Lời nói đầu
Giao thông vận tải là một ngành sản xuất phi vật chất không thể thiếu được ở bất cứ một quốc gia nào. Giao thông vận tải cũng là một bộ phận quan trọng của cơ sở hạ tầng. Nó quyết định rất lớn đến sự phát triển của đất nước.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện hơn. Nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá, hành khách ngày càng phát triển. Trong các phương tiện vận tải thì xe ôtô là một phương tiện phổ biến nhất, được sử dụng rộng
98 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số kiến nghị nhằm nâng cao công tác bảo hiểm vật chất xe ô tô tại Công ty bảo hiểm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rãi nhất với những ưu điểm nổi bật về tính năng cơ động cao, khả năng vận chuyển lớn, tốc độ tương đối nhanh, giá thành vận chuyển thấp. Vận chuyển bằng xe ôtô đã đảm bảo được một phần quan trọng nhu cầu vận tải của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay, tốc độ xây mới, mở rộng hoặc nâng cấp hệ thống đường xá, cầu cống không tương xứng với tốc độ tăng phương tiện giao thông cùng với tình trạng vi phạm luật an toàn giao thông như phóng nhanh vượt ẩu...đã dẫn đến các vụ tai nạn giao thông gây thiệt hại rất lớn về người và của cho các chủ xe cũng như toàn xã hội.
Vì vậy, để giúp các chủ xe ổn định kinh tế khi không may gặp rủi ro, để tạo cho các chủ xe khôi phục và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng nguồn vồn đầu tư cho nền kinh tế...hoạt động bảo hiểm xe cơ giới nói chung bảo hiểm vật chất xe ôtô nói riêng ra đời rất sớm.
Từ khi ra đời, nghiệp vụ này đã khẳng định được tính ưu việt và tầm quan trọng của nó. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, nghiệp vụ vẫn còn nhiều vấn đề phải tiếp tục giải quyết, xem xét để đưa ra các biện pháp khắc phục tốt hơn để có thể nâng cao kết quả, chất lượng nghiệp vụ, chính vì vậy trong thời gian thực tập tại phòng bảo hiểm phi hàng hải của công ty bảo hiểm Hà Nội em đã chọn đề tài: “Một số kiến nghị nhằm nâng cao công tác bảo hiểm vật chất xe ôtô tại công ty bảo hiểm Hà Nội" để làm chuyên đề thực tập và luận văn tốt nghiệp.
Nội dung chính của luận văn, ngoài phần mở đầu và kết luận được chia làm ba phần.
Phần I: Lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe ôtô.
Phần II: Một số vấn đề về bảo hiểm vật chất xe ôtô tại công ty bảo hiểm Hà Nội giai đoạn 1997 - 2001.
Phần III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao công tác bảo hiểm vật chất xe ôtô tại công ty bảo hiểm Hà Nội.
Luận văn này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Lệ Huyền cùng với sự giúp đỡ của các cô, các chú phòng phi hàng hải của công ty bảo hiểm Hà Nội. Nhưng do thời gian và trình độ còn hạn chế nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của cô giáo và của các cô, các chú trong phòng bảo hiểm phi hàng hải để bài viết của em được hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phần I
Lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe ô tô.
I. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe ôtô.
1. Đặc điểm của ngành giao thông vận tải.
Trong nền kinh tế quốc dân giao thông vận tải là một ngành giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Giao thông vận tải là một phần của cơ sở hạ tầng. Một đất nước muốn phát triển nhanh chóng và ổn định thì cần phải có một cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh. Nói cách khác hạ tầng phải đi trước một bước, trong đó giao thông vận tải là tiền đề cho sự phát triển của đất nước.
Trong nền kinh tế mở hiện nay, giao thông vận tải là sợi dây nối liền các mối quan hệ buôn bán, giao lưu kinh tế giữa các vùng trong cả nước và giữa các nước trên thế giới. Vì thế giao thông vận tải đã không ngừng đổi mới, áp dụng kỹ thuật hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng thuận tiện, tiết kiệm được thời gian.
Xã hội ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng được mở rộng, đây là điều kiện tất yếu cho sự phát triển của ngành giao thông vận tải với các hình thức vận chuyển ngày càng phong phú, đa dạng như: đường bộ, đường sông, đường sắt, đường hàng không. Trong các hình thức vận tải trên thì giao thông vận tải đường bộ giữ một vị trí quan trọng và được coi là huyết mạch của nền kinh tế. Trong giao thông vận tải bằng đường bộ thì vận chuyển bằng xe ôtô thường được con người sử dụng phổ biến nhất, bởi vì các ưu điểm của nó là:
- Phương tiện xe ôtô có tính linh hoạt cao, hoàn thành quá trình vận chuyển tương đối nhanh và rẻ, với rất nhiều chủng loại xe ôtô có thể chở con người, hàng hóa tới mọi nơi, mọi lúc kể cả những địa điểm mà các loại vận tải khác không thể tới được.
- Chi phí mua sắm phương tiện không quá cao phù hợp với các cơ quan xí nghiệp vừa và nhỏ. Việc đầu tư xây dựng đường xá, bến bãi cho xe ôtô ít tốn kém hơn các loại hình vận chuyển khác, phù hợp với hoàn cảnh đất nước ta, với thu nhập của người dân hiện nay.
Với những ưu điểm đó, trong những năm trở lại đây số phương tiện xe ôtô ngày càng tăng lên, điều đó thể hiện rõ tính ưu việt của nó.
Bên cạnh những ưu điểm đó, vận chuyển đường bộ bằng xe ôtô còn có nhiều nhược điểm, đó là mức độ nguy hiểm cao, khả năng gây tai nạn lớn... Bởi vì bản thân quá trình hoạt động của xe ô tô là nguy hiểm cao, ngoài ra nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng đường xá, tinh thần trách nhiệm của người điều khiển xe ô tô, tình trạng kỹ thuật của xe và mức độ sử dụng phương tiện...Trong điều kiện nước ta hiện nay, thì hệ thống đường giao thông còn chật hẹp, chất lượng nhiều đoạn đường còn kém và việc tu sửa đường xá còn mang tính chất tạm thời... Bên cạnh đó số đầu xe tham gia giao thông ngày càng tăng, trong đó có rất nhiều xe cũ được tân trang lại rồi cho lưu hành nhưng không đảm bảo độ an toàn. Mặt khác, lái xe không chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông, phóng nhanh, vượt ẩu, say rượu (theo quy định tại điều 29.b - Nghị định 36CP ngày 29/05/1995 nồng độ cồn, rượu, bia không vượt quá 80mg/100ml máu hoặc 40mg/1lít khí thở) ngày càng tăng. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là lỗi của người tham gia giao thông, chiếm khoảng 78.2%. Thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 1: Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tai nạn giao thông của xe ôtô.
Nguyên nhân
Lỗi(%)
Chạy quá tốc độ
32,9
Tránh vượt sai quy định
32,25
Say rượu
8,4
Xử lý kém
2,2
(Nguồn số liệu của uỷ ban an toàn giao thông quốc gia).
2. Sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe ô tô.
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Rủi ro luôn luôn hiện diện ở mọi hoạt động của con người. Có thể nói rủi ro là sự tồn tại khách quan mà con người buộc phải chấp nhận, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông vận tải bằng xe cơ giới nói chung và xe ôtô nói riêng.
Theo thống kê, trong năm 1999 ở Việt nam có 21.420 vụ tai nạn giao thông đường bộ sang năm 2000 con số này lại tăng lên đến 21.718 vụ, gây thiệt hại rất lớn về người và của.
Năm 2001 cả nước đã xảy ra 22.176 vụ tai nạn giao thông khiến cho 837 người thiệt mạng và làm bị thương 24.174 người, có thể nói cứ mỗi ngày trong năm 2001 có gần 20 người chết vì tai nạn giao thông.
Thiệt hại về tài sản hàng năm do tai nạn giao thông lên đến hàng trăm tỷ đồng. Do vậy tai nạn giao thông vẫn là mối đe doạ hàng ngày, hàng giờ đối với tính mạng và các tài sản của các chủ phương tiện ôtô.
Để có thể đương đầu với những rủi ro thì các chủ xe có thể sử dụng phương pháp như: chấp nhận rủi ro hoặc chuyển giao rủi ro.
Biện pháp chấp nhận rủi ro: Đây là phương pháp tự hạch toán các tổn thất. Biện pháp này hoàn toàn không phù hợp đối với các chủ xe vì khi tai nạn xảy ra sẽ gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản, nó làm ảnh hưởng đến kế hoạch vận chuyển của các chủ xe, do đó ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh của họ.
Để khắc phục tình trạng khó khăn về tài chính khi xe ôtô bị tai nạn cách tốt nhất là chuyển giao rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ chức bảo hiểm bằng cách tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm phương tiện giao thông vận tải được xem như là một biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Khi những rủi ro bất ngờ xảy ra với phương tiện vận tải, chủ phương tiện không những phải chịu các thiệt hại vật chất do phương tiện của chính mình bị hư hỏng hay mất mát, mà còn có thể phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại về người và của do phương tiện của mình gây ra cho người thứ ba khác. Do vậy bảo hiểm phương tiện giao thông vận tải thường bao gồm hai phần cơ bản: Bảo hiểm vật chất cho chính phương tiện vận tải và bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chỉ đề cập bảo hiểm vật chất xe ô tô.
Khi tham gia bảo hiểm vật chất thân xe ôtô, nhà bảo hiểm sẽ bồi thường mọi thiệt hại thuộc phạm vi nhà bảo hiểm (trừ trường hợp cố ý).
Trong điều kiện khoa học - kỹ thuật ngày càng phát triển, quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng cho nên mỗi cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp thường có những giá trị tài sản rất lớn, ôtô là một tài sản có giá trị lớn. Vì vậy khi gặp tai nạn các các biện pháp tích luỹ đi vay không còn mang lại hiệu quả thiết thực.
Hơn nữa trong điều kiện kinh tế thị trường mỗi cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp đều phải tự chủ về mặt tài chính, Nhà nước không còn bao cấp. Đặc biệt các doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô kinh doanh hoạc đổi mời dây truyền công nghệ hầu hết đểu phải vay vốn của ngân hàng. Nếu không có tài sản thế chấp mà lại không mua bảo hiểm thì ngân hàng không cho vay vốn.
Từ những vấn đề nêu trên nên bảo hiểm nói chung và bảo hiểm vật chất xe ôtô nói riêng ra đời là cần thiết khách quan và không thể thiếu được trong điều kiện kinh tế thị trường.
3. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe ôtô.
Quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô đã đem lại sự an toàn cũng như ổn định về mặt tài chính cho các chủ xe khi tham gia bảo hiểm. Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ được tác dụng của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô. Cụ thể là:
- Một là, người tham gia bảo hiểm (cá nhân hoặc tổ chức) được bồi thường những thiệt hại thực tế do rủi ro bất ngờ gây ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Nhờ đó họ nhanh chóng ổn định kinh tế khôi phục đời sống và sản xuất kinh doanh, đó là mục đích chính của hoạt động bảo hiểm.
- Hai là, góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất. Thông qua công tác bồi thường của bảo hiểm vật chất xe ôtô đã thúc đẩy các chủ xe tham gia bảo hiểm thực hiện tốt các biện pháp an toàn khi lái xe đề phòng những thiệt hại xảy ra và luôn chăm lo giữ gìn xe được tốt hơn. Vì khi bị tai nạn công ty bảo hiểm không phải chịu tất cả trách nhiệm mà chủ xe cũng phải chịu một phần trách nhiệm. Từ đó dẫn đến số vụ tai nạn giảm, điều đó có ý nghĩa xã hội rất lớn, đồng thời công ty bảo hiểm cũng thực hiện các biện pháp khác để đề phòng và hạn chế tổn thất như: đặt biển báo ở những con đường nguy hiểm, đặt gương cầu lồi ở những con đường ngoằn nghèo... Ngoài ra, thông qua các quy định, các điều khoản loại trừ trong hợp đồng bảo hiểm đã góp phần tích cực đối với việc thực hiện an toàn khi lái xe.
- Ba là, đóng góp tích luỹ cho ngân sách. Khi tham gia bảo hiểm các chủ xe phải nộp phí bảo hiểm cho công ty bảo hiểm, đó là một khoản thu tương đối lớn đối với các công ty bảo hiểm ở Việt nam hiện nay, góp phần vào nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế và nộp cho ngân sách Nhà nước một lượng không nhỏ thông qua thuế.
II. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe ôtô.
1. Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm ở đây là bản thân chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia.
Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe ôtô là để được bồi thường những thiệt hại vật chất xe xảy ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Thông thường các chủ xe có thể tham gia bảo hiểm vật chất xe theo một trong hai hình thức bảo hiểm sau:
- Bảo hiểm toàn bộ vật chất thân xe hoặc
- Bảo hiểm từng bộ phận của chiếc xe.
Tuy nhiên nếu bảo hiểm bộ phận các công ty bảo hiểm chỉ bảo hiểm đến từng tổng thành một.
Đứng trên góc độ kinh tế - kỹ thuật xe ôtô chia làm bảy tổng thành:
- Tổng thành động cơ bao gồm: động cơ, bộ chế hoà khí, bơm cao áp, bầu lọc dầu, bầu lọc gió, bơm hơi, bộ li hợp và các thiết bị điện.
- Tổng thành hộp số bao gồm: hộp số chính, hộp số phụ, hệ thống dẫn động cơ.
