Một số kiến nghị & giải pháp trong công tác đào tạo & bồi dưỡng lực lượng lao động trong nền Kinh tế thị trường

Lời nói đầu Cùng với sự phát triển không ngừng về mọi mặt của thế giới kể từ Đại hội VI của Đảng ta đến nay nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là sự đổi mới hết sức quan trọng có tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh tế xã hội trong đó có vấn đề đào tạo và bồi dưỡng lực lượng lao động. Khi bước sang cơ chế thị trường thì nhiều điều kiện mới xuất hiện như khu công nghiệp, khu chế xuất và trong cá

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số kiến nghị & giải pháp trong công tác đào tạo & bồi dưỡng lực lượng lao động trong nền Kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c doanh nghiệp cũng đầu tư máy móc thiết bị hiện đại vì vậy nhu cầu đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề cho các loại lao động là một đòi hỏi thường xuyên. Vấn đề đào tạo mới, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động là vấn đề vừa mang tính trước mắt vừa mang tính lâu dài cần được nhà nước và các doanh nghiệp cùng các cơ quan chức năng quan tâm. Được sự giúp đỡ và hướng dẫn của Thầy em đã lựa chọn đề án: “ Một số kiến nghị và giải pháp trong công tác đào tạo và bồi dưỡng lực lượng lao động trong nền kinh tế thị trường” Do điều kiện thời gian và khả năng có hạn đề án trình bày ba nội dung chính: Phần I : Lý luận về lao động và việc làm Phần II: Thực trạng lao động và đào tạo bồi dưỡng lao động Phần III: Những giải pháp và kiến nghị trong công tác đào tạo và bồi dưỡng lao động. Qua đây em xin chân thành cảm ơn Thầy Nguyễn Văn Duệ đã hướng dẫn em hoàn thành đề án này. Phần I: Lý luận chung về lao động và việc làm I/ Khái niệm nguồn lao động, việc làm và thất nghiệp: 1. Nguồn lao động: * Nguồn lao động ở nước ta bao gồm số người đang trong độ tuổi lao động mà có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế đang có làm việc. Như vậy bộ phận chính của nguồn lao động là những người đang làm việc và những người thất nghiệp. * Sự hình thành nguồn nhân lực (lao động): người ta chia ra ba khái niệm a) Nguồn lao động là một bộ phận của dân số, bao gồm những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái làm việc hay không làm việc. Và những người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế đang làm việc. Khái niệm này gọi là dân số hoạt động. b) Nguồn nhân lực (lao động) tham gia hoạt động kinh tế: Đây là số người có công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế văn hóa của xã hội. c) Nguồn nhân lực dự trữ: Nguồn này trong nền kinh tế bao gồm những người nằm trong độ tuổi lao động, nhưng vì các lý do khác nhau, họ chưa có việc làm ngoài xã hội. Số người này đóng vai trò của người dự trữ về nhân lực, gồm có: + Những người nội trợ trong gia đình: + Những người tốt nghiệp ở các trường phổ thông và các trường chuyên nghiệp được coi là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực ở độ tuổi thanh niên, có học vấn, có trình độ chuyên môn. + Những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự cũng thuộc nguồn lực dự trữ có khả năng tham gia hoạt động kinh tế. + Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp. * Nguồn lao động đóng vai trò đầu vào quan trọng trong quá trình sản xuất. 2. Việc làm: Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế xã hội và nhân khẩu, nó thuộc loại những vấn đề chính yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động liên quan chặt chẽ với nhau nhưng không hoàn toàn giống nhau. Việc làm nó thể hiện mối quan hệ giữa con người với những chỗ làm việc cụ thể là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về giác độ kinh tế việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất giữa yếu tố con người và quá trình sản xuất. Theo thông tư hướng dẫn về điều tra người chưa có việc làm của liên bộ lao động - Tổng cục thống kê năm 1996 thì khái niệm “việc làm” được nêu như sau: “Việc làm là những lao động có ích mà không bị pháp luật ngăn cấm nhằm đem lại thu nhập cho gia đình” Khái niệm việc làm đầy đủ được hiểu là sự thỏa mãn đầy đủ về nhu cầu việc làm của các thành viên có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. 