Một số khuyến nghị nhằm đẩy nhanh tốc độ Cổ phần hóa

Lời nói đầu. Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (Tháng 12/1986), cơ cấu nền kinh tế nước ta từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó, khu vực kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng lại hoạt động kém hiệu quả đã kìm hãm sự phát triển nền kinh tế đất nước. Trong cơ chế quản lý mới, hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của các doanh nghiệp Nhà nước thì các doanh nghiệp lại lâm vào tình trạng khủng ho

doc61 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số khuyến nghị nhằm đẩy nhanh tốc độ Cổ phần hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảng. Biểu hiện rõ nhất là thiếu vốn và phương thức quản lý vốn kém hiệu quả. Để thoát khỏi sự khủng hoảng và tồn tại trong môi trường cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác doanh nghiệp nhà nước buộc phải thay đổi phương thức quản lý vốn và tạo vốn trên cơ sở phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn huy động được Việc giải quyết hai vấn đề trên thực chất là để tìm ra một mô hình tổ chức doanh nghiệp khác có khả năng thu hút vốn và quản lý vốn thích hợp với cơ chế thị trường. Công ty cổ phần là mô hình doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu về tạo vốn và quản lý vốn hiệu quả trong cơ chế thị trường. Đảng và nhà nước ta hết sức chú trọng mô hình này, coi đó là biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh Nghiệp nhà nước hiện nay. Để thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành hữu quan đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để hướng dẫn và chỉ đạo việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, qua đó từng bước xây dựng hoàn chỉnh một khung pháp luật về vấn đề này. Tuy đã đạt được những kết quả đáng khích lệ nhưng đến nay tốc độ triển khai cổ phần hoá vẫn rất chậm là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong bài khoá luận này, em xin đề cập đến những vấn đề về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và đề xuất một số giải pháp để đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá. Kết cấu của khoá luận gồm ba chương: Chương I: Một số nhận thức chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Chương II: Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hiện nay Chương III: Một số khuyến nghị nhằm đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã hết lòng hướng dẫn giúp đỡ tôi hoàn thành bài khoá luận này. Do khả năng còn hạn chế vì vậy, bài khoá luận này còn nhiều thiếu sót, rất mong các thầy, cô chỉ bảo thêm. Chương I Một số nhận thức chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. I. Khái niệm và vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường 1.Các loại hình doanh nghiệp nhà nước hiện nay Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế do nhà nước giao. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây doanh nghiệp nhà nước được bao cấp từ đầu đến cuối của quá trình sản xuất kinh doanh, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức, nên mục tiêu lợi nhuận thường được xem nhẹ. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước không bao cấp cho doanh nghiệp trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp tự phải trang trải mọi chi phí và đảm bảo kinh doanh có lãi từ số vốn đầu tư ban đầu. Đây cũng là điều kiện để các doanh nghiệp nhà nước tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của mình trong nền kinh tế thị trường. Song cũng cần nhận thấy rằng lợi nhuận không phải là mục tiêu cao nhất của các doanh nghiệp nhà nước, việc thành lập doanh nghiệp nhà nước còn vì mục tiêu xã hội. Doanh nghiệp nhà nước còn là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng vĩ mô điều khiển nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước cũng vẫn phải thực hiện những nhiệm vụ nhà nước giao vì lợi ích của toàn xã hội. Do đó, doanh nghiệp nhà nước không chỉ bao gồm các tổ chức kinh tế làm nhiệm vụ kinh doanh thu lợi nhuận mà còn bao gồm các tổ chức làm nhiệm vụ công ích. Những đề xuất trên, ta có thể thấy rằng vấn đề đầu tư vốn của nhà nước vào các donh nghiệp nhà nước cũng cần phải xem xét. Vấn đề này làm xuất hiện những ý kiến cho rằng: Thứ nhất: có cần thiết phải đầu tư 100% vốn vào các doanh nghiệp nhà nước hay không? vì trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay nhà nước rất khó khăn về vốn, đặc biệt cho lĩnh vực đầu tư phát triển nên không thể trải đều vốn ngân sách cho tất cả các doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai: doanh nghiệp nhà nước không chỉ có doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của nhà nước mà còn cả những doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước. ý kiến này đựơc đưa vào luật doanh nghiệp nhà nước bởi khi tìm hiểu về tỷ trọng vốn nhà nước trong