- Tổng thành thân vỏ xe bao gồm: vô lăng lái, trục tay lái, các tăng dẫn động cơ lái, hộp tay lái, bộ trợ lực tay lái, thanh kéo ngang, thanh kéo dọc...
- Tổng thành hệ trục trước (cầu trước) bao gồm: dầm cầu, may ơ, hệ thống treo, má phanh tăm bua, bơm nhánh đối với xe dầu...
- Tổng thành hệ trục sau (cầu sau) bao gồm: may ơ, má phanh, bát phanh, hệ thống treo...
- Tổng thành lốp bao gồm: các lốp đang nắp trên xe, các nốp dự phòng theo xe.
Ngoài ra, có một số loại xe chuyên dùng còn có tổng thứ tám như: cần cẩu, bồn téc, ytế, cứu hoả, ben tự đổ, nâng hạ hàng, đào xúc...
Khác với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và đối với hành khách được áp dụng bắt buộc bằng pháp luật đối với chủ xe, bảo hiểm vật chất xe ôtô cũng là một nghiệp vụ bảo hiểm tài sản nên nó được thực hiện dưới hình thức tự nguyện trên cơ sở chủ xe yêu cầu và nộp phí bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm.
2. Phạm vi bảo hiểm.
2.1 Rủi ro được bảo hiểm.
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn rủi ro được bảo hiểm mà cũng là giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm bồi thường cho chủ xe những thiệt hại vật chất xe xảy ra do những tai nạn bất ngờ, ngoài sự kiểm soát của chủ xe, lái xe trong những trường hợp:
- Đâm va, lật đổ.
- Hoả hoạn, cháy, nổ.
- Những tai hoạ bất khả kháng do thiên tai: Bão, lũ lụt, sụt lở, sét đánh, động đất, mưa đá...
- Mất cắp toàn bộ xe.
- Tai nạn rủi ro bất ngờ khác gây nên.
Ngoài việc bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho các chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm:
- Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm.
- Chi phí bảo vệ xe, kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất.
- Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
Tuy nhiên trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên đơn hay giấy chứng nhận bảo hiểm.
2.2 Rủi ro loại trừ.
Công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu trách nhiệm bồi thường cho các thiệt hại vật chất của xe ôtô gây ra bởi:
- Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa,trong quá trình sửa chữa.
- Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị săm lốp bị hư hỏng mà không do tai nạn gây ra.
- Mất cắp bộ phận của xe.
- Những vụ tổn thất nhỏ, ví dụ dưới 200.000đồng.
Để tránh những “nguy cơ đạo đức” lợi dụng bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật, luật lệ giao thông, hay một số những rủi ro đặc biệt khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân do sau cũng không được bồi thường:
- Hành động cố ý của chủ xe, lái xe.
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành xe theo quy định của luật an toàn giao thông đường bộ.
- Chủ xe, lái xe vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông đường bộ như:
+ Xe không có giấy phép lưu hành.
+ Lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ.
+ Lái xe bị ảnh hưởng của bia rượu, ma tuý hoặc các chất kích thích
tương tự khác trong khi điều khiển xe.
+ Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép.
+ Xe trở qúa trọng tải và số hành khách quy định.
+ Xe đi vào đường cấm.
+ Xe đi đêm không đèn.
+ Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử.
- Những thiệt hại gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh.
- Thiệt hại do chiến tranh.
- Những thiệt hại ngoài lãnh thổ quốc gia trừ khi có thoả thuận riêng.
Cũng cần lưu ý rằng trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới. Tuy nhiên nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ yêu cầu.
3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm.
3.1 Giá trị bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm của xe ôtô là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm.
Việc xác định đúng giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường chính xác thiệt hại thực tế cho chủ xe tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên giá xe trên thị trường luôn biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường dựa trên các yếu tố sau để xác định giá trị xe.
- Loại xe.
- Năm sản xuất.
- Mức độ mới, cũ của xe.
- Thể tích làm việc của xi lanh.
Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm mà công ty bảo hiểm hay áp dụng đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao. Cụ thể:
Giá trị bảo hiểm = Giá trị ban đầu - Khấu hao.
Hiện nay trên thị trường Việt nam ngày càng xuất hiện nhiều xe ôtô đời mới được nhập khẩu từ nước ngoài, vì vậy giá trị thực tế của xe nhập khẩu trên thị trường Việt nam được tính như sau:
GTTT = CIF *(100% +Ts.Tnk)*(100% + Ts. Tttđb)
Trong đó
GTTT: giá trị thực tế của xe.
CIF: giá CIF
Ts. Tnk: thuế suất thuế nhập khẩu.
Ts. Tttđb: thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt
Giá CIF là giá xe ôtô về đến cảng gồm:
C (cost): giá mua ôtô tại cửa nước xuất khẩu.
I (insurance): Phí bảo hiểm cho chiếc xe trong quá trình vận chuyển từ nước xuất khẩu về Việt nam.
F (Freight): Cước phí vận chuyển.
Giá trị thực tế hay cũng là giá trị ban đầu của xe ôtô, đó là cơ sở để tính giá trị bảo hiểm cho các xe khi tham gia bảo hiểm. Vì vậy giá trị thực tế cần được các chủ xe kê khai một cách đầy đủ, chính xác.
3.2 Số tiền bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm do người được bảo hiểm kê khai và được công ty bảo hiểm chấp nhận trên cơ sở giá trị bảo hiểm. Nếu có tổn thất mà khi tham gia bảo hiểm người được bảo hiểm cố tình kê khai số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm thì số tiền bồi thường chỉ được trả theo tỉ lệ số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm. Ngược lại, nếu số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì khi có tổn thất xảy ra thì chỉ được bồi thường cao nhất bằng giá trị bảo hiểm.
4. Phí bảo hiểm.
4.1 Phí bảo hiểm.
Khi các chủ xe muốn xe của mình được bảo hiểm tại một công ty
bảo hiểm thì phải nộp một khoản tiền nhất định cho công ty bảo hiểm để hình thành nên quỹ bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà các chủ phương tiện có trách nhiệm đóng góp từng năm cho công ty bảo hiểm để hình thành nên quỹ bảo hiểm. Công ty bảo hiểm tiến hành thu phí bảo hiểm vật chất thân xe ôtô theo biểu phí của Bộ tài chính quy định và có thể thu ngay trực tiếp hoặc uỷ nhiệm thu cho các đơn vị khác (điểm đăng ký xe ôtô, nộp thuế trước bạ, trạm kiểm định...) thu hộ.
4.2 Phương pháp xác định phí bảo hiểm.
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm việc tính phí bảo hiểm là rất cần thiết và quan trọng đòi hỏi sự chính xác cao. Phí bảo hiểm được xác định vừa phù hợp với khả năng tài chính của mỗi chủ xe khi tham gia bảo hiểm đồng thời vừa hình thành quỹ bảo hiểm đủ lớn để có thể bù đắp cho những thiệt hại bất ngờ xảy ra do tai nạn, góp phần đảm bảo cho qúa trình sản xuất được thường xuyên liên tục đảm bảo đời sống cho mọi người dân trong xã hội.
Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể, công ty bảo hiểm thường căn cứ vào các yếu tố sau:
- Loại xe: Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất xe được tính riêng cho từng loại xe. Thông thường, các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu phí xác định phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các xe thông dụng thông qua việc phân loại xe thành các nhóm. Việc phân loại này được dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ khó khăn khi sửa chữa và sự khan hiếm của phụ tùng. Đối với các xe kéo rơ moóc, xe chở hàng nặng... do có mức độ rủi ro cao nên phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản.
- Khu vực giữ xe và để xe: trong thực tế không phải công ty bảo hiểm nào cũng quan tâm đến nhân tố này. Tuy nhiên cũng có một số công ty bảo hiểm tính phí bảo hiểm dựa theo khu vực giữ xe và để xe rất chặt chẽ.
- Mục đích sử dụng xe: Đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Nó giúp công ty bảo hiểm biết được mức độ rủi ro có thể xảy ra. Xe do một người về hưu sử dụng cho mục đích đi lại đơn thuần chắc chắn sẽ đóng phí bảo hiểm thấp hơn so với một thương gia sử dụng để đi lại trong những khu vực rộng lớn. Rõ ràng xe lăn bánh trên đường càng nhiều, rủi ro tai nạn càng lớn.
- Tuổi tác kinh nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và những người sử dụng thường xuyên chiếc xe được bảo hiểm: Số liệu thống kê cho thấy rằng các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí bảo hiểm cho các lái xe trên 50 hoặc 55 tuổi do kinh nghiệm cho thấy số người này gặp ít tai nạn hơn so với các lái xe trẻ tuổi. Tuy nhiên với lái xe quá lớn tuổi (thường từ 65 tuổi trở lên) thường phải xuất trình giấy chứng nhận sức khoẻ phù hợp để có thể lái xe thì công ty bảo hiểm mới nhận bảo hiểm. Ngoài ra để hạn chế tai nạn các công ty thường yêu cầu người được bảo hiểm tự chịu một phần tổn thất xảy ra với xe (hay còn gọi là mức miễn thường). Đối với những lái xe trẻ tuổi mức miễn thường này cao hơn so với những lái xe có độ tuổi lớn hơn.
- Giảm phí bảo hiểm: Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn xe tham gia bảo hiểm tại công ty mình các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung theo số lượng xe tham gia bảo hiểm. Ngoài ra hầu hết các công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho những người tham gia bảo hiểm không có khiếu nại và gia tăng tỷ lệ giảm giá này cho một số năm không có khiếu nại gia tăng. Có thể nói đây là biện pháp phổ biến trong bảo hiểm xe cơ giới nói chung và bảo hiểm vật chất xe ôtô nói riêng.
- Biểu phí đặc biệt: Khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm nhiều, công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Cách tính toán biểu phí được dựa trên các số liệu của bản thân khách hàng đó. Cụ thể:
+ Số lượng xe của khách hàng tham gia bảo hiểm.
+ Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách hàng ở những năm trước đó.
+ Tỷ lệ phụ phí theo quy định của Công ty.
Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung, công ty bảo hiểm sẽ áp dụng theo mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt tính được là cao hơn (hoặc bằng) mức phí chung, tức là tình hình tổn thất của khách hàng cao hơn (hoặc bằng) mức tổn thất bình quân chung, thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung.
Cách tính phí bảo hiểm.
Giống như cách tính phí bảo hiểm nói chung, phí bảo hiểm vật chất xe ôtô được tính theo công thức sau:
F = f + d
Trong đó
F: phí thu mỗi đầu xe.
d: phụ phí
f: phí bồi thường thiệt hại hay phí thuần (thực phí).
Theo công thức trên việc xác định phí bảo hiểm phụ thuộc vào các nhân tố sau:
SSi * Ti
SCi
f =
- Tình hình bồi thường tổn thất của những năm trước đó. Căn cứ và số liệu thống kê, công ty bảo hiểm sẽ tính toán được phần phí bồi thường f cho mỗi đầu xe như sau:
Trong đó
Si: Số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i
Ti: Thiệt hại bình quân mỗi vụ tai nạn trong năm thứ i
Ci: Số xe tham gia bảo hiểm vật chất thân xe năm thứ i
- Các chi phí khác hay còn gọi là phần phụ phí d bao gồm các chi phí như: chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý, một phần bổ sung cho quỹ dự phòng nghiệp vụ, một phần để nộp cho quỹ dự phòng nghiệp vụ, một phần để nộp cho ngân sách Nhà nước và các loại chi phí khác. Như vậy, phí bồi thường được xác định dựa vào số liệu thống kê còn phụ phí chiếm từ 20 - 30% số phí thu được.
Vì đây là nghiệp vụ bảo hiểm tài sản cho nên số tiền bảo hiểm được xác định khá đơn giản, chủ yếu dựa trên cơ sở đánh giá thực tế chiếc xe khi tham gia bảo hiểm hoặc chứng từ hoá đơn khi mua bán xe, sau đó hai bên thoả thuận với nhau về số tiền bảo hiểm. Tuy vậy công tác này đòi hỏi nhân viên phải có đầy đủ trình độ chuyên môn nhất định khi đánh giá xe. Căn cứ vào số tiền bảo hiểm hai bên cũng có thể xác định được phí bảo hiểm dựa trên tỉ lệ phí bảo hiểm.
F = Sb*R
Trong đó
Sb: Số tiền bảo hiểm.
R: Tỷ lệ phí bảo hiểm
Tỉ lệ phí được xác định căn cứ vào các yếu tố sau:
+ Xác suất rủi ro gây tai nạn của từng loại xe và thiệt hại bình quân mỗi vụ tai nạn nói chung.
+ Điều kiện thời tiết, khí hậu, địa hình từng vùng, từng miền mà phạm vi chiếc xe đó hoạt động là chủ yếu.
+ Tình trạng thực tế của chiếc xe.
+ Luật thuế của Nhà nước
+ Chi phí quản lý và lãi dự kiến của công ty
Chính vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vậy cho nên hầu hết các công ty bảo hiểm chia làm hai loại tỉ lệ phí
R = R1 + R2
Trong đó
R1: Tỷ lệ phí thuần (Tỷ lệ phí cơ bản).
