Lời mở đầu
Trong những năm chiến tranh, ngành bưu điện có vai trò hết sức to lớn trong việc truyền dẫn những thông tin về chủ trương lãnh đạo của Đảng và Nhà nước xuống tới cơ sở. Hoạt động của ngành bưu điện được coi như “các xung thần kinh não đi đến các bộ phận chức năng trong cơ thể con người để truyền tải lượng thông tin điều hành thực hiện”.
Ngày nay trong xu thế phát triển mạnh mẽ của mạng lưới viễn thông trên thế giới, nhất là thấy rõ vai trò của ngành bưu điện nước ta trong quá trình
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số P.hướng & G.pháp nhằm thực hiện tốt công tác hậu cần vật tư kỹ thuật với việc đổi mới thiết bị công nghệ ở NM thiết bị bưu điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi phải trang bị kỹ thuật hiện đại cho ngành bưu điện.
Đặt trong bối cảnh đó, nhà máy thiết bị bưu điện một cơ sở thuộc ngành, cần phải tăng cường vai trò hậu cần vật tư với việc đổi với thiết bị công nghệ để tăng cường năng lực sản xuất đáp ứng nhu cầu của ngành cũng như thị hiếu của người sử dụng. Quá trình thực hiện công tác hậu cần vật tư với việc đổi mới thiết bị công nghệ của nhà máy đã đem lại những kết quả khả quan, nhưng còn nhiều khó khăn vướng mắc. Trên cơ sở hiểu biết lý luận về hậu cần vật tư với việc đổi mới thiết bị công nghệ và quá trình thực tập tại nhà máy, em đã đi vào nghiên cứu đề tài Hậu cần vật tư với việc đổi mới thiết bị công nghệ của nhà máy. Chuyên đề này được hoàn thành với sự giúp đỡ của thầy giáo Dương Trí Thảo cùng các cô chú trong nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội.
Chuyên đề này gồm ba chương:
Chương I: Những lý luận cơ bản về công tác hậu cần vật tư kỹ thuật cho sản xuất của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng công tác hậu cần vật tư kỹ thuật ở nhà máy thiết bị bưu điện.
Chương III: Một số phương hướng và giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác hậu cần vật tư kỹ thuật với việc đổi mới thiết bị công nghệ ở nhà máy thiết bị bưu điện.
Qua đây, một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo và các cô chú đã giúp đỡ và đóng góp ý kiến cho em./.
Chương I.
Những lý luận cơ bản về công tác hậu cần vật tư kỹ thuật cho sản xuất của doanh nghiệp
Khái niệm và phân loại vật tư kỹ thuật.
Khái niệm vật tư kỹ thuật:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ít nhiều đều cần đến các tư liệu vật chất khác nhau như vật liệu, nhiên liệu, thiết bị máy móc. Các vật liệu này được tạo ra trong quá trình lao động là sản phẩm của các doanh nghiệp dùng để sản xuất. Từ khi là thành phẩm của các doanh nghiệp sản xuất cho đến khi chúng được lao động sống của các đơn vị sử dụng làm tư liệu lao động hoặc đối tượng lao động theo công dụng của chúng khi đó chúng ta hiểu ra là tư liệu lao động.
Vật tư kỹ thuật là một dạng biểu hiện của tư liệu sản xuất. Khái niệm tư liệu sản xuất có thể nói là khái niệm chung bao quát dùng để chỉ: những vật có chức năng làm tư liệu sản xuất, những tư liệu sản xuất ở trạng thái khả năng. Những vật đang là tư liệu sản xuất thực sự.
Khái niệm vật tư kỹ thuật dùng để chỉ những vật có chức năng làm tư liệu sản xuất, đang trong quá trình vận động từ sản xuất đến tiêu dùng sản xuất, chưa bước vào tiêu dùng sản xuất trực tiếp.
Chiếc máy uốn CNC chẳng hạn là một tư liệu sản xuất nhưng từ khi là thành phẩm của xí nghiệp chế tạo cho đến khi được lắp đặt tại nơi sử dụng, chiếc máy uốn mới ở trạng thái khả năng thôi. Khi nào người ta dùng nó với tư cách là tư liệu lao động để tác động vào đối tượng lao động thì chiếc máy uốn là tư liệu sản xuất thực sự. Chính ở trạng thái có khả năng làm tư liệu sản xuất, cái máy cũng như những vật khác dùng để sản xuất, đều được biểu hiện ra là vật tư kỹ thuật.
Vật tư kỹ thuật là tư liệu sản xuất ở trạng thái khả năng, mọi vật tư kỹ thuật đều là tư liệu sản xuất, nhưng không nhất thiết mọi tư liệu sản xuất cũng đều là vật tư kỹ thuật cả.
Tư liệu sản xuất gồm có đối tượng lao động và tư liệu lao động. Những sản phẩm của tự nhiên là những đối tượng lao động do tự nhiên ban cho, xong trước hết phải dùng lao động để chiếm lấy. Chỉ sau khi có sự cải biến những sản phẩm của tự nhiên thành những sản phẩm của lao động, sản phẩm mới có những thuộc tính, những tính năng kỹ thuật nhất định. Do đó không phải mọi đối tượng lao động cũng đều là sản phẩm của lao động, chỉ nguyên liệu mới là sản phẩm của lao động. Trong số những tư liệu lao động có nhà xưởng, hầm mỏ, cầu cống và những công trình kiến trúc khác. Ngay từ đầu chúng được cố đ
Vì mỗi vật có thể có những thuộc tính khác nhau và chính do đó mà nó sẵn sàng có thể dùng vào nhiều việc cho nên cùng một sản phẩm có thể dùng làm vật phẩm tiêu dùng hay dùng làm vật tư kỹ thuật. Bởi vậy, trong mọi trường hợp phải căn cứ vào công dụng cuối cùng của sản phẩm để xem xét là vật tư kỹ thuật hay là vật phẩm tiêu dùng.
Từ những điều trên đây có thể rút ra khái niệm vật tư kỹ thuật như sau: “Vật tư kỹ thuật là sản phẩm của lao động dùng để sản xuất đó là nguyên, nhiên, vật liệu điện lực bán thành phẩm, thiết bị máy móc dụng cụ phụ tùng”.
Phân loại vật tư kỹ thuật:
Vật tư kỹ thuật gồm nhiều thứ, nhiều loại từ những thứ có tính năng kỹ thuật cao đến những thứ, những loại thông thường, từ những thứ có khối lượng và trọng lượng lớn đến những thứ nhỏ nhẹ, kích thước nhỏ bé, từ những thứ rất đắt tiền đến những thứ rẻ tiền. Tất cả chúng đều là sản phẩm của lao động dùng để sản xuất. Toàn bộ vật tư được phân theo hai tiêu thức cơ bản đó là theo công dụng của vật tư trong sản xuất và theo tính chất sử dụng vật tư.
Theo công dụng trong quá trình sản xuất:
Toàn bộ vật tư kỹ thuật được chia làm hai nhóm lớn là những loại vật tư dùng làm đối tượng lao động và những loại vật tư dùng làm tư liệu lao động. Những loại vật tư thuộc nhóm thứ nhất có đặc điểm là trong quá trình sử dụng chúng hoàn toàn dùng một lần và giá trị chuyển hết sang giá trị sản phẩm, còn những loại vật tư thuộc nhóm thứ hai lại sử dụng được nhiều lần và giá trị chuyển dần sang gía trị thành phẩm. Sự phân chia vật tư theo tiêu thức trên có ý nghĩa rất lớn về lý luận và thực tiễn. Thật vậy, đối với loại vật tư thuộc nhóm thứ nhất, vì tiêu dùng hoàn toàn trong một lần nên muốn lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như trước, với những điều kiện khác không thay đổi thì đòi hỏi doanh nghiệp phải bảo đảm một số lượng vật tư như trước. Còn đối với những loại vật tư thuộc nhóm thứ hai thì không nhất thiết phải như vậy thậm chí ngay cả trong trường hợp tăng quy mô sản xuất.
Thuộc nhóm thứ nhất có: nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, điện lực, bán thành phẩm, chi tiết bộ phận máy in tại một chỗ và khi đã là thành phẩm rồi người ta có thể đưa chúng vào sử dụng được ngay, không phải trải qua giai đoạn tiếp tục quá trình sản xuất, giai đoạn làm cho chúng có được sự hoàn thiện cuối cùng như các sản phẩm khác. Những sản phẩm thuộc loại này không thuộc phạm trù vật tư kỹ thuật. Vật tư kỹ thuật chỉ là một bộ phận quan trọng của tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động hiểu theo nghĩa hẹp.
Thuộc nhóm thứ hai có: thiết bị động lực, thiết bị truyền dẫn năng lượng, thiết bị sản xuất, hệ thống thiết bị máy móc thiết bị điều khiển, thiết bị vận chuyển và chứa đựng đối tượng lao động, công cụ, khí cụ và dụng cụ dùng để sản xuất, các loại phụ tùng máy.
.Theo tính chất sử dụng:
Toàn bộ vật tư kỹ thuật được chia thành vật tư thông dụng và vật tư chuyên dùng. Vật tư thông dụng gồm những vật tư dùng phổ biến cho nhiều ngành, còn vật tư chuyên dùng gồm những loại vật tư dùng cho một ngành nào đó, thậm chí một doanh nghiệp nào đó. Để chỉ rõ tên của loại vật tư chuyên dùng người ta gọi tên ngành sau tên vật tư. Chẳng hạn vật tư chuyên dùng của ngành bưu điện.
Vai trò và nội dung của công tác hậu cần vật tư kỹ thuật cho sản xuất.
Vai trò của công tác hậu cần vật tư kỹ thuật cho sản xuất.
Quá trình sản xuất là quá trình con người sử dụng tư liệu lao động để tác động vào đối tượng lao động là thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý hoá của đối tượng lao động để tạo ra những sản phẩm với chất lượng ngày càng cao, thoả mãn đầy đủ nhu cầu đa dạng của còn người. Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn đòi hỏi phải có các yếu tố của sản xuất, trong đó có vật tư kỹ thuật. Thiếu vật tư kỹ thuật thì không thể có hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Khi vật tư đóng vai trò là tư liệu lao động mà bộ phận chủ yếu là máy móc thiết bị thể hiện trình độ trang bị kỹ thuật cho sản xuất thì nó là nhân tố cực kỳ quan trọng để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng quy mô sản xuất, tạo điều kiện sử dụng hợp lý sức lao động và nguyên, nhiên, vật liệu tiết kiệm các yếu tố vật chất trong sản xuất. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển một phần tồn tại vào trình độ kỹ thuật của sản xuất, sự nhanh chóng đổi mới công nghệ và do đó phụ thuộc vào vật tư kỹ thuật với tư cách là tư liệu lao động.
Trong điều kiện đó, hậu cần vật tư cho sản xuất ở các doanh nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng, góp phần nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hoá đất nước.
Khi vật tư đóng vai trò là đối tượng lao động chủ yếu là nguyên, nhiên, vật liệu, vật tư sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu và do đó đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nguyên vật liệu được đảm bảo đầy đủ, đồng bộ, đúng chất lượng là điều kiện quyết định khả năng tái sản xuất mở rộng. Trong quá trình sản xuất, nguyên vật liệu là bộ phận trực tiếp tạo nên sản phẩm, nó chiếm 60-70% trong cơ cấu giá thành sản phẩm do đó nguyên vật liệu có vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí sản xuất kinh doanh và giá cả sản phẩm.
Từ vai trò trên đây của vật tư cho thấy ý nghĩa to lớn của hoạt động đảm bảo vật tư cho sản xuất, của hoạt động thương mại đầu vào của doanh nghiệp. Việc bảo đảm vật tư đầy đủ, đồng bộ, kịp thời là điều kiện tiền đề cho sự liên tục của quá trình sản xuất, cho sự nhịp nhàng, đều đặn của quá trình sản xuất. Bất cứ một sự không đầy đủ kịp thời và đồng bộ nào của vật tư đều có thể gây ra sự ngừng trệ của sản xuất, gây ra sự vi phạm các quan hệ kinh tế đã được thiết lập giữa các doanh nghiệp với nhau, gây ra sự tổn thất trong sản xuất kinh doanh.
Đảm bảo tốt vật tư cho sản xuất là đáng ứng các yêu cầu về số lượng, chất lượng đúng về quy cách, chủng loại, kịp về thời gian và đồng bộ. Điều này ảnh hưởng năng suất của doanh nghiệp, đến chất lượng sản phẩm, đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm vật tư, đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp.
Những nội dung cơ bản của công tác hậu cần vật tư kỹ thuật cho sản xuất.
2.1 Nghiên cứu thị trường và lập kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp
Kế hoạch mua sắm vật tư là một bộ phận quan trọng của kế hoạch sản xuất – kỹ thuật- tài chính của doanh nghiệp. Việc xây dựng kế hoạch mua sắm kịp thời và có chất lượng sẽ cho phép đảm bảo các yếu tố của sản xuất một cách có hiệu quả nhất. Lập kế hoạch mua sắm vật tư là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều bước và nhiều công việc phải làm như: nghiên cứu thị trường các yếu tố của sản xuất để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường, xác định thị trường đáp ứng nhu cầu vật tư cho doanh nghiệp cả về số lượng chất lượng thời gian và giá cả. Nghiên cứu nhiệm vụ sản xuất trong năm kế hoạch khả năng tiêu thụ sản phẩm, kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch vật tư trong năm báo cáo.
Xác định bảng danh mục vật tư tiêu dùng trong năm kế hoạch xây dựng và điều chỉnh lại các loại định mức bao gồm định mức tiêu hao nguyên vật liệu, định mức sử dụng công suất thiết bị máy móc và dự trữ vật tư. Tính toán nhu cầu vật tư trong toàn bộ doanh nghiệp và cho tất cả các loại công việc.
