Một số phương hướng & biện pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Dệt 10/10

Lời nói đầu Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay cùng với quá trình mở cửa, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, quyết liệt, sức ép của hàng nhập lậu, của người tiêu dùng trong và ngoài nước buộc các nhà kinh doanh cũng như những nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề bảo đảm và nâng cao chất lượng, sản phẩm của đơn vị mình nhằm tạo ra một thế mạnh, vị thế của đơn vị mình trên thị trường. Chất lượng sản phẩm luôn là điểm yếu, kéo dài nhiều năm ở nước ta. Trong nề

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số phương hướng & biện pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Dệt 10/10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kinh tế tập trung trước đây vấn đề chất lượng đã từng được đề cao và được coi như một mục tiêu quan trọng. Nhưng kết quả chưa mang lại được là bao do cơ chế tập trung quan liêu phủ nhận vai trò của nó trong các hoạt động cụ thể. Trong hơn mười năm tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, vấn đề chất lượng sản phẩm đã dần trở về với đúng nghĩa của nó. Người tiêu dùng bắt đầu nhận thức được về vấn đề chất lượng hàng hoá dịch vụ. Các nhà kinh doanh cũng nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bắt đầu đi vào tìm tòi, nghiên cứu những cơ chế mới để tạo những bước chuyển mới về chất lượng. Công nghiệp hoá sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản quyết định sự thắng bại trong cạnh tranh, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp nói riêng và quyết định sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung. Đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp là một yêu cầu khách quan góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, đóng góp vào việc nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Với hơn 25 năm phấn đấu xây dựng và trưởng thành, Công ty dệt 10.10 bước sang cơ chế thị trường với muôn vàn khó khăn và thử thách đã bước đầu đứng vững và đang trên đà phát triển. Trong tình hình sản xuất kinh doanh hiện nay rất phức tạp, công ty còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm mà nguyên nhân cốt lõi là chất lượng và giá thành chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Như vậy để nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty là một vấn đề vô cùng quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn. Vì thế, trong quá trình thực tập tại Công ty dệt 10.10, dưới sự hướng dẫn của thầy Phạm Hữu Huy, em đã lựa chọn đề tài: "Một số phương hướng và biện pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty dệt 10.10". Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 phần: Phần thứ nhất: Những vấn đề cơ bản về chất lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp công nghiệp. Phần thứ hai: Phân tích thực trạng, tình hình sản xuất kinh doanh và chất lượng sản phẩm ở Công ty dệt 10.10 trong 3 năm 1997-1999. Phần thứ ba: Một số phương hướng và biện pháp chủ yếu nhằm góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty dệt 10.10. Em xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Hữu Huy đã tận tình hướng dẫn em đồng thời cháu xin cảm ơn các cô, chú ở Công ty dệt 10.10 đã giúp đỡ rất nhiều trong việc thu thập số liệu để hoàn thành đề tài này. Phần thứ nhất Những vấn đề cơ bản về chất lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp I - Quan niệm về chất lượng sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm Trong cơ chế thị trường, việc sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp công nghiệp nào thành công hay thất bại đều phụ thuộc rất lớn vào chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp đó. Đây là một yếu tố quan trọng quyết định khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường của các doanh nghiệp. Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề chất lượng sản phẩm hơn lúc nào hết được các doanh nghiệp quan tâm một cách nghiêm túc. Việc đưa chất lượng sản phẩm và nghiên cứu nó như một môn học chính đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển khoa học kinh tế ở nước ta. 1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng sản phẩm tuỳ thuộc vào góc độ xem xét, quan niệm của mỗi nước trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định và nhằm những mục tiêu khác nhau. Nhưng nhìn chung mỗi quan niệm đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau, đều có những đóng góp nhất định thúc đẩy khoa học quản trị chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện. Khái niệm chất lượng theo quan điểm của triết học: Chất lượng là một phần tồn tại cơ bản bên trong các sự vật hiện tượng. Theo Marx thì chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu thị giá trị (sản xuất của nó) sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của một sản phẩm làm nên tính hữu ích của sản phẩm đó và nó chính là chất lượng của sản phẩm. Theo quan điểm của hệ thống XHCN trước đây mà Liên Xô là đại diện chính thì "Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính kinh tế - kỹ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó, đáp ứng những nhu cầu định trước cho nó trong những điều kiện xác định về kinh tế - kỹ thuật". Đây là một quan niệm dưới góc độ của các nhà sản xuất. Về mặt kinh tế quan điểm này phản ánh đúng bản chất của sản phẩm qua đó dễ dàng đánh giá được mức độ chất lượng sản phẩm đạt được nhờ đó xác định được rõ ràng những đặc tính và chỉ tiêu nào cần được hoàn thiện. Tuy nhiên, chất lượng sản phẩm chỉ được xem xét một cách biệt lập, tách rời với thị trường, làm cho chất lượng sản phẩm không thực sự gắn với nhu cầu và sự vận động, biến đổi nhu cầu trên thị trường, với điều kiện cụ thể và hiệu quả kinh tế của từng doanh nghiệp. Khiếm khuyết này cũng dễ hiểu bởi vì cũng giống như nước ta, các nước XHCN sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ theo kế hoạch do đó sản phẩm sản xuất ra không chỉ cung cấp cho thị trường, chất lượng sản phẩm không theo kịp nhu cầu thị trường nhưng vẫn tiêu thụ được. Hơn nữa, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế hoàn toàn đóng cửa nên không có sự so sánh, cạnh tranh về chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó còn có rất nhiều trường phái khác nhau khi đưa ra khái niệm về chất lượng sản phẩm dựa vào quan điểm của họ. * Quan điểm chất lượng sản phẩm được quy định bởi đặc tính nội tại của sản phẩm đó không phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài thì có các quan niệm sau: - Chất lượng sản phẩm là tập hợp những tính chất của sản phẩm có khả năng thoả mãn được những nhu cầu xác định phù hợp với công dụng của sản phẩm đó. - Chất lượng sản phẩm là một hệ thống đặc trưng nội tại của sản phẩm được xác định bằng những thông số có thể đo được hoặc so sánh được, những thông số này lấy ngay trong sản phẩm đó hoặc trong giá trị sử dụng của nó. - Chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật. * Quan điểm chất lượng sản phẩm trước hết phụ thuộc vào khách hàng, tiêu biểu là Juran, Deming... - Chất lượng sản phẩm là sự thích ứng cua sản phẩm đó với mục đích của người tiêu dùng. - Chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với nhu cầu khách hàng. - Chất lượng sản phẩm là cung cấp những dịch vụ và sản phẩm ở giá mà khách hàng có thể chấp nhận được. Bước sang cơ chế thị trường khi nhu cầu thị trường được coi là xuất phát điểm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì quan điểm trên không còn phù hợp nữa. Quan điểm về chất lượng sản phẩm phải được nhìn nhận năng động thực tiễn và hiệu quả hơn nghĩa là khi xem xét chất lượng sản phẩm phải gắn liền với nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường, với chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp. Những quan niệm mới đó được gọi là quan điểm chất lượng sản phẩm hướng theo khách hàng. Có rất nhiều tác giả theo quan niệm này với những cách diễn đạt khác nhau: - Grosby: "Chất lượng là sự phù hợp với những yêu cầu hay đặc tính nhất định". - J.Juran: "Chất lượng là sự phù hợp với sử dụng, với công dụng". - Feigenbaun: "Chất lượng sản phẩm là tập hợp các đặc tính kỹ thuật, công nghệ và vận hành của sản phẩm nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của người tiêu dùng khi sử dụng". Phần lớn các chuyên gia về chất lượng trong nền kinh tế thị trường coi chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với nhu cầu hay mục đích sử dụng của người tiêu dùng. Các đặc điểm kinh tế - kỹ thuật phản ánh chất lượng sản phẩm khi chúng thoả mãn được đòi hỏi của người tiêu dùng. Chất lượng được nhìn bên ngoài theo quan điểm của khách hàng. Chỉ có những đặc tính đáp ứng được nhu cầu của hàng hoá mới là chất lượng sản phẩm. Mức độ đáp ứng nhu cầu là cơ sở để đánh giá trình độ chất lượng sản phẩm đạt được. Theo quan niệm này chất lượng sản phẩm không phải là cao nhất và tốt nhất mà là sự phù hợp với nhu cầu. Để phát huy những mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của các quan niệm trên, tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đã đưa ra khái niệm: - Theo ISO 8420 - 1994: Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) có khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu hoặc tiềm ẩn. - Theo ISO 9000: Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính kinh tế kỹ thuật của sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong các đặc tính kinh tế, xã hội xác định như: Các tính chất xác định tính năng tác dụng của sản phẩm, những tính chất thẩm mỹ, kiểu dáng, màu sắc. Độ tin cậy của sản phẩm, tuổi thọ của sản phẩm, tính an toàn của sản phẩm, sự phù hợp với môi trường, phù hợp với những sản phẩm khác; để dễ vận chuyển, phân phối và dễ sử dụng, giá cả hợp lý... Dựa trên khái niệm này, Cục đo lường chất lượng Nhà nước Việt Nam đã đưa ra khái niệm: Chất lượng sản phẩm của một sản phẩm nào đó là tổng hợp của tất cả các tính chất biểu thị giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu của xã hội trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, đảm bảo các yêu cầu của người sử dụng nhưng cũng đảm bảo các tiêu chuẩn thiết kế và khả năng sản xuất của từng nước. (TCVN - 5814 - 1994). Về thực chất, đây là những khái niệm có sự kết hợp với những quan niệm trước đây và những quan niệm trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy những khái niệm này được chấp nhận khá phổ biến và rộng rãi hiện nay. Tuy nhiên, quan niệm chất lượng sản phẩm tiếp tục được phát triển, bổ xung hơn nữa. Khái niệm về chất lượng sản phẩm - hàng hoá có nhiều lập luận khác nhau. Philip B.Crosby nhấn mạnh chỉ có thể tiến hành có hiệu quả công tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá khi có quan niệm đúng đắn về chất lượng. Theo quan niệm của tổ chức kiểm tra chất lượng châu Âu (European Oganisation for Quality Contrd) thì chất lượng của sản phẩm là mức độ sản phẩm ấy đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng. Theo tiêu chuẩn AFNOR 50-109 - "Chất lượng sản phẩm là năng lực của một sản phẩm, dịch vụ thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng". Theo GOST 15.467 - 10 "Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những thuộc tính của sản phẩm đáp ứng những nhu cầu xác định phù hợp với tên gọi của sản phẩm". Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và đòi hỏi ngày càng cao của nhu cầu sản xuất, đời sống, nhu cầu mở rộng giao lưu quốc tế, vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm hàng hoá trở thành một chính sách của Nhà nước, là phương tiện để nâng cao hiệu quả lao động, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá là vấn đề được nhiều người quan tâm. Trên thị trường có tổ chức và thị trường tự do, tuy có một số tiến bộ như từng bước đổi mới và bổ xung mặt hàng nhưng nhìn chung còn mang tính tự phát mà chất lượng là vấn đề đáng lo ngại. Chúng ta biết rằng, mục đích của sản xuất hàng hoá là nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Lịch