R2: Tỷ lệ phụ phí
Thông thường khi xác định tỷ lệ phí thu cơ bản R1, công ty bảo hiểm căn cứ vào tài liệu thống kê của một số năm trước đó
Tổng số tiền bồi thường trong một số năm trước đó
Tổng số phí thu được thu được trong những năm trước đó
R1 =
* 100
Nếu công ty mới thành lập việc xác định tỷ lệ phí này thường căn cứ vào tài liệu của cảnh sát giao thông ở các tỉnh, vùng hoặc trực tiếp tiến hành điều tra chọn mẫu để xác định tỷ lệ phí và có một số trường hợp mua biểu phí bảo hiểm vật chất xe ôtô của Bộ tài chính.
Bảng 2: Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ôtô của Bộ tài chính
Phạm vi bảo hiểm
Phí bảo hiểm (% số tiền bảo hiểm)
1. Bảo hiểm toàn bộ.
1,36
2. Bảo hiểm thân vỏ.
2,27
(Nguồn số liệu phòng Phi hàng hải Công ty bảo hiểm Hà Nội )
Phí bảo hiểm =
Mức phí cả năm .
Số tháng xe hoạt động trong năm
12 tháng
Trong thực tế, có một số đầu xe của một số chủ xe trong năm chỉ hoạt động ngắn ngày. Phí bảo hiểm chỉ phải nộp trong những tháng xe hoạt động.
Tuy nhiên, ở Việt nam đối với những trường hợp xe tham gia dưới một năm thì nhiều công ty bảo hiểm đã áp dụng biểu phí ngắn hạn sau:
Đến 3 tháng: 30% phí bảo hiểm cả năm
Trên 3 tháng đến 6 tháng: 60% phí bảo hiểm cả năm
Trên 6 tháng đến 9 tháng: 90% phí bảo hiểm cả năm
Trên 9 tháng: 100% phí bảo hiểm cả năm
Trường hợp chủ xe có nhu cầu tham gia bảo hiểm theo các điều khoản mở rộng đặc biệt, công ty cần yêu cầu chủ xe kê khai đầy đủ, chi tiết những nội dung yêu cầu mở rộng trong giấy yêu cầu bảo hiểm cùng với những thông tin cần thiết khác để làm cơ sở tính phí bảo hiểm và tính toán bồi thường khi có tai nạn xảy ra.
Khi đã chấp nhận bảo hiểm, các công ty phải cấp cho chủ xe bản thoả thuận bổ sung. Bản thỏa thuận bổ sung này được đính kèm và là một bộ phận của giấy chứng nhận bảo hiểm đã cấp cho chủ xe.
* Bảo hiểm không khấu trừ thay mới
Công ty phải đánh giá giá trị còn lại thực tế của xe hoặc xác định thời gian đã sử dụng để áp dụng tỷ lệ phí bảo hiểm vật chất xe ôtô không tính khấu hao thay mới
Bảng 3: Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ôtô không tính khấu hao thay mới
Tỷ lệ phí cơ bản trên số
số tiền bảo hiểm
Giá trị thực tế
Bảo hiểm toàn bộ
Bảo hiểm bộ phận
Xe mới đã sử dụng dưới 3 năm hoặc giá trị còn lại từ 70% trở lên so với giá trị xe mới
1.36%
2.27%
Xe đã sử dụng từ 3 đến 6 năm hoặc giá trị còn lại từ 50 -70% so với giá trị xe mới
1.55%
2.45%
Xe đã sử dụng trên 6 năm hoặc còn lại dưới 50% so với giá trị xe mới
1.73%
2.64%
(Nguồn phòng bảo hiểm Phi hàng hải Công ty bảo hiểm Hà Nội )
* Bảo hiểm bồi thường theo giới hạn trách nhiệm:
Chủ xe có thể tuỳ ý lựa chọn tham gia bảo hiểm cho chiếc xe được bảo hiểm theo một giá trị nhất định thấp hơn giá trị thực tế của xe. Khi tính phí bảo hiểm cần phải lưu ý đến các yếu tố, giá trị của xe, giá trị còn lại, số tiền bảo hiểm để làm cơ sở tính toán chính xác.
GTTT-STBH
GTTT
Phí bảo hiểm =
Số tiền bảo hiểm * Tỷ lệ phí bảo hiểm*(100% +
*80%)
Trong đó
GTTT: giá trị thực tế
STBH: Số tiền bảo hiểm
* Bảo hiểm có áp dụng mức miễn thường:
Ví dụ chủ xe có thể lựa chọn mức miễn thường có khấu trừ tuỳ ý từ 1.000.000 đến 10.000.000đ hoặc 10$ đến 100$.
Khi áp dụng mức miễn thường thì tỉ lệ giảm phí so với tổng phí được quy định như sau:
Bảng 4: Mức miễn thường và tỷ lệ giảm phí.
Mức miễn thường
Tỉ lệ giảm phí (% trên tổng số phí)
1.000.000đ (hoặc 100$)
2.000.000đ (hoặc 200$)
3.000.000đ (hoặc 300$)
4.000.000đ (hoặc 400$)
5.000.000đ (hoặc 500$)
6.000.000đ (hoặc 600$)
7.000.000đ (hoặc 700$)
8.000.000đ (hoặc 800$)
9.000.000đ (hoặc 900$)
10.000.000đ (hoặc1.000$)
0,5
0,8
11
14
17
20
23
26
30
35
(Nguồn phòng bảo hiểm Phi hàng hải Công ty bảo hiểm Hà Nội)
Bảo hiểm thiệt hại xảy ra ngoài lãnh thổ Việt nam. Phí bảo hiểm bằng 150% phí cơ bản
* Bảo hiểm mất cắp bộ phận xe ôtô.
Phí bảo hiểm bằng 115% phí cơ bản.
Các công ty bảo hiểm có thể áp dụng mức tăng giảm phí đối với bảo hiểm vật chất xe ôtô như sau:
- Giảm phí theo tỷ lệ tổn thất: trường hợp không có khiếu nại phải bồi thường theo quy tắc bảo hiểm trong thời hạn quy định dưới đây phí bảo hiểm tái tục có thể được giảm
01 năm liên tục: có thể giảm đến 10%
02 năm liên tục: có thể giảm đến 15%
03 năm liên tục: có thể giảm đến 20%
- Giảm phí theo số lượng xe tham gia bảo hiểm
Số lượng xe tham gia Mức giảm phí
Từ 05 - 10 xe có thể giảm tối đa 05% tổng số phí
Từ 11 - 20 xe có thể giảm tối đa 10% tổng số phí
Từ 21 - 30 xe có thể giảm tối đa 15% tổng số phí
Từ 31 - 50 xe có thể giảm tối đa 20% tổng số phí
* Hoàn phí bảo hiểm
Phí hoàn lại =
Phí cả năm
*
Số tháng không hoạt động
12 tháng
*
Tỷ lệ hoàn lại phí
Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm nhưng trong năm không hoạt động một thời gian vì một lý do nào đó. Trong trường hợp này, thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm của những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính như sau:
Mỗi công ty bảo hiểm có tỷ lệ hoàn phí là khác nhau. Nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%.
Nếu chủ xe muốn huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết thời hạn hợp đồng thì thông thường công ty bảo hiểm cũng hoàn lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại đó theo công thức trên nhưng với điều kiện là chủ xe chưa có lần nào được công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm.
Trách nhiệm nộp phí của chủ xe tuỳ thuộc vào thoả thuận giữa chủ xe với người bảo hiểm. Thông thường trách nhiệm của chủ xe là từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực.
Việc nộp phí có thể tiến hành từ một hoặc hai lần. Đối với các chủ xe có số lượng trên 50 xe thì thường nộp 2 lần, mỗi lần nộp phải theo đúng thời hạn thoả thuận. Nếu trong trường hợp chủ xe không nộp phí đầy đủ và đúng theo thoả thuận thì hợp đồng bảo hiểm mất hiệu lực cho đến khi chủ xe tiếp tục nộp phí.
5. Giám định và bồi thường tổn thất.
5.1 Tai nạn và giám định.
Thông báo tai nạn.
Cũng như các loại đơn bảo hiểm khác, người bảo hiểm yêu cầu chủ xe (hoặc lái xe) khi xe bị tai nạn, một mặt phải tìm mọi cách cứu chữa, hạn chế tổn thất mặ._.t khác nhanh chóng báo cho công ty bảo hiểm biết. Chủ xe không được di chuyển, tháo dỡ hoặc sửa chữa xe khi chưa có ý kiến của công ty bảo hiểm trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có thẩm quyền.
Giám định tổn thất.
Thông thường đối với bảo hiểm vật chất xe ôtô việc giám định tổn thất được công ty bảo hiểm tiến hành với sự có mặt của chủ xe, lái xe hoặc người đại diện hợp pháp nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Chỉ trong trường hợp hai bên không đạt được sự thống nhất thì lúc này mới chỉ định giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp làm trung gian thực hiện giám định. Kết luận của giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp được coi là quyết định cuối cùng. Trường hợp kết luận của giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp khác với kết luận của giám định viên bảo hiểm, công ty bảo hiểm chịu chi phí giám định. Trường hợp kết luận của giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp trùng với kết luận của giám định viên bảo hiểm thì chủ xe ôtô phải chịu chi phí giám định. Trong trường hợp đặc biệt, nếu công ty bảo hiểm không thể thực hiện được việc lập biên bản giám thì có thể căn cứ vào các biên bản, kết luận của các cơ quan có thẩm quyền và các hiện vật thu được để xác định mức độ thiệt hại.
Trong một vụ tai nạn chi phí giám định bao gồm: chi phí cơ bản và chi phí biến động.
- Chi phí cơ bản bao gồm: Chi phí định mức cho một ngày công giám định như tiền công, công tác phí, chi phí lưu trữ va khoản phụ cấp khác.
- Chi phí biến động gồm: những khoản chi phí thực tế cần thiết và hợp lý phục vụ cho công tác giám định như chi phí quay phim, chụp ảnh, chi phí sao chụp hồ sơ.
5.2 Bồi thường tổn thất.
Hồ sơ bồi thường.
Khi yêu cầu cơ quan bảo hiểm bồi thường thiệt hại vật chất xe, chủ xe phải cung cấp những tài liệu, chứng từ sau:
- Tờ khai tai nạn của xe.
- Bản sao của giấy chứng nhận đăng kí xe, giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới đường bộ, giấy phép lái xe.
- Kết luận điều tra của công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn gồm: Biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn, biên bản giải quyết tai nạn,
- Bản án hoặc quyết định của toà án trong trường hợp có tranh chấp tại tòa án.
- Các biên bản tài liệu xác định trách nhiệm của người thứ ba.
- Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn, ví dụ: chứng từ xác định chi phí sửa chữa xe, thuê cẩu kéo...
Nguyên tắc bồi thường tổn thất.
Việc tính toán số tiền bồi thường của cơ quan bảo hiểm cho các chủ xe ôtô được dựa trên cơ sở thiệt hại thực tế của xe ôtô. khi yêu cầu bồi thường, chủ xe ôtô có trách nhiệm chuyển cho cơ quan bảo hiểm những giấy tờ cần thiết liên quan đến tai nạn. thông thường việc xác định số tiền bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô được tiến hành như sau:
Số tiền bồi thường =
Thiệt hại thức tế
*
Số tiền bảo hiểm
Giá trị thực tế của xe
- Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế.
- Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế.
Theo nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm, công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận số tiền bảo hiểm nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm, tuy nhiên nếu người tham gia bảo hiểm vô tình hoặc cố tình tham gia lớn hơn giá trị bảo hiểm, trong trường hợp này số tiền bồi thường cũng chỉ bằng thiệt hại thực tế và luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm. Trường hợp công ty bảo hiểm chấp nhận trên giá trị thực tế, ví dụ theo “giá trị thay mới” trong trường hợp này được gọi là bảo hiểm theo “giá trị thay mới” chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao theo các điều khoản bảo hiểm rất nghiêm ngặt.
* Trường hợp tổn thất bộ phận.
Khi tổn thất bộ phận xảy ra, chủ xe sẽ được giải quyết theo một trong hai nguyên tắc trên.
- Nếu xe ôtô được bảo hiểm với số tiền bảo hiểm bằng hoặc thấp hơn giá trị thực tế thì số tiền bồi thường được tính theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm với giá trị thực tế của xe nhưng không được vượt qúa tỷ lệ phần trăm của bộ phận hư hỏng đó trong bảng tỷ lệ tổng thành giá trị của xe ôtô của công ty bảo hiểm so với số tiền bảo hiểm của xe.
- Nếu xe ôtô được bảo hiểm trên giá trị thực tế thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường theo giá trị thực tế của bộ phận đó ngay trước khi xe bị tai nạn nhưng tối đa không vượt quá tỷ lệ phần trăm của bộ phận hư hỏng đó trong bảng tỷ lệ tổng thành xe của công ty bảo hiểm và giá trị thực tế của xe.
- Trong quá trình sửa chữa, khắc phục tổn thất, nếu phải thay thế bộ phận mới thì số tiền bồi thường tối đa của công ty bảo hiểm không vượt quá giá trị thực tế của bộ phận đó ngay trước khi xe bị tổn thất.
- Nếu xe ôtô bị thiệt hại thân vỏ khi sửa chữa phải sơn lại mà diện tích sơn lại trên 50% diện tích thân vỏ thì Công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho toàn bộ chi phí sơn lại cho vỏ xe do tai nạn gây ra.
* Trường hợp tổn thất toàn bộ.
Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi bị mất cắp, bị cướp sau 60 ngày không tìm lại được, mất tích, giá trị thiệt hại bằng hoặc trên 80% giá trị thực tế của xe tính theo bảng tỉ lệ cấu thành xe hoặc đến mức không thể sửa chữc phục hồi để đảm bảo lưu hành an toàn, hoặc chi phí phục hồi bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe.