2.2. Vị trí và đặc điểm của kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp
Kế hoạch mua sắm vật tư là một bộ phận quan trọng của kế hoạch sản xuất. Chúng có quan hệ mật thiết với các kế hoạch khác như kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất, kế hoạch xây dựng, kế hoạch tài chính. Trong mối quan hệ này, kế hoạch mua sắm vật tư bảo đảm yếu tố vật chất để thực hiện kế hoạch khác. Còn các kế hoạch khác là căn cứ để xây dựng kế hoạch mua sắm vật tư. Thật vậy, chẳng hạn như trong mối quan hệ với kế hoạch sản xuất, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch vật tư không thể xa rời những chỉ tiêu trong những kế hoạch này để xác định nhu cầu vật tư. Vì một sự xa rời những chỉ tiêu trong kế hoạch sản xuất thì kế hoạch mua sắm vật tư sẽ đưa đến tình trạng ứ đọng vật tư, vốn hoặc tình trạng không bảo đảm vật tư kỹ thuật cho sản xuất.
Mặt khác cũng phải thấy rõ những đặc điểm riêng biệt của kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp để có thể nâng cao chất lượng của kế hoạch xây dựng nhằm phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
Kế hoạch và việc thực hiện kế hoạch mua sắm vật tư sẽ dự kiến trực tiếp thời gian của một quá trình sản xuất, sự tiêu dùng trực tiếp các tư liệu sản xuất sẽ phát sinh trong doanh nghiệp.
Kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp rất phức tạp. Tính chất phức tạp của nó thể hiện ở chỗ trong kế hoạch có rất nhiều loại vật tư với nhiều quy cách chủng loại rất khác nhau và phương pháp cơ bản để lập kế hoạch này là phương pháp cân đối.
Kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp có tính chất cụ thể, và nghiệp vụ cao độ.
Đặc điểm này xuất phát từ tính chất của sản xuất là bao giờ cũng mang tính cụ thể. Vì vậy, kế hoạch mua sắm vật tư phải rất chi tiết cụ thể, phải đặt mua những vật tư thích hợp, phục vụ tốt nhất cho sản xuất. Tính chất cụ thể và nghiệp vụ cao độ của kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp còn thể hiện ở chỗ số lượng mua sắm sẽ được phân chia ra cho từng phân xưởng cụ thể cho từng thời kỳ nhất định.
2.3. Nội dung và trình tự lập kế hoạch mua sắm vật tư.
Nội dung của kế hoạch mua sắm vật tư
Kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp thực chất là sự tổng hợp những tài liệu tính toán kế hoạch, nó là một hệ thống các bảng biểu tổng hợp nhu cầu vật tư và một hệ thống các biểu cân đối vật tư, nhiệm vụ chủ yếu của nó là bảo đảm vật tư tốt nhất cho sản xuất. Muốn vậy, kế hoạch mua sắm vật tư phải xác định cho được lượng vật tư cần thiết phải có trong kỳ kế hoạch cả về số lượng, chất lượng và thời gian. Bên cạnh việc xác định lượng vật tư cần mua, kế hoạch mua sắm vật tư còn phải xác định rõ những nguồn vật tư để thoả mãn các nhu cầu của doanh nghiệp. Bởi vậy, kế hoạch mua sắm vật tư thường phản ánh hai nội dung cơ bản sau: Một là phản ánh toàn bộ nhu cầu vật tư của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch như nhu cầu vật tư cho sản xuất, sửa chữa, dự trữ. Hai là phản ánh các nguồn vật tư để thoả mãn các nhu cầu nói trên bao gồm nguồn tồn kho đầu kỳ, nguồn động viên tiềm lực nội bộ doanh nghiệp và nguồn mua ngoài.
Trình tự lập kế hoạch mua sắm vật tư.
Trình tự lập kế hoạch là những bước công việc phải làm để có được kế hoạch. Đối với các doanh nghiệp, việc lập kế hoạch mua sắm vật tư chủ yếu là do phòng kinh doanh lập, nhưng thực tế có sự tham gia của nhiều bộ phận trong bộ máy điều hành doanh nghiệp. Các giai đoạn lập kế hoạch vật tư gồm có:
Giai đoạn chuẩn bị: Đây là giai đoạn quan trọng quyết định đến chất lượng và nội dung của kế hoạch vật tư. ở giai đoạn này, cán bộ thương mại doanh nghiệp phải thực hiện các công việc sau: nghiên cứu và thu thập các thông tin về thị trường, các yếu tố sản xuất, chuẩn bị các tài liệu về phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, mức tiêu dùng nguyên vật liệu, yêu cầu của các phân xưởng, tổ đội sản xuất của doanh nghiệp.
Giai đoạn tính toán các nhu cầu vật tư của doanh nghiệp: đối với các doanh nghiệp sản xuất để có được kế hoạch mua sắm vật tư chính xác và khoa học đòi hỏi phải xác định đầy đủ các loại nhu cầu vật tư cho sản xuất. Đây là căn cứ quan trọng để xác định lượng vật tư cần mua về cho doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, với cơ chế tự trang trải và có lợi nhuận để tồn tại và phát triển, việc xác định đúng đắn các loại nhu cầu vật tư có ý nghĩa kinh tế to lớn.
Giai đoạn xác định số lượng vật tư tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của doanh nghiệp: đối với các doanh nghiệp số lượng vật tư này thường được xác định theo phương pháp ước tính và định mức.
Giai đoạn kết thúc của việc lập kế hoạch mua sắm vật tư: là xác định số lượng vật tư hàng hoá cần phải mua về cho doanh nghiệp. Nhu cầu này của doanh nghiệp được xác định theo phương pháp cân đối nghĩa là:
N
=
P
i,j
i,j
Trong đó : ồ N: là nhu cầu về loại vật tư i dùng cho mục đích j.
i, j
ồ P: Tổng nguồn về loại vật tư i đáp ứng bằng nguồn j.
i, j
Trong cơ chế thị trường, yêu cầu của quy luật cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải hết sức quan tâm đến việc mua sắm và sử dụng vật tư kỹ thuật. Nhu cầu mua sắm phải được tính toán khoa học, cân nhắc mọi tiềm năng của doanh nghiệp. Trong điều kiện đó, mục tiêu của việc lên kế hoạch mua vật tư kỹ thuật là làm sao với số lượng vật tư cần mua về ở mức tối thiểu mà vẫn đảm bảo được yêu cầu của sản xuất kinh doanh.
Tổ chức mua sắm vật tư:
Trên cơ sở kế hoạch mua sắm vật tư và kết quả nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp lên đơn hàng vật tư và tổ chức thực hiện bảo đảm vật tư cho sản xuất. Lên đơn hàng là quá trình cụ thể hoá nhu cầu, là việc xác định tất cả các quy cách chủng loại hàng hoá, dịch vụ cần thiết. Lập đơn hàng là công việc hết sức quan trọng trong quá trình tổ chức mua sắm vật tư vì nó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ một sai sót nào cũng có thể dẫn đến việc đặt mua những vật tư mà nhu cầu sản xuất không cần đến hoặc không đủ so với nhu cầu với ý nghĩa như vậy phòng kinh doanh phải có trách nhiệm cao trong công tác lập đơn hàng. Nhiệm vụ quan trọng trong công tác lập đơn hàng là chọn và đặt mua những loại vật tư hàng hoá có hiệu quả kinh tế cao.
Tổ chức chuyển đưa vật tư về doanh nghiệp:
Tổ chức chuyển đưa vật tư về doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm vật tư kịp thời đầy đủ và đồng bộ cho sản xuất. Công việc này ảnh hưởng trực tiếp đến việc giữ gìn số lượng, chất lượng vật tư hàng hoá đảm bảo sử dụng có hiệu quả vật tư và hạ giá thành sản phẩm.
Chuyển đưa vật tư hàng hoá về doanh nghiệp có thể thực hiện theo hình thức tập trung hoặc phi tập trung tuỳ theo khối lượng vật tư hàng hoá vận chuyển và tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào chỗ đơn vị kinh doanh hay hộ tiêu dùng đảm nhận việc chuyên chở vật tư từ các kho của đơn vị kinh doanh đến các hộ tiêu dùng người ta phân biệt hai phương thức cung ứng: Cung ứng đến tận doanh nghiệp hay đến nơi gần với doanh nghiệp và cung ứng tại kho bãi của đơn vị bán.
Trong thực tế kinh doanh vật tư của ta phương thức cung ứng thứ hai vẫn còn phổ biến. Điều đó xuất phát từ thực tế sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp chủ yếu vẫn là nhỏ lẻ, nhu cầu tiêu dùng vật tư nhỏ, hay biến động. Vật tư chuyển về doanh nghiệp trước khi nhập kho phải qua khâu tiếp nhận về số lượng và chất lượng. Mục đích của việc tiếp nhận là kiểm tra số lượng và chất lượng vật tư nhập kho cũng như xác định rõ trách nhiệm của những đơn vị và những người có liên quan đến lô hàng nhập. Nếu đơn vị sử dụng dùng phương tiện của mình đến đơn vị kinh doanh nhập hàng và có người áp tải đi theo thì việc tiếp nhận số và chất lượng vật tư cần được tiến hành tại kho của đơn vị kinh doanh và trước khi nhập kho phải kiểm tra lại. Nếu doanh nghiệp thương mại đưa vật tư đến doanh nghiệp thì việc tiếp nhận về số và chất lượng vật tư lại được tiến hành tại kho của doanh nghiệp. Trong trường hợp đó phải xác định trách nhiệm về sự thiếu hụt, hư hỏng là do doanh nghiệp thương mại hay đơn vị vận tải gây nên.
Tuỳ thuộc vào tính chất lý, hoá của từng loại vật tư và tình hình giao nhận giữa đơn vị gửi hàng và đơn vị nhận hàng mà thực hiện số lượng bằng những phương pháp khác nhau. Giao nhận hàng bằng số lượng, trọng lượng, thể tích thì cần, đong, đo, đếm. Giao nhận theo nguyên hầm, nguyên toa thì khi giao hàng cho đơn vị vận chuyển, chủ hàng phải niêm phong cặp chì toa trược mặt người phụ trách phương tiện vận tải. Khi trả hàng nếu dấu niêm phong vẫn nguyên vẹn thì doanh nghiệp không cần phải kiểm tra tỷ mỉ về số lượng vật tư. Nếu giao theo nguyên bao, nguyên kiện, bố trí đếm số bao số kiện đó, doanh nghiệp xem kỹ bao bì và phát hiện ngay tại chỗ những bao bì hư hỏng hay dấu vết nghi ngờ hay bị mất.
Kiểm tra chất lượng vật tư được tiến hành với mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất lý hoá của từng loại vật tư. Đối với những loại vật tư chóng hỏng hay yêu cầu kỹ thuật cao thì phải kiểm tra tỷ mỉ. Tuỳ thuộc vào những chứng từ gửi kèm theo hàng hoá, nếu có những chứng từ như giấy chứng nhận phẩm chất, mẫu thử về chất lượng sản phẩm của đơn vị kinh doanh giửi kèm thì tiến hành kiểm tra một cách chọn lọc.
Việc kiểm tra chất lượng vật tư được tiến hành từ thấp đến cao. Đầu tiên nhân viên tiếp nhận xem xét, kích thước, tình hình bao bì, và những ký hiệu ghi trên bao bì có phù hợp với những điều kiện quy định trong hợp đồng giao hàng và vận đơn gửi kèm theo hàng hoá hay không. Tiếp đó kiểm tra kỹ hơn trong một số trường hợp đối với một số loại vật tư nhất định còn phải tiến hành kiểm tra chất lượng bằng thí nghiệm như thử độ cứng, độ dẻo. Bởi vì phương pháp kiểm tra khác nhau cho ta những kết quả khác nhau cho nên cần phải thống nhất hàng hoá nhận chở theo phương pháp nào thì khi giao hàng cũng theo phương pháp ấy điều đó cũng phải quy định thống nhất trong các hợp đồng vận chuyển mua bán.
Tiếp nhận bảo quản vật tư về số lượng và chất lượng:
Vật tư hàng hoá chuyển về doanh nghiệp trước khi nhập kho phải qua khâu tiếp nhận về số lượng và chất lượng. Mục đích của việc tiếp nhận là kiểm tra số lượng và chất lượng vật tư qua kho, kiểm tra việc thực hiện hợp đồng và đơn hàng xem có bảo đảm số lượng và chất lượng hay không để xác định rõ trách nhiệm của những đơn vị và cá nhân có liên quan đến nhập hàng.
Tổ chức cấp pháp vật tư trong nội bộ doanh nghiệp:
Cấp phát vật tư cho các đơn vị tiêu dùng trong doanh nghiệp là một khâu công tác hết sức quan trọng. Tổ chức tốt khâu công tác này sẽ bảo đảm sản xuất của doanh nghiệp tiến hành được nhịp nhàng góp phần tăng năng suất lao động của công nhân, tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động, nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm, tiết kiệm vật tư trong tiêu dùng và sản xuất. Tổ chức cấp phát vật tư cho đơn vị tiêu dùng có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Bảo đảm cấp phát các loại vật tư kỹ thuật cho các đơn vị được đồng bộ đủ về số lượng đúng về quy cách phẩm chất và kịp về thời gian.
Chuẩn bị vật tư trước khi đưa vào sản xuất, bảo đảm giao vật tư dưới dạng thuận lợi cho việc tiêu dùng của các đơn vị.
Giải phóng cho các đơn vị tới mức tối đa chức năng có liên quan đến việc tổ chức hậu cần vật tư.
Kiểm tra việc giao vật tư và sử dụng vật tư ở các đơn vị nội bộ doanh nghiệp.
Nhiệm vụ và nội dung cấp phát vật tư trong doanh nghiệp:
Cấp phát vật tư cho các đơn vị tiêu dùng trong nội bộ doanh nghiệp là khâu công tác hết sức quan trọng của phòng vật tư. Tổ chức tốt khâu công tác này sẽ đảm bảo cho sản xuất của doanh nghiệp tiến hành được nhịp nhàng, góp phần tăng năng suất lao động của công nhân, tiết kiệm được vật tư tiêu dùng. Quá trình cấp phát vật tư kỹ thuật cho các đơn vị nội bộ bao gồm những nội dung sau:
Lập hạn mức cấp phát vật tư cho các đơn vị tiêu dùng.
Lập các chứng từ cấp phát vật tư.
Chuẩn bị vật tư để cấp phát.
Tổ chức giao vật tư cho các đơn vị tiêu dùng nội bộ.
Kiểm tra tình hình sử dụng vật tư.
