
1.5.Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa mục tiêu tình thế và mục tiêu chiến lược
Hệ thống mục tiêu kế hoạch phải được xây dựng và điều chỉnh linh hoạt theo yêu cầu thay đổi của môi trường và điều kiện kinh doanh.
1.6. Hệ thống mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp kế hoạch hoá phải kết hợp đúng đắn, hài hoà giữa các loại lợi ích
Nhằm tạo ra động lực cho quá trình tăng trưởng kinh tế công ty phải biết kết hợp hài hoà các loại lợi ích. Đây là cơ sỏ đảm bảo cho việc thực thi có hiệu quả các phương án kinh doanh.
3. ý nghĩa của việc không ngừng nâng cao chất lượng quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
Trước kia cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp trong quản lý kinh tế từng được áp dụng ở nước ta đã không tạo động lực phát triển mà còn làm cho nền kinh tế bị suy yếu, làm giảm năng suất lao động xã hội, gây rối loạn trong xã hội. Nguyên nhân là do kế hoạch áp đặt từ phía Nhà nước đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh bằng các chỉ tiêu pháp lệnh. Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách cung cấp các yếu tố đầu vào, chỉ định địa điểm tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp sản xuất không quan tâm đến hiệu quả vì lỗ Nhà nước chịu, lãi nộp cho Nhà nước. Hơn nữa do phân phối không đều gây thiếu thừa giả tạo, các đơn vị thụ động chờ cấp trên giao nhiệm vụ kế hoạch, không chủ động sáng tạo, không có sức sống độc lập.
Hiện nay đất nước ta chuyển hướng đổi mới, mô hình kinh tế hiện nay là vận hành nền kinh tế bằng mô hình hai bàn tay, trong đó kế hoạch là công cụ để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế. Xuất phát từ kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, họ đều rất quan tâm đến công tác kế hoạch hoá cấp công ty. Nhờ đánh giá đúng vai trò vị trí, xác định rõ chức năng, thực thi biện pháp nhằm hoàn thiện công tác này nhiều công tyđã xác định được chỗ đứng của mình trên thị trường. Nhà kinh tế học người Anh Roney cho rằng hoạt động kế hoạch hoá cấp công ty thực sự cần thiết, nhằm hai mục đích: Tấn công và dự phòng. Các nhà kinh tế học và chuyên gia quản lý Pháp, Thụy Điển cũng đã xác định kế hoạch hoá là chức năng đầu tiên trong chu trình quản lý cấp công ty.
Đặc điểm nổi bật của kế hoạch hoá doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay là các doanh nghiệp được chủ động tìm và cung ứng các yếu tố đầu vào, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm và kiểm tra thực hiện kế hoạch.
Chương II
Phân tích thực trạng về chất lượng quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh ở công ty xây dựng Thủ Đô
I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của công ty xây dựng Thủ Đô
1. Khái quát quá trình hình thành phát triển và phương hướng kinh doanh ở công ty xây dựng Thủ Đô
1.1. Quá trình hình thành phát triển
Công ty xây dựng Thủ Đô (trước đây là công ty xây dựng 208) là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc tổng công ty xây dựng Hà Nội, thành lập ngày 10/10/1989 theo quy định số 838/ BXD-TCLĐ Và Quyết định đổi tên số 1019/BXD- TCLĐ ngày 26/11/1996 của Bộ Trưởng Bộ Xây Dựng.
Giấy phép kinh doanh số 111499 của Sở kế hoạch và Đầu tư cấp ngày 24/2/1997 là tổ chức doanh nghiệp hoạt động theo hình thức hạch toán kinh tế độc lập, công ty được phép hoạt động trong các lĩnh vực sau:
- Thi công các loại móng công trình.
Xây lắp và kết cấu công trình.
Lắp đặt thiết bị cơ - điện- nước công trình.
Hoàn thiện xây dựng và trang trí nội thất công trình.
Xây dựng các công trình dân dụng và phần bao che các công trình công nghiệp
Xây dựng đường dây và trạm biến áp điện,
Đầu tư phát triển kinh doanh nhà.