3. Thất nghiệp: * Thất nghiệp là người không có việc làm và đang tìm việc làm (người) * ở nước ta hiện nay thất nghiệp đang gắn liền với các hiện tượng: a) Thất nghiệp hữu hình, tức là người có sức lao động, muốn tìm việc làm nhưng không tìm được trên thị trường. b) Thất nghiệp trá hình dưới nhiều dạng tức là làm việc nhưng năng suất lao động quá thấp, không góp phần ra sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân đáng kể, mà chỉ cốt lấy thu nhập lấy từ tái phân phối để sống (dưới mức sông tối thiểu) hoặc ẩn náu trong biên chế, các cơ quan quản lý nhà nước, các xí nghiệp quốc doanh quá nhiều so với yêu cầu của công việc. c) Thiếu việc làm ở nông thôn do nguồn nhân lực ngày càng đông nhưng diện tích canh tác chỉ có hạn, tính theo đầu người ngày càng ít đi. d) Thất nghiệp diễn ra một cách phổ biến do tổng mức cầu về lao động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân thấp hơn mức đáng kể. Nguyên nhân của tình hình thất nghiệp này là do nền kinh tế chậm phát triển thêm vào đó lại bị ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh, dân số và nguồn lao động tăng hàng năm với tốc độ cao, chính vì vậy trong số những người thất nghiệp hiện nay phần lớn là thanh niên mới bước vào độ tuổi lao động, một số khác không nhỏ là những người thất nghiệp tự nguyện ngoài ra thất nghiệp theo mùa ở nước ta cũng đáng kể. II/ Sự cần thiết của đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề cho người lao động * Trình độ lành nghề của người lao động thể hiện mặt chất lượng của sức lao động. Nó biểu hiện sự hiểu biết về lý thuyết kỹ thuật của sản xuất và kỹ năng lao động để hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định, thuộc một nghề một chuyên môn nào đó. Trình độ lành nghề có liên quan chặt chẽ với lao động phức tạp. Lao động có trình độ tay nghề là lao động có chất lượng cao hơn, là lao động phức tạp hơn. Trong một thời gian, lao động lành nghề thường tạo ta một giá trị lớn hơn so với lao động giản đơn, trình độ lành nghề biểu hiện ở tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật (đối với công nhân) và tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức nhà nước tức là tiêu chuẩn về trình độ học vấn, chính trị, tổ chức, quản lý... để đảm nhận các chức vụ được giao (đối với cán bộ chuyên môn). * Để đạt tới trình độ lành nghề nào đó, trước hết phải đào tạo trình độ lành nghề cho nguồn lực tức là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao động để họ nắm vững một nghề, một chuyên môn bao gồm cả người đã có nghề, chuyên môn rồi hay họ để làm nghề chuyên môn khác. Cùng với đào tạo để nâng cao năng suất lao động cần phải quan tâm nâng cao trình độ tay nghề cho nguồn lực tức là giáo dục, bồi dưỡng cho họ hiểu biết thêm những kiến thức, kinh nghiệm sản xuất và nâng cao thêm khả năng làm được trong giới hạn nghề, chuyên môn họ đang đảm nhận. Đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Sự đầu tư của nhà nước, trình độ văn hóa của nhân dân, trang bị cơ sở vật chất của nhà trường. Để đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề cho nguồn nhân lực có hiệu quả cần phân biệt sự khác nhau giữa nghề và chuyên môn. Nghề là một hình thức phân công lao động. Nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định như nghề mộc, nghề cơ khí. Chuyên môn là hình thức phân công lao động sâu sắc hơn do sự chia nhỏ của nghề. Do đó nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết và thói quen trong phạm vi hẹp, sâu hơh. Một nghề thường có nhiều chuyên môn như nghề mộc có mộc mẫu, mộc làm nhà; nghề cơ khí có tiện, phay, bào... Việc đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động