Lập hạn mức cấp phát vật tư trong nội bộ doanh nghiệp:
Hạn mức cấp phát vật tư là lượng vật tư tối đa quy định cấp cho phân xưởng trong một thời gian nhất định để thực hiện nhiệm vụ sản xuất được giao. Hạn mức cấp phát vật tư nhằm nâng cao trách nhiệm của phân xưởng trong việc sử dụng số lượng vật tư lĩnh được một cách hợp lý nhằm nâng cao trách nhiệm của phòng vật tư trong việc bảo đảm cấp phát cho phân xưởng số lượng vật tư quy định trong hạn mức được đầy đủ, kịp thời và đúng quy cách, góp phần chấn chỉnh củng cố kho tàng và đơn giản hoá công tác ghi chép ban đầu về cấp phát vật tư. Hạn mức cấp phát vật tư cho đơn vị tiêu dùng phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản sau:
Hạn mức cấp phát vật tư phải được quy định cho một thời gian nhất định hoặc cho việc hoàn thành một công việc nhất định hết thời hạn đó hạn mức không còn giá trị nữa. Hạn mức cấp phát phải quy định rõ mục đích sử dụng vật tư nghĩa là dùng số lượng vật tư quy định trong định mức để sản xuất sản phẩm gì hay thực hiện công việc gì.
Hạn mức cấp phát phải chính xác nghĩa là số lượng vật tư quy định trong hạn mức phải hoàn toàn phù hợp với nhu cầu thực tế của đơn vị tiêu dùng được tính toán có căn cứ khoa học.
Để lập hạn mức cấp phát vật tư được chính xác cần căn cứ và kế hoạch sản xuất sản phẩm, các mức tiên tiến về tiêu dùng vật tư, mức dữ trữ vật tư ở đơn vị tiêu dùng, lượng tồn kho đầu kỳ: hạn mức cấp phát vật tư được tình theo công thức sau:
H= Ntph +(-) Nt ch ph + D - O
Trong đó: H: hạn mức cấp phát vật tư tính theo đơn vị hiện vật.
Ntph: nhu cầu vật tư cho sản xuất thành phẩm.
Nt ch ph: nhu cầu vật tư cho thay đổi sản phẩm dở dang.
D: nhu cầu vật tư cho dự trữ ở phân xưởng.
O: tồn kho đầu kỳ.
Lập chứng từ cấp phát vật tư nội bộ doanh nghiệp:
Sau khi xác định hạn mức cấp phát vật tư, giai đoạn quan trọng trong việc tổ chức cấp phát vật tư cho đơn vị tiêu dùng là lập chứng từ cấp phát vật tư. Việc quy định đúng đắn chế độ lập chứng từ cấp phát vật tư có ý nghĩa to lớn đối với việc cấp phát vật tư một cách nhanh chóng giảm được giấy tờ và thời gian làm thủ tục giấy tờ không cần thiết của đơn vị tiêu dùng, làm cho thống kê, hạch toán vật tư được chính xác, bảo đảm sử dụng vật tư hợp lý và tiết kiệm.
Chuẩn bị vật tư để cấp phát:
Vật tư nhập vào doanh nghiệp không phải thứ nào cũng dùng ngày vào sản xuất được, nhiều loại đòi hỏi phải được chuẩn bị trước khi đưa vào sản xuất nhằm cấp phát cho đơn vị những vật tư có dạng thuận tiện cho tiêu dùng sản xuất bảo đảm cho việc sử dụng vật tư đạt hiệu quả kinh tế cao. Các loại vật tư khác nhau đòi hỏi phải có sự chuẩn bị khác nhau. Những nghiệp vụ chủ yếu về chuẩn bị vật tư là: Phân loại, ghép đồng bộ, làm sạch. Một số loại vật tư còn phải phơi khô pha cắt thành những khởi phẩm. Những nghiệp vụ chuẩn bị đơn giản đều do nhân viên kho thực hiện. Việc chuẩn bị trước hết phải kiểm tra về số lượng và chất lượng. Đối với một số loại vật liệu phải kiểm nghiệm về mặt chất lượng, nhiều loại vật tư phải tiến hành phân loại như dụng cụ ổ bi, những chi tiết do các xí nghiệp bên ngoài nhập về cũng phải được chuẩn bị đưa ra khỏi bao bì, sắp xếp đồng bộ, có nhiều trường hợp phải tẩy sạch dầu mỡ bên ngoài. Đặc biệt trong công nghiệp luyện kim, có nhiều loại nguyên vật liệu phải được chuẩn bị trước. Việc tổ chức pha cắt vật liệu tập trung do bộ phận hoặc phân xưởng chuyên pha cắt đảm nhiệm, có nhiều ưu điểm. Trước hết việc pha cắt tập trung tạo khả năng sử dụng vật liệu đến mức tối đa bằng cách sử dụng các phế liệu phát sinh trong khi pha cắt vật liệu để làm những chi tiết nhỏ hơn dùng trong doanh nghiệp.
Tổ chức giao vật tư cho đơn vị tiêu dùng trong doanh nghiệp:
Tổ chức giao vật tư cho sản xuất đúng đắn có ý nghĩa quan trọng đối với việc phục vụ kịp thời đầy đủ cho sản xuất giảm được nhiều chi phí cho việc bốc dỡ vận chuyển, bảo quan trong quá trình chuyển đưa vật tư từ kho doanh nghiệp đến nơi làm việc của công nhân. Tổ chức giao vật tư cho sản xuất tốt đòi hỏi phải đòi tổ chức tốt công tác xuất kho và lựa chọn đúng đắn phương thức giao vật tư cho sản xuất. Tổ chức xuất kho vật tư được nhanh chóng, chính xác, bảo đảm kịp thời, giảm được thời gian “chết” của phương tiện vận chuyển và người tiếp nhận, nâng cao năng suất lao động, trực tiếp ảnh hưởng đến các chỉ tiêu khác của doanh nghiệp.
Xuất kho nhanh và đúng phụ thuộc vào công tác nghiệp vụ kho của doanh nghiệp, phải cần nắm vững vật tư trong kho bố trí sắp xếp sao cho bảo đảm dễ thấy, dễ lấy, bảo đảm các phương tiện vận chuyển ra vào dễ dàng. Mặt khác phụ thuộc vào trình độ cơ giới hoá các công việc bốc dỡ trong kho. Việc vận chuyển vật tư đến các phân xưởng hay đến tận nơi làm việc trong doanh nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong tổ chức giao vật tư. Bởi vì quá trình này đòi hỏi tốn nhiều công sức và bốc dỡ và vận chuyển khối lượng vật tư lớn từ các kho doanh nghiệp. Tuỳ thuộc ở chỗ phân xưởng tự tổ chức chuyển đưa vật tư hay phòng vật tư tổ chức việc vận chuyển đó, người ta phân biệt hai hình thức giao vật tư. Phương thức giao vật tư tại kho doanh nghiệp và phương thức giao vật tư tại nơi làm việc:
Phương thức giao vật tư tại kho doanh nghiệp: Theo phương thức này phân xưởng căn cứ vào các chứng từ cấp phát, cử người cùng các phương tiện vận tải đến các kho doanh nghiệp nhận vật tư và chuyển về.
Phương thức giao vật tư tại nơi làm việc: Đó là phương thức giao vật tư do phòng hậu cần vật tư căn cứ và lịch kế hoạch cấp phát vật tư hoặc có thể căn cứ vào yêu cầu của phân xưởng đã được báo trước, tổ chức chuyển đưa vật tư đến các nơi làm việc bằng nhân lực và các phương tiện vật tư do phòng quản lý. Phương thức giao vật tư này tiến bộ hơn nhiều so với phương thức giao trên, nó tạo điều kiện cho người lãnh đạo phân xưởng tập trung sức lực và thời gian vào việc chăm lo sản xuất cho phép sử dụng lao động và các phương tiện vận tải bốc dỡ, tạo điều kiện cho kho tổ chức xuất kho vật tư một cách khoa học, điều hoà vật tư hợp lý trong doanh nghiệp.
Kiểm tra tình hình sử dụng vật tư:
Vật tư cấp cho phân xưởng để trực tiếp sản xuất sản phẩm , kết thúc toàn bộ quá trình vận động từ sản xuất đến tiêu dùng. Nếu ở đây sử dụng không đúng mục đích cho sản xuất sản phẩm này lại đem dùng vào việc khác, cho sản xuất sản phẩm khác không tuân thủ kỷ luật công nghệ, không tận dụng phế liệu và có nhiều phế phẩm thì tất yếu dẫn đến bộ chi vật tư và ảnh hưởng xấu đến kinh tế của doanh nghiệp. Vì vậy phấn đấu tiêu dùng hợp lý và tiết kiệm vật tư là trách nhiệm của phân xưởng của các phòng và nói chung của các doanh nghiệp. Phòng vật tư là người chịu trách nhiệm quản lý vật tư ở doanh nghiệp, không phải chỉ lo mua vật tư và cấp phát đủ số vật tư cho phân xưởng là xong mà còn phải có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra việc tiêu dùng vật tư trong doanh nghiệp.
Kiểm tra sử dụng vật tư phải căn cứ vào các tài liệu, hạn mức cấp phát, số liệu hạch toán, xuất kho của doanh nghiệp cho các đơn vị sử dụng về tình hình sử dụng vật tư. Mặt khác phải tiến hành kiểm tra thực tế việc tiêu dùng ở phân xưởng và người công nhân sử dụng. Nếu có trường hợp đối với một số loại vật liệu phân xưởng không nhận hết số đã quy định trong hạn mức, nhưng đối với một số loại vật liệu khác, phân xưởng lại nhận quá số quy định trong hạn mức trong lúc chương trình sản xuất hoàn thành bình thường, điều đó chứng tỏ phân xưởng sử dụng một ._.phần vật liệu không đúng mục đích. Kết luận dứt khoát việc này phải căn cứ và phiếu yêu cầu cấp thêm và phiếu thay thế kèm theo các tài liệu khác sau đó ta đối chiếu với số liệu thực xuất từng loại vật liệu cho phân xưởng với việc phân xưởng hoàn thành kế hoạch sản xuất.
Nếu kế hoạch sản xuất không hoàn thành, nhưng số lượng vật liệu quy định trong hạn mức lại lĩnh hết hoặc nhiều hơn, chứng tỏ trong kỳ báo cáo, phân xưởng đã bội chi vật liệu. Ngược lại nếu kế hoạch sản xuất hoàn thành hoặc hoàn thành vượt mức nhưng số vật liệu tiêu dùng chỉ trong phạm vi hạn mức hoặc thậm chí ít hơn, chứng tỏ phân xưởng trong kỳ báo cáo đã đạt được thành tích nhất định về tiết kiệm vật tư.
Xác định nhu cầu máy móc thiết bị:
Đối với máy móc thiết bị sử dụng ở doanh nghiệp thì việc tính toán nhu cầu thường căn cứ vào thực trạng sử dụng để có kế hoạch mua sắm bổ xung thêm. Nhìn chung đối với các doanh nghiệp công nghiệp, nhu cầu về thiết bị máy móc gồm nhu cầu dùng để lắp máy sản phẩm, thay thế số máy móc thiết bị thải loại, thiết bị cho các công trình xây dựng mới và nhu cầu thiết bị để mở rộng năng lực thiết bị hiện có. Nhu cầu thiết bị để mở rộng năng lực thiết bị của doanh nghiệp:
Ntb =
Q.m
T.C.G.Ksd . Km - A
Trong đó:
Ntb: Nhu cầu thiết bị tăng thêm.
Q: khối lượng sản phẩm kỳ kế hoạch.
M: định mức giờ máy để sản xuất một đơn vị sản phẩm.
T: số ngày máy làm việc trong kỳ kế hoạch.
C: số ca làm việc.
G. số giờ làm việc trong ca.
Ksd: hệ số sử dụng thiết bị có tính đến thời gian ngừng để sửa chữa theo kế hoạch.
Km: hệ số thực thiện mức.
A: số máy móc thiết bị hiện có.
+ Nhu cầu thiết bị để lắp máy sản phẩm: Để xác định nhu cầu thiết bị cho lắp máy sản phẩm trong kỳ kế hoạch người ta có thể sử dụng công thức sau:
Nthiết bị = Mthiết bị . Ksản phẩm -Tđk + Tck
Trong đó:
Nthiết bị : Nhu cầu về thiết bị cho lắp máy sản phẩm trong kỳ kế hoạch.
Mthiết bị : Mức thiết bị dùng cho một máy sản phẩm.
Ksản phẩm : Số lượng máy sản phẩm.
Tđk : Tồn đầu kỳ về thiết bị dùng cho lắp máy sản phẩm.
Tck : Tồn cuối kỳ về thiết bị dùng cho lắp máy sản phẩm.
+ Nhu cầu thiết bị để thay thế máy móc thiết bị loại ra:
Trong quá trình sử dụng có những máy móc thiết bị hư hỏng do những nguyên nhân như do sử dụng quá thời gian, máy móc già cỗi không sửa chữa được, hoặc ngay khi máy móc còn tốt nhưng do tiến bộ khoa học kỹ thuật xuất hiện nhũng máy móc thiết bị tối tân hơn, năng suất lao động cao hơn làm cho thiết bị đang sử dụng trở thành lạc hậu cần phải thay thế.do đó trong kế hoạch nhu cầu vật tư cần phải tính tới số máy móc thiết bị loại ra này.
Đối với máy móc thiết bị do lạc hậu về kỹ thuật cách tính phải căn cứ vào yêu cầu nâng cao công suất của doanh nghiệp mức độ lạc hậu của máy móc thiết bị, lợi ích kinh tế và thiết kế kỹ thuật đã được duyệt.
Đối với máy móc thiết bị do hoạt động lâu ngày không còn sử dụng được nữa, cách tính phải căn cứ vào biên bản xác nhận của hội đồng giám định kỹ thuật.
Xác định nhu cầu nguyên vật liệu
Phương pháp tính theo mức sản phẩm; tính nhu cầu vật tư theo phương pháp này phải căn cứ vào định mức sử dụng vật tư cho đơn vị sản phẩm và khối lượng sản phẩm, khối lượng chi tiết sản phẩm, và mức tiêu dùng vật tư cho 1 chi tiết sản phẩm.
n
Nsx = ồ Qi. Mi
i=1
Trong đó: Nsx : là nhu cầu vật tư dùng để sản xuất sản phẩm.