các doanh nghiêp nhà nước trên thế giới thì cũng có ý kiến như vậy. ở nước ta, ngân sách nhà nước rất eo hẹp nên việc đầu tư toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh cho tất cả các doanh nghiệp nhà nước là không thể. Do đó, doanh nghiệp nhà nước cần phải huy động thêm vốn vào các thành phần nền kinh tế khác, nhà nước chỉ cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt hay thậm chí không cần đầu tư vốn. Với mô hình công ty cổ phần nhà nước vẫn có quyền quyết định hoạt động của các doanh nghiệp có cổ phần chi phối hay cổ phần đặc biệt trong khi đó vẫn thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác. Như vậy chúng ta có thể hình dung doanh nghiệp nhà nước không chỉ có một loại, hoạt động ở những lĩnh vực với những phạm vi và mục tiêu khác nhau. Để nâng cao hoạt động của các donh nghiệp nhà nước cũng như để thiết lập cơ chế quản lý phù hợp, chúng ta cần tìm hiểu thế nào là công ty cổ phần 2.Khái niệm về công ty cổ phần Công ty cổ phần, về bản chất nó thể hiện là một đơn vị sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công ty, hình thành và hoạt động trên cơ sở nguồn vốn đóng góp của các cá nhân và pháp nhân đồng ý cùng tham gia kinh doanh. Họ được gọi là cổ đông. Công ty cổ phần là công ty có ít nhất 3 thành viên trong suốt quá trình hoạt động. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần được phát hành các loại chứng khoán ra thị trường để công khai huy động vốn trong công chúng. Do đó sự ra đời của công ty cổ phần gắn liền với sự ra đời của thị trường chứng khoán. Do số lượng thành viên rất đông, có công ty có tới hàng vạn cổ đông ở hầu khắp thế giới. Vì vậy, nó có khả năng huy động vốn rộng rãi nhất trong công chúng để đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong công nghiệp Thông thường công ty cổ phần có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu phổ thông. Cổ phiếu ưu đãi: Đặc trưng của loại cổ phiếu này là cổ đông được hưởng mức cổ tức cố định hàng năm không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, các cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi sẽ không có quyền tham gia không có quyền tham gia bầu cử hoặc biểu quyết. Các cổ phiếu ưu đãi này không được phép chuyển nhượng. Cổ phiếu phổ thông: Còn gọi là cổ phiếu thường. Cổ đông nắm giữ cổ phiếu phổ thông sẽ được hưởng cổ tức theo tình hình hoạt động của công ty, cổ phiếu thường dược tự do chuyển nhượng trên thị trường cổ phiếu. Tuy vậy, nếu công ty cổ phẩn lâm vào tình trạng phá sản thì các cổ phiếu thường sẽ được chia tài sản cuối cùng sau khi công ty thanh toán tất cả các khoản nợ nên các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường hầu như trắng tay. Ngoài ra, công ty cổ phần còn có thể phát hành trái phiếu nhằm huy động vốn cho những chương trình đòi hỏi lượng vốn lớn mà không thể tăng thêm vốn điều lệ. Những người mua trái phiếu là chủ nợ của công ty và họ được hưởng một mức lãi suất cố định hàng năm không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần. 3.Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế hàng hoá phát triển đến giai đoạn cao tất yếu sẽ trở thành kinh tế thị trường-nền kinh tế mà trong đó, các vấn đề kinh tế cơ bản được quyết định chủ yếu bằng quan hệ cung cầu trên thị trường. Động lực phát triển của nền kinh tế thị trường là lợi ích cá nhân, thông qua lợi nhuận của người sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, cơ chế thị trường vận động một cách tự phát và các quan hệ thị trường điều tiết mọi hành vi kinh tế, hiệu quả của nền kinh tế cũng như xu hướng phát triển của nó. Nền kinh tế thị trường với đặc trưng là sự cạnh tranh khắc nghiệt đã buộc các nhà sản xuất phải luôn tìm cách tích tụ vốn nhằm tái sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu nếu muốn tránh nguy cơ phá sản và để đảm bảo thị phần của mình trên thị trường. Mặt khác lực lượng sản xuất phát triển làm cho trình độ kĩ thuật sản xuất tăng lên, quy mô sản xuất cũ không còn phù hợp trong điều kiện mới. Cùng với sự tác động của quản lý cạnh tranh tự do để có thể sản xuất trong điều kiện bình thường đòi hỏi phải có một lượng tư bản tối thiểu. Trong điều kiện sản xuất phát triển cạnh tranh ngày càng gay gắt thì một nhà tư bản bình thường không đủ khả năng đáp ứng đủ về vốn cho kinh doanh. Để có thể khắc phục được điều này các nhà tư bản vừa và nhỏ phải thoả hiệp liên kết với nhau hình thành một sức mạnh về vốn nhằm đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Hơn nữa để có thể nắm bắt nhanh chóng các cơ hội kinh doanh, tối đa hoá lợi nhuận các nhà tư bản hình thành nên công ty cổ phần nhằm thu hút được nguồn vốn kinh doanh từ mọi thành phần trong xã hội. Thuộc tính vốn có của nền sản xuất hàng hoá là rủi ro, mạo hiểm. Trong nền kinh tế thị trường sản xuất ngày càng phát triển, trình độ kĩ thuật công nghệ ngày càng