- Nếu số tiền bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế của xe, thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ xe toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm.
- Nếu xe được bảo hiểm trên giá trị thực tế của xe thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường bằng giá trị thực tế của xe ngay trước khi xe bị tổn thất.
- Khi công ty bảo hiểm đã bồi thường toàn bộ tổn thất cho chiếc xe đó thì công ty bảo hiểm có quyền thu hồi, thanh lý chiếc xe đó. Nếu xe ôtô bảo hiểm dưới giá trị thực tế thì công ty bảo hiểm sẽ thu hồi giá trị còn lại (xác xe) theo tỷ lệ phần trăm giữa số tiền bảo hiểm và giá trị thực tế của xe.
- Đối với trường hợp xe ôtô bị mất cắp, mất tích thì chủ xe hoặc lái xe báo ngay cho cơ quan công an, công ty bảo hiểm để lập kế hoạch điều tra xử lý vụ việc. Trong vòng 5 ngày kể từ ngày xe bị mất cắp, mất tích chủ xe phải gửi ngay văn bản cho công ty bảo hiểm. Trong trường hợp quá 2 tháng mà xe bị mất cắp, mất tích không tìm thấy được thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ xe ôtô toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm. Nếu sau khi bảo hiểm mà tìm lại được chiếc xe ôtô đó thì công ty bảo hiểm có quyền sở hữu chiếc xe đó và thu hồi giá trị còn lại theo tỷ lệ phần trăm số tiền bảo hiểm và giá trị thực tế của xe.
Bảo hiểm trùng.
Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, chiếc xe bị tổn thất được bảo hiểm theo hai hay nhiều đơn bảo hiểm khác thì trách nhiệm của công ty bảo hiểm chỉ giới hạn theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm của công ty bảo hiểm Hà Nội so với tổng của những số tiền bảo hiểm ghi trong tất cả các đơn bảo hiểm.
Mức trách nhiệm bảo hiểm ghi
Số tiền bồi thường Thiệt hại thực tế trên giấy chứng nhận ghi bảo hiểm
theo mỗi giấy chứng = thuộc trách nhiệm x
nhận bảo hiểm bảo hiểm Tổng mức trách nhiệm của tất cả
giấy chứng nhận bảo hiểm
Trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường theo mỗi giấy chứng nhận bảo hiểm không vượt quá mức trách nhiệm bảo hiểm ghi trên chính giấy chứng nhận bảo hiểm ấy.
Mức miễn thường.
Các công ty bảo hiểm áp dụng mức miễn thường không khấu trừ đối với những vụ tổn thất dưới 200.000 đ
Tuy nhiên, để giải quyết vấn đề xe ôtô tham gia bảo hiểm thấp hơn giá trị thực tế, trong đó bảo hiểm thấp hơn giá trị thực tế, trong đó có xe nhập khẩu miễn thuế các công ty bảo hiểm đã áp dụng theo các trường hợp sau:
- Bảo hiểm theo giá trị thực tế tại thị trường Việt nam khi có tai nạn xảy ra thì bồi thường theo quy tắc kết hợp về bảo hiểm xe cơ giới hiện hành.
- Bảo hiểm dưới giá trị: số tiền bảo hiểm bằng giá trị chủ xe yêu cầu bảo hiểm. Phí bảo hiểm áp dụng theo tỷ lệ cơ bản.
khi có tai nạn xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm thì sẽ bồi thường theo nguyên tắc
+ Tổn thất bộ phận: Bồi thường theo tỷ lệ phần trăm của số tiền bảo hiểm trên giá trị thực tế.
+ Tổn thất toàn bộ: trả toàn bộ số tiền bảo hiểm.
- bảo hiểm bồi thường theo giới hạn trách nhiệm.
+ Trong trường hợp tổn thất bộ phận: bồi thường theo chi phí sửa chữa và thay thế thực tế, hợp lý nhưng tối đa không vượt quá số tiền bảo hiểm.
+ Trong trường hợp tổn thất toàn bộ: trả toàn bộ số tiền bảo hiểm.
- Trường hợp tổn thất toàn bộ đối với xe miễn thuế: theo quy tắc khi đã chấp nhận bồi thường toàn bộ phải thu hồi xác xe, tuy nhiên việc thanh lý xác xe miễn thuế sẽ gặp rất nhiều khó khăn về thủ tục nộp thuế và không hiệu qủa. Nên gặp trường hợp này các công ty bảo hiểm thường giải quyết bồi thường theo hai cách.
+ Bồi thường trên cơ sở đánh giá giá trị thiệt hại
Dựa vào kết quả giám định, đánh giá giá trị thiệt hại của xe (trên cơ sở giá trị thiệt hại của các cụm tổng thành).
Số tiền bồi thường = Tỷ lệ thiệt hại * Số tiền bảo hiểm.
Chủ xe tự ý xử lý xác xe.
áp dụng phương thức này vừa đơn giản, nhanh, kết qủa cao mà còn bỏ qua được thủ tục thu hồi, thanh lý tài sản phức tạp, tốn nhiều thời gian.
+ Bồi thường toàn bộ, thu xác xe bán thanh lý trước khi nộp thuế.
Dựa vào kết quả giám định, đánh giá giá trị còn lại của xe (trên cơ sở giá trị còn lại của các cụm tổng thành).
Giá bán = Tỷ lệ giá trị còn lại sau tai nạn * Số tiền bảo hiểm.
Người mua nếu muốn tiếp tục sử dụng thì phải tự nộp thuế. Nên áp dụng hình thức bán đấu giá khi áp dụng phương thức này.
6. Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe ôtô.
Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói chung và xe ôtô nói riêng thực chất là một bản cam kết giữa chủ xe với công ty bảo hiểm mà trong đó quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên.
Nội dung của hợp đồng bao gồm một số điều khoản sau:
- Những thông tin về nhà bảo hiểm, người được bảo hiểm (địa chỉ, điện thoại, fax, tài khoản).
- Nghiệp vụ bảo hiểm.
- Phí bảo hiểm và thanh toán phí bảo hiểm.
- Trách nhiệm bảo hiểm.
- Hoàn phí bảo hiểm.
- Bảo hiểm tự động xe mới bổ sung.
- Kiểm tra định kỳ, cấp giấy phép lưu hành.
- Thời hạn bảo hiểm.
- Giải quyết tranh chấp.
- Chữ ký của đại diện chủ xe và đại diện Bảo Việt Hà Nội.
Hợp đồng bảo hiểm được lập thành hai bản, một bản công ty giữ một bản chủ xe giữ. Sau khi kí kết hợp đồng công ty bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm để chủ xe dễ dàng lưu giữ và mang theo người. Giấy chứng nhận do công ty bảo hiểm cấp theo yêu cầu bảo hiểm của chủ xe là bằng chứng ký kết hợp đồng bảo hiểm. Các yêu cầu sửa đổi bổ sung của chủ xe được công ty bảo hiểm chấp thuận bằng văn bản cũng là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng giữa công ty bảo hiểm và chủ xe.
Thời hạn bảo hiểm nghiệp vụ này là: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm để đáp ứng nhu cầu của mọi người tham gia và phù hợp với tình hình thực tế. Hiệu lực hợp đồng bảo hiểm tính từ lúc chủ xe nộp phí bảo hiểm.
Có một số trường hợp huỷ bỏ hợp đồng vì những lý do sau:
- Giấy chứng nhận bảo hiểm đã quá thời hạn có hiệu lực.
- Giấy chứng nhận hoặc hợp đồng bảo hiểm có dấu hiệu bị tẩy xoá, sửa đổi.
- Chủ xe có hành vi trục lợi mà các cơ quan pháp luật phát hiện.
Vì một lý do khách quan nào đó chủ xe yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng để được miễn trách nhiệm nộp phí.
Trong trường hợp có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, chủ xe ôtô phải thông báo bằng văn bản cho công ty bảo hiểm trước 15 ngày. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo huỷ bỏ, nếu công ty bảo hiểm không có ý kiến thì hợp đồng bảo hiểm phải hoàn lại cho chủ xe 80% phí bảo hiểm của thời hạn huỷ bỏ, trừ trường hợp trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực đã xảy ra sự kiện bảo hiểm liên quan đến chiếc xe có yêu cầu huỷ bỏ bảo hiểm.
Mọi yêu cầu sửa đổi bổ sung, điều chỉnh hợp đồng cũng phải thông báo trước cho nhau bằng văn bản trước 10 ngày.
Khi đã kí kết hợp đồng bảo hiểm thì mỗi bên đều có trách nhiệm phải thực hiện và quyền lợi được hưởng
Đối với các chủ xe ôtô
* Trách nhiệm của chủ xe ôtô
- Nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng thời hạn
- Chấp hành đúng luật lệ giao thông, người điều khiển xe phải có bằng lái xe.
- Xe không đủ điều kiện lưu hành phải kịp thời báo ngay cho công ty bảo hiểm biết.
- Phải bảo dưỡng và tiến hành giám định xe định kì.
- Khi có yêu cầu bảo hiểm, chủ xe phải kê khai đầy đủ và trung thực những nội dung trong giấy yêu cầu bảo hiểm.
- Khi tai nạn giao thông xảy ra chủ xe ôtô phải có trách nhiệm
+ Cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản, bảo vệ hiện trường tai nạn, báo ngay cho cảnh sát giao thông nơi gần nhất để phối hợp giải quyết tai nạn. Trừ khi có lý do chính đáng trong vòng 5 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn, chủ xe ôtô phải gửi cho công ty bảo hiểm thông báo tai nạn.
+ Không được di chuyển, tháo dỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến của công ty bảo hiểm. Trừ trường hợp làm như vậy là cần thiết để đảm bảo an toàn cho người và tài sản hoặc phải thi hành yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
+ Chủ xe phải có trách nhiệm khai trung thực, chính xác về tình hình xảy ra xung quanh vụ tai nạn, về điều này giúp cho công ty bảo hiểm tránh được những vụ kiện cáo, khiếu nại làm mất thời gian của các bên.
+ Chủ xe ôtô phải trung thực trong việc thu thập và cung cấp tài liệu chứng từ trong hồ sơ yêu cầu bồi thường và tạo điều kiện thuận lợi cho công ty bảo hiểm trong quá trình xác minh tính chân thực của các tài liệu chứng từ đó.
+ Trừ trường hợp thay đổi mục đích sử dụng xe, chủ xe mới phải thông báo ngay cho công ty bảo hiểm biết để điều chỉnh lại tỷ lệ phí bảo hiểm cho hợp lý.
Nếu chủ xe không thực hiện đầy đủ các trách nhiệm quy định trên thì công ty bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường tương ứng với thiệt hại do lỗi của chủ xe gây ra.
* Quyền lợi của chủ xe.
- Chủ xe ôtô có quyền đề đạt, bổ sung thêm hợp đồng, xác minh lại đơn giá.
- Chủ xe ôtô sẽ được bồi thường kịp thời, thoả đáng khi tai nạn rủi ro xảy ra thiệt hại.
- Chủ xe có quyền huỷ bỏ hợp đồng hoặc đề nghị thay đổi một số điều khoản trong hợp đồng. Khi hợp đồng hết hiệu lực có quyền tái tục hợp đồng.
Đối với công ty bảo hiểm.
* Trách nhiệm của công ty bảo hiểm.
- Cung cấp cho chủ xe ôtô quy tắc, biểu phí, ký kết hợp đồng bảo hiểm, chấp nhận tham gia theo đúng luật định. Hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để chủ xe ôtô tham gia bảo hiểm.
- Công ty bảo hiểm có trách nhiệm phối hợp với cơ quan công an để thu thập các giấy tờ cần thiết có liên quan tới vụ tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
- Đối với những vụ tai nạn đặc biệt nghiêm trọng (tai nạn gây chết người hoặc bị thương nhiều người, thiệt hại về tài sản từ 20 triệu trở lên) công ty bảo hiểm phải phối hợp chặt chẽ với các chủ xe ôtô và cơ quan chức năng ngay từ đầu để giải quyết tai nạn. Trường hợp cần thiết và hợp lý trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm khắc phục một cách tốt nhất hậu quả tai nạn.
- Khi hồ sơ bồi thườngđầy đủ và hợp lệ, công ty bảo hiểm phải tiến hành xét và giải quyết bồi thường theo đúng nguyên tắc chính xác, kịp thời, trung thực.
- Công ty bảo hiểm phải nộp thuế cho Nhà nước.
- Công ty bảo hiểm phải thực hiện đúng quy định pháp luật.
- Thực hiện khiếu nại, tố tụng theo đúng luật định.
* Quyền lợi của công ty bảo hiểm.
- Công ty bảo hiểm có quyền về mặt kinh tế
- Công ty bảo hiểm được Nhà nước khuyến khích và công nhận tư cách pháp nhân, đồng thời tạo mọi điều kiện để triển khai nghiệp vụ này một cách thuận lợi.
- Có quyền huỷ bỏ hợp đồng nếu có hiện tượng trục lợi bảo hiểm.
Phần II
Một số vấn đề về bảo hiểm vật chất xe ô tô tại công ty bảo hiểm Hà Nội.