Qi : là sản phẩm loại i sản xuất trong kỳ kế hoạch.
Mi : là mức sử dụng vật tư cho đơn vị sản phẩm loại i hoặc cho chi tiết sản phẩm loại i.
n : số loại sản phẩm.
Phương pháp tính nhu cầu cho sản phẩm dở dang: phương pháp tính theo mức chênh lệch sản lượng, nửa thành phẩm và hàng chế dở giữa cuối năm và đầu năm. Căn cứ vào mức chênh lệch sản lượng nửa thành phẩm hàng chế dở giữa cuối năm và đầu năm kế hoạch và mức sử dụng vật tư cho đơn vị nửa thành phẩm. Hàng chế dở và xác định nhu cầu vật tư theo công thức:
Nsx = (Qcd2 - Qcd1).m
Trong đó: Qcd2, Qcd1: Số lượng nửa thành phẩm và hàng chế dở cuối năm và đầu năm kế hoạch.
m : mức sử dụng vật tư cho đơn vị nửa thành phẩm.
Mức huy động công suất của thiết bị:
Chỉ tiêu này phản ánh định lượng về công suất thực tế đưa vào sản xuất của thiết bị so với công suất thiết bị lắp đặt.
Tổng công suất thiết bị được huy động
Kcs =
Tổng công suất thiết bị lắp đặt trên dây truyền.
Theo lý lịch máy làm với chế độ làm việc 1 ca, 2 ca.... tính bằng KW/h.
Nhu cầu vật tư và những đặc trưng cơ bản.
Khái niệm của nhu cầu vật tư:
Nhu cầu là một khái niệm cơ bản và tiềm ẩn trong Marketing, nhu cầu nói chung được hiểu là cảm giác thiết hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được. Nhu cầu của con người rất đa dạng và phức tạp, nó bao gồm nhiều loại nhu cầu từ nhu cầu vật chất như ăn, mặc đến nhu cầu tinh thần. Vì là sự thiếu hụt nên nhu cầu tạo ra sự mong muốn được thoả mãn, nếu nhu cầu càng có ý nghĩa bao nhiêu thì sự mong muốn được thoả mãn càng lớn bấy nhiêu. Khi nhu cầu chưa được thoả mãn, người ta phải lựa chọn một trong hai hướng giải quyết đó là tìm mọi khả năng để thoả mãn nhu cầu và kiềm chế nhu cầu. Khi xã hội phát triển, nhu cầu của con người sẽ tăng lên theo sự phát triển của sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất để tồn tại và phát triển cần phải thiết lập mối liên hệ giữa những sản phẩm của mình và nhu cầu của xã hội.
Nhu cầu là một phạm trù kinh tế quan trọng phản ánh mối liên hệ phụ thuộc của các đơn vị sản xuất kinh doanh, các hộ tiêu dùng vào các điều kiện của tái sản xuất xã hội. Nhu cầu mang tính khách quan cũng giống như những điều kiện và tính quy luật của quá trình tái sản xuất. Tính khách quan của nhu cầu thể hiện ở chỗ lượng nhu cầu hoàn toàn không phụ thuộc vào việc xác định hay không xác định giá trị của nó. Nhu cầu vật tư là những nhu cầu cần thiết về nguyên, nhiên, vật liệu, thiết bị, máy móc để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nhất định.
Vật tư là hàng hoá nên nhu cầu vật tư cũng có những đặc điểm của nhu cầu hàng hoá và dịch vụ. Tuy vậy vật tư khác nhau căn bản với hàng hoá tiêu dùng cá nhân ở công dụng của nó. Hàng hoá tiêu dùng cá nhân đặc trưng cơ bản của nó là khi phân loại căn cứ vào thói quen mua hàng của người tiêu dùng còn vật tư được sử dụng để làm ra các sản phẩm khác nhau hay tham gia điều hành một doanh nghiệp. Do đặc điểm của tư liệu sản xuất và đặc điểm của vật tư tiêu dùng nên sự vận động của cầu vật tư có sự khác biệt so với sự vận động của cầu hàng hoá tiêu dùng. Độ co dãn của cầu vật tư ảnh hưởng đến nhu cầu của các loại vật tư cho sản xuất của doanh nghiệp. Vật tư là hàng hoá công nghiệp nên độ co dãn cầu ít hơn so với hàng hoá tiêu dùng cá nhân. Trong vật tư thì nhóm nguyên liệu chính ít đàn hồi hơn vật liệu phụ điều này được thấy ở mọi nơi trong sản xuất và xây dựng. Quá trình bảo đảm vật tư là do quá trình sản xuất quyết định, công nghệ sản xuất quyết định chứ không phải do thói quen và sở thích của người tiêu dùng quyết định.
Trong điều kiện sản xuất hàng hoá, nhu cầu vật tư luôn luôn biểu hiện dưới dạng cầu. Cầu là phạm trù kinh tế phức tạp có mối liên hệ trực tiếp đến các quy luật và các phạm trù của sản xuất và lưu thông hàng hoá và là một yếu tố của một thị trường vật tư.
3.2.Những đặc trưng cơ bản của nhu cầu vật tư:
Cũng như quá trình bảo đảm vật tư cho sản xuất, nhu cầu vật tư kỹ thuật mang tính khách quan phản ánh yêu cầu của sản xuất về một loại vật tư nào đó. Nhu cầu vật tư có những đặc trưng sau:
Liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất.
Nhu cầu được hình thành trong lĩnh vực sản xuất vật chất.
Tính xã hội của nhu cầu vật tư.
Tính thay thế lẫn nhau của nhu cầu vật tư.
Tính bổ xung cho nhau của nhu cầu vật tư.
Tính đa dạng và nhiều vẻ của nhu cầu vật tư.
Do những đặc trưng cơ bản trên mà việc nghiên cứu và xác định các loại nhu cầu vật tư ở doanh nghiệp là rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ vật tư phải có sự am hiểu sâu sắc về lĩnh vực hàng hoá công nghiệp; công nghệ sản xuất, kiến thức thương mại.
Kết cấu nhu cầu vật tư:
Đối với các doanh nghiệp, nhu cầu vật tư được biểu hiện toàn bộ nhu cầu của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch để đảm bảo các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết cấu nhu cầu vật tư được thể hiện bằng mối quan hệ giữa mỗi loại nhu cầu đối với toàn bộ nhu cầu vật tư.
Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu vật tư doanh nghiệp:
Nhu cầu vật tư được hình thành dưới tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Những nhân tố này có thể phân theo các nhóm sau:
Một là: tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong sản xuất. Nhân tố tổng hợp này phản ánh tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất và sử dụng vật tư như chế tạo những máy móc thiết bị có tính năng kỹ thuật cao, sử dụng những vật liệu mới và sử dụng có hiệu quả nguồn vật tư.
Hai là: quy mô sản xuất ở các ngành, các doanh nghiệp. Nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng vật tư tiêu dùng và do đó ảnh hưởng tới khối lượng nhu cầu vật tư. Quy mô sản xuất càng lớn thì khối lượng tiêu dùng vật tư càng nhiều và do đó nhu cầu vật tư càng tăng.
Ba là cơ cấu khối lượng sản phẩm sản xuất. Cơ cấu khối lượng sản phẩm sản xuất thay đổi theo nhu cầu thị trường và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đặc biệt thay đổi theo trình độ sử dụng vật liệu tiêu dùng và cải tiến chất lướng sản phẩm từ những vật tư tiêu dùng. Điều này ảnh hưởng tới cơ cấu của vật tư tiêu dùng.
Bốn là quy mô thị trường vật tư. Quy mô của thị trường thể hiện số lượng doanh nghiệp tiêu dùng vật tư và quy cách chủng loại vật tư mà các doanh nghiệp có nhu cầu tiêu dùng trên thị trường, quy mô của thị trường càng lớn thì nhu cầu vật tư càng nhiều.
Năm là cung ứng vật tư hàng hoá có trên thị trường. Cung ứng vật tư thể hiện khả năng vật tư có trên thị trường và khả năng đáp ứng nhu cầu vật tư của các đơn vị tiêu dùng. Cung ứng vật tư tác động đến cầu vật tư thông qua giá cả và do đó đến toàn bộ nhu cầu.
Công tác kế hoạch nghiệp vụ về hậu cần vật tư cho sản xuất.
Kế hoạch hậu cần quý.
Kế hoạch hậu cần vật tư hàng quý của doanh nghiệp lập theo danh mục vật tư cụ thể. Đó là vì cần thiết phải mua những vật tư cụ thể để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi lập kế hoạch hậu cần vật tư quý, những người làm công tác vật tư ở doanh nghiệp có khả năng xác định đúng đắn tồn kho ước tính và dự trữ gối đâù lượng vật tư mua sắm. Tất cả điều đó cho phép xác định được mức bảo đảm đối với từng chủng loại, quy cách vật tư kịp thời đề ra những biện pháp cần thiết để mua được những vật tư còn thiếu hoặc tránh được dự trữ quá mức.
Để lập kế hoạch hậu cần vật tư hàng quý được chính xác đòi hỏi phải có đầy đủ những tài liệu và sổ sách cần thiết như kế hoạch tiêu thụ sản phẩm trong quý, khối lượng sửa chữa, kế hoạch phát triển kỹ thuật mới, định mức tiêu hao vật tư cụ thể cho từng sản phẩm, số lượng từng tên gọi vật tư dự kiến nhập vào và dự kiến xuất ra cho tiêu dùng sản xuất từ thời điểm lập kế hoạch đến ngày đầu quý kế hoạch. Khác với kế hoạch hậu cần vật tư trong năm của doanh nghiệp, kế hoạch bảo đảm vật tư hàng quý là tài liệu làm việc cơ bản của phòng vật tư ở doanh nghiệp. Trên cơ sở kế hoạch đảm bảo vật tư hàng quý, phòng vật tư liên hệ với các đơn vị cung ứng đặt mua vật tư tổ chức hạch toán và kiểm tra mức độ bảo đảm vật tư cho sản xuất, xác định số tiền mua vật tư, lập kế hoạch vận chuyển và bốc xếp.
Kế hoạch hậu cần vật tư lập ra trên cơ sở chỉ tiêu tiêu thụ sản phẩm trong quý của doanh nghiệp. Các định mức tiêu hao vật tư cụ thể và kế hoạch sản xuất chính thức trong quý ngoài chỉ tiêu hiện vật còn có chỉ tiêu giá trị nữa. Trong biểu kế hoạch quý có cột đơn giá và các cột giá trị tiền mua vật tư. Cột giá trị tiền mua vật tư tính bằng tích số giữa lượng vật tư nhập vào trong quá và đơn giá.
Lập kế hoạch hậu cần vật tư hàng tháng và các biện pháp giải quyết thừa thiếu vật tư ở doanh nghiệp sản xuất.
Đối với nhiều quy cách vật tư, phòng vật tư chỉ cần lập kế hoạch hậu cần vật tư trong quý và theo dõi việc thực hiện kế hoạch đó còn đối với những vật tư chính của doanh nghiệp và những vật tư hay mất cân đối thì phòng vật tư của doanh nghiệp cần phải lập kế hoạch hậu cần vật tư hàng tháng. Kế hoạch này được lập sau khi biết được khả năng thoả mãn đơn hàng của các đơn vị kinh doanh và lập trước tháng kế hoạch từ 7-10 ngày. Kế hoạch hậu cần vật tư hàng tháng khác với kế hoạch hậu cần vật tư hàng quý là ở chỗ có các cột phản ánh thừa thiếu vật tư và các biện pháp giải quyết thừa thiếu.
Lập kế hoạch hậu cần vật tư tháng kết thúc giai đoạn lập kế hoạch hậu cần vật tư của doanh nghiệp nhưng công tác kế hoạch nghiệp vụ chưa kết thúc tại đó, nó còn tiếp tục trong suốt quá trình thực hiện kế hoạch dù việc thực hiện kế hoạch hậu cần có hoàn hảo đến đâu chăng nữa trong quá trình thực hiện nó vẫn phải có sự điều chỉnh cần thiết do những thay đổi trên thị trường và trong sản xuất kinh doanh gây ra. Những nguyên nhân dẫn đến điều chỉnh đó là:
Sự thay đổi nhu cầu thị trường và kéo theo đó là kế hoạch sản xuất trong kỳ kế hoạch doanh nghiệp hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất. Có những trường hợp hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất mà không cần đòi hỏi có thêm vật tư nhờ hạ thấp lượng chi thực tế so với mức tiêu dùng vật tư đã duyệt. Nhưng cũng có những trường hợp hoàn thành kế hoạch sản xuất đòi hỏi phải có thêm vật tư. Do đó cần có sự điều chỉnh kế hoạch hậu cần vật tư đã lập.
Kế hoạch hậu cần vật tư có thể phải điều chỉnh do sự thay đổi kế hoạch sản xuất mặt hàng. Một số loại vật tư tăng lên, một số khác lại giảm xuống có thể cần thêm hoặc không sử dụng đến những quy cách vật tư nào đấy. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và cải tiến sản xuất làm cho mức tiêu dùng vật tư giảm xuống và làm thay đổi nhu cầu, đòi hỏi phải điều chỉnh kế hoạch vật tư. Do khách hàng vi phạm hợp đồng không cung ứng đủ số lượng, chủng loại, quy cách vật tư đúng thời hạn quy định. Nhu cầu vật tư có thể thay đổi tăng lên hoặc giảm đi do những nguyên nhân kể trên khiến cho có những loại vật tư bị thiếu hụt và có những loại dữ trữ qúa mức. Cả hai trường hợp phòng vật tư cần có biện pháp giải quyết một cách tích cực.