Các thời kỳ phát triển
Trước năm 1993
Đây là thời kỳ mới ra đời của công ty nên vẫn có khó khăn về vốn, lao động và cơ sở hạ tầng. Nói chung ngành kinh doanh còn hạn chế, chỗ dựa chính là Tổng công ty, do đó nhiệm vụ chính là hoàn thành kế hoạch từ Tổng công ty giao xuống, thị trường của công ty chưa được mở rộng, chỉ tập trung vào khu vực Hà Nội. Máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, quản lý xa rời nhịp độ phát triển của cơ chế thị trường, chưa nhạy bén với sự biến đổi của kinh tế.
Mặc dù công ty cũng có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn thành nhiệm vụ mà Tổng công ty giao, có cố gắng trong tìm kiếm việc làm nhưng chưa đem lại kết quả đáng khích lệ.
Sau năm 1993 đến nay
Công ty đã nỗ lực phấn đấu vượt mọi khó khăn, thử thách, trước tiên là việc tạo dội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật trình độ cao, đầu tư đồng bộ nâng cao cơ sở vật chất, hiện đại hoá các tư liệu lao động, đầu tư nhiều máy móc thiết bị hiện đại phù hợp với công nghệ mới có hiệu quả cao trong công tác xử lý nền móng, công tác vận chuyển như than cọc nhồi, trạm bê tông thương phẩm đồng bộ với máy bơm.
Công ty đã tham gia đấu thầu và thi công nhiều công trình xây dựng quy mô lớn trong phạm vi cả nước đạt huy chương vàng về chất lượng cao.
Cùng với sự lớn mạnh và trưởng thành của ngành xây dựng là sự đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, các giấy phép kế hoạch sản xuất kinh doanh với các lĩnh vực ngày càng phong phú. Công ty nhận thầu xây dựng các công trình có quy mô lớn, công trình xây dựng dân dụng mà còn xây dựng các công trình công cộng, lắp đặt điện nước, đường dây và trạm biến thế, kinh doanh vật tư, vật liệu xây dựng... Ngoài ra còn hợp tác với nước ngoài thành lập liên doanh xây dựng khách sạn: Công ty Quốc Tế Hồ Tây. Với sự đa dạng ngành nghề của công ty có thể phục vụ một lượng lớn khách hàng trong và ngoài nước, trên địa bà Hà Nội và các tỉnh khác. Trái ngược hẳn với trước kia, địa bàn hoạt động của công ty chỉ tập trung ở Hà Nội. Ngoài việc mở rộng thị trường, sâm nhập vào thị trường trên khắp cả nước, công ty còn không ngừng nâng cao đẩy mạnh cạnh tranh về giá cả chất lượng và tốc độ.
Trong các năm vừa qua công ty liên tục nhận được những huy chương vàng chất lượng cao của ngành xây dựng. Các công trình đạt huy chương vàng chất lượng cao của ngành gồm:
- Trụ sở Đại Sứ Quán Mỹ tại Hà Nội năm 1995
- Đài phát thanh và Truyền Hình Hà Nội năm 1996
- Khách Sạn Trung Tâm Hà Nội năm 1997
- Khách sạn Hoa Anh Đào năm 1998
-Công trình nhà ở CBCNV 28 Trường Chinh năm 1998
Doanh thu của công ty qua các năm như sau:
Đơn vị tỷ đồng
1.2.Phương hướng kinh doanh của công ty
Trong điều kiện kinh tế nước ta còn tiếp tục khó khăn. Công ty xây dựng Thủ Đô cũng nằm trong tình trạng khó khăn chung của các doanh nghiệp. Công ty cần nỗ lực vào các mục tiêu chính:
- Tập trung trọng tâm vào công tác tìm kiếm việc làm, nhất là ở các tỉnh mới tách, đa dạng hóa loại hình sản xuất như xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá, cầu cống, kinh doanh nhà, liên doanh xây dựng khu vui chơi giải trí, thể thao.
Để đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh, công ty dự kiến đề nghị Tổng công ty cho phép thành lập xí nghiệp dịch vụ và xây lắp.