I. Vài nét khái quát về công ty bảo hiểm Hà Nội.
1. Lịch sử phát triển của công ty bảo hiểm Hà Nội.
Công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) được thành lập ngày 15/1/1965 theo quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964 của chính phủ Việt Nam và đến năm 1989 được đổi tên thành Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam. Kể từ khi thành lập đến hết năm 1995 Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm Hà Nội (gọi tắt là Bảo Việt Hà Nội) là một trong những tổ chức trực thuộc đầu tiên của Bảo Việt được thành lập từ năm 1980 theo quyết định số 1125/QĐ-TTCB ngày 17/11/1980 của Bộ Tài chính. Từ khi thành lập, công ty bảo hiểm Hà Nội chỉ là phòng bảo hiểm Hà Nội trực thuộc Công ty bảo hiểm việt Nam, đến năm 1989 thì được nâng cấp thành công ty bảo hiểm Hà Nội trực thuộc Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam.
Công ty bảo hiểm Hà Nội là 1 trong 4 công ty lớn nhất trong 61 công ty thành viên nằm ở 61 tỉnh thành của Bảo Việt. Với nhiệm vụ là tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn Hà Nội, có chức năng thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ sự đóng góp, tham gia bảo hiểm của các đơn vị thành viên khác trong và ngoài địa bàn Hà Nội, nhằm bồi thường cho những thiệt hại, giúp đỡ các cá nhân các tổ chức đó mau chóng ổn định kinh doanh và đời sống.
Đến nay, Bảo việt Hà Nội đã thành lập các văn phòng trực thuộc ở tất cả các quận huyện trên địa bàn thành phố để kinh doanh khai thác các dịch vụ bảo hiểm. Hoạt độngcủa các phòng bảo hiểm này không những giúp công ty triển khai các dịch vụ bảo hiểm mà còn hình thành một mạng lưới đảm bảo an toàn tài chính cho những thành viên tham gia bảo hiểm.
Để phục vụ nhu cầu bảo hiểm của các tổ chức kinh tế, các nhà đầu tư và mọi thành phần kinh tế khác, bảo hiểm Hà Nội đã và đang triển khai 3 nhóm nghiệp vụ:
Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm con người.
Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm
Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm tài sản.
Với 3 nhóm nghiệp vụ này công ty bảo hiểm Hà Nội đã triển khai được 36 nghiệp vụ như:
Bảo hiểm tai nạn hành khách
Bảo hiểm tai nạn con người (24/24).
Bảo hiểm học sinh.
Bảo hiểm thuỷ thủ thuyền viên.
Bảo hiểm sinh mạng cá nhân.
Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển, tàu sông.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của các nhà thầu dầu khí.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự luật sư.
ã Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người sử dụng lao động đối với
người lao động.
ã Bảo hiểm vật chất xe ô tô.
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và vận chuyển nội địa.
Bảo hiểm lòng trung thành.
Trong những năm gần đây, kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường xoá bỏ cơ chế tập trung bao cấp khiến cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế phải nỗ lực vươn lên bằng chính khả năng của mình. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, đời sống của người dân được nâng lên, điều đó đã và đang trở thành một tiềm năng cho mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm.
Sự phát triển của nền kinh tế một mặt tạo điều kiện thúc đẩy cho lĩnh vực bảo hiểm nước ta phát triển, mặt khác nó cũng buộc Bảo Việt Hà Nội phải đối mặt với những thử thách mới. Nghị định 100CP ban hành ngày 18/12/1993 và nghị định 74/CP ngày 14/06/1997 của Chính phủ về việc cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam đã phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt và tạo ra một thị trường bảo hiểm ngày càng sôi động và phức tạp hơn.
Hiện nay trên thị trường đã có tới 12 công ty bảo hiểm gốc và một công ty tái bảo hiểm, 2 công ty môi giới bảo hiểm và nhiều văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, tái bảo hiểm nước ngoài. Sự xuất hiện của các công ty bảo hiểm buộc Bảo Việt Hà Nội phải nỗ lực hơn nữa để phát triển và tự khẳng định mình trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Cơ cấu tổ chức của công ty có thể chia thành 3 cấp:
Ban Giám đốc.
Các phòng ban tại công ty.
Các phòng đại diện ở quận huyện cùng các đại lý và các cộng tác viên.
Ban Giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp trước tổng công ty về tình hình kinh doanh của đơn vụ. Ban Giám đốc chỉ đạo chung các phòng ban.
Các phòng ban tại công ty chịu sự chỉ đạo của ban giám đốc và cung ban giám đốc chỉ đạo các phòng ban đại diện ở quận, huyện. Các phòng ban còn trực tiếp khai thác và quản lý các nghiệp vụ bảo hiểm ở địa bàn của mình.
Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô được phòng bảo hiểm phi hàng hải và một số phòng trong công ty bảo hiểm Hà Nội cùng các văn phòng đại diện trực tiếp triển khai. Việc triển khai nghiệp vụ này tại công ty bảo hiểm Hà Nội có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn.
2. Những thuận lợi và khó khăn
Công ty bảo hiểm Hà Nội là một trong những doanh nghiệp kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, đòi hỏi công ty phải nắm vững tình hình để khai thác triệt để những mặt thuận lợi và hạn chế tối đa những mặt khó khăn.
2.1. Thuận lợi.
Hà Nội là nơi tập trung một khối lượng lớn các cơ quan đoàn thể, tổ chức xã hội, các công ty xí nghiệp sản xuất kinh doanh và một lực lượng lao động đông đảo. Cùng với những chính sách phát triển kinh tế-chính trị-xã hội đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong những năm qua, tình hình kinh tế thủ đô ngày càng vững mạnh và ổn định. Với diện tích 913km2 và khoảng 2,8 triệu dân, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 11,4%, thu nhập bình quân đầu người một năm là 530 USD. Dân số đông và có mức thu nhập bình quân đầu người cao chứng tỏ lượng người có khả năng tham gia bảo hiểm khá lớn. Dân trí ở Hà Nội cao hơn so với các khu vực khác trong cả nước giúp người dân Hà Nội hiểu biết về sự cần thiết của bảo hiểm nhiều hơn và nhu cầu được đảm bảo an toàn cho họ cũng cao hơn. Đây chính là tiềm năng lớn mà công ty bảo hiểm Hà Nội cần chú ý khai thác một cách triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế, môi trường hoạt động kinh doanh của công ty bảo hiểm ngày càng trở nên phong phú và sôi động. Sự xuất hiện của các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước buộc công ty bảo hiểm Hà Nội phải có những ứng phó thích hợp, đây chính là động lực cho sự phát triển của công ty qua việc phải mở rộng các quan hệ hợp tác, nâng cao trình độ và linh hoạt trong tất cả các khâu , các quy trình của nghiệp vụ. Như vậy, môi trường cũng là động lực tạo đà để công ty phát triển đúng với tiềm năng, và ưu thế sẵn có của mình.
Công ty bảo hiểm Hà Nội là một doanh nghiệp bảo hiểm có quá trình độ hoạt động và phát triển lâu dài do đó đã có một cơ sở khá đầy đủ và những kinh nghiệm và tích luỹ được trong hơn 20 năm qua. Đây cũng là thế mạnh này đảm bảo cho phép tiếp cận và tìm kiếm khách hàng ngày một tốt hơn.
Công ty bảo hiểm Hà Nội luôn được quan tâm, chỉ đạo và ủng hộ của lãnh đạo tổng công ty, sự hợp tác giúp đỡ thường xuyên của các phòng ban thuộc tổng công ty. Có sự quan tâm ủng hộ của lãnh đạo thành phố, các cơ quan, ban, ngành, chính quyền địa phương. Toàn thể cán bộ công nhân viên đã từng bước tích luỹ kinh nghiệm trong hoạt động cạnh tranh và trong sự nghiệp đổi mới.
Trong những năm gần đây, Nhà nước luôn nhận thấy rõ vai trò quan trọng của bảo hiểm trong đời sống cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước ta đã có những chính sách, văn bản và gần đây là ban hành Luật kinh doanh bảo hiểm tạo cơ sở để hoạt động và thúc đẩy dịch vụ bảo hiểm phát triển. Do đó, công ty bảo hiểm Hà Nội càng có điều kiện thuận lợi hơn phát triển trong việc kinh doanh bảo hiểm của mình.
Bên cạnh những thuận lợi trên, công ty bảo hiểm Hà Nội còn gặp không ít khó khăn.
2.2. Khó khăn.
Hà Nội trở thành nơi tập trung đại bản doanh của tất cả các công ty bảo hiểm. Tất yếu công ty bảo hiểm Hà Nội. Tất yếu công ty bảo hiểm Hà Nội phải chấp nhận cạnh tranh, chia sẽ thị phần với các công ty cùng kinh doanh trên thị trường.
Các công ty bảo hiểm nước ngoài và liên doanh với nước ngoài được nhà nước cho phép mở rộng lĩnh vực kinh doanh có những hoạt động thâm nhập thị trường mạnh mẽ, làm cho thị trường bảo hiểm vốn có sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty trong nước nay càng thêm quyết liệt bằng nhiều chính sách: tỷ lệ phí, chi quản lý, hoa hồng, bồi thường, điển hình là việc phí bảo hiểm có xu hướng ngày càng giảm, dễ dàng thấy được xu hướng này trong các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản. Doanh thu phí bảo hiểm của nghiệp vụ này giảm đáng kể do phí bảo hiểm giảm và phải chia sẻ phí do đồng bảo hiểm.
Bảo hiểm Việt Nam nói chung và bảo hiểm Hà Nội nói riêng ra đời và hoạt động từ thời bao cấp, do đó khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã có sự chuyển biến tích cực để đáp ứng được môi trường kinh doanh. Tuy vậy, sự ảnh hưởng của cơ chế bao cấp là không thể tránh khỏi, điều này cũng gây tâm lý e ngại đối với khách hàng. Ngày nay đã có nhiều công ty bảo hiểm hoạt động kinh doanh vì vậy khách hàng có thể lựa chọn và so sánh giữa các công ty bảo hiểm. Đòi hỏi công ty bảo hiểm Hà Nội không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm và tìm cách hạ giá thành sản phẩm.
Do cạnh tranh trên thị trường, rất nhiều hợp đồng bảo hiểm phải áp dụng chính sách giảm phí tối đa để giữ khách hàng. Đồng thời khách hàng ngay càng có yêu cầu cao hơn về chất lượng phục vụ và yêu sách về các điều kiện khác.
Cũng giống như các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam khác, tuy công ty bảo hiểm Hà Nội có một đội ngũ cán bộ đã được đào tạo cơ bản. Nhưng để cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, nhất là các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài thì rõ ràng là trình độ của cán bộ công ty vẫn còn non kém và thiếu kinh nghiệm trong cả lĩnh vực nghiệp vụ và cạnh tranh, nhất là trong vấn đề ngoại ngữ.
Khả năng tài chính của công ty so với các công ty bảo hiểm trong nước là lớn nhưng so với các công ty bảo hiểm nước ngoài thì lại là nhỏ. Đây là một yếu tố tác động đến quyết định tham gia bảo hiểm của khách hàng.
Trình độ dân trí Hà Nội khá cao nhưng hiểu biết về bảo hiểm vẫn còn thấp. Điều này đã hạn chế khả năng tham gia bảo hiểm của khách hàng, và họ không bao giờ muốn mua một sản phẩm mà họ chưa hiểu rõ tác dụng của nó.
Mặt khác, bảo hiểm là sản phẩm dịch vụ đặc biệt, chỉ khi có rủi ro bất ngờ xảy ra thì mới biết được chất lượng của nó thế nào, vì vậy rất khó cho công tác quảng cáo, tiếp thị các dịch vụ bảo hiểm.
Các chế độ chính sách của Nhà nước ta trong những năm đầu mở cửa rõ ràng là chưa hoàn chỉnh. Do đó việc giải quyết tranh chấp nhiều khi gặp khó khăn. Nước ta vừa ban hành luật kinh doanh bảo hiểm vì vậy ngay lập tức chưa thể hoàn chỉnh cho nên việc kinh doanh bảo hiểm ở nước ta chưa hoàn toàn ổn định, vẫn có nhiều thay đổi.
Năm 2001, kinh tế thủ đô tiếp tục tăng trưởngcùng với sự phát triển đi lên của cả nước, nhiều chỉ tiêu kinh tế đề ra đã đạt được. Tình hình kinh tế khu vực bắt đầu có sự phục hồi, tuy nhiên chưa có dấu hiệu phát triển ổn định. Đầu tư nước ngoài đã có dấu hiệu tăng, nhưng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức quốc tế có xu hướng thu hẹp hoạt động, hoạt động cầm chừng hoặc tạm thời đóng cửa làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty.
Năm 2001, công ty bảo hiểm Hà Nội cũng gặp khó khăn do tốc độ giải ngân các nguồn vốn đầu tư cho các dự án trên địa bàn thành phố Hà Nội chậm, làm ảnh hưởng đến kế hoạch khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng đến lắp đặt và các dịch vụ có liên quan. Đồng thời sự hỗ trợ từ Tổng công ty bị thu hẹp nguồn doanh thu từ văn phòng Tổng công ty chuyển cho công ty quản lý giảm nhiều so với các năm trước.
II. Một số vấn đề về bảo hiểm vật chất xe ô tô tại công ty bảo hiểm Hà Nội giai đoạn 1997-2001.
Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô là một nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống của công ty bảo hiểm Hà Nội. Nó luôn luôn là nghiệp vụ mang lại doanh thu và lợi nhuận cao nhất cho công ty. Bảo hiểm vật chất xe ô tô xứng đáng trở thành một trong những nghiệp vụ mũi nhọn hàng đầu của công ty. Tuy nhiên trong những năm gần đây việc triển khai nghiệp vụ này còn nhiều khó khăn. Để hiểu rõ hơn kết qủa hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ trước hết ta sẽ xem xét tình hình hoạt động trong từng khâu công việc nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô.