Trong thực tế đã tiến hành nhiều biện pháp khác nhau để tìm kiếm các nguồn vật tư bổ xung như : sử dụng nguồn vật tư có ở địa phương, tự tổ chức khai thác và chế biến các loại vật tư, sử dụng lại phế liệu vật tư thừa, ứ đọng. Qua thực thế của rất nhiều doanh nghiệp cho thấy rằng nguồn vật tư ở các địa phương có khả năng dồi dào cung cáap bổ xung vào nguồn vật tư của doanh nghiệp. Muốn sử dụng rộng rãi nguồn vật tư của địa phương, phòng vật tư của doanh nghiệp cần tìm hiểu nguồn hàng thích ứng với yêu cầu của sản xuất để ký kết hợp đồng và tổ chức đưa hàng về. Việc sử dụng lại phế liệu cũng là một nguồn giải quyết tình trạng thiếu vật tư. Như chúng ta biết, trong một số trường hợp phế liệu của quá trình sản xuất phân xưởng hay doanh nghiệp này lại là nguyên liệu của của quá trình sản xuất phân xưởng hay doanh nghiệp khác. Trong một quá trình sản xuất nhất định. Sản xuất càng phát triển, trình độ kỹ thuật càng cao, tạo khả năng nâng cao hệ số sử dụng vật tư vào do đó giảm phế liệu một cách tương đối. Bởi vậy sử dụng lại phế liệu vẫn là một phương hướng lâu dài nhằm tiết kiệm vật tư và bổ xung vào nguồn vật tư hiện có.
Ngoài các nguồn kể trên, sử dụng vật tư thừa, ứ đọng lâu nay cũng là một nguồn bổ xung để giải quyết tình trạng thiếu vật tư. Trong thực tế không ít trường hợp có thể thay đổi kế hoạch sản xuất sản phẩm, hoặc do sai sót trong quá trình lập đơn hàng tiếp nhận vật tư mà số loại vật tư không thể sử dụng ở doanh nghiệp nữa, lượng vật tư đó cần giải quyết nhanh chóng để giải phóng vốn, động viện và sử dụng tối đa các nguồn vật tư hiện có.
Theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch hậu cần vật tư kỹ thuật
Để kế hoạch lập ra có tác dụng to lớn đối với việc bảo đảm vật tư kỹ thuật cho sản xuất ở doanh nghiệp được liên tục và đều đặn, một trong những công việc quan trọng không thể thiếu được của doanh nghiệp là tổ chức theo dõi thường xuyên tình hình thực hiện kế hoạch vật tư kỹ thuật. ậ doanh nghiệp việc theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch hậu cần vật tư kỹ thuật là trách nhiệm của phòng vật tư kỹ thuật. Mỗi nhân viên tiếp liệu được phụ trách mua một hoặc một số mặt hàng nhất định. Cách phân công ngày giúp cho nhân viên có thể hiểu biết các nguồn hàng, đi sâu nghiên cứu đặc tính kinh tế kỹ thuật của từng loại vật tư để chọn những thứ kinh tế nhất phù hợp với yêu cầu của sản xuất. Nhưng ở một số doanh nghiệp có nguồn vật tư phân tán ở nhiều địa phương khác nhau, nếu phân công theo nguyên tắc mặt hàng thì mỗi nhân viên tiếp liệu phải đi nhiều địa phương khác nhau để mua một loại vật tư và như thế có thể nhiều nhân viên cùng tìm mua một nguồn hàng trong phạm vi một tỉnh khiến cho biên chế cán bộ và công tác phí tăng lên. Trong trường hợp đó, một số doanh nghiệp có kinh nghiệm phân công chomỗi nhân viên tiếp liệu phụ trách mua tất cả các loại vật tư mà doanh nghiệp cần nằm trong phạm vi một khu vực nhất định.
Là những người lĩnh trách nhiêm tìm mua vật tư cho doanh nghiệp, các nhân viên tiếp liệu cần thường xuyên liên hệ với các đơn vị kinh doanh và tổ chức đưa vật tư về doanh nghiệp được kịp thời. Đó là biện pháp tích cực nhất mà phòng hậu cần vật tư tác động vào đơn vị kinh doanh nhằm thực hiện hợp đồng mua bán vật tư được tốt.
Sự cần thiết của công tác hậu cần vật tư kỹ thuật với việc đổi mới thiết bị công nghệ của nhà máy.
Nhà máy thiết bị bưu điện là một doanh nghiệp nhà nước, bên cạnh những thuận lợi đã được tích lũy, nhà máy sẽ có không ít những khó khăn và thách thức do yêu cầu của ngành về năng lực và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng, sự cạnh tranh trong và ngoài nước dẫn đến sự suy giảm đương nhiên về thị phần, nguồn vật tư nhập khẩu bị ảnh hưởng do khủng hoảng kinh tế các nước ASEAN. Công tác nghiên cứu và phát triển chưa tạo đà về công nghệ và sản phẩm mới cho năm kế hoạch và mậu dịch quốc tế. Trung quy lại do một số yêu cầu sau mà phải mua sắm thiết bị công nghệ của nhà máy:
Một là: yêu cầu của Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ngành bưu chính-viễn thông. Dưới ánh sáng đổi mới, thực hiện chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, ngành Bưu điện đã cố gắng đạt được những kết quả trong công cuộc Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá mạng lưới bưu chính-viễn thông-một hạ tầng quan trọng của nền kinh tế; công cụ đắc lực cho quản lý điều hành nhà nước; bảo vệ an ninh quốc gia.
Những mục tiêu đặt ra cho ngành bưu điện trong công cuộc CNH_HĐH ngành là xây dựng và thực hiện chiến lược đi thẳng vào kỹ thuật hiện đại nhất. Mạng lưới viễn thông nước ta hiện nay tuy còn ít về số lượng, song trình độ công nghệ hoàn toàn ngang tầm và tương thích với mạng lưới các nước tiên tiến trên thế giới như Pháp, Đức, Anh, Thuỵ Điển. Chính vì vậy đặt ra yêu cầu cho nhà máy là phải đảm bảo cung cấp các sản phẩm trang bị cho ngành. Nhưng thực hiện được điều đó, nhà máy phải tăng cường mua sắm thiết bị công nghệ để sản xuất ra những sản phẩm hiện đại, chứa hàm lượng công nghệ lớn tương thích với mạng lưới bưu chính viễn thông hiện đại.
Hai là: sức ép của cạnh tranh trong và ngoài nước. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hàng hoá cạnh tranh nhau về giá cả, chất lượng, mẫu mã, phương thức giao hàng và các dịch vụ sau bán hàng như vận chuyển, lắp đặt, bảo hành. Nhưng vấn đề cốt yếu vẫn là chất lượng sản phẩm và giá cả. Hiện tại trên thị trường nhà máy có rất nhiều đối thủ cạnh tranh như NEC, FUJITSU, PANASONIC, ALCATEL , các hãng lớn của Đài Loan, Trung Quốc. Những đối thủ này rất mạnh về tài chính và tiềm lực sản phẩm hàng hoá, để dành thế chủ động trang cạnh tranh đòi hỏi những sản phẩm của nhà máy phải có mẫu mã đẹp, chất lượng cao, nhất lại là các sản phẩm ngành bưu điện thì lại càng có độ chính xác cao. Chính vì vậy, để đạt được sự cạnh tranh trên thị trường, tăng thị phần, nhà máy không ngừng cải tiến sản phẩm, luôn luôn tìm tòi những sản phẩm mới phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng bằng cách mua sắm và cải tiến thiết bị công nghệ sản xuất.
Ba là: Mục tiêu đặt ra của nhà máy trong những năm tới cần tập trung sử dụng có hiệu quả vốn mua sắm thiết bị:
Nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nhằm đạt tỷ suất lợi nhuận cao.
Tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh.
Cải tiến tổ chức sản xuất từ nguồn cung cấp vật tư, sử dụng thiết bị nhằm đẩy nhanh tiến độ sản xuất thu hồi vốn.
Trên cơ sở mục tiêu của nhà máy là tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, bán được nhiều sản phẩm, tiến hành giảm chi phí sản xuất, tăng doanh thu và lợi nhuận cho nhà máy, từng bước góp phần đưa ngành Bưu chính-Viễn thông Việt Nam ngang tầm với ngành Bưu chính-Viễn thông của các nước phát triển.
Bốn là: do hiện trạng thiết bị công nghệ của nhà máy, thực trạng thiết bị máy móc của nhà máy còn cũ kỹ và lạc hậu so với các nhà máy sản xuất đồng sản phẩm trong khu vực. Riêng công nghệ CNC là công nghệ tiên tiến hàng đầu trong lĩnh vực gia công cơ khí. Nó cho ra đời những sản phẩm cơ khí hoàn hảo, có độ chính xác cao. Ngoài ra công nghệ ép nhựa tự động cũng được coi là công nghệ tiên tiến nhất hiện nay. Bên cạnh đó còn nhiều dây truyền sản xuất mang tính thủ công, lạc hậu như dây truyền sản xuất loa, dây truyền cắt gọt. Chính vì vậy, nhà máy cần tiến hành tăng cường mua sắm thiết bị công nghệ, thay đổi máy móc cũ kỹ, lạc hậu bởi những máy móc hiện đại tiên tiến, ứng dụng nền khoa học của thế giới để ngày càng đưa chỉ số tỷ trọng thiết bị hiện đại tiến tới 1.
Năm là: những hạn chế trong mua sắm thiết bị công nghệ của nhà máy trong mấy năm qua. Nhìn chung các phương án mua sắm tiến triển chậm, không đồng bộ dẫn đến không phát huy hiệu quả kinh doanh. Nguyên nhân chính vẫn là huy động vốn chậm, khó khăn trong hợp tác từ phía đối tác của nhà máy và do chính do người làm công tác mua sắm thiết bị của nhà máy chậm trễ, sự phối hợp giữa các bộ phận quản lý: phòng đầu tư phát triển, phòng Marketing, phòng vật tư không tạo được hiệu quả cho đổi mới. Mặt khác, đội ngũ kỹ thuật chưa đáp ứng trình độ công nghệ hiện đại mới nhập, quan hệ giữa phòng đầu tư phát triển với các ban ngành của Tổng công ty còn chưa đủ hỗ trợ cho công tác mua sắm thiết bị công nghệ tiên tiến mạnh mẽ hơn. Song song với việc cải thiện mối quan hệ giữa các cấp, các ngành và các phòng ban là việc đẩy mạnh mua sắm thiết bị công nghệ, thực hiện triệt để quan điểm trong triết học Mác_LêNin “lượng đổi, chất đổi”.
Nguồn vốn mua máy móc thiết bị hoạt động mua bán và phương án mua.
Khái niệm và vai trò của vốn:
1.1 Khái niệm:
Trong điều kiện nền kt thị trường, nhà kinh doanh muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có tiền. Trước tiên, tiền được dùng mua sắm nhà xưởng, kho tàng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên vật liệu, trả lượng lao động. Sau đó, tiền dùng để mua sắm thêm các máy móc thiết bị, xây dựng thêm các nhà xưởng và tăng thêm vốn lưu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động hiện có, sửa chữa hoặc mua sắm các tài sản cố định mới thay thế các tài sản cố định bị hư hỏng, hao mòn vô hình do tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho nhiều tài sản cố định trở nên nhanh chóng lạc hậu, không thích hợp với điều kiện sản xuất mới. Số tiền nói trên được tích lũy của xã hội, của cơ sở sản xuất kinh doanh, tiết kiệm của dân và huy động từ nước ngoài.
Vậy vốn mua sắm là toàn bộ số tiền ứng ra để thực hiện công tác chuẩn bị mua sắm, thực hiện mua sắm và vận hành kết quả mua sắm nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực lớn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong mỗi gia đình.
Nội dung của vốn:
Mọi chi tiêu cho quá trình chuẩn bị thực hiện vận hành kết quả mua sắm phải được tính vào các chi phí mua sắm. Do đó nội dung của vốn mua sắm bao gồm:
Chi phí chuẩn bị đổi mới.
Chi phí để tạo ra hoặc tăng thêm tài sản lưu động.
Chi phí để tạo ra các tài sản cố định hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản cố định có sẵn.
Chi phí dự phòng.
1.3 Vai trò của Vốn:
Một cá nhân hay tổ chức kinh doanh nào đó có một ý tưởng hay dự định về sản xuất hoạt động đem lại hiệu quả cao hay có một phương án sản xuất kinh doanh mà nó hoàn toàn chứng minh được là phương án sản xuất kinh doanh đó mang tính khả thi, nếu thực hiện được thì sẽ đem lại lợi nhuận cao. Nhưng họ chẳng làm được điều đó khi mà không có vốn. Như vậy vốn mua sắm là yếu tố tiên quyết cho việc tiến hành sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Có vốn mua sắm thì doanh nghiệp mới tiến hành thực hiện từng bước của công tác hậu cần vật tư kỹ thuật. Chung quy lại thì vốn mua sắm có vai trò hết sức quan trọng trong việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và trong hoạt động mua sắm của toàn xã hội nói chung. Nó duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực lớn cho sản xuất kinh doanh.
Hoạt động mua bán máy móc.
Bản chất:
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, có đề ra nhiệm vụ nâng cao thu nhập quốc dân theo đầu người lên hai lần so với năm 1990 từ là từ 400USD lên 600USD. Điều này cần phải thực hiện tốt hai vấn đề sau:
Huy động một số lượng vốn mua sắm lớn làm cơ sở cho sự phát triển sử dụng một cách có hiệu quả nhất lượng vốn được huy động. Vì hai vấn đề nêu trên, huy động và sử dụng có hiệu quả vốn là điều kiện tiên quyết để thực hiện mục tiêu đề ra. Các doanh nghiệp với tư cách là chủ mua sắm phải tiếp cận cơ sở khoa học để thực hiện hai vấn đề đó như thế nào sao cho đạt được mục tiêu riêng của doanh nghiệp mình và mục tiêu chung của toàn xã hội.
Từ trước tới này có nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề mua sắm thiết bị, nhưng người ta quen với khái niệm mua sắm xây dựng cơ bản. Đó là quá trình thực hiện nhiệm vụ tái sản xuất mở rộng tài sản cố định. Thực tế thì khái niệm mua sắm là việc sử dụng tiền nhằm mục đích sinh lời, tính sinh lời là đặc trưng cơ bản của việc mua sắm. Khái quát chung lên hoạt động mua sắm là quá trình sử dụng vốn nhằm duy trì năng lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống. Như vậy hoạt động mua sắm là một lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế.
Mục tiêu:
Mục tiêu của hoạt động mua sắm được xem xét ở hai khía cạnh đó là ở tầm vĩ mô và tầm vi mô.