cao, quy mô sản xuất ngày càng rộng dẫn đến sự cạnh tranh khắc nghiệt thì mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngày càng lớn. Công ty cổ phần là hình thức thích hợp nhất để phân tán rủi ro đến mức độ cao nhất, từ đó các nhà tư bản có thể đầu tư vốn vào các nghành nghề khác nhau và đang mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Sự xuất hiện của công ty cổ phần là một bước ngoặt cho lực lượng sản xuất phù hợp với tính chất xã hội hoá càng cao của quan hệ sản xuất. Công ty cổ phần giải quyết thành công những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường trong khi những loại hình công ty khác không thể. Công ty cổ phần có những vai trò chủ yếu sau đây: *Công ty cổ phần là hình thức tập trung vốn nhanh và lớn. Vốn là yếu tố quan trọng nhất trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Càng ngày, vốn cho sản xuất kinh doanh càng trở thành vấn đề nóng bỏng nhất là vì kĩ thuật sản xuất luôn được cải tiến, công nghệ tiên tiến ra đời ngày càng nhiều thì vấn đề tập trung vốn càng trở nên cần thiết để mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ.. . công ty cổ phần bằng việc phát hành cổ phiếu một cách rộng rãi có thể tập trung vốn nhanh chóng để thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh. Việc đầu tư vào cổ phiếu không chỉ đem lại cho cổ đông lợi tức cổ phần mà cổ đông có thể thu hút lãi lớn nhờ giá trị tiền vốn gia tăng khi đầu tư vào một công ty làm ăn phát đạt. Điều này kích thích tính năng động của người có vốn lẫn người thu hút vốn để sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, công ty cổ phần tự quyết định lấy phương án sản xuất kinh doanh của mình. Trước sức ép cạnh tranh trên thị trường cũng như việc đảm bảo lợi nhuận cho cổ đông,các công ty cổ phần phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở mức độ tốt nhất. Xét trên phạm vi xã hội, việc phát hành cổ phiếu cũng như việc tư do chuyển nhượng cổ phiếu của công ty cổ phần đả góp phần làm cho tiền vốn trong xã hội được sử dụng hợp lý. Nhờ đó, những ngành và lĩnh vực có triển vọng và phát triển sẽ thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư hơn, từ đó thúc đẩy cơ cấu tiến bộ. *Công ty cổ phần xác địng rõ quyền sở hữu tài sản và tách quyền kinh doanh, nhờ thế mà hoạt động kinh doanh có hiệu quả Khoảng cách giữa người lao động và tư liệu sản xuất mà họ sử dụng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thờ ơ của người lao đông đối với tài sản của nhà nước trong doanh nghiệp nhà nước, ở hầu hết các nước làm cho khu vực hoạt động kém hiệu quả. Công ty cổ phần là một dạng tổ chức có thể khắc phục được tình trạng này vì thành viên của công ty có quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với phần vốn góp vào công ty. Do đó, trách nhiệm của người lao động đối với các hoạt động của công ty sẽ cao hơn khi họ có cổ phần trong công ty vì họ phải bảo toàn và phát triển vốn đầu tư của họ. Kết quả hoạt động của công ty gắn liền với lợi ích của họ. Việc tách quyền sở hữu và quyền kinh doanh tạo cho nhà kinh doanh có những quyền hạn và lợi ích nhất định để tự mình đưa ra những phương án sản xuất kinh doanh năng động có hiệu quả nhất. Hội đồng quản trị với tư cách là bộ máy quản lý công ty và trực tiếp bầu ra giám đốc nhưng hội đồng quản trị không trực tiếp can thiệp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể mà chỉ quyết định những vấn đề có tính chất chiến lược lâu dài còn giám đốc có quyền tự chủ lớn trong kinh doanh để nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn. *Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính dân chủ cao. Trong công ty cổ phần, số lượng các cổ đông thường rất lớn; ít nhất cũng có 3 thành viên và nhiều nhất đến hàng triệu cổ đông. Cơ cấu tổ chức của công ty vừa đảm bảo vai trò chủ sở hữu, vừa đảm bảo cho công ty cổ phần hoạt động hiệu quả. công ty cổ phần có thể thu hút sự tham gia của số đông quần chúng nên nó trở thành tổ chức kinh tế mang tính xã hội cao và thể hiện tính dân chủ trong quản lý kinh tế. Xét về phương diện cá nhân thì sự góp vốn của người lao động trong công ty cổ phần có thể tạo cho họ tiếng nói nhất định đối với những hoạt động của công ty. Hoạt động của công ty cổ phần mang tính công khai cao đặc biệt trước toàn thể cổ đông với tư cách là chủ sở hữu. Do đó, nó tạo điều kiện cho các cổ đông có sự hiểu biết nhất định để kiểm tra tình hình hoạt động của công ty như chiến lược kinh doanh, chính sách phân phối lợi nhuận ... công khai trở thành những nội dung quan trọng thể hiện tính dân chủ trong quản lý. *Công ty cổ phần có khả năng thống nhất các lực lượng kinh tế khác nhau Với mục đích đầu tư kinh doanh nhằm thu hút lợi nhuận mà các lực lượng kinh tế tìm đến với nhau, thống nhất lực lượng tiền vốn của mỗi cá nhân thành một lực lượng thống nhất. Các nhà đầu tư khi cùng góp vốn vào