Ngoài ra cần nhận đại lý tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của các hãng nước ngoài như: Hệ thống ống nước, phụ kiện thiết bị điện...
Tuy nhiên không thể xa rời mục tiêu thực hiện tốt các chỉ tiêu từ Tổng công ty giao cho như chỉ tiêu về sản lượng, các chỉ tiêu pháp lệnh...
Phấn đấu thực hiện xây dựng các công trình có chất lượng cao và đạt huy chương vàng trong toàn ngành.
Theo quy hoạch phát triển thành phố Hà Nội thì nhu cầu về xây dựng các khu dân cư, nhà máy là cao. Do vậy công ty cần mở rộng sản xuất kinh doanh bằng cách tham gia dự thầu nhiều công trình, nâng cao hiệu quả sử dụng của máy móc thiết bị nhằm giảm chi phí.
2. Khái quát về mô hình quản trị hệ thống sản xuất kinh doanh ở công ty xây dựng Thủ Đô
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty xây dựng Thủ Đô
Giám Đốc
Pgđkt-tc-at-kcs
Kế toán trưởng
Pgđkh-đt-marketing
Phòng K T- AT-KCS
ĐộiĐiện máy
Phòng KH- ĐT-MARKETING
Phòng Tổng hợp TC-HC
Phòng kế toán
XNK D nhà & VLXD
XNHoàn thiện
XN Kinh doanh tổng hợp
XN Lắp máy điện nước
2.1. Hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh
Hệ thống nàyngày càng được mở rộng. Tháng2/1998 thành lập xí nghiệp lắp máy điện nước. Năm 1999 xí nghiệp dịch vụ và xây lắp được thành lập. Chức năng hoạt động của 4 xí nghiệp trong quản trị kế hoạch là:
- Xí nghiệp là một đơn vị hạch toán nội bộ theo cấp quản lý của công ty. Có nhiệm vụ thi công công trình được giao theo đúng chất lượng Mĩ Thuật, Tiến Độ, An toàn lao động và hiệu quả.
- Xí nghiệp lập kế hoạch sản xuất kinh doanh tháng, quý theo kế hoạch của công ty. Thống kê thực hiện kế hoạch nộp báo cáo cho phòng kế hoạch vào ngày 20 hàng tháng.
+ Xí nghiệp xây dựng tổng hợp:
Tổ chức thi công dân dụng và bao che công trình công nghiệp nhóm B, xây dựng công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp, nạo vét, bồi đắp mặt bằng đào đắp nền công trình.
Thi công các loại móng công trình.
+ Xí nghiệp hoàn thiện:
Hoàn thiện trang trí nội thất.
+ Xí nghiệp kinh doanh nhà và vật liệu xây dựng:
Kinh doanh nhà, kinh doanh vật tư, vật liệu xây dựng .
+Xí nghiệp dịch vụ và xây lắp:
Thực thiện công tác xây lắp trong công ty cho các công trình và mở dịch vụ xây lắp khi có nhu cầu của thị trường.
Các xí nghiệp là đơn vị xây lắp thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của công ty. Riêng xí nghiệp lắp máy điện nước và xây dựng ngoài nhiệm vụ xây lắp máy điện nước còn phục vụ cho các xí nghiệp toàn công ty về điện nước, phương tiện dụng cụ máy móc thi công. Xây lắp kết cấu công trình, lắp đặt thiết bị điện nước công trình xây dựng đường dây và trạm biến áp điện 35KV là nhiệm vụ chính.
2.2.Hệ thống bộ máy quản lý
Giám đốc do toàn thể cán bộ công nhân viên bầu ra, là người điều hành hoạt động kinh doanh của công ty và chịu trách nhệm trước Tổng công ty về việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao.
Phòng tài chính kế toán và các phòng chức năng có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc xử lý các thông tinh từ dưới lên.