ở tầm vi mô là những mục tiêu cụ thể trước mắt của một hoạt động mua sắm đối với từng cơ sở sản xuất kinh doanh có thể là nhằm giảm chi phí sản xuất, tăng khối lượng sản phẩm, tận dụng năng lực hiện có, sản xuất hàng hoá xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu. Để cuối cùng đạt được mục tiêu ổn định giá, tăng lợi nhuận, mục tiêu này tương quan một thiết với mục tiêu vĩ mô. ở tầm vĩ mô là sự tập hợp lại các mục tiêu vi mô mà các cấp quản lý vĩ mô của nhà nước là phải xem xét việc tiến hành các hoạt động mua sắm của địa phương, của ngành cùng với việc đáp ứng các mục tiêu phát triển của địa phương, của ngành sẽ đóng góp gì cho việc thực hiện mục tiêu phát triển đất nước.
Phân loại:
Để thuận tiện cho việc theo dõi quản lý và đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả mua sắm thì cần phân loại mua sắm phân theo các tiêu thức sau:
Theo lĩnh vực hoạt động gồm: đổi mới phát triển sản xuất kinh doanh. Đổi mới phát triển khoa học kỹ thuật. Đổi mới phát triển cơ sở hạ tầng.
Theo đặc điểm hoạt động gồm :đổi mới cơ bản nhằm tái sản xuất tài sản cố định. Đổi mới vận hành nhằm tạo ra tài sản lưu động.
Theo giai đoạn hoạt động: đổi mới thương mại và đổi mới sản xuất.
Theo thời gian thực hiện: đổi mới ngắn hạn và đổi mới dài hạn.
Theo quan hệ quản lý của chủ đổi mới có đổi mới gián tiếp và đổi mới trực tiếp.
Chương II.
Thực trạng công tác hậu cần vật tư kĩ thuật ở nhà máy thiết bị bưu điện.
Sự hình thành và phát triển của nhà máy.
Sự hình thành.
Nhà máy thiết bị bưu điện là một cơ sở sản xuất công nghiệp thuộc Tổng cục bưu điện (nay là Tổng công ty bưu chính viễn thông), được thành lập năm 1954 trên cơ sở mặt bằng diện tích sử dụng 22.000m2 và thiết bị cơ sở của nhà máy dây thép của Pháp. Khi chính phủ ta tiếp quản thủ đô Hà nội thì nhà máy cũng được vận hành dưới sự quản lí tổ chức sản xuất của các cán bộ thuộc ngành bưu điện Việt nam.
2. Các giai đoạn phát triển.
Từ năm 1954 đến năm 1956 là giai đoan hình thành nền móng ban đầu của nhà máy. Nhiệm vụ chủ yếu của nhà máy là cung cấp những thiết bị thông tin liên lạc phục vụ trực tiếp cho việc thông tin liên lạc đường lối chnhs sách của Đảng và Chính phủ và cho chiến tranh. Sản phẩm chủ yếu trong giai đoạn nay là loa truyền thanh và điện thoại từ thạch.
Năn 1967, công cuộc xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ cùng với cuộc chiến đấu giải phóng miền nam đạt tới đỉnh cao. Để đáp ứng nhu cầu thông tin theo chiều rộng phù hợp với thời chiến, Tổng cục bưu điện quyết định tách nhà máy thiết bị bưu điện thành bốn nhà máy trực thuộc: Nhà máy 1, Nhà máy2, Nhà máy 3, Nhà máy 4.
Đầu năm 1970, mặc dù đất nước đang trong giai đoạn chiến tranh ác liệt, toàn quốc dồn sức lực cho chiến tranh, nhưng nhìn nhận thất vai trò to lớn của sản phẩm của nhà máy và cùng với thiết bị thông tin bưu điện đã phát triển lên một bước mới, chiến lược đổi mới theo chiều sâu, nâng cấp thông tin phục vụ tốt công tác tuyên truyền của Đảng. Tổng cục bưu điện đã sát nhập ba nhà máy thiết bị bưu điện 1, 2, 3 thành một nhà máy thực hiện hạch toán độc lập, nhiệm vụ được ghi rõ là sản xuất các thiết bị dùng về vô tuyến và hữu tuyến, thiết bị truyền thanh và thu thanh, một số sản phẩm dùng cho cơ sở của ngành, ngoài ra còn một số sản phẩm dân dụng khác.
Tháng 12 năm 1986, do yêu cầu của Tổng cục bưu điện, Nhà máy lại một lần nữa tách thành hai Nhà máy:
-Nhà máy thiết bị bưu điện-61 Trần phú- Ba Đình- Hà nội.
-Nhà máy vật liệu điện từ, loa âm thanh 63 Nguyễn Huy Tưởng- Đống Đa (nay là quận Thanh Xuân Hà nội).
Trước khi tách thành hai Nhà máy, cơ sở sản xuất đó là một lò Tuy-nen rất hiện đại do liên hợp quốc viện trợ chuyên sản xuất các vậy liệu từ. Đây là một đề án cấp nhà nước rất lớn về công suất cũng như hiện đại về thiết bị. Số lượng công nhân vào thời kì Nhà máy phát triến nhất là 1.200 công nhân viên. Cho đến khi tách thành hai Nhà máy thì ở Nhà máy thiết bị bưu điện có hơn 600 người còn ở Nhà máy vật liệu từ có 300 người.
Kể từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986), cùng với sự phát triển chung của các thành phần kinh tế vận hành theo cơ ch._. thu cao 4%. Tuy nhiên đây là mức thuế doanh thu đã được giảm so với mức trước 8% theo tinh thần của Nghị định số 24NĐ/CP ngày 04/05/1998 giảm thuế doanh thu cho sản xuất lắp ráp điện tử.
Thứ ba là về tình trạng nhập lậu qua biên giới những sản phẩm mà nhà máy sản xuất. Vì thế, sản phẩm của nhà máy rất khó cạnh tranh mặc dù nhà máy đã có hàng loạt biện phát nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ thấp chi phí giá thành để tăng sức cạnh tranh.
Thứ tư là nguồn nguyên vật liệu đầu vào cho nhà máy ở trong nước còn khan hiếm, chủ yếu phải nhập ngoại do đó giá nguyên vật liệu rất cao. Các sản phẩm mà nhà máy sản xuất nguồn nguyên liệu đầu vào thường chứa hàm lượng công nghệ cao, trong khi ở trong nước không có đủ khả năng khai thác cung cấp cho nhà máy. Ví dụ như các linh kiện điện tử, bột PVC, nam châm từ. Mặt khác khi nhập ngoại linh kiện và nguyên vật liệu thì chịu tác động nhiều của nền kinh tế chính trị của các nước cung cấp. Ví dụ trong năm qua nền kinh tế của các nước trong khu vực có nhiều biến động xấu dẫn đến khó khăn cho nhà máy trong việc đảm bảo nguyên vật liệu linh kiện cho sản xuất. Đứng trước những khó khăn đó, nhà máy đã tìm ra những biện pháp tháo gỡ, khắc phục từng bước.
Thứ năm là tổ chức lập và lựa chọn phương án mua sắm: Để tổ chức lập và lựa chọn phương án mua sắm thì điều trước tiên là cần phải có đầy đủ thông tin cần thiết. Nhưng trên thực tế, nguồn thu thập thông tin còn hạn chế do chính nguồn thông tin khan hiếm và sự yếu kém của người thu thập thông tin để lựa chọn phương án mua sắm, phải dựa trên nhu cầu thị trường sản phẩm mà phương án đó đem lại, năng lực của phương án, chi phí tiến hành lập thang điểm để lựa chọn phương án. Công việc này là một bài toán phức tạp cho lời giải thiếu chính xác do đó đưa ra kết luận để lựa chọn phương án cũng không đảm bảo sự lựa chọn đó là tối ưu.
Thứ sáu: yếu tố con người. Còn người là chủ thể xã hội. Mọi hoạt động làm biến đổi xã hội không thể thiếu yếu tố con người xét trong mối quan hệ tương quan giữa con người và xã hội. Nếu con người tiến hành những hoạt động tích cực sẽ góp phần cải thiện cho chính mình và cho cả xã hội và ngược lại. Cũng như vậy, việc mua sắm thiết bị công nghệ được tiến hành thuận lợi hay không thì không thể không xét đến yếu tố con người. Khó khăn đối với những người làm công tác đổi mới là hạn chế trong lĩnh vực chuyên môn mà chưa được đào tạo để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, chính sách ưu đãi kém nhậy bén để khuyến khích người làm công tác đổi mới. Tức là nhà máy chưa quán triệt tốt quan điểm: “ Dầu nhờn lợi ích cá nhân làm cho bánh xe kinh tế vận hành một cách liên tục”
Chương 3.
Một số phương hướng và giải pháp nhằm
thực hiện tốt công tác hậu cần vật tư
kỹ thuật với việc đổi mới thiết bị
công nghệ ở nhà máy thiết bị bưu điện.
I. Mục tiêu và phương hướng phát triển của nhà máy thiết bị bưu điện
Năm 1999- 2000 là 2 năm cuối của chiến lược tăng tốc giai đoạn thứ 2 (1996-2000) là những năm tiến vào thiên niên kỷ thứ III , kỷ nguyên của xã hội thông tin, Thế giới đang chứng kiến những biến dộng to lớn có tính chất bước ngoặt trong lĩnh vực Bưu chính- viễn thông – tin học trên các mặt khoa học công nghệ thị trường và chính sách quản lý của các quốc gia. Mà xu hướng là mở ra khả năng ứng dụng rộng lớn của Bưu chính-viễn thông- tinh học vào mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội, diễn ra quá trình nới lỏng quản lý và hội nhập quốc tế, tất yếu dẫn đến việc cạnh tranh không chỉ trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, mà cả trong việc cung cấp các dịch vụ Bưu chính- viễn thông - tin học. Khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và trên thế giới tuy có dịu đi nhưng còn diễn ra phức tạp và khó lường, tiếp tục ảnh hưởng đến kinh tế nước ta.
Trong tình hình kinh tế như vậy , nhà máy cần phấn đấu để giữ vừng và phát huy vai trò doanh nghiệp Bưu chính-viễn thông chủ đạo, dẫn đầu của cả nước, không chỉ trên các lĩnh vực truyền thông như lâu nay mà cả trên các lĩnh vực mới , trong xu hướng hội tụ Bưu chính viễn thông -Điện tử _ tin học đa phương tiện và các lĩnh vực kinh doanh khác nhau với mục tiêu và phương hướng đề ra cho các năm 2000 và 2005 như sau:
+ Khai thác mọi tiềm năng của thị trường, của hợp tác quốc tế, của công nghệ mới. Khơi dậy huy động mọi nguồn nội lực để kinh doanh có hiệu quả, đạt lợi nhuận cao, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước, nâng cao tiềm lực của nhà máy tạo đà cho các bước phát triển tiếp theo.
+ Nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ và công nghiệp Bưu chính –viễn thông - Tin học về chủng loại, vùng phục vụ, phương thức cung cấp, phong cách phục vụ , nhằm chiếm được niềm tin của khách hàng, tạo ra uy tín cho nhà máy, đảm bảo cho nhà máy đứng vững và phát triển được trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ công nhân viên có giác ngộ chính trị cao, trân trọngvà phát huy truyền thống Bưu điện, nắm vững kiến thức quản lý kinh doanh, kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại, có nếp sống văn minh Bưu điện, đủ sức gánh vác nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
+ Đảm bảo đời sống vật chất tinh thần của cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao trên cơ sở gắn với chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng những có chế khuyến khích sự hăng say , sáng tạo trong lao động , tạo động lực cho người lao động . Đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội thể hiện truyền thống nghĩa tình , nhân ái của cán bộ công nhân viên Bưu điện.
+ Hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu phấn đấu đặt ra từ nay đến năm 2005 đưa số máy điện thoại sản xuất lên 650. 800 máy và đạt mức doanh thu 677.000.000.000 vào năm 2002.
Phương hướng sản xuất kinh doanh trong kỳ tới : Năm 2001 –2005 nhà máy sẽ tiếp tục đầu tư chiều sâu, mua sắm mới tài sản cố định nhằm đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động đap ứng nhu cầu thị trường đồng thời đưa ra nhiều sản phẩm mới được đảm bảo cả về chất lượng và khả năng cung ứng trên thị trường.
Trong năm 2001-2002 nhà máy phải nỗ lực hơn nữa trong sản xuất kinh doanh như: tìm hiều thị trường và tiếp cận công nghệ mới, tăng vòng quay cuả vốn, tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng và trình độ của cán bộ công nhân viên, nâng cao chất lượng sản phẩm, duy trì và phát huy các sản phẩm truyền thống, mở rộng thị trường tiêu thụ để phấn đấu đạt kế hoạch sản xuất kinh doanh đề ra năm 2001-2002.
Quan điểm và phương hướng nhằm thực hiện tốt công tác hậu cần vật tư kỹ thuật của nhà máy thiết bị bưu điện.
Nâng cao tính khoa học trong xây dựng chính sách hậu cần cho đổi mới thiết bị công nghệ
Chủ trương và các mục tiêu của công tác hậu cần vật tư kỹ thuật cho đổi mới thiết bị công nghệ là nhằm phục vụ cho sự phát triển của nhà máy, của tổng công ty bưu chính viễn thông. Mặt khác, đảm bảo cho nhà máy làm ăn ngày càng có hiệu quả cao đem lại lợi nhuận lớn, thu hút và đảm bảo tiền lương cho người lao động và cuối cùng là đóng góp đầy đủ cho ngân sách nhà nước và bảo vệ môi trường.
Như vậy tính khoa học được thể hiện trong xây dựng chính sách đổi mới chính cả ở chỗ biết ưu tiên cho đổi mới cái nào trước, đổi mới có trọng điểm, căn cứ theo yêu cầu đổi mới của tổng công ty bưu chính viễn thông. Bên cạnh đó cũng cần áp dụng chính sách đổi mới theo việc chia nhỏ rủi ro theo quy mô đổi mới.
Trên cơ sở để đảm bảo tính khoa học trong xây dựng chính sách đổi mới thiết bị công nghệ cần căn cứ vào các yếu tố sau:
Đường lối chủ chương phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Mục tiêu phát triển của toàn ngành bưu chính viễn thông, các nguồn vốn có thể huy động và các yếu tố đầu vào, đầu ra của Nhà máy.