một công ty sẽ là thành viên cùng một công ty. Họ sẽ trở thành những người có cùng chí hướng. *Công ty cổ phần thúc đẩy nhanh sự hình thành thị trường chứng khoán Khi các công ty cổ phần hoạt động, nó sẽ phát hành cổ phiếu để thu hút vốn đầu tư. Khi các nhà đầu tư mua cổ phiếu của công ty, họ mong muốn được hưởng lợi ích cổ phiếu cao cũng như mong muốn đồng vốn của mình bỏ ra sẽ sinh sôi nảy nở. Tuy nhiên khi họ mua cổ phiếu đầu tư vào công ty thì điều đó không có nghĩa là họ được quyền sở hữu những giấy tờ có giá trị cổ phiếu, họ phải chấp nhận những rủi ro mạo hiểm. Do đó, các nhà đầu tư cũng mong muốn hạn chế rủi ro một cách thấp nhất bằng cách đầu tư vào các lĩnh vực, nghành nghề khác nhau. Trái lại, các công ty cổ phần cũng mong muốn thu hút được nhiều vốn để phát triển. Hơn nữa, việc mua đi bán lại các cổ phiếu cũng rất cần thiết đối với nhà đầu tư. Điều nãy sẽ dẫn đến việc hình thành thị trường chứng khoán. Thông qua thị trường chứng khoán, giá mua cổ phiếu cũng được định đoạt một cách chính xác hơn, đồng thời nó cũng làm cho các hoạt động đầu tư trở nên sôi động hơn. *Công ty cổ phần là hình thức tốt nhất để tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài Đối với nước ta, việc hình thành các công ty cổ phần có ý nghĩa rất to lớn đó là: -Phân định chích sác các quyền sở hữu, đặc biệt là sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. -Làm cho người lao động trong các doanh nghiệp có thêm điều kiện thực sự làm chủ -Huy động được vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp nhân dân. Trong điều kiện các doanh nghiệp nhà nước ta hiện nay đang đứng trước những thách thức to lớn, việc chuyển đổi một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần là vô cùng cấp bách nâng cao hiệu quả cạnh tranh, hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước trong quá trình hội nhập. 4.Tổ chức hoạt động của công ty cổ phần *Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp trong đó: -Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần -Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. -Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. -Cổ đông có thể là tổ chức, các nhân, số lượng cổ đông ít nhất là ba và không hạn chế số lượng tối đa. -Hình thức công ty cổ phần : Là hình thức kinh doanh chung vốn nhưng việc huy động vốn không phải chủ yếu là qua vay mượn hoặc góp vốn trực tiếp của nhiều người kinh doanh. Có thể nói hình thức của công ty cổ phần là phát minh quan trong nhất trong lịch sử phát triển các hình thức tổ chức doanh nghiệp. Chính vì vậy, chủ nghĩa tư bản đã lợi dụng công ty cổ phần với những biến đổi và thích nghi nhanh nhất với cơ chế thị trường, với việc áp dụng khoa học kĩ thuật ...Để đứng vững và nhanh chóng phục hồi sau cuộc khủng hoảng. *Đặc điểm công ty cổ phần trong hoạt động kinh doanh. -Về mặt pháp lý công ty cổ phần có bốn đặc trưng sau: Trách nhiệm pháp lý hữu hạn: Các cổ đông chỉ có trách nhiệm tài chính với công ty trong giới hạn cổ phần mà họ đóng góp. Nếu công ty bị phá sản hay giải thể, chủ nợ của công ty chỉ có thể đòi nợ trên cơ sở số tài sảncủa công ty chứ không có quyền đòi nợ trực tiếp các cổ đông. Tính có thể chuyển nhượng cổ phiếu: Nói chung các cổ phiếu có thể tự do mua bán, khi người ta có tiền nhàn rỗi họ có thể mua cổ phiếu để huy động kiếm lợi cổ tức. Nhưng khi họ cần tiền họ không thể bắt công ty hoàn lại vốn mua cổ phiếu, song họ có thể bán cổ phiếu cho một người khác trên thị trường chứng khoán. Tư cách pháp nhân: Mọi công ty cổ phần đều có tư cách pháp nhân, nó đăng ký hoạt động, có con dấu riêng, có quyền ký kết các hợp đồng sản xuất kinh doanh với các đơn vị khác. Công ty có quyền đi kiện hoặc bị kiện (Nếu vi phạm pháp luật), công ty được trao đổi ở thị trường chứng khoán, trên thị trường công ty có thể công khai phát cổ phiếu và có thể chuyển nhượng tự do trên thị trường chứng khoán. Thời gian tồn tại của công ty cổ phần là không hạn định: Nói chung thời gian tồn tại của một công ty cổ phần dài hơn khả năng đóng góp của từng cổ đông. Đó là ưu thế của công ty cổ phần nhờ ưu thế này mà công ty có khả năng tập trung sức lực đẩy mạnh hiệu quả sản xuất kinh doanh. -Về mặt tài chính: công ty cổ phần thực hiện huy động vốn trên thị trường chứng khoán, thị trường vốn, hình thức huy động vốn này có ưu điểm và sức hấp dẫn đặc biệt, biểu hiện ở : Một là: Việc mua cổ phiếu không những đem lại lợi tức cổ phần cho các cổ đông mà còn mang đến cho cổ đông một khoản thu nhập nhờ việc tăng giá trị cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Hai là: Các cổ đông có quyền tham gia quản lý theo điều lệ của công ty, vì được pháp luật bảo đảm. Điều đó làm cho quyền sở hữu trở nên cụ thể và hấp dẫn hơn. Ba là: Cổ đông có quyền ưu đãi trong việc mua cổ phiếu mới phát hành của công ty trước khi được bán ra công chúng. Để huy động