1. Công tác khai thác.
Khai thác là khâu đầu tiên trong bất kỳ một nghiệp vụ bảo hiểm nào. Nó quyết định trực tiếp đến doanh thu và kết qủa kinh doanh của nghiệp vụ.
Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm là “số đông bù số ít”. Như vậy công tác khai thác có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của nghiệp vụ.
Bảo hiểm vật chất xe ô tô được thực hiện dưới hình thức tự nguyện vì vậy chỉ khi nào các chủ xe hiểu rõ về lợi ích của nghiệp vụ thì họ mới có thể tham gia. Do đó trong khai thác việc vận động và tuyên truyền cho các chủ xe thấy được việc tham gia bảo hiểm là cần thiết luôn được đặt lên hàng đầu.
Việc thu hút nhiều chủ xe tham gia bảo hiểm còn làm cho quỹ bảo hiểm tăng dẫn đến khả năng chi trả, bồi thường sẽ tốt hơn. Mà việc bồi thường quyết định đến chất lượng dịch vụ. Khi chất lượng của nghiệp vụ tăng lên lại có tác dụng thu hút thêm các chủ xe mới. Theo vòng quay đó thì sự phát triển của nghiệp vụ cũng tăng lên đáng kể.
Nhận thức được tầm quan trọng đó của khâu khai thác trong nghiệp
vụ này, công ty bảo hiểm Hà Nội đã chỉ đạo các phòng ban trong công ty và các văn phòng đại diện phải mở rộng được địa bàn hoạt động, huy động tất cả các mối quan hệ sẵn có nhằm khai thác triệt để khách hàng. Công ty bảo hiểm Hà Nội đã tổ chức mạng lưới đại lý, cộng tác viên rộng khắp để thực hiện việc thu phí, và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm nhanh gọn tạo điều kiện cho các chủ xe tham gia bảo hiểm được thuận tiện và dễ dàng.
Thông qua hội nghị tổng kết cuối năm, hội nghị khách hàng, các đợt thi tay nghề lái xe, các giải thể thao lớn. Công ty bảo hiểm Hà Nội cử cán bộ của mình tranh thủ thực hiện việc tuyên truyền tới các chủ xe, lái xe để họ thấy được tác dụng của việc tham gia bảo hiểm vật chất xe ô tô, cán bộ nghiệp vụ của công ty bảo hiểm Hà Nội xuống tận nơi để vận động họ tham gia bảo hiểm.
Song song với các biện pháp trên, ban giám đốc công ty quán triệt tinh thần tới các cán bộ công nhân viên đó là : Mỗi cán bộ phải luôn coi khách hàng là những người bạn, phải cải tiến và đổi mới phong cách phục vụ, làm cho khách hàng luôn tin tưởng và gắn bó với mình.
Trong thực tế kinh doanh, công ty bảo hiểm Hà Nội đã phải đương đầu với sự cạnh tranh quyết liệt của các công ty bảo hiểm khác như Bảo Minh, PIJICO, PTI... Quá trình đó đã tạo ra rất nhiều hình thức cạnh tranh không lành mạnh như: giảm phí, nâng cao tỷ lệ hoa hồng một cách tuỳ tiện. Bên cạnh đó, kinh doanh cùng địa bàn nên đã nảy sinh ra những trường hợp các phòng bảo hiểm của Bảo Việt cùng đến chào phí khách hàng tạo ra sự cạnh tranh k._..019
1.008
- Chi quản lý
Tr.đ
677,04
697,424
660,936
657,688
664,192
- Chi lương
Tr.đ
366
366,5
399,7
395,6
407,7
- Chi ĐP và HCTT
Tr.đ
1680
1720
1598,4
1.785,24
1.926,8
- Chi khai thác
Tr.đ
546
580,5
529,47
564,83
582,13
- Chi TTQC
Tr.đ
250
255
260
290
332
- Chi giám định
Tr.đ
584,64
598,256
547,12
614,62
676,269
- Chi khác
Tr.đ
306,32
360,92
223,17
312,42
307,11
3. Lợi nhuận
Tr.đ
4.074
4.064,4
3.746
3.186,9
3.580,2
4. Lợi nhuận / tổng chi
đ/đ
0,2407
0,2331
0,2267
0,1696
0,1742
5. Doanh thu / tổng chi
đ/đ
1,2407
1,2331
1,2267
1,1696
1,1742
6. Tốc độ tăng của lợi nhuận
%
-
99,76
92,17
85,07
112,34
7. Tốc độ tăng của doanh thu
%
-
102,38
92,93
110
103,48
8. Tốc độ tăng của chi phí
%
-
103,01
94,77
113,72
109,37
(Nguồn báo cáo tổng kết cuối năm-công ty bảo hiểm Hà Nội)
Qua bảng trên ta thấy doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô của công ty bảo hiểm Hà Nội đạt được khá cao. Năm 1997, 1998 thì doanh thu tăng nhưng đến năm 1999 doanh thu lại giảm. Doanh thu giảm là do năm 1999 được coi là lần mở cửa thứ 3 của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Nhà nước đã cho phép nhiều công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Ngoài ra các công ty bảo hiểm trong nước đã bắt đầu hoạt động ổn định và dần dần chiếm lĩnh thị trường trong nước. Để đánh giá kết quả và kết qủa kinh doanh nghiệp vụ ta sẽ đi sâu vào từng chỉ tiêu qua từng năm để phân tích.
Năm 1997 tổng phí thu được là 21.000 triệu đồng, tổng chi là 16.926 triệu đồng, lợi nhuận thu được 4.074 triệu đồng. Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng chi của nghiệp vụ là 0,2407 đồng lợi nhuận.
Năm 1998 lợi nhuận có giảm nhưng không đáng kể, trong khi đó lợi nhuận/ tổng chi cũng giảm và bằng 0,2331 đ/đ nghĩa là cứ 1 đ chi phí bỏ ra tạo ra được 0,2331 đồng lợi nhuận. Ta thấy tổng chi tăng, tốc độ phát triển của tổng chi là 103,01% so với năm 1997. tổng chi tăng do chi bồi thường, chi hoa hồng và các khoản chi khác đều tăng.
Sang năm 1999 doanh thu phí giảm một cách nhanh chóng, đạt được 19.980 triệu đồng bằng 92,93% so với năm 1998. Do đó lợi nhuận và tỷ lệ lợi nhuận trên tổng chi cũng giảm.
Năm 2000, công ty đã cố gắng rất nhiều trong khâu khai thác thêm được một số lượng ô tô khá lớn do đó đã làm cho doanh thu năm 2000 tăng lên 21.978 triệu đồng bằng 110% so với năm 1999. Tuy nhiên lợi nhuận và tỷ lệ lợi nhuận trên tổng chi giảm mạnh và chỉ đạt được 3.186,9 triệu đồng. Lợi nhuận và tỷ lệ lợi nhuận / tổng chi là 0,1696 đ/đ, hoạt động kinh doanh của công ty cũng không kết qủa bằng những năm trước.
Đến năm 2001 doanh thu có tăng so với năm 2000 và thu được 22.743 triệu đồng và lợi nhuận cũng tăng so với năm 2000 đạt 112,34%. Tốc độ phát triển của chi phí giảm so với năm 2000. Kết qủa kinh doanh của nghiệp vụ đã có xu hướng tăng. Tuy nhiên ta thấy tốc độ tăng của chi phí cao hơn tốc độ tăng của doanh thu là 103,4%. Tốc độ phát triển của chi phí cao có thể là do một số nguyên nhân sau:
Qua bảng cho thấy chi bồi thường cao và tăng qua các năm. Điều này có thể là do trong năm đã có nhiều vụ tổng thất xảy ra và mức độ nghiêm trọng ngày càng gia tăng. Chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất qua các năm tăng nhưng kết qủa của công tác này lại có chiều hướng giảm sút.
Chi tuyên truyền quảng cáo tăng qua các năm nhưng nhìn chung kết qủa lại có chiều hướng giảm
Chi quản lý, chi phí khai thác, chi giám định cũng tương đối lớn và nhình chung đều tăng những kết qủa lại giảm, phải chăng do công ty sử dụng các khoản chi này tương đối lãng phí, không kết qủa.
Chi hoa hồng, chi lương đều tăng. Chi hoa hồng năm 1997 là 966 triệu đồng đến năm 2001 là 1008 triệu đồng, còn chi lương năm 1997 là 336 triệu đồg đến năm 2001 là 407,4 triệu đồng. Công ty tăng hoa hồng, lương một mặt nhằm ổn định, nâng cao mức sống cho cán bộ, công nhân viên, đại lý để họ yêu tâm phấn khởi trong công việc và tạo điều kiện tiên quyết cho thái độ tận tình của họ đối với khách hàng. Mặt khác việc tăng lương sẽ giúp cho công ty giữ chân được những người giỏi và lôi kéo được thêm nhiều người có năng lực khác. Đồng thời đảm bảo lòng trung thành của họ đối với công ty.
Nhìn chung, qua 5 năm doanh thu, chi phí đều tăng nhưng lợi nhuận lại giảm, trong đó tốc độ tăng của tổng chi lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu, tốc độ tăng của doanh thu nhìn chung lớn hơn tốc độ tăng của lợi nhuận do đó kết qủa kinh doanh của nghiệp vụ giảm sút theo chiều hướng xấu. Cho nên trong thời gian tới công ty nên hợp lý hoá các khoản chi để giảm thiểu chi phí nhằm nâng cao kết qủa của nghiệp vụ trong điều kiện mà hoạt động kinh doanh có sự cạnh tranh gay gắt.
Tóm lại, trong thời gian qua việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô tại công ty bảo hiểm Hà Nội đã được tiến hành một cách nhịp nhàng từ khâu khai thác đến khâu bồi thường, đều có kế hoạch tỷ mỹ sát với thực tế. Trong khâu khai thác đã tận dụng triệt để mạng lưới cộng tác viên và cùng với sự giúp đỡ của phòng cảnh sát giao thông nên nghiệp vụ này được tiến hành thuận lợi, khắc phục khó khăn trong cảnh thị trường cạnh tranh gay gắt, các chỉ tiêu về doanh thu đều được cán bộ công ty thực hiện đúng kế hoạch. Ngoài ra công tác tổ chức của công ty bảo hiểm Hà Nội đã được sắp xếp một cách hợp lý phát huy được hết khả năng hiện có của các cán bộ nghiệp vụ, tạo mọi điều kiện thuận lợi phục vụ khách hàng. Từ đó tạo ra uy tín cần thiết để có thể vận động được thêm số đầu xe tham gia bảo hiểm tại công ty bảo hiểm Hà Nội.
Bên cạnh đó cũng còn một số tồn tại:
Thiếu chiến lược khai thác và tư duy, biện pháp tiếp thị.
Việc tổ chức quản lý, bám giữ khách hàng chưa tốt. Viêc phân công theo dõi hợp đồng bảo hiểm để tái tục kịp thời chưa được chú ý đúng mức.
Chưa tổ chức được công tác khai thác, tận thu và chưa mở rộng được nhiều khách hàng mới.
Chưa chú ý tổng hợp tình hình thị trường tổng hợp, phân tích biện pháp của đối thủ cạnh tranh để chủ động đề xuất với lãnh đạo công ty để có phương án đối phó.
Việc phối hợp khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô giữa các công ty bảo hiểm trong hệ thống Bảo Việt và giữa các phòng trong công ty bảo hiểm Hà Nội còn yếu, vẫn còn tình trạng cạnh trạnh nội bộ.
Công tác giám định bồi thường còn gặp nhiều lúng túng, cán bộ giám định trình độ am hiểu kỹ thuật xe ô tô vẫn chưa nhiều.
Công tác tuyên truyền chưa thực sự sâu sát với quần chúng, nhất là với các chủ xe tư nhân.
Để khắc phục được điều này cần có sự kết hợp với nhiều cơ quan, sự chỉ đạo đúng đắn hơn nữa của lãnh đạo và sự nổ lực không ngừng của cán bộ công nhân viên toàn công ty bảo hiểm. Tin chắc rằng trong những năm tới kết
Phần III
Một số kiến nghị nhằm nâng cao công tác bảo hiểm vật chất xe ôtô tại công ty bảo hiểm Hà Nội.
Sau một thời gian thực tập tại công ty bảo hiểm Hà Nội, được sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ phòng bảo hiểm phi hàng hải em đã hoàn thành chuyên đề thực tập bảo hiểm vật chất xe ôtô. Bản thân em cũng có điều kiện củng cố và nâng cao kiến thức nghiệp vụ đã được học trong nhà trường. Qua phần lý luận đã được nghiên cứu ở trường, kết hợp với việc trải qua thực tế bằng việc nghiên cứu cụ thể, đi sâu vào công tác khai thác nghiệp vụ, em xin đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao công tác bảo hiểm vật chất xe ôtô tại công ty bảo hiểm Hà Nội.
Một số kiến nghị nhằm nâng cao kết quả của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô.
1. Đối với Nhà nước.
Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm.
Trong công cuộc đổi mới và phát triển của đất nước, các ngành các lĩnh vực hoạt động đều có đóng góp nhất định và luôn tự cải tiến để vươn tới sự hoàn thiện.