sử văn hoá của các dân tộc cũng chứng minh rằng trong quá trình lao động sáng tạo và hoạt động thực tiễn, con người tạo ra của cải vật chất, tạo ra vật phẩm và môi trường, cũng chính là tạo ra điều kiện tồn tại của bản thân mình. Vật phẩm tự nó không có đời sống riêng nhưng vật phẩm lại liên quan đến điều kiện của môi trường, vật phẩm gắn liền với cuộc sống của con người. Vì vậy, khi giải quyết vấn đề chất lượng sản phẩm, hàng hoá phải đặt chúng trong mối quan hệ với con người, với các sản phẩm và hàng hoá khác. Hay nói cách khác, mức độ hữu ích, trình độ chất lượng sản phẩm hàng hoá phải được xem xét trong tương quan với điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Để đáp ứng nhu cầu khách hàng, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng không thể theo đuổi chất lượng cao với bất cứ giá nào mà luôn có giới hạn về kinh tế, xã hội và công nghệ. Vì vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm chắc các loại chất lượng sản phẩm. - Chất lượng thiết kế là giá trị biểu hiện bằng các tiêu chuẩn chất lượng được phác thảo bằng các văn bản, bản vẽ. - Chất lượng tiêu chuẩn là chất lượng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật của quốc gia, quốc tế, địa phương, ngành. - Chất lượng thị trường là chất lượng bảo đảm thoả mãn những nhu cầu nhất định, mong đợi của người tiêu dùng. - Chất lượng phù hợp là chất lượng phù hợp với ý thích, sở trường, tâm lý người tiêu dùng. - Chất lượng tối ưu là giá trị các thuộc tính của sản phẩm hàng hoá phù hợp với nhu cầu của xã hội nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. 2. Khái niệm về đảm bảo và nâng cao chất lượng: Theo TCVN 5814-1994 đảm bảo chất lượng là toàn bộ hoạt động có kế hoạch và hệ thống được tiến hành trong hệ chất lượng và được chứng minh là đủ sức cần thiết để tạo sự tin tưởng thoả đáng rằng thực thể (đối tượng) sẽ thoả mãn đầy đủ các yêu cầu chất lượng. Như vậy, đảm bảo chất lượng sản phẩm là đảm bảo một mức chất lượng mà người tiêu dùng tin tưởng, mua và sử dụng sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp trong một thời gian dài. Đứng về góc độ sản xuất kinh doanh thì đảm bảo chất lượng là sự cam kết của các doanh gia, là mức độ biểu thị lòng tự trọng của mình đối với người tiêu dùng, đối với kỹ thuật về mức chất lượng sản phẩm hàng hoá đã tung ra trên thị trường. II. Mục đích và ý nghĩa của việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là biểu hiện tổng hợp kết quả của một quá trình hoạt động kinh tế và là kết quả của tất yếu khách quan của hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng nó bắt nguồn và chịu sự chi phối rất lớn của những yếu tố chủ quan, đặc biệt là tính năng động, khéo léo của con người. Chất lượng sản phẩm muốn có được phải bằng những nhận thức đúng đắn, sâu sắc và những việc làm cụ thể, thiết thực đó là trí tuệ, sức đóng góp của người lao động. * Quản lý chất lượng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của công ty, nó có nghĩa là phải đổi mới tư duy trong lĩnh vực quản lý. Định hướng vào chất lượng, đảm bảo chất lượng sản phẩm theo đúng quy định của thiết kế, của yêu cầu thị trường, sản phẩm hàng hoá của công ty đạt được sự tín nhiệm trên thị trường nhiều, tốc độ tiêu thụ sẽ tăng, tình hình sản xuất được tăng trưởng và thu được nhiều lợi nhuận. Vì vậy đảm bảo chất lượng là cơ sở của nguyên lý quản lý chất lượng. - Cơ chế thị trường tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của các dịch vụ và nền kinh tế. Cơ chế thị trường là tổng thể các yếu tố môi trường, động lực quan hệ và các quy luật chi phối vận động của thị trường. Song đặc trưng cơ bản của nó là sự vận động theo quy luật cung - cầu, quy luật giá trị, tiền tệ, cạnh tranh... Trong đó quy luật cạnh tranh chi phối một cách nghiệt ngã nhất, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm vững nhu cầu thị trường cả về mặt không gian, thời gian, số lượng và chất lượng. Thế mạnh của nền kinh tế thị trường là hàng hoá tràn ngập