vốn ngoài phương thức mà các doanh nghiệp khác vẫn tiến hành công ty cổ phần còn có thể thực hiện tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới và trái phiếu mới . Thời gian huy động có thể là dài hạn đối với trái phiếu và vô hạn đối với cổ phiếu. Với cách huy động vốn này sẽ tạo điều kiện cho công ty cổ phần thay đổi kết cấu nguyên vốn, hơn nữa đó cũng là cách đa dạng hoá các loại công cụ tài chính để phân bố rủi ro và chuyển đổi linh hoạt trong hoạt động kinh doanh. Chính sách lợi tức cổ phần cũng là một nét đặc trưng trong hoạt động tài chính của công ty cổ phần . Một mặt, lợi tức cổ phần là chỉ tiêu đánh giá hoạt động của công ty, qua đó nâng cao sức hấp dẫn của nó, mặt khác lợi tức cổ phần có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của công ty. -Về mặt sở hữu công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh có nhiều chủ sở hữu số lượng cổ đông có thể hang trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng triệu với quy mô vốn hết sức đa dạng: Lớn, trung bình và nhỏ. Chủ sở hữu chỉ thực quyền sở hữu trên các phương diện sau: *Thu lợi tức cổ phần trên cơ sở hoạt động của công ty. Tham gia đại hội cổ đông quyết định những vấn đề chiến lược của công ty như thông qua điều lệ phương án phát triển quyết toán tài chính, bầu và ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo.Không trực tiếp rút vốn, nhưng được phép chuyển nhượng quyền sở hữu của mình thông qua việc mua bán cổ phiếu. Hoạt động của công ty không bị ảnh hưởng của quá trình chuyển nhượng quyền sở hữu. *Ưu điểm của công ty cổ phần về mặt sở hữu như sau: Nó tạo ra cơ chế giải phóng hầu hết các chủ sở hữu khỏi nhiệm vụ quản lý và sử dụng vốn, chức năng đó được giao cho các nhà quản lý chuyên nghiệp. Điều đó một mặt làm cho các chủ sở hữu yên tâm về quyền lợi, mặt khác giúp cho đồng vốn được sử dụng có hiệu quả cao. Nó là giải pháp hạn chế độc quyền rất hữu hiệu, với số lượng cổ đông đông đảo và lượng vốn rất lớn làm cho khả năng chi phối của một vài cá nhân giảm đi rất nhiều chỉ có nhà nước mới có khả năng thực hiện sự chi phối này nếu xét thấy cần thiết. -Về mặt sở hữu: Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, giám đốc điều hành là tổ chức làm đại diện cho quyền sở hữu của các cổ động có nghĩa vụ trực tiếp quản lý công ty. *Đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông phải có ban kiểm soát Sơ đồ mô tả hệ thống tổ chức của công ty cổ phần: Đại hội cổ đông Chủ tịch hội đồng quản trị Ban kiểm soát Giám đốc điều hành Quan hệ quyết định Quan hệ kiểm soát -Đại hội cổ đông: Gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần . đại hội thường kỳ thiệu tập vào cuối năm tài chính(ít nhất mỗi năm một lần) để giải quyết các công việc thuộc hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ điều lệ như: Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần dược quyền chào bán từng loại, quyết định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần. Bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm thành viên Hội đông quản trị, thành viên ban kiểm soát. Xem xét và sử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị và ban kiểm soát gây thiệt hại cho công ty. Quyết định tổ chức lại hay giải thể công ty. Quyết định bổ sung, sửa đổi điều lệ công ty, trừ trường hợp điều chỉnh vốn điều lệ do bán thêm cổ phần mới trong phạm vi số lượng cổ phần được quyền chào bán quy định tại điều lệ của công ty. Thông qua báo cáo tài chính hàng năm. Thông qua định hướng phát triển trung và dài hạn của công ty, quy định bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty. Quyết định mua lại hơn 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại. -Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị là cơ quan điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm thi hành các nghị quyết được thông qua trong đại hội cổ đông. Hội đồng quản trị là cơ quan trường trực của đại hội cổ đông. Do vậy, chức năng và nhiệm vụ chính là chuẩn bị dự thảo, xem xét tất cả các văn bản thuộc thẩm quyền giải quyết của đại hội cổ đông quyết định. Hội đồng quản trị có những quyền hạn sau: Xây dựng và trình trước đại hội cổ đông chương trình kế hoạch hoạt động hàng năm và báo cáo định kỳ. Soạn thảo chương trình và triệu tập đại hội cổ đông. Đề nghị tăng vốn điều lệ và chia tổ chức. ấn định việc trích lập các quỹ của công ty theo điều lệ. Quyết định các vấn đề liên quan đến bộ máy tổ chức của công ty theo nghị quyết của đại hội cổ đông. Chủ tịch hội đồng quản trị là người đứng đầu Hội đồng quản trị có thể kiêm tổng giám đốc công ty và do Hội đồng quản trị bầu ra. Chủ tịch hội đồng quản trị là người chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức điều hành thực hiện những nghị quyết, quyết định của đại hội cổ đông, đồng thời chịu trách nhiệm trước các cổ đông về kết quả hoạt động sản xuất