là sự cần thiết, vì hàng năm nhiều thanh niên bước vào tuổi lao động nhưng chưa được đào tạo một nghề, một chuyên môn nào, ngoài trình độ văn hóa phổ thông, không những vậy nền kinh tế mở cửa, nhiều thành phần kinh tế hoạt động, cơ cấu công nghệ thay đổi, sản xuất càng phát triển trong điều kiện cách mạng, khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ, phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, nhiều nghề chuyên môn cũ thay đổi, nhiều nghề chuyên môn mới ra đời. Từ đó, đòi hỏi trình độ lành nghề của nguồn nhân lực cần phải được đào tạo, nâng cao thêm cho phù hợp với yêu cầu của sản xuất, đào tạo và nang cao lành nghề cho người lao động cần phải phối hợp chặt chẽ với giáo dục phổ thông, trường dạy nghề, trung học và đại học về các mặt. Đồng thời phải có những cơ cấu thích hợp và những biện pháp khác nhau đối với việc đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề cho công nhân kỹ thuật cán bộ chuyên môn về xác định nhu cầu hình thức và hiệu quả của nó. Hiện nay, ở nước ta, đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động là một đòi hỏi cấp thiết. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay cần đặc biệt chú ý đến đào tạo công nhân kỹ thuật cho các thành phần kinh tế. Phần II: Thực trạng đổi ngũ lao động ở nước ta I/ Thực trạng đội ngũ lao động ở nước ta Thời kỳ trước đổi mới (trước năm 1986) 1. Về số lượng lao động: Trước năm 1986 lực lượng lao động nước ta rất dồi dào do tốc độ tăng dân số nhanh sau chiến tranh nhất là thời kỳ 1954-1984 do vậy nguồn lao động nước ta đang trong thời kỳ tăng cao nhất mà các nhà kinh tế học thế giới đã kết luận “có nguy cơ không sử dụng hết lao động” Nhịp độ tăng bình quân hàng năm dân số - nguồn lao động trong các thời kỳ 5 năm Bảng 1: Thời kỳ 1961-1975 1976-1980 1981-1990 - Tốc độ tăng dân số (%) 3,05 2,45 2,15 - Tốc độ tăng NLĐ (%) 3,2 3,37 3,05 Về mức tuyệt đối nếu 5 năm 1976-1980 bình quân mỗi năm tăng thêm 75-80 vạn người trong độ tuổi lao động; 5 năm từ 1981-1985 là 85-90 vạn người(1) Thị trường lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam (UBKH nhà nước - Trung tâm thông tin) tr.28 (*) nt tr.48 Năm 1975 tổng số lao động trong khu vực nhà nước có 1761 ngàn người chiếm 8,2% tổng số lực lượng lao động. Sang năm 1976 đã tăng lên 2475,3 nghìn người chiếm 11,05 tổng số lao động (so với 1975 tăng thêm 714,3 nghìn người chiếm 12,5% tổng số lao động xã hội (so với 1976 đã tăng thêm 840,2 nghìn người và chiếm tỷ trọng 13% tổng số lực lượng lao động xã hội (so với 1980 tăng thêm 551,4 nghìn người). Còn nước ta ở tình trạng phân công lao động thấp nhất lao động nông nghiệp không những tăng tuyệt đối từ 15,11 triệu người năm 1980 lên 18,81 triệu người năm 1985, mà tăng cả tỷ trọng từ 69,84% năm 1980 lên 72,26% năm 1985. Lao động công nghiệp tỷ trọng tăng không đáng kể (từ 10,39% lên 10,76%), lao động các ngành khác tỷ trọng rất thấp và giảm (19,77% xuống 16,98%). Bảng 2 cho thấy hiện trạng phân bổ lao động theo ngành nước ta từ năm 1976-1988. Trong cả thời kỳ tốc độ tăng nguồn lao động bình quân năm là 3,15%, riêng lao động nông nghiệp tăng 3,29%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp tăng từ 7,1% xuống 6,9%. Nếu tính cả thời kỳ 1976-1988 thì đó là bước thụt lùi đáng kể về phân công lao động xã hội ở nước ta (riêng 3 năm 1986-1988, thời kỳ bắt đầu đổi mới, các quan hệ tỷ lệ phân bố lao động, đã có chuyển biến tốt lên, mặc dù còn chậm. Trong đó tỷ trọng lao động nông nghiệp đã giảm từ 72,3% năm 1985 xuống 72,2% năm 1988) Nhìn chung lao động phân bố giữa các ngành kinh tế mất cân đối. 2. Về chất lượng lao động: - Thứ nhất là về chất lượng lao động quản lý: Trong một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, mọi việc đều được thực hiện theo kế hoạch đã được nhà nước giao đều được thực hiện theo kế hoạch đã được nhà nước giao từ mặt hàng sản xuất, ngân sách, biên chế và