Quán triệt quan điểm, lấy chất lượng sản phẩm làm hàng đầu, đa dạng hoá sản phẩm cả trong và ngoài ngành bưu chính viễn thông
Sức cạnh tranh của sản phẩm nhà máy trên thị trường rất cao mà nhất là những sản phẩm điện thoại. Vì vậy nhà máy không những thay đổi mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường hàm lượng công nghệ cao trong sản phẩm để chiếm lĩnh được thị hiếu người tiêu dùng, tạo niềm tin trong khách hàng. Bên cạnh đó, nhà máy còn sản xuất những sản phẩm ngoài ngành, tuy không đảm bảo hiệu quả về lợi nhuận nhưng đảm bảo công việc cho công nhân, đảm bảo khấu hao mỗi tháng, nhà máy sản xuất 5 vạn chi tiết phích cho nhà máy phích nước Rạng Đông, 4 vạn chi tiết cho công ty thiết bị đo điện.
Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác hậu cần vật tư kỹ thuật ở nhà máy thiết bị bưu điện.
1. Dự báo thị trường :
Ngành bưu điện là ngành phát triển rất sôi động, theo dự án phát triển ngành bưu điện Việt Nam, đến năm 2005 sẽ có tổng doanh thu 18.605 tỷ đồng. Phát triển máy điện thoại 950.700, nộp ngân sách 1.627,18 tỷ đồng, đầu tư xây dựng 10 ngàn tỷ đồng. Đối với nhà máy thiết bị bưu điện cần xây dựng những mục tiêu cụ thể khi lựa chọn phương án đẩy mạnh quá trình sản xuất các sản phẩm đáp ứng cho toàn ngành. Để thực hiện phương án này, nhà máy phải có các giải pháp về công tác hậu cần vật tư kỹ thuật cụ thể và phải đặt ra cho mình mục tiêu sản lượng. Bởi vì sản lượng sản xuất ra có đáp ứng được yêu cầu của ngành, thì quá trình sản xuất mới thu được kết quả cao. Do đó nhà máy phải có biện pháp vật tư kỹ thuật phù hợp để mua sắm những máy móc thiết bị hiện đại đáp ứng nhu cầu sản xuất đề ra. Ngược lại nếu không có phương án phù hợp, không có đủ sản phẩm đáp ứng lúc cần thiết thì có nghĩa là đã bỏ đi mất cơ hội kinh doanh về lâu dài là đánh mất đi chính thị trường của mình. Theo dự báo của nhà máy thì kế hoạch sản xuất và giá bán một số sản phẩm trong những năm tới như sau:
TT
Tên sản phẩm
Giá bán chưa VAT (đồng)
Thuế VAT (đồng)
Kế hoạch sản xuất (sản phẩm/năm)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
1
Module 50A
16.500.000
1.650.000
1600
1640
1680
1800
1850
1900
2
Khung giá, các panel phân phối, giám sát điều khiển
19.500.000
1.950.000
400
420
440
500
520
540
3
Bộ nguồn 25A
25.000.000
2.500.000
300
320
340
400
420
440
4
Bộ nguồn 50A
30.000.000
3.000.000
200
220
240
280
300
320
Tổng sản lượng chưa có VAT (tỷ đồng/năm)
47,7
49,85
52
57,85
60,2
62,5
Thuế VAT phải nộp (tỷ đồng/năm)
4,7
4,9
5,2
5,7
6,2
6,3
Ngoài ra nhà máy cũng xây dựng cho mình các dự kiến chỉ tiêu về tình hình lãi lỗ hoạt động doanh nghiệp được trình bầy chi tiết ở bảng sau:
Thị trường
Các chỉ tiêu
Đơn vị tính
Thời gian hoạt động
2000
2001
2002
2003
2004
2005
1
Doanh thu bán hàng
Tỷ
47,7
49,85
52
57,85
60,2
62,48
2
Chi phí sản xuất
Tỷ
33,3
34,7
36,24
40,23
41,82
43,4
3
Thu nhập hoạt động doanh nghiệp
Tỷ
14,4
15
15,7
17,6
18,3
19
4
Khấu hao trừ dần
Tỷ
3,3
3,3
3,3
3,3
3,3
3,3
5
Thu nhập sau khấu hao trừ dần
Tỷ
11
11,7
12,4
14,2
15
15,7
6
Trả lãi vốn vay
Tỷ
2
1,7
1,5
1,2
0,9
0,5
7
Thu nhập trước thuế TNDN
Tỷ
9
9,9
10,9
13
14
15
8
Thuế TNDN=32%
Tỷ
2
3
3,4
4
4,5
4,8
9
Thu nhập sau thuế TNDN
Tỷ
6
6,7
7,4
8,8
9,5
10
10
Thu nhập sau thuế cộng dồn
Tỷ
6
12,9
20
29
38
49
11
Các chỉ tiêu đánh giá
Thu nhập trước thuế trên doanh thu
%
18,98
20
20,97
22,54
23,44
24,31
Thu nhập sau thuế trên doanh thu
%
12,91
13,6
14,26
15,33
15,94
16,53
Nâng cao chất lượng công tác hậu cần vật tư và xét chọn phương án đổi mới thiết bị công nghệ.
Nội dung của phương án khả thi cũng giống như nội dung của phương án tiền khả thi, nó chỉ khác ở độ chính xác cao hơn. Nếu trong phương án tiền khả thi ta xem xét các vấn đề ở trạng thái tĩnh, ở mức độ trung bình, nhiều thông tin còn mang tính chất ước tính thì nghiên cứu khả thi xem xét các vấn đề ở trạng thái động theo từng năm và từng giai đoạn cụ thể. Nâng cao chất lượng công tác hậu cần vật tư và xét chọn phương án đổi mới nhằm đảm bảo tính hiệu quả và tính hiện thực của quyết định đổi mới. Mặt khác nó giúp cho nhà máy lựa chọn phương án tốt nhất đảm bảo lợi ích kinh tế xã hội mà phương án sẽ đem lại. Để lập và xét chọn phương án chính xác và đạt kết quả thì cần thực hiện tốt hai biện pháp sau:
Thu thập thông tin và xử lý thông tin có liên quan đến phương án
Phân tích kỹ lưỡng những chỉ tiêu cơ bản để phân tích hiệu quả kinh tế xã hội của phương án đổi mới.
Biện pháp thu thập và xử lý thông tin có liên quan đến phương án đổi mới.
Thu thập thông tin và xử lý thông tin có liên quan đến phương án đổi mới cần tiến hành tổ chức nghiên cứu tại chỗ và nghiên cứu tại hiện trường. Nghiên cứu tại chỗ là việc nghiên cứu mà người làm công tác đổi mới phải tiến hành trên những luồng thông tin từ tài liệu in ấn, từ những đơn chào hàng của những nhà cung cấp. Đó là phương pháp phổ thông nhất dễ thực hiện ít tốn kém. Nhưng hạn chế của phương pháp này là nguồn thông tin chậm chạp thiếu chính xác. Nghiên cứu tại hiện trường là người làm công tác nghiên cứu thu thập thông tin chủ yếu qua trực tiếp điều tra xem xét, ghi nhận tại hiện trường. Thời gian qua, phòng Đầu tư của nhà máy chủ yếu dùng phương pháp này đến tận nơi thăm quan xem xét nắm bắt được chính xác những thông tin cập nhật cần thu thập. Ưu điểm của phương pháp này là luồng thông tin thu thập được tương đối chính xác, cập nhật đủ khả năng để người thu thập thông tin và xử lý chúng một cách có hiệu quả. Nhưng chi phí cho phương pháp nghiên cứu này rất tốn kém.
Phân tích kỹ lưỡng những chỉ tiêu cơ bản để phân tích hiệu quả kinh tế xã hội của phương án đổi mới.
Phân tích những chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế xã hội của phương án đổi mới cần dựa trên cơ sở lý thuyết và hệ thống chỉ tiêu kinh tế xã hội của phương án đổi mới về hiệu quả vốn thiết bị công nghệ. Tính toán cụ thể và chính xác chúng để trên cơ sở đó lựa chọn phương án tối ưu cho dự án. Đối với các chỉ tiêu đánh giá mặt kinh tế xã hội có phần mang tính định tính nhưng cũng phải dự báo tương đối chính xác về tăng thu, tiết kiệm ngoại tệ, tăng sự đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư. Ví dụ như để đạt được mục tiêu 10 máy điện thoại trên 100 dân vào năm 2002, tương đương với nhu cầu là 5.480.000 máy thì phương án sản xuất điện thoại của nhà máy có công suất tối đa là 900.000 máy sẽ chiếm 19,26% thị trường.
Đối với phòng vật tư
Xác định rõ chức năng nhiệm vụ, là tiến hành các hoạt động mua sắm trạng bị nguyên vật liệu, còn có nhiệm vụ lưu thông hàng hoá giữa các phân xưởng, tổ đội, cân đối kho vật tư giữa lượng cần dùng và lượng cần mua sắm. Do đó phòng vật tư liên kết chặt chẽ với các phòng khác, đặc biệt là phòng Marketing để tiêu thụ sản phẩm. Tham gia góp ý kiến cho Giám đốc nhà máy về công tác quản lý nói chung, đồng thời cũng phải làm tốt công tác kiểm tra việc thực hiện các chính sách mua sắm các máy móc thiết bị, nguyên vật liệu trong từng thời kỳ nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa chiến lược phát triển của nhà máy. Muốn làm được điều này, phòng vật tư cần phải xây dựng cho mình một đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, am hiểu về vật tư kỹ thuật. Tuy nhiên phải cân nhắc với mục tiêu đơn giản hoá bộ máy quản lý làm cho đội ngũ cán bộ phải thực sự hoạt động có hiệu quả. Trong những năm tới, nhà máy nên có biện pháp đầu tư đúng mức về nhân tài, vật lực cho phòng đầu tư để thực sự phát huy được thế mạnh của nhà máy. Bên cạnh đó phòng vật tư phải tăng cường khâu kế hoạch hoá trong công tác cung ứng vật tư, nguyên vật liệu. Cần có sự phối hợp chặt chẽ với các bộ phận khác để cung ứng vật tư kỹ thuật phù hợp với tiến độ và yêu cầu sản xuất. Phòng vật tư cũng phải có kế hoạch về việc nhập trang thiết bị nguyên vật liệu từ nước ngoài về phẩm cấp chất lượng tiêu chuẩn kỹ thuật, phương thức thanh toán. Đó là những vấn đề cần quan tâm, làm tốt được điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà máy.
Tăng cường công tác quản lý thực hiện đổi mới
3.1.Tổ chức bộ máy quản lý.
Trên thực tế có ba hình thức tổ chức bộ máy quản lý phương án mua sắm đó là:
Tổ chức quản lý theo chức năng: đây là hình thức khá phổ biến ở nước ta hiện nay, hình thức này cho phép tập trung được các chuyên gia chuyên ngành như nhân sự, tài chính, marketing vào các phòng ban.
Tổ chức quản lý theo dự án: hình thức này có ưu việt trong trường hợp doanh nghiệp phải quản lý nhiều dự án cùng một lúc, đề cao cách tiếp cận hệ thống và tổng hợp. Tuy nhiên hình thức này không đảm bảo tính chuyên sâu, sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các dự án khó thực hiện.
Sơ đồ: Giám đốc
Chủ nhiệm dự án A
Chủ nhiệm dự án B
Chủ nhiệm dự án C
Tài
chính
Quảng cáo
Tài chính
Quảng Cáo
Sản xuất
Tài chính
Quản cáo
Sản xuất
Sản xuất
Tổ chức quản lý theo dạng ma trận: là kết hợp hai hình thức trên, trong đó, các chủ nhiệm dự án chịu trách nhiệm chung, các phòng ban quản lý từng mặt của dự án.
Sơ đồ:
Giám đốc
Quản lý
sản xuất
Quản lý
kỹ thuật
Chủ nhiệm
dự án
Quản lý nhân sự
Quản lý tài chính
Quản lý
Thị trường
Quản lý dự án A
A
A
A
A
A
A
A
Quản lý
Dự án B
B
B
B
B
B
B
Quản lý
chất lượng
Hiện nay nhà máy vận dụng hình thức tổ chức quản lý phương án mua sắm theo chức năng là chủ yếu, cho phép phân chia bớt một phần trách nhiệm quản lý phương án cho cấp dưới. Tuy nhiên hiện tại và tương lai nhà máy có nhiều dự án đổi mới nên theo tôi để đảm bảo thực hiện thắng lợi mục tiêu của phương án đổi mới thì nhà máy nên vận dụng hình thức tổ chức quản lý phương án theo ma trận.
Giám đốc
Phó giám đốc
Các phòng ban
Quản lý dự án
3.2.Tổ chức quản lý thực hiện đổi mới nhằm đạt hiệu quả cao.
Nhà máy phải phối hợp với các đơn vị cung cấp thiết bị công nghệ giải quyết các tồn tại về tiến độ, các dịch vụ sau đổi mới về vật tư thanh toán công nợ và các vấn đề phát sinh ghi trong hợp đồng đã ký kết. Ban quản lý phương án mua sắm ở nhà máy thương là giám đốc, phó giám đốc và các phòng ban, theo dõi sát sao tình hình thực hiện công suất của phương án, phải đôn đốc giúp đỡ những quản đốc, đốc công và công nhân thực hiện tốt năng suất lao động kiểm kê xác định giá.
Lập báo cáo đổi mới thực hiện hàng năm, báo cáo quyết toán đánh giá kết quả và tình hình thực hiện kế hoạch đổi mới để có cơ sở cho xây dựng kế hoạch đổi mới cho năm tới.
Công tác tổ chức khảo sát thiết kế phải được tổ chức chặt chẽ . Các luận chứng kinh tế kỹ thuật phải có chủ đề án chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật và trách nhiệm và hiệu quả của đề án.
Hiện nay có 4 hình thức tổ chức quản lý thực hiện dự án đổi mới.
+ Hình thức trực tiếp quản lý thực hiện dự án.
+ Hình thức chủ nhiệm điều hành dự án .
+ Hình thức chìa khoá trao tay.
+ Hình thức tự làm.
Để tiến hành đổi mới thiết bị công nghệ nhà máy chủ yếu vận dụng hìh thức đổi mới là trực tiếp quản lý thực hiện phương án.