công ty. Chủ tịch hội đồng quản trị cũng là người chịu trách nhiệm cuối cùng về các quyết định của hội đông quản trị. -Ban kiểm soát: công ty cổ phần có trên 11 cổ đông phải có ban kiểm soát gồm 3 đến 5 thành viên do đại hội cổ đông bầu ra. Trong đó ít nhất một thành viên có chuyên môn về kế toán và tất cả các kiểm soát viên không phải là thành viên trong hội đồng quản trị cũng không phải là thân nhân của Hội đồng quản trị và giám đốc. Ban kiểm soát bầu một thành viên làm trưởng ban, Trưởng ban kiểm soát phải là cổ đông, quyền và nghĩa vụ của trưởng ban do điều lệ công ty quy định. Ban kiểm soát có những quyền hạn và nghĩa vụ sau đây: Kiểm tra các sổ sách chứng từ và tài sản của công ty. Báo cáo trước đại hội cổ đông về các sự kiện tài chính bất thường sảy ra, những ưu, khuyết điểm trong quá trình quản lý tài chính của Hội đồng quản trị. -Giám đốc: Là người người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về quyền và nhiệm vụ được giao. Ngoại trừ giám đốc kiêm luôn chức vụ chủ tịch hội đồng quản trị còn lại giám đốc có thể thuê ngoài. Do đó, giám đốc không làm theo nhiệm kỳ mà làm theo hợp đồng ký kết với chủ tịch hội đồng quản trị. Quyền và nhiệm vụ của giám đốc là kiến nghị lên chủ tịch Hội đồng quản trị và đại hội cổ đông, nhiệm vụ phát triển công ty và dự án kế hoạch hàng năm của công ty. Trên cơ sở những kế hoạch và nhiệm vụ do đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị quyết định. Giám đốc có toàn quyền điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và những vấn đề nảy sinh, quyết định tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và bộ máy điều hành trực tiếp của công ty. II. Các chế định hiện hành về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 1.Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, đổi mới công tác quản lý doanh nghiệp Nhà nước luôn luôn là mối quan tâm sâu sắc của Chính phủ. Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương lớn trong đường lối đổi mới nhằm sắp xếp lại và thay đổi phương thức quản lý, nhằm huy động vốn của mọi thành phần kinh tế để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện để người lao động và những người góp vốn phát huy vai trò chủ động thực sự, nâng cao thu nhập của người lao động và góp phần tăng trưởng kinh tế. Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước lần đầu tiên được nêu tại Nhị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương khoá VII tháng 11/1991 được cụ thể hoá trong Nghị quyết hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII tháng 1/1994. Đặc biệt là từ khi có Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và Nghị quyết của hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII thì chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được khẳng định rõ hơn Những chủ trương chính sách chế độ đó đã từng bước thúc đẩy công tác cổ phần hoá ngày càng mạnh và rộng hơn thể hiện qua từng giai đoạn. A.Giai đoạn thí điểm(tháng 6-1992 đến tháng 4-1996). Từ khi có quyết định 202/CT ngày 8\6\1992 của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng(nay là Thủ tướng chính phủ) về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Trong giai đoạn này chính sách cổ phần hoá dè dặt, thận trọng việc lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá rất kĩ lưỡng, chính sách đối với doanh nghiệp chuyển sang hoạt động theo công ty chưa rõ, chính sách đối với người lao động còn hạn chế, phương thức cổ phần hoá còn đang mới mẻ, nhận thức của xã hội, người quản lý người lao động còn rất lan man. Vì vậy, thời gian thí điểm kéo dài, kết quả còn rất hạn chế. Trong bốn năm mới cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp gồm 3 doanh nghiệp trung ương và 2 doanh nghiệp địa phương. Tất cả các doanh nghiệp cổ phần này đều có quy mô nhỏ, có những lợi thế nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy kết quả của giai đoạn thí điểm còn ít nhưng rút ra nhiều kinh nghiệm quý báu cho việc xây dựng chế độ chính sách chỉ đạo thực hiện công tác cổ phần hoá trong giai đoạn sau này. B. giai đoạn đầu của thời kỳ mở rộng công tác cổ phần hoá(từ tháng 5/1996 đến tháng 5/1998) Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc chính phủ ban hành nghị định 28/CP lần đầu tiên quy định một cách hệ thống từ mục đích yêu cầu, đối tượng đến phương thức tiến hành, chế độ đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá, các văn bản hướng dẫn của các nghành chức năng như bộ tài chính, bộ lao động cũng đầy đủ hơn. Vì vậy, tốc độ cổ phần hoá nhanh hơn, trong hai năm cổ phần hoá được 25 doanh nghiệp gấp năm lần giai đoạn thí điểm, diện cổ phần hoá cũng rộng hơn, có ba bộ và chín tỉnh, thành phố có doanh nghiệp cổ phần hoá. Quy mô doanh nghiệp cổ phần hoá cũng lớn hơn với một doanh nghiệp có vốn trên 120 tỷ đồng, 5 doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đồng