Phòng kế hoạch - đầu tư- marketinglà nơi trựctóp xây dựng kế hoạch của công ty thông qua các thông tin từ các xí nghiệp đưa lên, từ trên xuống và cá phòng ban chức năng khác. Sau đó trình lên giám đốc và từ đó giám đốc giao kế hoạch cho các đơn vị thành viện. Phòng tham mưu giúp việc cho giám đốc trong quản lý và điều hành công việc.
Phòng tổng hợp: Tham mưu giúp việc cho giám đốc và triển khai công tác tổ chức lao động tiền lương, công tác hành chính.
Phòng kỹ thuật: Tham mưu giúp việc kỹ thuật thi công KCS, ATLĐ, điện máy và chỉ đạo thi công ở các công trường. Có Trách nhiệm báo cáo trực tiếp mọi hoạt động của phòng ban và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc và các phó giám đốc.
Hệ thống các quan hệ của các cơ chế tác động quản lý
ở đây bộ phận trực tuyến là mối quan hệ giữa giám đốc công ty và các giám đốc xí nghiệp, các đội trưởng xây dựng. Bộ phận chức năng là các phòng ban. Các phòng ban chức năng chỉ có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc về kế hoạch và quyết định mọi mệnh lệnh đèu do giám đốc đưa ra. Các phòng ban chỉ có thể hướng dẫn các xí nghiệp sản xuất về mặt nghiệp vụ, nhưng không trực tiếp được ra lệnh. Giám đốc trực tiếp phụ trách phòng tổ chức hành chính. Các bộ phận hoạt động trong bộ máy quản lý gắn bó hữu cơ với nhau đảm bảo sao cho kết quả hoạt động tốt nhất. Hệ thống quan hệ quản lý như vậy sẽ có khả năng tự phát hiện, tự điều chỉnh và tự thích nghi cao.
Giám đốc xí nghiệp tổ chức thực hiện mục tiêu kế hoạch và kế hoạch của công ty. Trên cơ sở kế hoạch của xí nghiệp, giám đốc xí nghiệp lập kế hoạch mua máy móc thiết bị phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của xí nghiệp trình giám đốc công ty. Có trách nhiệm quản lý sử dụng máy móc thiết bị, kiểm tra bảo dưỡng theo kế hoạch của công ty.
3. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật của công ty có liên qua đến kế hoạch sản xuất kinh doanh
3.1.Một số đặc điểm chung của hoạt động xây dựng cơ bản cần lưu ý trong quá trình xây dựng kế hoạch
Đặc điểm về sản phẩm của hoạt động xây dựng cơ bản bao gồm:
+ Sản phẩm của hoạt động xây dựng cơ bản được sử dụng cố định tại địa điểm quy định. Sản phẩm cùng loại được xây dựng và phân bố ở nhiều nơi. Do đó điều kiện sản xuất và kinh doanh của ngành xây dựng là không ổn định, luôn luôn biến đổi theo địa điểm và giai đoạn xây dựng công trình. Điều này tất nhiên sẽ dãn đến sự ảnh hưởng đậm nét đến quá trình thi công xây dựng và cuối cùng tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Sản phẩm xây dựng phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Mang nhiều tính chất cá biệt, đa dạng về công dụng cũng như có kết cấu và phương pháp sản xuất khác nhau. Bởi vậy ảnh hưởng nhiều đến các mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Kích thước của sản phẩm lớn, giá trị cao, thời gian sản xuất và sử dụng kéo dài, cố định về địa điểm và phân bố nhiều nơi trên lãnh thổ.
+ Sản phẩm của hoạt động xây dựng cơ bản được tạo ra do yêu cầu trong đơn đặt hàng. Sản phẩm gắn rát chặt với thị trường: Chỉ khi nào tìm được thị trường chắc chắn mới tiến hành hoạt động xây dựng. Hiện nay phần lớn các công trình xây dựng tuyển chọn tổ chức xây dựng theo hình thức đấu thầu.