lương, lực lượng lao động, vật tư, các điều kiện sản xuất ... cho đến việc tiêu thụ sản phẩm. Trong một cơ chế như vậy, người quản lý trở nên thụ động, máy móc, thiếu sáng tạo. Việc quản lý chỉ xoay quanh mọi biện pháp để thực hiện kế hoạch nhà nước giao. Mặt khác đội ngũ cán bộ quản lý của nước ta trước thời kỳ đổi mới chưa được qua các trường lớp đào tạo về quản lý mà từ đội ngũ cán bộ chủ yếu đảm đương nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc sang đội ngũ cán bộ chủ yếu làm nhiệm vụ quản lý. - Thứ hai là chất lượng của lao động kỹ thuật, công nhân lành nghề không những không được nâng cao mà còn bị mai một đi do cơ chế quản lý tập trung sản phẩm làm ra theo chỉ tiêu dù tốt hay xấu đều được phân công hết. Từ đó ta thấy kỹ năng của công nhân không được phát huy, tay nghề bị mai một đi và công nhân không có tính sáng tạo. Mặt khác chế độ đào tạo công nhân theo chế độ tuyển dụng suốt đời sẽ không tạo ra động lực để công nhân tự nâng cao trình độ tay nghề của mình. Công tác tuyển dụng và công tác đào tạo không theo đúng yêu cầu. Chỉ cần học qua các trường là được nhận vào công tác không kể đó là nghề đào tạo là gì. Chính vì vậy chất lượng lao động không cao (do làm không phù hợp với ngành nghề đào tạo). Thêm vào đó là thông tin về mọi mặt phục vụ sản xuất kinh doanh quản lý kinh tế không được mở rộng, không đáp ứng được nhu cầu mà chịu sự bưng bít của kế hoạch hóa tập trung. Do vậy không có sự học hỏi từ các nước đi trước. Đấy chính là sự thể hiện mặt hạn chế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung. 3. Về chính sách bồi dưỡng đào tạo các loại hình lao động: Trước đổi mới, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến 90% dân số mù chữ sau khi dành được chính quyền, Đảng và Bác Hồ đã ra quốc sách là diệt giặc đói, giặc dốt. Các lớp bình dân học vụ và các lớp bồi dưỡng văn hóa lần lượt được mở và phổ cập trong dân, nâng cao trình độ dân trí nói chung, trình độ cán bộ công nhân lao động nói riêng. Hình thức này được duy trì khá lâu cho mãi tới những năm 1970. Đặc biệt trong những năm 50 hình thành trường bổ túc công nông, tuyển chọn những người đã có kinh nghiệm chiến đấu, bồi dưỡng cấp tốc trình độ văn hóa cần thiết cử đi đào tạo hoặc đào tạo lại nghề phục vụ cho nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Hầu hết cán bộ, công nhân kỹ thuật khoảng tuổi 50,60 hiện nay là những lớp người được đào tạo lại, bồi dưỡng trong thời kỳ đó. Năm 1958-1975, đây là thời kỳ bao cấp các chính sách được áp dụng chủ yếu cho khu vực nhà nước, khu vực quốc doanh. Tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng các chính sách này là tập trung phục vụ cho việc xây dựng đội ngũ công nhân lao động cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý... đáp ứng yêu cầu xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Năm 1964 Thủ tướng chính phủ có thông tư số 2/TTg qui định về chế độ bổ túc tại chức ngoài giờ là chính, theo nguyên tắc làm ngành nào học ngành ấy kém lý thuyết thì bổ túc thêm lý thuyết, yếu tay nghề thì bổ túc tay nghề. Đến 1973 Bộ Lao động cũng ra thông tư số 1844 LĐ-TL “hướng dẫn công tác bổ túc kỹ thuật nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân”. Đối với việc bồi dưỡng cán bộ quản lý, Ban Bí thư trung ương Đảng đã quy định các trường Đảng cao cấp cần tăng nhanh thành phần công nhân để đào tạo thành cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý. Các lớp đào tạo cán bộ lãnh đạo cán bộ quản lý, chiêu sinh các trường Đảng cấp tỉnh bảo đảm từ 5-10%, trường Đảng cao cấp Nguyễn ái Quốc từ 25-30% thành phần công nhân cán bộ quản lý các ngành như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất, xây dựng, bảo dảm tỷ lệ 40-50% cán bộ thành phần công nhân. Những Bộ, Tổng cục tập trung công nhân cần có kế hoạch đào tạo và đề bạt, đồng thời cung cấp cho trung ương một số cán bộ thành phần công nhân. Tuy nhiên chính sách bồi dưỡng