Bảo hiểm là ngành dịch vụ, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm không chỉ thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế mà điều quan trọng là góp phần đảm bảo ổn định tài chính cho các cá nhân, gia đình, cho mọi tổ chức và doanh nghiệp để khôi phục đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngày nay bảo hiểm không còn xa lạ mà đã len lỏi đến mọi làng quê, mọi cơ quan doanh nghiệp và đã thâm nhập vào mọi hoạt động trong đời sống kinh tế xã hội. Kinh tế càng phát triển, đời sống càng cao thì nhu cầu bảo hiểm càng lớn, càng xuất hiện nhiều nghiệp vụ mới và đòi hỏi tính cạnh tranh nâng cao.
Với hoạt động thu phí và bồi thường, nó liên quan đến lợi ích của người được bảo hiểm, trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của họ đặc biệt là những lúc gặp khó khăn.
Với những lý do trên đòi hỏi ngành kinh doanh bảo hiểm phải có sự cạnh tranh lành mạnh để có thể phát triển và hoàn thành tốt vai trò của mình đối với khách hàng cũng như đối với hệ thống tài chính quốc gia.
Trong nền kinh tế thị trường có sự can thiệp của Nhà nước thì hoạt động của Nhà nước được thông qua bằng các công cụ tài chính và hệ thống pháp luật. Thành công của Nhà nước trước hết được quy định bởi các công cụ tài chính mạnh, kết qủa và hệ thống pháp luật mang tính khả thi cao.
Hiện nay, chưa có một môi trường cạnh tranh hoàn hảo cho các hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Ngày 09/12/2000 tại kỳ họp thứ 8 khóa X luật kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam thông qua và đến ngày 1 tháng 4 năm 2001 luật kinh doanh bảo hiểm đã chính thức được áp dụng. Vì luật mới được ban hành và đi vào hoạt động cho nên Nhà nước cần quản lý chặt chẽ để các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo đúng luật kinh doanh bảo hiểm thì mới có thể tạo ra một môi trường pháp lý phù hợp, thông thoáng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động và phát triển lành mạnh, vững chắc. Các văn bản ban hành, đặc biệt là luật kinh doanh bảo hiểm phải giải quyết được các vấn đề sau:
- Đảm bảo được sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau. Qua đó cần thiết phải tạo được sự cạnh tranh để phát triển ngành bảo hiểm, tránh sự phá sản của các công ty bảo hiểm và xu hướng độc quyền. Trong lĩnh vực bảo hiểm vật chất xe ôtô cần quy định mức phí sàn - mức phí thấp nhất mà các doanh nghiệp bảo hiểm có thể hạ.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm mới ra đời cũng cần có sự ưu tiên riêng về các vấn đề: thị trường tài chính và đặc biệt trong việc đóng góp các khoản thuế cho Nhà nước. Nhà nước cần có các văn bản pháp luật quy định về việc xử lý kỷ luật thích đáng đối với các hành vi phi kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm hạ gục đối thủ cạnh tranh của mình. Có như vậy mới khuyến khích được sự cạnh tranh giữ các doanh nghiệp bảo hiểm.
2. Đối với bản thân công ty bảo hiểm Hà Nội.
2.1 Về công tác khai thác.
- Luôn bám sát khách hàng, đặc biệt là những khách hàng truyền thống để tái tục thu phí kịp thời.
Công tác khai thác sẽ quyết định đến kết quả kinh doanh của nghiệp vụ. Chi phí cho việc ký kết hợp đồng mới cao hơn chi phí cho việc tái tục hợp đồng. Do vậy, song song với việc ký kết hợp đồng mới thì cần phải tiến hành lưu trữ các thông tin của hợp đồng đã được ký kết và các thông tin có liên quan về phía chủ xe, tạo điều kiện cho việc tái tục hợp đồng sau này được dễ dàng hơn.
Hiện nay do sự có mặt của nhiều công ty bảo hiểm trên địa bàn Hà Nội chắc chắn thị trường ngày càng bị thu hẹp nếu không chú trọng đến việc bán sát khách hàng, ghi nhớ chính xác ngày tháng hết hạn hợp đồng bảo hiểm để có thể tái tục hợp đồng một cách kịp thời. Đối với những chủ xe đã tham gia bảo hiểm tại công ty nếu chưa một lần khiếu nại bồi thường thì khi tái tục hợp đồng có thể tính toán để giảm phí.
Phương pháp này có tính khả thi cao ở chỗ: chi phí cho việc lưu trữ thông tin về khách hàng là tương đối thấp, do đó hoàn toàn có thể tiến hành được.
- Cần nắm vững số lượng xe lưu hành và các chủ xe đang có xe hoạt động.
Trước tiên muốn khai thác tốt phải nắm được tương đối chính xác số xe đang hoạt động và làm ăn khá để qua đó ta mới thấy được thị trường để khai thác và có địa chỉ tốt để cho các đơn vị khai thác làm tốt khâu này. Để làm được điều này, công ty phải tập trung bán giữ và khai thác triệt để những điểm đầu mối: điểm đăng kí xe, khám xe, nộp thuế.... quan hệ với các đơn vị phòng cảnh sát giao thông thành phố Hà Nội... Sau đó sàng lọc các chủ xe tham gia tại Công ty. Còn lại các chủ xe khác kể cả các chủ xe tham gia bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm ngoài hệ thống Bảo Việt sẽ là mục tiêu khai thác của Công ty.
- Phân địa bàn cho từng cán bộ tiện việc theo dõi giám sát, chăm sóc khách hàng.
- Công ty nên tuyển dụng các nhân viên trong tương lai phải có trình độ chuyên môn thích hợp chứ không đơn giản chỉ là bán bảo hiểm. Sở dĩ như vậy là hiện nay nhiều nhân viên khai thác không đáp ứng được yêu cầu. Khi chủ xe đề nghị giải thích các thắc mắc thì lại giải thích sai, không đầy đủ, không rõ ràng, nhiều khi không kiểm tra hoặc tư vấn cho các chủ xe những giấy tờ cần thiết. Do đó, khi chủ xe yêu cầu bồi thường sẽ không được chấp nhận làm cho họ mất lòng tin vào công ty và ảnh hưởng đến uy tín của Công ty.
- Công ty nên tổ chức khoá học ngắn ngày do các chuyên gia trong lĩnh vực xe ôtô giảng dạy cho nhân viên của Công ty. Điều đó sẽ giúp cho các nhân viên khai thác có được sự đánh giá tương đối chính xác giá trị của xe tham gia bảo hiểm.
- Sử dụng đòn bẩy kinh tế, khuyến khích vật chất đối với nhân viên khai thác, có chính sách khen thưởng kịp thời cho những đại lý, cộng tác viên có những hợp đồng lớn, có chất lượng phát huy được hết năng lực của các nhân viên này. Cụ thể:
+ Trích một tỷ lệ % nhất định trên tổng số phí thu vượt kế hoạch, trong những trường hợp cụ thể cần lập danh sách gửi lên hội đồng thi đua của công ty để đề nghị khen thưởng.
+ Đối với đội ngũ cán bộ đại lý, cộng tác viên ngoài số hoa hồng phải thanh toán cần khuyến khích họ khai thác thận trọng hơn, không chạy theo doanh thu để khai thác bừa bãi hay đánh giá không chính xác giá trị xe tham gia bảo hiểm cũng như cấu kết với chủ xe gian lận bảo hiểm. Bên cạnh đó, cần kiên quyết trong việc quy trách nhiệm vật chất cũng như huỷ bỏ hợp đồng đại lý nếu phát hiện những gian lận về việc sử dụng và quản lý ấn chỉ, thanh toán quyết toán phí, cấu kết với chủ xe nhằm trục lợi bảo hiểm.
+ Để đảm bảo sự công bằng tránh mất đoàn kết nội bộ giữa những nhân viên khai thác, công ty nên có chính sách (trích % hoa hồng) khác nhau đối với nhân viên đi khai thác bên ngoài và nhân viên bán bảo hiểm tại văn phòng Công ty.
+ Để hỗ trợ cho Công ty hoàn thành kế hoạch, công ty nên tổ chức thi đua vào những ngày lễ lớn.
- Mạnh dạn áp dụng mềm dẻo và linh hoạt chính sách khách hàng như giảm phí, tặng quà cho khách hàng lớn của Công ty, xem xét mở rộng phạm vi bảo hiểm hoặc giảm mức khấu trừ nếu có thể. Có chính sách ưu đãi đặc biệt với các khách hàng truyền thống để giữ được nguồn phí thu ổn định từ các khách hàng này.
- Công ty cần mở rộng và đẩy mạnh các kênh khai thác bảo hiểm trong đó chú trọng kênh bán lẻ và khai thác trong dân cư. Để làm được điều này, công ty cần có chiến lược sử dụng đại lý, xây dựng hệ thống đại lý bảo hiểm phi nhân thọ chuyên nghiệp trên cơ sở tuyển dụng, đào tạo và sắp xếp, sử dụng các đại lý đã có.
- Cần phải chú ý tổng hợp thị trường, phân tích biện pháp triển khai nghiệp vụ của đối thủ cạnh tranh từ đó đề xuất với lãnh đạo công ty để có được phương thức đối phó. Trong nền kinh tế thị trường cũng như cạnh tranh với những công ty khác là vô cùng khó khăn. Vì vậy công ty cần phải xây dựng chiến lược Marketing hoàn chỉnh để phục vụ cho công tác khai thác thu hút nhiều khách hàng nhất, mang lại kết qủa kinh doanh cao nhất.
2.2 Về công tác giám định.
Một trong những nguyên nhân làm tồn đọng hồ sơ tai nạn, làm cho số tiền bồi thường tăng lên, việc giải quyết các vụ tai nạn để bồi thường không chính xác kịp thời đó là số vụ tai nạn xảy ra không được trực tiếp giám định. Việc xác định thiệt hại của các vụ tai nạn của các chủ xe phụ thuộc vào hồ sơ giải quyết tai nạn của công an. Những tài liệu đó nhiều khi được lập rất sơ sài, không đủ cơ sở để tính toán bồi thường, cho nên làm mất nhiều thời gian cho việc kết thúc hồ sơ bồi thường và nhiều khi không chính xác.
Để việc bồi thường đúng, chính xác, kịp thời thì việc giám định cũng phải chính xác và muốn giám định chính xác công ty phải có những giám định viên am hiểu kĩ thuật xe ôtô đánh giá trực tiếp tổn thất khi xảy ra tai nạn. Để làm được điều đó trong thời gian tới công ty bảo hiểm Hà Nội cần làm tốt những vấn đề sau:
- Giám định viên cần phối hợp hơn nữa với chủ xe (lái xe) và cảnh sát giao thông để có thể nắm bắt được thông tin khi có thiệt hại xảy ra. Giám định viên cần tham gia giám định trực tiếp tất cả các vụ tai nạn thuộc trách nhiệm bảo hiểm giúp cho việc đánh giá thiệt hại đảm bảo tính chính xác cao.
- Nên sử dụng đội ngũ cộng tác viên là những kỹ sư giỏi hoặc những chuyên gia về kỹ thuật xe ôtô, trong công tác giám định thiệt hại vật chất xe ôtô tai do tai nạn gây ra. Điều này sẽ giúp cho công ty khắc phục được tình trạng thiếu cán bộ giám định am hiểu kỹ thuật xe ôtô và giúp cung cấp hồ sơ hoàn chỉnh cho việc bồi thường được diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, kịp thời, chính xác.
- Công ty bảo hiểm Hà Nội cần bồi dưỡng thêm về kỹ thuật xe ôtô cho các cán bộ giám định hoặc cử các cán bộ giám định đi đào tạo bồi dưỡng về kỹ thuật.
- Công ty nên trang bị thêm những thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác giám định: máy ảnh, phương tiện đi lại thuận lợi...
- Công tác giám định đòi hỏi người giám định viên phải thường xuyên đi lại, có mặt kịp thời để làm công việc của mình vì vậy công ty cần phải có những chính sách đãi ngộ thoả đáng để có thể khuyến khích cán bộ giám định làm tốt công tác của họ.
- Bản thân giám định viên phải luôn coi trọng đạo đức nghề nghiệp.
2.3 Về công tác bồi thường.
Tiến hành rà soát, cải tiến lại các khâu bồi thường, đề ra các biện pháp hợp lý hoá trong giải quyết bồi thường. Như đã đề cập ở phần trước, bồi thường là khâu cuối cùng để hoàn thành hồ sơ nghiệp vụ. Các chủ xe thực sự thấy được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm vật chất xe ôtô chỉ khi được giải quyết bồi thường một cách thuận lợi và điều này làm họ luôn cảm thấy việc tham gia bảo hiểm thực sự là một giải pháp để giải quyết sự cố, khắc phục thiệt hại một cách nhanh chóng và tiết kiệm nhất. Khi các chủ xe đã đặt lòng tin vào bảo hiểm, điều đó sẽ rất có lợi cho việc khai thác và mở rộng thị trường. Từ đó góp phần rất lớn đến sự thành công hay thất bại của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô nói riêng và của công ty nói chung. Để làm được điều này công ty cần:
- Đơn giản hoá thủ tục một cách tối ưu, rút ngắn thời gian bồi thường.
- Nâng cao tăng dần bồi thường hồ sơ tại chỗ.
- Hướng dẫn tư vấn cho khách hàng để họ hiểu và thiết lập hồ sơ khi tai nạn xảy ra.