phong phú cạnh tranh lẫn nhau gay gắt, người tiêu dùng được tự do lựa chọn các sản phẩm theo nhu cầu, sở thích, khả năng mua của họ. Họ thực sự là đối tượng mà các nhà sản xuất kinh doanh sẵn sàng và tận tình phục vụ. Trong doanh nghiệp công nghiệp chất lượng và sản phẩm luôn luôn là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh trên thị trường. - Chất lượng sản phẩm là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện chiến lược marketing, mở rộng thị trường, tạo uy tín, danh tiếng cho sản phẩm của doanh nghiệp; khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường. Từ đó làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế, sự thành công của một doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển sản xuất có năng suất - chất lượng mà còn được tạo thành bởi sự tiết kiệm, đặc biệt là tiết kiệm nguyên vật liệu, thiết bị và lao động trong quá trình sản xuất và sự tiết kiệm nhờ không lãng phí do không sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng kém. - Nâng cao chất lượng chính là điều kiện để đạt được sự tiết kiệm đó. Nhờ nâng cao chất lượng dẫn đến tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế xã hội trên một đơn vị chi phí đầu vào, giảm lượng nguyên vật liệu sử dụng, tiết kiệm tài nguyên, giảm những vấn đề về ô nhiễm môi trường. Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm chính là con đường ngắn nhất đem lại hiệu quả kinh tế. - Chất lượng sản phẩm được nâng cao giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là lợi nhuận. Đây đồng thời là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Chất lượng sản phẩm góp phần đẩy mạnh tiến độ sản xuất, tổ chức lao động trong một doanh nghiệp nói riêng cũng như trong phạm vi quốc gia nói chung. Khi doanh nghiệp đã đạt được mục tiêu là lợi nhuận thì có điều kiện để đảm bảo ổn định cho người lao động, tăng thu nhập cho họ tin tưởng và gắn bó với doanh nghiệp, đóng góp hết mình để sản xuất những sản phẩm có chất lượng tốt, giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn. - Chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo hướng dẫn và kích thích tiêu dùng. Riêng đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất thì chất lượng sản phẩm tốt và đảm bảo cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, tăng năng suất lao động. - Chất lượng sản phẩm không những làm tăng uy tín của doanh nghiệp, uy tín của nền kinh tế nước nhà trên thị trường quốc tế mà còn tạo điều kiện để tăng nguồn thu nhập ngoại tệ cho đất nước. * Trong nền kinh tế nhiều thành phần, việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với nền kinh tế nước nhà. Trên phạm vi toàn xã hội mà xét, việc đảm bảo chất lượng sản phẩm của sản phẩm theo nhu cầu thị trường, theo tiêu chuẩn quy định) là đảm bảo sử dụng một cách tiết kiệm nhất, hợp lý nhất những tài nguyên, sức lao động... để thoả mãn một cách hợp lý nhất những nhu cầu của xã hội trong từng thời kỳ nhất định. - Hàng hoá có chất lượng cao tạo điều kiện mở rộng khả năng xuất khẩu. Không ngừng cải tiến mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm là tiền đề quan trọng để hàng hoá có khả năng chiếm lĩnh thị trường thế giới, nói cách khác đó là tiền đề để hoà nhập vào thị trường khu vực, thị trường thế giới, tạo điều kiện phát triển kinh tế nước nhà. - Đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm là con đường quan trọng nhất để phát triển nâng cao năng lực sản xuất của xã hội, đẩy mạnh công cuộc xây dựng phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập quốc dân, bảo vệ Tổ quốc (ở tầm vĩ mô), là biện pháp để đảm bảo sự sống còn phát triển của các doanh nghiệp (ở tầm vi mô). Nói cách khác thì việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa chính trị kinh tế vô cùng to lớn. III - Những nhân tố chủ yếu có liên quan và ảnh hưởng đến việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. 1. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp: * Nhu cầu thị trường: Nhu cầu là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất lượng, tạo lực hút, định hướng cho cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm. chất lượng sản phẩm có thể được đánh giá cao ở thị trường này nhưng lại không cao ở thị trường khác. Điều đó đòi hỏi phải tiến hành nghiêm túc công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, xác định thói quen, phong tục của thị trường, mục đích sử dụng sản phẩm... Để công tác đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm được đi đúng hướng và có hiệu quả thì các nhà sản xuất phải sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu của thị trường. * Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ: Trong thời đại ngày nay không có sự tiến bộ kinh tế xã hội nào không gắn liền với khoa học công nghệ thế giới. Từ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất, chủng loại, chất lượng sản phẩm không ngừng được thay đổi với tốc độ nhanh. Tiến bộ khoa học kỹ thuật tác dụng như một lực đẩy tạo khả năng đưa chất lượng sản phẩm không ngừng tăng. Nhờ khả năng của khoa học công nghệ đã tạo ra những sản phẩm mới, tạo và đưa vào sản xuất công nghệ mới có chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật cao, hình thành phương pháp và phương tiện kỹ thuật quản trị tiên tiến, góp phần giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. * Cơ chế quản lý, chính sách: Khả năng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào cơ chế quản lý của mỗi nước. Cơ chế quản lý vừa là môi trường, tốc độ cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Thông qua cơ chế và các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi kích thích độc lập, tự chủ, sáng tạo trong cải tiến chất lượng sản phẩm. * Điều kiện tự nhiên: Các điều kiện tự nhiên như khí hậu, bức xạ mặt trời, vi khuẩn, côn trùng... cũng có tác động và ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm. * Nhân tố kinh tế - xã hội: Sự tác động của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... trình độ văn minh, thị hiếu của người tiêu dùng, mức thu nhập của người tiêu dùng cũng ảnh hưởng rất lớn đến công tác cải tiến và nâng chất lượng sản phẩm. 2. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp: * Lực lượng lao động trong doanh nghiệp: Đây là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến chất lượng. Bên cạnh trình độ công nghệ hiện đại thì nhân tố con người được coi là nhân tố căn bản nhất tác động tới chất lượng sản phẩm và chất lượng các hoạt động dịch vụ. Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, khả năng thích ứng với sự thay đổi nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Quan tâm đến đầu tư phát triển và không ngừng nâng cao nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng trong quản lý chất lượng của các doanh nghiệp. Đây là con đường quan trọng nhất nâng cao khả năng cạnh tranh về chất lượng của mỗi quốc gia. * Khả năng về công nghệ, máy móc thiết bị của doanh nghiệp: Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản có tác động mạnh mẽ đến chất lượng sản phẩm. Mức độ chất lượng sản phẩm trong mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ hiện đại, cơ cấu tính đồng bộ, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc, công nghệ... * Vật tư, nguyên liệu và hệ thống tổ chức: Đảm bảo vật tư, nguyên liệu của doanh nghiệp là một yếu tố tham gia trực tiếp vào việc cấu thành nên sản phẩm. Những đặc tính của nguyên liệu sẽ được đưa vào sản phẩm vì vậy chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào việc thiết lập được hệ thống cung ứng nguyên vật liệu thích ứng trên cơ sở tạo dựng mối quan hệ lâu dài, tin tưởng lẫn nhau giữa người sản xuất và người cung ứng. * Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp: Trình độ quản trị nói chung và trình độ quản trị nói riêng là một trong những nhân tố cơ bản góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ cải tiến, hoàn thiện chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu và cơ chế quản trị, nhận thức