đào tạo lao động vẫn còn những tồn tại: - Vấn đề bồi dưỡng đào tạo lại chưa thực sự được coi là một chính sách quốc gia quan trọng, không có một kế hoạch tổng thể, chưa có những chính sách mang ý nghĩa chiến lược mà còn manh mún thiếu đồng bộ. - Việc thực hiện ở các ngành, các địa phương, các cơ quan xí nghiệp còn tùy tiện, do đó chất lượng chưa cao. - Mặt khác chưa có những chính sách chế độ phù hợp để khuyến khích người dậy, người học do đó việc bồi dưỡng đào tạo lại kém hiệu quả. 4. Về việc tuyển dụng lao động qua đào tạo Chính sách tuyển dụng dựa trên quan điểm là “sử dụng hết nguồn lao động đã qua đào tạo” vào khu vực nhà nước, đã đào tạo là được phân công công tác, càng làm cho số lượng lao động kỹ thuật được tuyển dụng vào làm việc tại các cơ quan xí nghiệp nhà nước, nhà nước tăng lên nhanh chóng. Bảng 3: Số lượng lao động có đào tạo tuyển dụng vào khu vực nhà nước từ 1975-1985 STT Lao động kỹ thuật tuyển 1975 1985 1 Trên đại học 2.179 5.000 2 Đại học và tương đương 136.000 400.000 3 Trung học chuyên nghiệp 325.000 760.000 4 Công nhân kỹ thuật 1.000.000 1.500.000 (Nguồn: Niên giám thống kê 1975, 1985 của TCTK) Thực hiện chính sách tuyển dụng theo nghị định 24/CP ở giai đoạn trước 1986, mặc dù đã đạt được yêu cầu về mặt số lượng, nghĩa là đã tuyển dụng được một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo cung cấp cho các ngành nhưng nhìn chung việc phân bổ sử dụng ở giai đoạn này chưa đều, mất cân đối giữa các ngành, các cấp giữa địa phương và thành phố lớn và vùng xa xôi hẻo lánh. Bảng 4: Phân bố không đều lao động khoa học kỹ thuật giữa các ngành (số liệu 1982) TT Ngành LĐ có trình độ TNCN sơ học và nghiệp vụ LĐ có trình độ đại học và trên Toàn bộ nền KTQD khu vực 697 254 1 Các ngành sản xuất vật chất 209 67 - Công nghiệp 69 24 - Xây dựng 43 15 - Nông, lâm, ngư 33 8 - Vận tải, bưu điện 19 7 - Thương nghiệp, vật tư 42 11 2 Phi sản xuất vật chất 488 187 - Nghiên cứu khoa học 22 13 - Giáo dục - đào tạo 316 117 - Quản lý nhà nước 80 38 (Nguồn: từ niên giám thống kê 1982 và báo cáo của Bộ xây dựng) Qua số liệu trên cho thấy mặc dù tỷ lệ giữa số lượng cán bộ khoa học kỹ thuật nghiệp vụ có trình độ cao nhất là cán bộ nghiên cứu khoa học trên một vạn dân nước ta so với các nước phát triển là quá thấp nhưng về cơ cấu phân bố thì bất hợp lý . Tỷ lệ loại cán bộ này ở khu vực nhà nước còn quá cao so với ngành, lĩnh vực khác . Mặt khác theo kết quả điều tra của chúng tôi thì tỷ lệ lao động khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề sử dụng không phù hợp với đào tạo là 14,2% đây là tỷ lệ khá lớn, nói lên việc sử dụng loại lao động này còn tùy tiện, làm cho cán bộ công nhân viên không phát huy được năng lực, trình độ kinh nghiệm công tác II.Thực trạng lao động sau đổi mới (sau 1986) đến nay. 1. Những điều kiện mới đòi hỏi người lao động Thứ nhất là khi bước sang cơ chế thị trường , nó đã tác động mạnh mẽ đến mọi người lao động. Sức lao động trở thành hàng hóa đã dẫn đến việc chấp nhận sự cạnh tranh trong thị trường lao động, và bởi vậy người lao động muốn có việc làm phải không ngừng học tập nâng cao trình độ để khỏi tụt hậu,đấu tranh để luôn là “món hàng “ có chất lượng hàng đầu . Sự cạnh tranh gay gắt trong mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường đòi hỏi lao động phải hết sức năng động và phải không ngừng hoàn thiện kiến thức và kỹ năng lao động của mình để đáp ứng được với nhu cầu của thị trường đang không ngừng biến đổi. Trong cơ chế thị trường không chỉ cần có kiến thức và kỹ năng lao động nghề nghiệp cón phải có tư duy kinh tế phải biết “cách làm ăn” và phải biết tự tìm lấy công ăn việc làm . Cơ chế thị trường đòi hỏi người quản lý tìm hiểu thị trường tìm đầu vào, tìm đầu ra, tìm kiếm và bố trí các nguồn lực để hoạt động, phải luôn thay đổi mẫu mã, mặt hàng cho phù hợp với nhu cầu thị trường . Bởi vậy, đòi hỏi nhà quản lý phải luôn năng động sáng tạo Chủ trương “mở