-Đặc điểm về quá trình tổ chức thi công xây dựng cơ bản: Quá trình tổ chức thi công xây dựng rất phức tạp. Số đơn vị tham gia quá trình xây dựng công trình thường phải hiệp tác xây dựng bởi vì để hình thành một công trình phải trải qua nhiều khâu, có rất nhiều đơn vị tham gia làm các công việc khác nhau, các đơn vị này cũng là việc trong một không gian, thời gian. Do đó, tổ chức thi công cần phối hợp chặt chẽ với nhau bằng các hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Điều này buộc các đơn vị thi công phải nắm chắc dự toán và kiểm tra thường xuyên trong quá trình thi công.
3.2. Một số đặc điểm của công ty xây dựng Thủ Đô có liên quan đến quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty
- Điều kiện sản xuất không ổn định, luôn luôn biến động theo địa điểm và giai đoạn xây dựng. Do vậy, phương pháp tổ chức sản xuất và biện pháp kỹ thuật phải thay đổi, máy móc và con người di chuyển ảnh hường đến năng suất lao động, phát sinh nhiều chi phí cho khâu vận chuyển và công trình tạm. Công ty xây dựng công trình ở nhiều nơi như Hà Nội và các tỉnh lân cận, có khi đi tận Miền Nam, nên chi phí vận chuyển để xây dựng công trình là khá lớn. Do ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch, do điều kiện của địa điểm xây dựng đem lại. Cùng một công trình xây dựng nhưng địa điểm xây dựng khác nhau thì chi phí sẽ khác nhau. Với những công trình đặt tại nơi có sẵn nguồn nguyên liệu, ít phải vận chuyển máy móc thiết bị thì người nhận thầu xây dựng sẽ có nhiều cơ hội hạ thấp chi phí sản xuất và thu lợi nhuận cao hơn, khả năng thắng thầu cao hơn nếu đưa giá thấp hơn. Đây là điểm mà công ty cần phải chú ý.
Vật liệu xây dựng nhiều, có trọng lượng lớn, nhất là xây dựng phần thô chủ yếu là vật liệu nặng, nhu cầu vận chuyển lớn, chi phí vận chuyển cao. Đòi hỏi công ty phải có một tổ chức đội ngũ cán bộ làm công tác cung ứng vật tư kỹ thuật. Đặc biệt phải đưa vật liệu đến tận công trình theo tiến độ thi công tổ chức kho trung gian cho những vật liệu dùng trong công tác hoàn thiện. Hiện tại một số nguyên vật liệu mua ở một số địa phương có sự chênh lệch về giá là khá cao đòi hỏi đội ngũ làm công tác cung ứng phải nhanh nhạy với thị trường. Tuy nhiên cũng cần phải chú đến yếu tố chi phí vận chuyển vì chi phí này lớn so với giá mua của nguyên vật liệu
- Lực lượng lao động không ổn dịnh: Do đặc điểm về sản xuất kinh doanh của ngành xây dựng nên yêu cầu về lao động của công ty có rất nhiều khác biêt so với các ngành sản xuất kinh doanh khác, nhiều khi công việc cần rất nhiều lao động, nhưng có thời điểm công nhân lại không có việc làm. Do đó, công ty phải ký hợp đồng ngắn hạn với công nhân thuê ngoài. Một điểm nữa là yêu cầu về kỹ thuật, độ linh hoạt theo công trình do các biến đổi về đặc điểm xây dựng và các giai đoạn xây dựng. Vì vậy, cần phải có lực lượng lao động chính có trình độ chuyên môn, có khả năng linh hoạt và đảm nhận nhiều công việc, có khả năng di chuyển và có khả năng thuê được lao động tại địa phương nơi xây dựng công trình.
-Tốc độ phát triển của kỹ thuật xây dựng nói chung chậm hơn so với các ngành khác. Công ty có một số máy móc thiết bị đã cũ kỹ lạc hậu, tuy rằng một vài năm gần đây công ty có đầu tư thêm trang thiết bị nhưng vẫn chưa đạt tới được yêu cầu của phát triển và nâng cao chất lượng.
Việc bố trí máy móc sao cho hợp lý để làm giảm chi phí là một bài toán khó mà bát cứ công ty xây dựng công trình nào cũng phải tính đến. Việc bố trí sử dụng máy móc nào? đầu tư mua sắm máy móc hay đi thuê máy cần phải có sự tính toán kỹ lưỡng để làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh.