Nhà máy tổ chức chọn thầu và trực tiếp ký kết hợp đồng với một hoặc nhiều tổ chức tư vấn để thực hiện công tác khảo sát, thiết kế công trình, soạn thảo hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu hoặc chọn thầu.
Hình thức chìa khoá trao tay dang được áp dụng cụ thể là phương án đổi mới dây chuyền ốngnhựa P.V.C. (dạng sóng hai lớp) đã áp dụng hình thức này. Nhà cung cấp dây chuyền sản xuất này thực hiện phương án: thiết kế, lắp đặt, vận hành chạy thử nhà máy, nghiệm thu và nhận bàn giao phương án khi đã hoàn thành.
Hình thức trực tiếp quản lý thực hiện dự án có điểm hạn chế là đỏi hởi năng lực của người điều hành dự án phải cao, phải có kiến thức tổng hợp cả về quản lý và kỹ thuật, mặt khác do qui mô quản lý rộng cho nên đối với phương án đổi mới lớn việc quản lý thực hiện rất khó khăn. Do đó với điều kiện mở rộng sản xuất, tăng đổi mới trên qui mô rộng như hiện nay của nhà máy thì nên áp dụng cả ba hình thức đầu: trực tiếp quản lý; chủ nhiệm điều hành; chìa khoá trao tay; còn hình thưc tự làm nên áp dụng trong cải tạo nhà xưởng, nhà kho.
4. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác đổi mới .
Gắn liền với việc đổi mới thiết bị công nghệ là việc đổi mới tư duy, cách nghĩ , cách làm cũng như phải nâng cao tay nghề của công nhân. Nếu đã có máy móc hiện đại rồi nhưng không có người vận hành hoặc người vận hành thiếu năng lực thì sẽ làm cản trở đến việc phát huy công suất của máy móc, thiết bị vì vạy người lao động phải không ngừng được đào tạo học hỏi để hoàn thiện kỹ năng , kỹ xảo và tay nghề lao động.
Thiếu trí tuệ sẽ làm ảnh hưởng đến công tác đổi mới và tồi tệ hơn nữa là cản trở đên việc phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ thực hiện công tác đổi mới về nghiệp vụ xuất nhập khẩu, kỹ năng lập các phương án đổi mới, trình độ ngoại ngữ, am hiểu luật đầu tư nước ngoài.. Có như vậy thì nhà máy mới có thể ký kết các hợp đồng, thực hiện các phương án đổi mới lớn, tổ chức công tác đấu thầu, lập phương án...để thực hiện một cách tốt nhất công tác đổi mới thiết bị công nghệ.
Ngay khi mà nền khoa học phát triển như vũ bão đòi hỏi con người lao động cũng phải không ngừng nâng cao tay nghề, tăng năng suất lao động bằng cách sử dụng hết tối đa công suất của máy móc thiết bị. Do đó nhà máy rất chú trọng tới chất lượng lao động mà biều hiện là số lượng công nhân viên giảm nhưng trình độ tay nghề, nghiệp vụ được nâng cao làm cho năng suất lao động nâng cao rất nhiều. Đặc biệt là nhà máy đã trang bị rất nhiều máy móc thiết bị hiện đại tự động hoá cao như là: máy gia công cơ khí tự động CNC (máy này còn có ký hiệu mác là US. QMADA), dây chuyền sản xuất ống nhựa dạng sống- bán tự động. Hệ thống đo kiểm sản phẩm, dây chuyền lắp ráp điện tử, dây chuyền sơn tĩnh điện... Từ đó để sản xuất một cách khoa học và khai thác hết công suất của máy thì người công nhân đứng maý phải có kiến thức chuyên môn tốt nhưng cũng phải có kiến thức tin hoạc (trước khi nhập dây chuyền sản xuất trên, nhà máy phải gửi công nhân đi sang nước bán dây chuyền đó để đào tạo). Đối vớ cán bộ quản lý và những người làm công tác giao dịch mua bán thì nhà máy cho tạo điều kiện cho đi học ở các trường chuyên nghiệp để nâng cao kiến thức quản lý và kinh tế xã hội.
5. Tăng cường khả năng bảo toàn vốn trong quá trình thực hiện đổi mới thiết bị công nghệ
Đối với doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh công nghiệp có thể xem xét vấn đề bảo toàn vốn ở cả ba khía cạnh: tài chính, kinh tế, pháp lý.
Về mặt tài chính : Bảo toàn vốn của doanh nghiệp là bảo toàn sức mua của vốn vào thời điểm định giá mức độ bảo toàn vốn so vơí thời điểm gốc được chọn.
Về mặt kinh tế : Bảo toàn vốn là bảo toàn khả năng hoạt động của doanh nghiệp so với thời điểm cơ sở.
Còn về mặt pháp lý bảo toàn vốn là bảo đảm tư cách kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy nhà máy đã tăng cường bảo toàn vốn ở cả ba khía cạnh. Trong công tác bảo toàn vốn về mặt tài chính thì biện pháp hữu hiệu vẫn là xác định giá trị tương lai của số tiền vốn đầu tư hiện tại va đàu tư vào các dự án có thời gian ngắn, doanh lợi cao, ngay từ khi bắt đầu khai thác đã đem lại hiệu quả (dây chuyền lắp ráp máy điện thoại, ống nhựa PVC dạng sóng...)
6. Tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới thiết bị công nghệ.
6.1.Về vốn:
Cần tăng cường huy động các nguồn vốn cho đầu tư, nguồn vốn vay từ các ngân hàng là chủ yếu nhưng để vay được mức theo nhu cầu vốn đổi mới thì phải có luận chứngkinh tế kỹ thuật có khả thi.
Nguồn vốn từ Tổng công ty và vốn huy động từ cán bộ công nhân viên cũng hết sức quan trọng, nó góp phần bù đắp những nguồn vốn thiếu trong đổi mới. Nhưng để huy động nguồn vốn từ cán bộ công nhân viên tốt và ràng buộc công nhân viên có trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của nhà máy hơn thì nên tiến hành cổ phần hoá nhà máy hoặc cổ phần hoá một bộ phận sản xuất của Nhà máy.
6.2. Về liên doanh liên kết:
Nhà máy tiến hành liên doanh, liên kết trong và ngoài nước bằng việc liên doanh góp vốn lưu động, góp mặt bằng xây dựng. Các hình thức liên doanh của nhà máy còn hạn chế chưa mở rộng hình thức này để thu hút công nghệ thiết bị từ nước ngoài.
Nhà máy có mặt bằng đất đai ở cơ sở Thượng đình rất rộng và chưa khai thác hết diện tích sử dụng đất đai còn để nhàn rỗi nhiều. Bên cạnh đó năng lực sản xuất ở đó cũng còn kém. Chính vì thế nhà máy cũng cần tìm đến đối tác kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất các sản phẩm trong và ngoài ngành, đối tác trong và ngoài nước.
Hiện nay nhà máy đang có các mặt hàng phục vụ các khách hàng trong ngành ở các cấp bưu điện địa phương, khách hàng tự do (máy điện thoại ấn phím, máy điện thoại di động GSM,PABM, máy Pacsimile..) xuất khẩu chủ yếu là tạm nhập tái xuất, hướng tới là tạo nhiều mối quan hệ với bạn hàng trong nước, xuất khẩu các sản phẩm (chuyển đổi hình thức tạm nhập tái xuất). Do sự tự do lựa chọn các nhà cung cấp, các trang thiết bị yếu tố đầu vào cuả các nhà máy, nên nhà máy tiếp tục làm ăn với các nhà cung ứng mới và không ngường quan hệ với các nhà cung ứng hiện tại như: Trung quốc, Hàn quốc, Đức( linh kiện viễn thông) Australia...Trong nước là Tổng công ty kim khí, Tổng công ty nhựa, công ty xăng dầu, công ty công cụ số1.
6.3. Môi trường pháp lý và chính sách thuế nhập khẩu thiết bị cũng như các yếu tố đầu vào thuận lợi và hợp lý hơn
Nhìn chung thì môi trường pháp lý tương đối thuận lợi cho công tác đổi mới thiết bị công nghệ của nhà máy. Các luật như: luật doanh nghiệp nhà nước, luật đầu tư nước ngoài.. tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.
Nhưng trong chính sách thuế còn nhiều bất cập, thuế suất nhập máy móc thiết bị cao, thuế suất nhập nguyên vật liệu cũng cao dẫn đến khó khăn trong việc xác định giá bán sản phẩm của doanh nghiệp.
Nhà nước cần điều chỉnh thuế để kích thích việc đổi mới mua sản phẩm thiết bị công nghệ cũng như nguyên vật liệu từ nước ngoài.
6.4.Về sự chú trọng đến công tác đổi mới thiết bị công nghệ trong tổng thể đổi mới của nhà máy.
Điều đó được thể hiện trong sự ưu tiên đến chính sách đổi mới, chính sách huy động vốn cho đổi mới và cho cả việc xét duyệt, các dự án đổi mới thiết bị công nghệ của các cấp có thẩm quyền.
Trong kế hoạch đổi mới chung của nhà máy cần xác định rõ những hạng mục đổi mới, có phan ưu tiên cho đổi mới mua máy móc thiết bị vì đó là cơ sở để tăng năng suất lai động, tăng khả năng cạnh tranh và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của nhà máy.
7. Đối với nhà nước:
Đề nghị bộ tài chính , Tổng cục quản lý vốn , cục quản lý vốn cho phép nhà máy tăng khấu hao tài sản cố định để đảm bảo thu hồi vốn.
Đề nghị : Tổng công ty tạo điều kiện cấp hoặc cho vay vốn tương đương với kế hoạch năm 2001.
Chiến lược con người cho ngành Bưu điện , Nhà nước cần đầu tư thích đáng cho cơ quan chức năng, đào tạo cán bộ cho ngành Bưu điện như các kỹ sư điện tử , tin học, viễn thông, kỹ sư thực hành, công nhân lành nghề phục vụ ngành Bưu điện trong cả nước.
Đa dạng hoá sở hữu và tạo ra hình thức hỗn hợp ở các doanh nghiệp nhà nước.
Chuyển một phần sở hữu nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Qua đó phát huy được khối lượng vốn trong dân để đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp thì mỗi cán bộ công nhân viên phải có cổ phần trong doanh nghiệp, làm cho họ gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, tạo nên động lực thực sự để thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Doanh nghiệp có nghĩa vụ đóng thuế theo luật định, có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Doanh nghiệp được toàn quyền quyết định phân phối lợi nhuận, một phần sử dụng cho quỹ phúc lợi, một phần chia cho công nhân viên chức tham gia cổ phần của doanh nghiệp. Những số cổ phần này sẽ tăng dần lên tạo sự gắn bó giưa người lao động và doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các ngành khoa học kỹ thuật nên đầu tư vào nghiên cứu các lại vật liệu của ngành Bưu điện, không phải nhập ngoại, nghiên cứu các thông tin kinh tế kỹ thuật , công nghệ mới ứng dụng vào ngành Bưu điện.
Kết luận :
Trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước ngành Bưu điện cần phải đẩy nhanh hơn nữa việc hiện đại hoá mạng lưới Bưu chính viễn thông. Để đạt được điều đó thì không thể không thấy được bai trò hết sức to lớn của nhà máy thiết bị Bưu điện nơi cung cấp hơn 80% nhu cầu sản phẩm của ngành. Và nếu như các liên doanh (FORCAN,NEC, SIMEN...) được coi là con tim của ngành thì nhà máy thiết bị bưu điện được coi là cái dạ dày của ngành Bưu chính viễn thông.
Chính vì vậy công tác hậu cần vật tư kỹ thuật với việc đổi mới thiết bị công nghệ của nhà máy đã được Nhà nước, Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt nam quan tâm và được ban giám đốc của nhà máy thực sự chú ý theo dõi sát sao để từng bước đạt được những kết quả như mong muốn, góp phần thực hiện tốt chiến lược phát triển ngành Bưu chính viễn thông đến năm 2005.
Qua thời gian nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp tại nhà máy thiết bị bưu điện, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ công nhân viên nhà máy, tôi đã đi sâu nghiên cứu và hoàn thành bản chuyên đê thực tập về đề tài :”Hậu cần vật tư kỹ thuật với việc đổi mới thiết bị công nghệ ở Nhà máy thiết bị bưu điện”.
Trong qú trình phân tích , tôi đã đi sâu vào nghiên cứu, đối chiếu lý luận thực tiễn để tìm ra những thành tích mà nhà máy đã đạt được trong lĩnh vực hậu cần vật tư kỹ thuật và đồng thời tìm ra những hạn chế của nó.
Tuy nhiên trong thời gian ngắn và hơn nữa đề tài phức tạp, do đó trong bản chuyên đề thực tập không sao tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Vị vậy tôi tha thiết đề nghị và mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các cán bộ nhà máy, các thầy cô giáo và các bạn để nâng cao trình độ kiến thức cho bản thân, đồng thời nâng cao chất lượng chuyên đề thực tập, góp phầm thiết thực hoàn thiện công tác hậu cần vật tư của nhà máy, đảm bảo hiệu quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình thực tập, hoàn thành bản chuyên đề này, tôi đã được sự hướng dẫn tỉ mỉ, các phương pháp tiếp cận vấn đề của thầy giáo PGS. PTS Đặng Đình Đào và tôi cũng nhận được sự quan tâm hướng dẫn của đồng chí trưởng phòng Bùi Hữu Quỳnh, cùng với sự giúp đỡ của các nhân viên phòng chức năng khác. Tôi vô cùng cảm ơn về sự giúp đỡ nhiệt tình đó.
Tài liệu tham khảo
1 Giáo trình Thương mại doanh nghiệp
Nhà xuất bản Thống kê 1997
2.Thời báo kinh tế Việt nam
- Số 98/thứ tư/ 3-12-98
- Số 102/ Thứ bảy / 20-12-98
- Số 12/ Thứ tư/ 11-2-99
3. Tạp chí Kinh tế phát triển.
Số 1 năm 1999
4. Tạp chí Kinh tế thế giới.
Số 2 năm 2000
5. Văn kiện Đại hội VIII
6. Việt nam phát triển kinh tế theo hướng rồng bay.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 1994
7 . Tài liệu của nhà máy thiết bị bưu điện, các nội quy, quy chế và các tài liệu có liên quan khác.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0106.doc