cửa” của nhà nước, đây là điều thuận lợi cung cấp thông tin phục vụ sản xuất kinh doanh, và có thêm nhiều máy móc thiết bị hiện đại thông qua các hình thức chuyển giao công nghệ, Trong khi đó đội ngũ lao động hiện nay của chúng ta hầu như chưa đủ trình độ và phong cách để giao lưu, làm ăn với các công ty của các nước cũng như để xây dựng một nền sản xuất, dịch vụ hiện đại của nhà nước trong cơ chế thị trường. Do vậy, việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ lao động hiện có đang là một vấn đề cấp bách và nóng hổi hiện nay. Đòi hỏi của sản xuất kinh doanh trong những năm tới (đến năm 2000 và 2010) đối với đội ngũ lao động ở các doanh nghiệp nước ta là: đạt tỷ lệ cân đối hơn về số lượng giữa các loại lao động kỹ thuật và nâng cao chất lượng để có thể vận hành sản xuất kinh doanh trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế thế giới. Như vậy yêu cầu đối với đội ngũ công nhân kỹ thuật có hiểu biết kỹ thuật, và kỹ năng cao, có sức khỏe để vận hành được các máy móc và phương tiện tiên tiến có đạo đức lao động tốt. Còn yêu cầu đối với đội ngũ lao động quản lý là: có kiến thức chuyên môn, kỹ thuật và kiến thức quản lý hiện đại, có ngoại ngữ đủ để giao tiếp bình thường trong công việc, thành thạo các kỹ năng quản lý hiện đại, có đạo đức lao động và đạo đức kinh doanh tốt. 2. Thực trạng nguồn nhân lực. Hiện nay giữa thực trạng nguồn nhân lực so với yêu cầu đặt ra ở nước ta cồn một khoảng cách quá xa0, có thể nêu thực trạng nguồn lao động trong các doanh nghiệp hiện nay như sau: Một là, đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề còn rất thiếu so với nhu cầu ( hiện nay chỉ có 13% so với tổng số lao động) và đang tồn tại mất cân đối nghiêm trọng về tỷ lệ giữa các loại lao động kỹ thuật (tỷ lệ thực tế là một kỹ sư/1,6 trung cấp và 3 công nhân, trong đó ở các nước phát triển, tỷ lệ này là một kỹ sư / 3 trung cấp và 10 công nhân. Việc hình thành các khu công nghiệp khu chế xuất ngày càng tăng thêm tình trạng đó . Về nguồn lao động theo kết quả điều tra của Bộ lao động - thương binh và xã hội năm 1996, số người trong độ tuổi lao động và là nhân khẩu thường trú từ 15-60 tuổi có 48,4 triệu người trong đó nhóm tuổi từ 15-24 có 13,7 triệu và nhóm từ 25-34 có 11.6 triệu . Xét về lực lượng lao động về chuyên môn kỹ thuật và công nghệ trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân, thì trong tổng số 35,8 triệu ngươì ( trong độ tuổi lao động) số có trình độ trên đại học là 11.561 người , cao đẳng và đại học 816.098 người công nhân có trình độ sơ cấp 636,246 người và số không có trình độ chuyên ôn kỹ thuật , là lao động giản đơn gồm 31.452198 người. Xét về phân bố số lao động này cho thấy , ở khu vực đô thị, trên đại học có 9176 người , ở nông thôn chỉ có 2.393 người ( đô thị gấp 4 lần so với nông thôn). Số cao học và đại học ở đô thị có 560.097 người. còn ở nông thôn chỉ có 256.008 người ( đô thị gấp 2 lần nông thôn) . Số công nhân kỹ thuật có bằng cấp ở đô thị là 444.692 người ( số này chênh lệch không lớn giữa 2 khu vực ). Trong khi đó số người có trình độ chuyên môn sơ cấp ở đô thị chỉ có 183.418, còn ở nông thôn lại tới 452.831 người . Tổng số lao động giản đơn ở nông thôn có tới 26.771.862 người , trong khi ở đô thị chỉ là 4680333 người ( nông thôn gần gấp 6 lần đô thị) Từ thực tế trên ta có nhận xét sau: - So với trước đây , số lao động kỹ thuật có tay nghề chuyên môn cao trong phạm vi cả nước đã tăng nhiều về số lượng và chất lượng , đặc biệt là số công nhân kỹ thuật trong nhóm tuổi trẻ từ 20-34 tuổi. - Có sự phân bố không đều hoặc mất cân đối giữa nông thôn và đô thị - Số có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học tuy đã tăng lên nhiều về số lượng nhưng thực tế chưa đáp ứng đủ yêu cầu cho CNH,HĐH. - Riêng số công nhân kỹ thuật hoặc số cán bộ kỹ thuật trung cấp đã tăng lên về số lượng nhưng cũng còn qúa ít so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt có sự mất cân đối giữa cán bộ đại học, cán bộ trung học dvà công nhân kỹ thuật. Hai là, trình độ tay nghề của công nhân nói chung còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu vận hành máy móc kỹ thuật hiện đại để có thể cho ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới ( số công nhân bậc 1 bậc 2 chiếm 51% so với tổng số công nhân , số công nhân bậc cao cũng chưa có tay nghề thực tế tương xứng với cấp bậc) Ba là,thái độ chấp hành kỷ luật lao động của công nhân còn kém, công nhân chưa quen với tác phong công nghiệp và đặc biệt, ở nhiều doanh nghiệp công nhân có tâm lý không muốn nâng bậc( vì nếu nâng bậc phải làm công việc bậc cao hơn sẽ không đảm bảo năng suất, thu nhập sẽ bị giảm) Bốn là, đội ngũ lao động quản lý tuy không thấp về trình độ sản xuất nhưng năng lực thực tế cũng chưa tương xứng, chưa đáp ứng được nhu cầu của công việc hiện tại; chưa được trang bị kiến thức quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường; chưa được đào tạo để có được những kỹ năng quản lý hiện đại; tác phong làm việc về cơ bản là chưa thay đổi. Năm là, đội ngũ quản lý cấp cao của doanh nghiệp ( giám đốc) chưa thực sự hướng tới đổi mới, một phần rất lớn ( 49%) còn chưa qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý. Trong khi đó, công tác đào tạo và phát triển nhân lực ở các doanh nghiệp trong những năm qua lại rất ít được quan tâm chỉ có một số ít doanh nghiệp nhận thức được vai trò của đào tạo và phát triển, còn hầu hết các doanh nghiệp bỏ lơi công tác này. Tình hình phổ biến ở nhiều nơi là cắt giảm chi phí đào tạo, hình thức đào tạo nghèo nàn, công tác thì nâng bậc ít được thực hiện. Việc cử người đi học ở các trường lớp chính quy còn nặng nề hình thức, bằng cấp còn chưa thực sự có hiệu quả về sử dụng cán bộ chưa tạo ra được động lực về vật chất để thúc đẩy người lao động tham gia đào tạo. 3. Công tác đào tạo giáo dục . Công tác đào tạo giáo dục ở các cơ sở giáo dục đào tạo cũng còn nhiều tồn tại. Trước hết là sự mất cân đối đào tạo (nguyên nhân của sự mất cân đối trong tỷ lệ giữa các loại lao động kỹ thuật hiện nay). Trong những năm qua, số trường đại học (cả công lập và dân lập) đã gia tăng rất nhiều, trong khi các trường đào tạo và dạy nghề càng ít dần: sau 10 năm trong cả nước số trường dạy nghề đã giảm từ 360 xuống còn 174 trường (chủ yếu là giao thông vận tải, in, cơ khí xây dựng hóa chất 244 trường trung cấp chuyên nghiệp và hơn 500 trung tâm dạy nghề ( may mặc , sửa chữa xe máy, ti vi, vi tính , nghiệp vụ văn phòng...) Với hệ thống các trường và cơ sở dạy nghề như trên, ở đây chưa đề cập tới việc phải tăng thêm số trường lớp hoặc cơ sở dạy nghề mà cần phải xem xét lại việc dạy nghề đã gắn với thực trạng đòi hỏi nền kinh tế hay chưa . Trước hết ở khu vực đô thị và khu công nghiệp: có thể thấy rất rõ là khả năng đáp ứng của lực lượng lao động trẻ cho nhu cầu của các khu công nghiệp tập trung còn rất hạn chế . Ví dụ như khu công nghiệp nhà bè, Thủ đức hoặc Tân thuận (thành phố Hồ chí Minh) , số lao động địa phương mới chỉ đáp ứng được 2/3 , só còn lại phải tuyển nơi khác . Hoặc đa số lao động kỹ thuật đang làm việc ở khu công nghiệp Nội bài, Sài Đồng ( Hà nội) là từ nơi khác đến, trong khi lao động địa phương lại dư thừa do không cótrình độ văn hóa ( tối thiểu là học hết cấp III), chưa được đào tạo nghề và công nghệ tiên tiến để có thể đáp ứng được về lao động kỹ thuật. Mặt khác, cũng cần phải có chính sách cụ thể mang tính khuyến khích đối với số lao động trẻ có trình độ tay nghề cao trở về quê nhà hoặc các vùng nông thôn tham gia lao động sản xuất trong các ngành kinh tế địa phương, góp phần giảm bớt sự tập trung ở các đô thị lớn hiện nay. Thực tế có hàng chục ngàn sinh viên sau khi ra trường không về quê làm việc, như ở Tiền giang từ 1994-1997 có tới 6.070 sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng năm 1995 chỉ có 35 người , năm 1996 chỉ có 12 người