- Chu kỳ sản xuất và chi phí sản xuất quá lớn. Do chu kỳ sản xuất dài ta phải chọn trình tự bỏ vông thích hợp để làm giảm đến mức tối đa thiệt hại do ứ đọng vốn ở công trình dở dang vì thực tế các tổ chức dễ gặp rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian và khi xây dựng công trình xong dễ bị hao mòn vô hình do tiến bộ khoa học và công nghệ. Bằng cách thi công tập trung và dứt điểm, coi trọng nhân tố thời gian khi tính toán hiệu quả và lựa chọn phương án, áp dụng chế độ thanh toán và bàn giao hợp lý.
Sản xuất xây dựng phải tiến hành ngoài trời nên chịu ảnh hưởng nhiều của thời tiết. Đặc điểm này thường làm gián đoạn quy trình thi công làm cho năng lực sản xuất của công ty không được sử dụng đều theo quỹ, do đó dự trữ vật tư nhiều. Nó đòi hỏi công ty phải tìm mọi cách để tăng thời gian hoạt động, cơ giới hoá cao ở công trường thi công. ảnh hưởng của thời tiết làm gián đoạn quá trình thi công, năng lực sản xuất của tổ chức xây dựng không dược sử dụng điều hoà cho 4 quý, gây khó khăn cho lựa chọn trình tự thi công.
II. Phân tích thực trạng quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty xây dựng Thủ Đô
Phòng kế hoạch là phòng chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức, lập duyệt kế hoạch, theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch theo dõi tình hình cấp phát và chi phí, tổ chức công tác thống kê, thông tin kinh tế và phân tích tình hình hoàn thành kế hoạch, kiểm tra dự toán, chuẩn bị thủ tục ký hợp đồng cùng các bộ phận khác, làm thủ tục bàn giao và thanh quyết toán hợp đồng.
Phân tích thực trạng quản trị trong quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty xây dựng Thủ Đô
Xây dựng kế hoạch là xuất phát điểm của mọi quá trình quản trị. Nhận thức được vấn đề này công ty đã xây dựng kế hoạch chiến lược, hàng năm công ty xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh ngay từ đầu năm, từ đó xây dựng các kế hoạch quý, tháng và tuần. Hàng tuần có tổ chức họp giao ban vào chiều thứ 2.
Cơ sở để xây dựng kế hoạch phải dựa trên các hợp đồng xây dựng đã được các chủ đầu tư giao thầu. Trình tự xây dựng kế hoạch được tổ chức theo trật tự: Ban giám đốc công ty dựa trên số liệu cả các hợp đồng đã thắng thầu giao nhiệm vụ cho các bộ phận bên dưới. Các bộ phận thực hiện bên dưới này tiến hành lập kế hoạch chi tiết và trình cấp trên duyệt. Phòng kế hoạch là phòng chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức lập và duyệt kế hoạch. Các phòng ban khác có nhiệm vụ cụ thể hoá kế hoạch cho đơn vị. Với các kế hoạch quan trọng cần phải tổ chức trình bày và bảo vệ trước ban giám đốc và hội đồng của công ty.
Thực trạng tình hình xác lập các căn cứ để xây dựng kế hoạch ở công ty
Các định hướng phát triển và hệ thống chính sách chế độ của Nhà nước có liên quan đến quản trị kế hoạch sản xuất kinh doanh
Đại Hội Đảng VIII đề ra “ Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đấtnước từ nay đến năm 2020 là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất đó sẽ đạt tới trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc thiết bị, điện khí hoa cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay. GDP tăng từ 8-10 lần so với năm 1990”(3)
Giai đoạn từ nay đến năm 2000 có các mục tiêu cụ thể là:
Đến năm 2000, GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm1990. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt khoảng 9-10 %, sản xuất nông lâm ngư nghiệp khoảng 4,5- 5%, công nghiệp 14-15%, dịch vụ 12-13%, xuất khẩu khoảng 19-20%, công nghiệp và xây dựng 34-35%.Tỉ lệ đầu tư/GDPlà 30%.