- Công ty cần liên doanh, liên kết với các xưởng sửa chữa xe ôtô lớn, có uy tín hoặc các công ty, phòng trực thuộc ví dụ: công ty có thể mở một xưởng sửa chữa riêng tạo thành hệ thống xưởng sửa chữa của Bảo Việt, góp phần nhanh chóng khôi phục lại phương tiện cho chủ xe, vừa tránh được những tiêu cực vừa giảm giá thành sửa chữa mà lại thu được nguồn lợi cho Công ty.
- Công ty kiện toàn bộ máy các phòng ban, chấn chỉnh công tác đào tạo, quản lý nâng cao trách nhiệm của các trưởng phòng-> giải quyết bồi thường nhanh chóng kịp thời.
2.4 Về công tác tuyên truyền quảng cáo.
Việc cung cấp và truyền tin về một sản phẩm, về đặc điểm, lợi ích của nó tới người tiêu thụ, tới người sử dụng cuối cùng là rất quan trọng. Vì thế tổ chức tốt việc tuyên truyền quảng cáo sẽ có tác dụng giúp cho mọi người hiểu rõ được sự cần thiết của bảo hiểm. Biện pháp để thực hiện tốt công tác tuyên truyền quảng cáo là:
- Thông qua hệ thống thông tin đại chúng như hệ thống truyền thanh, truyền hình, báo chí, phim ảnh, áp phích... để các cơ quan đơn vị và toàn thể nhân dân thấy được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm vật chất xe ôtô.
- Cần xây dựng những biển panô, áp phích ở những nút điểm giao thông như: các ngã ba, ngã tư hay trên đường quốc lộ.
- Thông qua việc giải quyết bồi thường tai nạn xe ôtô, các cán bộ giám định bồi thường cần tận dụng tranh thủ những cơ hội để giải thích cho các chủ xe, lái xe biết được những lợi ích khi tham gia bảo hiểm vật chất xe ôtô.
2.5 Về công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Đối với từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau, công tác đề phòng và hạn chế tổn thất có những phương pháp khác nhau. Trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô muốn giảm số vụ tai nạn giao thông xảy ra hàng năm công ty bảo hiểm đã thực hiện những biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất.
- Tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân về luật an toàn giao thông bằng càc hình thức panô, áp phích và trên các phương tiện thông tin.
- Công ty phải phối hợp chặt chẽ với các ngành giao thông, công an tăng cường hệ thống biển báo xây dựng thêm những đường lánh nạn.
- Công ty phải tuyên truyền, động viên phong trào giữ gìn an toàn giao thông, khen thưởng kịp thời các đơn vị, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
- Công ty hỗ trợ kinh phí cùng với sở giao thông công chính thành phố để tổ chức thi lái xe an toàn, giáo dục tập huấn cho lái xe, phổ biến kinh nghiệm xử lý một số vụ tai nạn điển hình, cách hạn chế tổn thất khi tai nạn xảy ra. Công ty bảo hiểm hỗ trợ kinh phí để giúp cho các chủ xe, các đơn vị giám định xe định kỳ để đảm bảo an toàn trong quá trình vận chuyển.
Chính qua những phong trào thi đua, tập huấn, phát động dài ngày đã góp phần nâng cao tay nghề, ý thức chấp hành luật lệ giao thông, đảm bảo hệ số an toàn cao của các loại xe và góp phần không nhỏ trong công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
2.6 Về tình trạng trục lợi trong bảo hiểm vật chất xe ôtô.
Hiện tượng gian lận trong bảo hiểm ngày càng gia tăng, có nhiều vụ trục lợi rất tinh vi và mang tính tội phạm cao vẫn chưa bị phát hiện. Với mục tiêu kết qủa kinh doanh và lành mạnh hoá xã hội các công ty bảo hiểm cần phải làm:
- Tuân thủ nghiêm chỉnh quy trình khai thác bảo hiểm. Khi bán bảo hiểm các nhân viên phải kiểm tra xe, giấy tờ xe, bằng lái, tình trạng kỹ thuật xe và giá trị của xe. Giấy chứng nhận bảo hiểm thì phải ghi cả ngày, giờ bắt đầu và hết hiệu lực của bảo hiểm, nghiêm cấm bán bảo hiểm lùi ngày.
- Tăng cường khâu tuyển chọn và đào tạo đại lý, cộng tác viên. Tuyển chọn đại lý, cộng tác viên có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, tổ chức cho họ tham gia các lớp đào tạo, hướng dẫn về khai thác nghiệp vụ. Định kỳ tổ chức các lớp tập huấn, đồng thời cũng tổ chức các đợt kiểm tra công việc, trình độ của đại lý, cộng tác viên để đảm bảo nắm bắt được công việc của họ, giúp họ tiến hành công việc ngày càng tốt hơn, góp phần hạn chế sai sót hoặc cố tình làm sai của đại lý, cộng tác viên.
- Công ty phải chú trọng đến công tác giám định, bồi thường kịp thời phát hiện nhanh xử lý ngay từ đầu để hạn chế tổn thất các vụ trục lợi phát sinh. Công ty cần tuyển chọn những giám định viên có năng lực trình độ vững vàng, trung thực, giữ vững lập trường của mình trong điều tra khám nghiệm hiện trường. Tránh tình trạng giám định viên bị chủ xe (lái xe) mua chuộc để khai báo tăng số tiền sửa chữa hay khai tăng mức độ thiệt hại để hòng kiếm lời một cách bất chính.
Trường hợp có dấu hiệu gian lận bảo hiểm thì ngoài việc giám định độc lập có thể nhờ công an điều tra xác minh. Tuyệt đối không để cho khách hàng biết trước kế hoạch điều tra xác minh của công ty nhằm tránh phản ứng từ phía khách hàng chuẩn bị trước để đối phó. Đối với công tác bồi thường phải đối chiếu với biên bản giám định để giải quyết đúng và để tránh trường hợp chủ xe khiếu nại những sửa chữa không liên quan đến tổn thất. Xác minh giá trị xe, giá sửa chữa từng bộ phận phù hợp với giá cả tại địa phương tránh trường hợp đòi sửa chữa bằng mức mua mới.
- Tăng cường mối quan hệ với các ngành có liên quan, đặc biệt là cảnh sát giao thông, các trạm đăng kiểm, có mối quan hệ tốt và lâu dài với một số xưởng sửa chữa tránh hiện tượng khai tăng tiền đòi bồi thường. Cập nhật các trường hợp trong trục lợi bảo hiểm xe cơ giới để cán bộ công ty biết mà phòng ngừa.
2.7 Một số kiến nghị khác.
- Công ty cần phải tạo ra những khách hàng “nòng cốt” của mình. Đây là những khách hàng đến với công ty từ rất sớm và trung thành theo thời gian, được công ty ưu đãi trong dịch vụ. Từ số này sẽ nảy nở dần sang số khách hàng khác.
- Mở rộng thị phần vừa là mục tiêu trước mắt, vừa là mục tiêu lâu dài. Mở rộng được thị phần mới có thể tính đến tăng doanh thu và tiếp đến các mục tiêu khác.
- Công ty cần chú trọng công tác quản trị nhân lực. Xây dựng chiến lược đào tạo và đào tạo lại cán bộ, chú trọng đến kiến thức tiếp thị, quản lý, ngoại ngữ, tài chính, chuyên môn kỹ thuật, sự yêu nghề, gắn bó với công việc và có đạo đức nghề nghiệp.
- Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, tiền thưởng để thực sự là động lực kinh tế trong hoạt động kinh doanh, chú trọng các cá nhân có thành tích cao trong khai thác. Đảm bảo và tiếp tục nâng cao đời sống cán bộ nhân viên.
- Chú trọng đầu tư và áp dụng công nghệ mới trong kinh doanh bảo hiểm để theo kịp sự phát triển của thị trường trong nước và khu vực.
- Trong tương lai, nếu có điều kiện nên thành lập bộ phận hay dịch vụ sửa chữa phục hồi các xe bị tai nạn mà công ty bảo hiểm Hà Nội nhận bảo hiểm. Khi tai nạn xảy ra công ty có thể nhanh chóng đưa xe vào xưởng sửa chữa, đảm bảo thời gian, chi phí và có thể tránh được việc các chủ xe cấu kết với xưởng để trục lợi. Hơn nữa các nhân viên sửa chữa cũng chính là các chuyên gia về ôtô, khi cần thiết họ có thể giúp cho nhân viên khai thác xác định đúng giá trị bảo hiểm và trực tiếp tham gia giám định. Ngoài ra, dịch vụ sửa chữa này tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho công ty vì có thể sửa chữa thêm những xe bị tai nạn theo yêu cầu của khách hàng.
- Thường xuyên mở các hội thi về luật an toàn giao thông hay hội thi giữ xe tốt, lái xe an toàn. Tặng thưởng cho các chủ xe nhiều năm không có tai nạn xảy ra nhằm mục đích khuyến khích, cũng nhằm đề phòng và hạn chế tổn thất.
- Hàng năm, nên có hội nghị khách hàng để lắng nghe rút kinh nghiệm những ý kiến của khách hàng và có những chính sách ưu đãi trong việc giải quyết bồi thường đối với khách hàng có nhiều xe tham gia bảo hiểm.
Từ năm 2001, công ty đã tổ chức trực 24/24 để kịp thời hỗ trợ cho các chủ xe khi bị tai nạn giao thông, cứu trợ miễn phí đối với chủ xe tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt, xảy ra ở bán kính 80 km.
Trên đây là những đề xuất mà em đã rút ra từ quá trình thực tập tại phòng phi hàng hải của công ty bảo hiểm Hà Nội. Em hi vọng rằng trong thời gian tới, bảo hiểm Hà Nội sẽ có được những hướng đi thích hợp để có thể nâng cao hơn nữa công tác bảo hiểm vật chất xe ôtô, để nó trở thành một nghiệp vụ mang lại doanh thu và kết qủa cao nhất cho Công ty.
Kết luận
Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô là loại hình bảo hiểm tự nguyện đã được triển khai từ rất nhiều năm tại công ty bảo hiểm Hà Nội, và nó là nghiệp vụ mang lại doanh thu cao nhất cho Công ty. Tuy nhiên, tong thực tế triển khai nghiệp vụ còn gặp rất nhiều khó khăn và phức tạp. Để nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô có thể tiếp tục phát triển trong sự cạnh tranh gay gắt thì bên cạnh sự cố gắng, nỗ lực không ngừng của từng cán bộ công nhân viên cần phải liên tục đổi mới, hoàn thiện các quy tắc của nghiệp vụ và công ty cần có một chiến lược kinh doanh sao cho phù hợp với tình hình thực tế.
Trong phạm vi đề tài này, em đã cố gắng tìm hiểu, phân tích những vấn đề thiết thực, những tồn tại của tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại công ty bảo hiểm Hà Nội. Từ đó em đã đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao công tác của nghiệp vụ, hy vọng những ý kiên này sẽ góp phần làm cho nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô ngày càng phát triển.
Do thời gian và sự hiểu biết còn hạn chế, nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót những hạn chế nhất định về lý luận thực tiễn cũng như phương pháp trình bày cùng kiến nghị đề ra. Em xin chân thành cảm ơn tất cả những ý kiến đóng góp và chỉ bảo của các thầy cô giáo và càc cô, các chú trong phòng bảo hiểm phi hàng hải để em có điều kiện hoàn thiện luận văn của mình.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm -Nhà xuất bản thống kê - Năm 2000.
2. Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm - Nhà xuất bản giáo dục -
Năm 1998.
3. Giáo trình thống kê bảo hiểm - Nhà xuất bản thống kê - Năm 1999.
4. Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành - Nhà xuất bản tài chính.
5. Tạp chí bảo hiểm.
6. Quy tắc bảo hiểm xe ôtô - Tổng công ty bảo hiểm Việt nam - Năm 2000.
7. Báo cáo tổng kết cuối năm - Công ty bảo hiểm Hà Nội - Năm 2001.
8. Hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới - Bảo Việt Hà Nội.
Mục lục
Trang
Danhmục
Bảng Trang
Bảng 1: Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tai nạngiao thông của
xe ôtô ......................................................................................... 4
Bảng 2: Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ôtô của Bộ tài chính.................... 17
Bảng 3: Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ôtô không tính khấu hao thay
mới .. .......................................................................................... 18
Bảng 4: Mức miễn thường và tỷ lệ giảm phí ........................................... 19
Bảng 5: Tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại
Công ty bảo hiểm Hà Nội giai đoạn 1997- 2001......................... 43
Bảng 6: Tình hình giám định nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại
Công ty bảo hiểm Hà Nội giai đoạn 1997-2001......................... 49
Bảng 7: Tình hình giải quyết bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe
ôtô tại Công ty bảo hiểm Hà Nội giai đoạn 1997-2001.............. 53
Bảng 8: Tình hình giải quyết hồ sơ khiếu nại nghiệp vụ bảo hiểm vật
chất xe ôtô tại Công ty bảo hiểm Hà Nội giai đoạn 1997-2001... 56
Bảng 9: Tình hình đề phòng và hạn chế tổn thất của Công ty bảo hiểm
Hà Nội giai đoạn 1997-2001....................................................... 62
Bảng 10: Công tác tuyên truyền quảng cáo nghiệp vụ bảo hiểm vật chất
xe ôtô tại Công ty bảo hiểm Hà Nội giai đoạn 1997-2001......... 63
Bảng 11: Bảng tổng hợp tình hình kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm
vật chất xe ôtô tại Công ty bảo hiểm Hà Nội
giai đoạn 1997-2001................................................................... 66
Sơ đồ
Sơ đồ 1: Sơ đồ mô hình tổ chức của Công ty bảo hiểm Hà Nội................ 34
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33845.doc