về tỉnh công tác số còn lại ở lại thành phố Hồ chí Minh tìm việc làm. Tương tự, ở Bến tre có trên 2.784 sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng chỉ có vài chục người trở về quê, hoặc ở Bình định từ 1994-1996 cũng chỉ có vài chục về quê làm việc trong tổng số hơn 6000 tốt nghiệp đại học. ở Hà nội nơi tập trung nhiều trường đại học, hàng năm cũng có tới hàng chục nghìn sinh viên tốt nghiệp ở lại tìm việc... Một số vấn đề khác nữa là việc đào tạo nghề ở nước ta hiện nay còn manh mún. tản mạn, nhưng chưa theo một quy trình mang tính chiến lược lâu dài trong việc tạo lập một đội ngũ lao động kỹ thuật và công nghệ để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế. Mặc dù việc dạy nghề ở các Bộ, ngành vẫn đang tiến hành nhưng khi ra trường vẫn có sự mất cân đối giữa nhu cầu và việc làm. Về khía cạnh tự tạo việc làm một số cơ sở dạy nghề còn đáp ứng được , nhưng khi nhu cầu đòi hỏi có kỹ thuật cao hơn phù hợp với dây chuyền công nghệ hiện đại thì lại hoàn tòan không thỏa mãn hoặc phải đào tạo lại. Chính việc đào tạo như vậy vừa gây tốn kém cho người học, vừa tốn khoản thời gian của việc dạy nghề mà hiệu quả chưa cao và không thiết thực. ở khu vực nông thôn: Những đòi hỏi của CNH-HĐH nông thôn cũng đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật và công nghệ. Hiện nay công nghệ và tiểu thủ công nghiệp nông thôn đang có xu hướng phát triển, tuy nhiên quy mô và thiết bị sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm còn nhiều mặt hạn chế , lựcu lượng lao đông , kỹ thuật và công nghệ nông thôn rất cần đào tạo lại vì tổng số 31,8 triệu lao động ở khu vực này hiện có tới 29,4 triệu chưa qua đào tạo. Đa số thợ trong các cơ sở sản xuất là do kèm cặp, tự học và tích lũy kinh nghiệm. Nếu đặt vấn đề là tới đây đổi mới công nghệ quy mô sản xuất hoặc cải tiến các quy trình công nghệ quy mô sản xuất hoặc cải tiến các quy trình công nghệ và kỹ thuật tiên tiến hơn hiện đại hơn thì số lao động cũ và mới sẽ đào tạo ở đâu học nghề như thế nào và chương trình dạy nghề cho lao động trẻ nông thôn ra sao? Đây có thể xem là một vấn đề bức xúc trong chương trình dạy nghề cho thanh niên nông thôn trong thời gian tới mà không thể không đề cập. Trong cơ chế thị trường, việc đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật nếu chỉ tập trung vào khu vực kinh tế nhà nước như trước đây thì không thể bảo đảm được do hạn chế kinh phí. Từ thực tế đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật trẻ hiện nay, ta thấy nổi lên một số tình hình sau đây: Một là, hầu hết số thanh niên có khả năng ( cả về kinh tế lẫn học lực ) đều muốn vào đại học và tiếp tục học cao hơn. Tâm lý chung là không muốn học trung học kỹ thuật. Hậu quả như đã nói là nhiều nơi, nhiều lúc cán bộ có trình độ đại học lại nhiều hơn cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật bậc cao . Hai là, sự phân biệt giữa hệ thống đào tạo trung cấp và công nhân kỹ thuật còn chưa rõ ràng. Sự không phân biệt đó, hiện ở mức lương gần như tương đồng (thậm chí cán bộ kỹ thuật trung cấp còn thấp hơn công nhân) , ngoài ra công việc đôi khi lại rất giống nhau (trừ một số ngành y dược...) từ đó dẫn đến tâm lý đối với học sinh trẻ là học công nhân kỹ thuật bậc cao hơn là đi trung cấp, vì thời gian đào tạo gần như nhau, công việc đôi khi lại tốt hơn cho bản thân sau khi ra trường và hành nghề. Ba là, hệ thống quản lý nâng bậc kỹ thuật và đào tạo lại công nhân còn chậm đổi mới và không linh hoạt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường. Vì sự đòi hỏi ở người công nhân hiện đại không chỉ ở tay nghề mà còn ở thể lưc, vì điều đò có liên quan đến chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm . Bốn là, trong đội ngũ công nhân kỹ thuật và công nghệ của ta hiệnu nay còn có nhiều người mù chữ và chưa có bằng cấp. Thực tế , ở tất cả các nướ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0163.doc
Tài liệu liên quan