Năm 2000, nông nghiệp chiếm khoảng 19-10%, công nghiệp và xây dựng 34-355, dịch vụ 45-46% GDP.
Phát triển và phát huy tốt tiềm lực khoa học công nghệ, lựa chọn và làm chủ các loại hình công nghệ nhập và tích cực chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn ở giai đoạn sau. Tốc độ đổi mới công nghệ đạt 10%/năm trở lên.
Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã xoá đi sự thần kỳ của Châu á và đe doạ lan rộng toàn cầu. Sự kiện đó làm cho Việt nam khó thoát khỏi vòng xoáy tụt dốc “đominô” về tăng trưởng kinh tế đang diễn ra. Tốc độ tăng trưởng GDP các năm1995 là 9,5%, năm 1996 là 9,3%, năm 1997 là 9,0% trong khi năm 1998 chỉ đạt 5,83%. Vừa qua Chính Phủ trình Quốc Hội thảo luận và quyết định tại kỳ họp Thứ 4 thì mục tiêu đầu tiên là giữ nhịp độ tăng trưởng GDP là 5-6%. Nếu đạt được như vậy tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,07-7,32%. Mà mục tiêu Đại Hội Đảng VIII sẽ không thể thực hiện được nếu năm 2000 không đạt tốc độ tăng trưởng 20,3-28,7%. Điều đó là chắc chắn không thể đạt được.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành xây dựng nói chung và của công ty xây dựng Thủ Đô nói riêng phải căn cứ vào các mục tiêu phương hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và căn cứ vào các quy định của pháp luật sau:
- Quyết định 500-BXD/CSXD ngày 18/9/1996 về quy chế đăng ký và cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng .
Nghị định của Chính phủ số 42CP ngày 16/7/1996 về việc ban hành điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng.
Nghị định số 43CP ngày 17/6/1996 của Chính phủ về việc ban hành quy chế đấu thầu.
Nhà nước triển khai 2 luật thuế mới: Thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Năng lực và phương hướng phát triển của toàn ngành xây dựng
Nhu cầu về xây dựng trong nền kinh tế quốc dân rất cao nhưng yêu cầu chất lượng ngày càng hoàn thiện hơn.
Vật liệu xây dựng rất phong phú, đa dạng.
Lực lượng tham gia ngành xây dựng đa dạng, đội ngũ đông đảo, việc cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các tổ chức xây dựng trong và ngoài nước.
Toàn ngành có chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành xây dựng theo hướng tăng hàm lượng cộng nghệ nhằm nâng cao chất lượng công trình, giảm bớt sức lao động nặng nhọc của người thợ trong lĩnh vực xây dựng .
Phát huy tính sáng tạo của các doanh nghiệp xây dựng, tiết kiệm vốn đầu tư để hạn chế tiêu cực trong xây dựng cần phải áp dụng các phương pháp tiến bộ trong việc lập thẩm định thực hiện các dự án đầu tư. Thúc đẩy việc áp dụng các phương pháp mới trong khảo sát, thiết kế thi công các công trình.
Về năng lực của nghành
Năm
Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước
Tốc độ phát triển
1995
1996
1997
1998 (Ước tính)
6.9%
6.5%
6.5%
6.4%
12.7%
16.1%
11.3%
8.4%
Tổng nguồn vốn ngân sách tập trung và tín dụng ưu đãi năm 1998:
Ước thực hiện(tỉ)
% so với KH
Tổng số
Vốn ngân sách
481,2
42,3
108,8
100,1
Trong năm qua nền kinh tế có nhiều biến động và những khó khăn do thiên tai gây ra. Kết quả thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng chung của toàn ngành xây dựng năm 1998 là 7,4%, lĩnh vực vật liệu xây dựng là 23.2%, xây lắp tăng5,9%. Tổng số nộp ngân sách của các đơn vị trong Bộ xây dựng đạt 100.7% kế hoạch năm.