hiểu biết về chất lượng và trình độ của cán bộ quản lý, khả năng xác định chính xác mục tiêu, chính sách chất lượng và chỉ đạo tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình chất lượng. IV - Nội dung chủ yếu của việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm: Quản trị chất lượng là một tập hợp những hoạt động của chức năng quản trị chung nhằm xác định chính sách chất lượng, mục đích, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng những phương tiện như lập kế hoạch, điều khiển chất lượng và cải tiến đảm bảo chất lượng trong khuôn khổ hệ thống chất lượng (quan niệm của tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế - ISO). Vấn đề chất lượng được đặt ra và giải quyết trong phạm vi toàn bộ hệ thống bao gồm tất cả các khâu, các quá trình từ nghiên cứu thiết kế đến chế tạo, phân phối và tiêu dùng sản phẩm. Công tác đảm bảo chất lượng có ba nhiệm vụ cơ bản sau: Nhiệm vụ thứ nhất là xác định cho được các yêu cầu chất lượng phải đạt tới ở những giai đoạn nhất định. Tức là phải xác định được sự thống nhất giữa thoả mãn nhu cầu thị trường với những điều kiện của môi trường kinh doanh cụ thể với chi phí tối ưu. Nhiệm vụ thứ hai là duy trì chất lượng sản phẩm bao gồm toàn bộ những biện pháp, phương pháp nhằm đảm bảo những tiêu chuẩn đã được quy định chung trong hệ thống. Nhiệm vụ thứ ba là cải tiến chất lượng bao gồm quá trình tìm kiếm phát hiện đưa ra tiêu chuẩn mức cao hơn hoặc đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của khách hàng trên cơ sở đánh giá liên tục cải tiến những tiêu chuẩn, quy định cũ, hoàn thiện lại tiêu chuẩn hoá, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp sẽ không ngừng hoàn thiện. Quản trị chất lượng phải được thực hiện ở mọi khâu, mọi cấp, mọi quá trình. Nó vừa có ý nghĩa chiến lược vừa có ý nghĩa tác nghiệp. ở cấp cao nhất của doanh nghiệp luôn thực hiện quản trị chiến lược chất lượng. Cấp phân xưởng và các bộ phận thực hiện quản trị tác nghiệp chất lượng và ở từng nơi làm việc của mỗi người lao động thực hiện quá trình tự đảm bảo chất lượng. Muốn đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp thì công tác quản trị chất lượng phải được diễn ra một cách sâu rộng bao trùm từ khâu đầu đến khâu kết thúc thông qua công tác kiểm tra: 1 - Quản trị chất lượng trong khâu thiết kế: Đây là phân hệ đầu tiên trong quản trị chất lượng. Những thông số kinh tế kỹ thuật thiết kế đã được phê chuẩn là tiêu chuẩn chất lượng quan trọng mà sản phẩm sản xuất ra phải tuân thủ. Chất lượng thiết kế sẽ tác động trực tiếp đến chất lượng của mỗi sản phẩm. Để thực hiện được mục tiêu này cần thực hiện những nhiệm vụ sau đây: + Tập hợp, tổ chức phối hợp giữa các nhà thiết kế, các nhà quản trị marketing, tài chính, tác nghiệp, cung ứng để thiết kế sản phẩm. Chuyển hoá những đặc điểm nhu cầu của khách hàng thành đặc điểm sản phẩm. Thiết kế là quá trình nhằm đảm bảo thực hiện những đặc điểm sản phẩm đã xác định để thoả mãn nhu cẩu của khách hàng. Kết quả của thiết kế là các quá trình, đặc điểm sản phẩm, các bản đồ thiết kế và lợi ích của sản phẩm đó. + Đưa ra các phương án khác nhau về đặc điểm sản phẩm có thể đáp ứng các nhu cầu khách hàng; đặc điểm của sản phẩm có thể lấy từ sản phẩm cũ nay cải tiến những đặc điểm cũ cho phù hợp với nhu cầu mới hay từ nghiên cứu thiết kế ra những sản phẩm hoàn toàn mới. + Thử nghiệm và kiểm tra các phương án nhằm chọn ra phương án tối ưu. + Quyết định những đặc điểm sản phẩm đã chọn. Các đặc điểm của sản phẩm thiết kế phải đáp ứng các yêu cầu sau: ã) Đáp ứng nhu cầu của khách hàng. ã) Thích hợp với khả năng. -) Đảm bảo tính cạnh tranh. ã) Tối thiểu hoá chi phí. + Phân tích về kinh tế: Là quá trình đánh giá mối quan hệ giữa lợi ích mà các đặc điểm sản phẩm đưa ra với chi phí cần thiết để tạo ra chúng. Phân chia từng chức năng thành các đặc điểm cụ thể và ước tính chi phí cho từng đặc điểm đó. + Những chỉ tiêu cần kiểm tra: ã) Trình độ chất lượng sản phẩm. ã) Chỉ tiêu tổng hợp về tài liệu thiết kế, công