Kết quả phân tích về tình tình kinh doanh xây dựng của công ty
Đối với Tổng công ty xây dựng Hà Nội
Giá trị sản xuất kinh doanh 1.588,291 tỉ đạt 113% kế hoạch
Tăng trưởng 102.6%; lợi nhuận 21,707 tỉ năm 1998.
Trong năm 1998 Tổng công ty đã dự thầu 410 công trình và đã trúng thầu 188 công trình đạt 46%. Trong đó giá trị xây lắp thực hiện có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 31% vốn đầu tư trong nước 69%.
Có 72 sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh làm lợi 1,25 tỉ đồng và 18 công trình được công đoàn xây dựng Việt nam tặng thưởng huy chương vàng.
Tổng công ty đã phát huy cao độ khả năng truyền thống của mình trong xây dựng dân dụng công nghiệp, đồng thời quyết tâm chuyển hướng sản xuất, mở rộng địa bàn và đa dạng hoá ngành nghề.
Công ty xây dựng Thủ Đô
Rất nhiều sản phẩm của công ty được đánh giá cao về chất lượng. Công ty đã và đang thi công nhiều công trình từ Bắc vào Nam được các đối tác và chủ đầu tư đánh giá cao về chất lượng, về tiến độ và các mặt quản lý như: phục chế nhà khách Chính phủ, hoàn thiện ốp lát nhà máy thuỷ điện Trị An, Đài phát thanh và truyền hình Hà nội, Đại sứ quán Mĩ tại Hà nội. Ngoài ra còn liên doanh với Singapore xây dựng khách sạn quốc tế và trung tâm thương mại Hà nội.
Về năng lực của công ty.
Tổng vốn: 49.700.000.000
Vốn cố định : 49.178.000.000
Vốn lưu động: 592.000.000
Lao động
Loại
công nhân
Bậc1
Bậc2
Bậc 3
Bậc 4
Bậc 5
Bậc 6
Số lượng
1
8
43
28
10
6
Số lượng (người)
Cán bộ quản lý
Cán bộ chuyên môn
Cán bộ kỹ thuật
Cán bộ nghiệp vụ
Cán bộ hành chính
Công nhân kỹ thuật
Mộc
Nề
Sắt
Bê tông
Sơn vôi
Công nhân cơ giới
Công nhân trắc địa
Lao động phổ thông
15
3
16
16
10
67
12
28
10
15
2
11
6
12
Tổng số
156
Hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật
Định mức đơn giá dự toán xây dựng cơ bản năm 1998.
Phương pháp lập dự toán công trình của Bộ xây dựng
Đơn giá vật liệu xây dựng quy định mỗi tháng tại địa phương
Bảng giá dự toán các máy và thiết bị xây dựng
Những thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật trong năm qua
Nghiên cứu, chế tạo, lắp đặt dây chuyền sản xuất thử nghiệm cốp pha chất lượng cao.
Hàn công nghệ cao
Công nghệ thi công công trình cao tầng
Công nghệ kéo căng cốt thép ứng lực trước
Trạm trộn bê tông tự động
1.2. Thực trạng nội dung và công tác xây dựng kế hoạch ở công ty
1.2.1. Kế hoạch sản xuất kinh doanh 5 năm 1996-2000
- Giá trị sản lượng bình quân hàng năm 70 tỷ, tăng trưởng 10%
- Doanh thu bình quân 40 tỷ
- Bổ sung nguồn vốn 15 tỷ
- Tạo công ăn việc làm 750 người hàng năm
- Thu nhập bình quân đầu người 750 .000- 850.000 đồng / người /tháng
- Thu hết các khoản nợ:
+ công trình Thác Mơ : 607.000.000
+ Đài phát thanh và truyền hình Hà nội: 100.000.000
+ Công trình Thái Hà 369.000.000
+ Phải thu khách hàng và nội bộ 509.794.328
1.955.794.328
Mua sắm trang thiết bị 15.000.000
Mua máy móc thiết bị 1.000.000
Đầu tư xây dựng cơ bản 10.000.000.000
Hoàn thành nghĩa vụ nộp Ngân sách
Đây là căn cứ để xây dựng kế hoạch hà._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22492.doc