nghệ và chất lượng chế thử. ã) Hệ số khuyết tật của sản phẩm chế thử, chất lượng cho sản xuất hàng loạt. * Quản trị chất lượng trong khâu cung ứng: Mục tiêu của quản trị chất lượng trong khâu cung ứng nhằm đáp ứng đúng chủng loại, số lượng, thời gian, địa điểm và các đặc tính kinh tế kỹ thuật cần thiết của nguyên vật liệu đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành một cách thường xuyên, liên tục với chi phí thấp nhất. Quản trị chất lượng trong khâu cung ứng bao gồm các nội dung sau: + Lựa chọn người cung ứng có đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng vật tư, nguyên nhiên liệu. + Tạo lập hệ thống thông tin phản hồi chặt chẽ thường xuyên cập nhật. + Thoả thuận về việc đảm bảo chất lượng vật tư cung ứng. + Thoả thuận về phương pháp thẩm tra, xác minh. + Xác định các phương pháp giao nhận. 2. Quản trị chất lượng trong khâu sản xuất. Mục đích của quản trị chất lượng trong khâu sản xuất là khai thác, huy động có hiệu quả các quá trình công nghệ thiết bị và con người đã lựa chọn để sản xuất sản phẩm có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn thiết kế. Để thực hiện được mục tiêu này cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: + Cung ứng vật tư nguyên liệu đúng số lượng chất lượng, chủng loại, thời gian và địa điểm. + Kiểm tra vật tư nguyên liệu đưa vào sản xuất. + Thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục, thao tác thực hiện từng công việc. + Kiểm tra chất lượng các chi tiết, bộ phận, bán thành phẩm sau từng công đoạn, phát hiện sai sót, tìm nguyên nhân sai sót để loại bỏ. + Kiểm tra chất lượng sản phẩm hoàn chỉnh. + Kiểm tra, hiệu chỉnh thường kỳ các dụng cụ kiểm tra, đo lường chất lượng. + Thường xuyên kiểm tra kỹ thuật công nghệ, duy trì, bảo dưỡng máy móc thiết bị kịp thời. Những chỉ tiêu chất lượng cần xem xét đánh giá trong giai đoạn sản xuất bao gồm: + Thống số kỹ thuật của các chi tiết, bộ phận bán thành phẩm và sản phẩm hoàn chỉnh. + Các chỉ tiêu về tình hình thực hiện kỹ thuật công nghệ, kỹ thuật lao động, trong các bộ phận. + Các chỉ tiêu về chất lượng quản trị của nhà quản trị. + Các chỉ tiêu về tổn thất, thiệt hại do sai lầm, vi phạm kỹ thuật lao động, quy trình công nghệ. 3 - Quản trị chất lượng trong và sau khi bán hàng: Nhằm thoả mãn khách hàng nhanh nhất, thuận tiện nhất với chi phí thấp nhất nhờ đó tăng uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp trên thị trường. Ngoài mục tiêu trên, rất nhiều doanh nghiệp còn thu được lợi nhuận lớn từ hoạt động dịch vụ sau bán. Vì vậy, những năm gần đây công tác đảm bảo chất lượng trong giai đoạn này được các doanh nghiệp rất chú ý và mở rộng phạm vi, tính chất các hoạt động dịch vụ. Nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn này là: + Tạo danh mục sản phẩm hợp lý. + Tổ chức mạng lưới đại lý phân phối, dịch vụ thuận lợi, nhanh chóng. + Thuyết minh, hướng dẫn đầy đủ các thuộc tính sử dụng, điều kiện sử dụng, quy trình, quy phạm sử dụng sản phẩm. + Nghiên cứu, đề xuất những phương án bao gói, vận chuyển, bảo quản, bốc dỡ hợp lý nhằm tăng năng suất, hạ giá thành. + Tổ chức bảo hành, bảo dưỡng. + Tổ chức dịch vụ kỹ thuật thích hợp sau khi bán hàng. * Hiện nay, Công ty dệt 10.10 đang tiến hành áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14001 nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo đảm về vệ sinh môi trường và an toàn lao động. Nhờ áp dụng mô hình quản lý theo các yêu cầu của ISO 9000 Công ty có thể thực hiện được các yêu cầu về chất lượng sản phẩm một cách hiệu quả và tiết kiệm nhất, nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Bên cạnh đó Công ty có thể đưa ra các biện pháp làm đúng ngay từ đầu, xác định đúng nhiệm vụ và chỉ ra cách thực hiện để đạt kết quả mong muốn. V - Những phương hướng và biện pháp chung nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm 1. Các phương hướng: a) Phương hướng tổng quát. * ứng dụng t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0080.doc
Tài liệu liên quan