trở lên. Tuy nhiên so với yêu cầu thì tốc độ cổ phần hoá còn chậm. C. Giai đoạn từ tháng 7/1998 đến nay. Nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá, rút kinh nghiệm từ giai đoạn đầu mở rộng diện cổ phần hoá, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/CP ngày 29/06/1998 về vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thay thế cho các nghị định trước đây, cùng với chỉ thị sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước của Thủ tướng Chính phủ. Nghị định này đã quy định rõ loại doanh nghiệp giữ nguyên quyền sở hở hữu 100% vốn như: doanh nghiệp hoạt động công ích, doanh nghiệp có vị trí trọng yếu trong công việc phát huy vai trò chủ đạo, doanh nghiệp nhà nước cần độc quyền. Mở rộng hơn các chế độ cho công tác cổ phần hoá , đã xác định rõ và giảm phần đặc biệt cổ phần chi phối, không hạn chế quy mô doanh nghiệp cổ phần hoá , phân cấp nhiều hơn thẩm quyền quyết định cổ phần hoá. Thủ tướng Chính phủ chỉ quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp có trị giá trên 10 tỷ đồng, dưới mức đó là phân cấp cho các bộ trưởng, chủ tịch hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định. Thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp cũng được phân cấp cho doanh nghiệp cổ phần hoá và ngươì lao động trong doanh nghiệp cổ phần được mở rộng hơn như: giảm giá bán cổ phần, cho mua chịu không chịu lãi xuất với người lao động nghèo trong doanh nghiệp... Cùng với việc mở rộng chính sách, công tác tuyên truyền vận động được tăng cường, biện pháp chỉ đạo của Chính phủ sát sao hơn bằng cách giao chỉ tiêu cổ phần hoá cho các bộ, nghành, tổng công ty, địa phương thường xuyên kiểm tra kiểm nghiệm việc thực hiện và tích cực giải quyết những khó khăn, vướng mắc. Do đó chỉ trong 6 tháng cuối năm 1998 đã cổ phần hoá được 87 doanh nghiệp gấp 3 lần giai đoạn trước đây đồng thời còn hàng chục doanh nghiệp đang thực hiện ở nhiều bước khác nhau. Tuy vậy, mức độ cổ phần hoá của nhà nước đề ra vẫn thấp hơn. Trong những năm 1999, năm 2000 và năm 2001 tốc độ cổ phần hoá đã đạt được những kết quả hết sức khả quan. Thể hiện: Trong năm 1999 nhà nước đã cổ phần hoá được 250 doanh nghiệp, năm 2000 cổ phần hoá được 212 doanh nghiệp và năm 2001 cổ phần hoá 149 doanh nghiệp, tính đến tháng 4/2002 đã cổ phần hoá được 774 doanh nghiệp. Tuy nhiên ta cũng nhận thấy rằng tốc đ._.ộ cổ phần hoá cũng đang trên đà chậm lại. Tháng 9 năm 2001, Hội nghị ban chấp hành trung ươngĐảng khoá IX ban hành nghị quyết số 05-NQ/TW về tiếp tục sắp xếp đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Đây là nghị quyết có tác động mạnh mẽ đến khu vực doanh nghiệp nhà nước có thể so sánh tương tự với tác động của nghị quết khoán 10 đối với khu vực nông nghiệp. Mục tiêu cơ bản của nghị quyết là làm cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả thực sự, với số lượng doanh nghiệp không nhiều nhưng đủ mạnh, có thể đảm đương sứ mệnh lịch sử làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nghị quyết đã đề ra những phương hướng cơ bản và những tiêu chí cụ thể để từng bước sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, khắc phục tình trạng yếu kém, hoạt động không có hiệu quả của doanh nghiệp. Ngay sau đó, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 183/2001/QĐ-TTg ngày 20/11/2001 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện nghị quyết hội nghị lần thứ ba BCH Trung ương Đảng, khoá IX. Mục tiêu của chương trình hành động là tổ chức hoạt động thắng lợi Nghị quyết của trung ương: tiếp tục đổi, phát triển và mới nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, để doanh nghiệp nhà nước góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh, là lực lượng lòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 2.Luật doanh nghiệp Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/06/1999. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nhà nước quản lý, khuyến khích phát triền các thành phần kinh tế và hình thành tổ chức kinh doanh nhằm giải phóng sức lao động, động viên tối đa mọi mguồn lực trong nhân dân và toàn xã hội phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống cho nhân dân. Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều phương pháp và cách thức tổ chức hoạt động kinh doanh. Nhà nước cho phép và bảo hộ cho các loại hình tổ chức kinh doanh nào hoạt động là tuỳ thuộc vào định hướng phát triển kinh tế xã hội, cũng như các điều kiện khác của đất nước. Trong bài viết này em xin đề cập đến một vài khía cạnh về công ty cổ phần trong luật doanh nghiệp. Công ty cổ phần là loại hình công ty đối vốn. Đặc điểm quan trọng của công ty đối vốn la sự phân định rõ ràng tài sản của công ty và tài sản của cá nhân (thành viên công ty). Thành viên của công ty đối vốn chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn họ góp vào công ty. Việc thành lập công ty là dựa trên yếu tố vốn góp, nên thành viên của công ty đối vốn là rất đông. Về mặt lý thuyết thì cả những người không hiểu biết về kinh doanh cũng tham gia vào công ty. Công ty cổ phần là pháp nhân (khoản 3 điều 26, khoản 4 điều 46, khoản 3 điều 51 luật doanh nghiệp), chủ thể pháp lý độc lập hoàn toàn với thành viên hoặc người góp vốn đầu tư, sự tồn tại của công ty là hoàn toàn độc lập. điều này có ý nghĩa là về nguyên tắc thành viên không chịu trách nhiệm đối với nghĩa vụ của công ty, bởi vì khi góp vốn vào công ty thì số vốn góp đó đã thuợc quyền sở hữu của công ty. Do đó, công ty có toàn quyền sử dụng số vốn thuộc quyền sở hữu của mình và để đổi lại thành viên được quyền sở hữu đói với công ty tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp. Về mặt lý thuyết thì sự thay đổi địa vị pháp lý của các thành viên không ảnh hưởng tới sự tồn tại của công ty. Khi một hoặc toàn bộ các thành viên của công ty bị chết, bị phá sản hay bị kết án tù thì công ty không phải vì thế mà chấm dứt sự tồn tại. Công ty cổ phần được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn (điểm a khoản 1điều 26, khoản 1 điều 46 và khoản 1 điều 51 luạt doanh nghiệp) điều này có ý nghĩa là nếu công ty bị thua lỗ, thất bại trong hoạt động kinh doanh thì thành viên chỉ mất số vố đầu tư vào công ty mà không ảnh hưởng đến tài sản khác của họ. Cơ cấu quản lý của công ty cổ phần tập trung, thông qua người đại diện do thành viên lựa chọn. Công ty cổ phần cho phép các cổ đông tự do chuyển nhượng cổ phần, cổ phần có thể đem chào bán cho bất ky ai, người mua có thể mua một hoặc nhiều cổ phần và trở thành cổ đông của công ty. Số lượng cổ đông của công ty cổ phần về nguyên tắc không có giới hạn tối đa (mục d, khoản 1, điều 51 luật doanh nghiệp). Tất cả mọi người đều có thể tham gia đầu tư và trở thành thành viên của công ty cổ phần. Quy mô của công ty cổ phần thường là vừa, lớn và rất lớn, sự mở rộng đầu tư và phát triển của công ty về lý thuyết là không hạn chế nếu công ty có quy hoạch phát triển tốt. Về mặt lý thuyết công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh linh hoạt nhất trong các loại hình tổ chức kinh doanh. Các chủ đầu tư có thể sử dụng để huy động, tập trung và cấp vốn cũng như quản lý mọi quy mô và nghành nghề kinh doanh. Từ doanh nghiệp nhỏ sản xuất một hoặc một số sản phẩm đơn lẻ thuộc sở hữu của hàng ngàn cổ đông, kinh doanh trên lĩnh vực nghành hàng và có thể vượt ra ngoài phạm vi quốc gia. Luật doanh nghiệp quy định cổ đông có quyền tự do chuyền đổi cổ phần của mình cho người khác như một loại tài sản (trừ cổ phần ưu đãi không được chuyển đổi, cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập bị hạn chế chuyển đổi trong thời hạn 3 năm). Tạo điều kiện cho các cổ đông quyền tự do mua bán hay tuỳ nghi sử dụng vốn của mình trong công ty mà không cần sự đồng ý của cổ đông khác. Điều này làm tăng thêm sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, cũng như tạo điều kiện cho công ty cổ phần khắc phục khó khăn về tài chính trong việc mở rộng nhu cầu kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm. Tuy nhiên để phát huy tối đa sức mạnh của lợi thế này đòi hỏi phải có một thị trường chứng khoán đủ mạnh, cơ chế quản lý linh hoạt và hệ thống pháp luật phù hợp với tiến trình kinh tế -xã hội Nói chung không một loại hình tổ chức kinh doanh nào mà chỉ có ưu điểm mà không có nhược điểm. Nhược điểm chung của công ty cổ phần (xét trên góc độ chủ đầu tư) là khó trốn thuế để hưởng siêu lợi nhuận và đa số các cổ đông chỉ quan tâm đến việc thu lợi tức cổ phần cao hơn mức bình thường mà không quan tâm gì đến hoạt động của công ty. Đó chính là điều kiện tạo cho cổ đông đa số và người quản lý lạm dụng quyền hạn trong quản lý điều hành để hưởng lợi tức cao. Có lẽ không đúng và không chính xác khi đánh giá loại hình tổ chức kinh doanh nào là hơn, bởi vì một trong những yếu tố quan trọng nhất của kinh doanh là chấp nhận rủi ro cao hơn và có phần mạo hiểm để lựa chọn loại hình kinh doanh nào cho phù hợp. 3.Phương hướng và nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Để thực hiện tốt chủ trương của Đảng và chính phủ về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 2002-2005 chính phủ đang tập chung chỉ đạo và giao nhiệm vụ cho các Bộ, nghành trung ương sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách đã ban hành, đồng thời đề nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội sử đổi bổ sung một số điều luật pháp lệnh hiện hành và xây dựng một số luật, pháp lệnh liên quan tới đổi sắp xếp đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Nội dung chủ yếu gồm 26 văn bản ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách hiện có, trong đó nội dung rất quan trọng là: ban hành tiêu chí, danh mục các doanh nghiệp nhà nước, tổng công ty nhà nước làm căn cứ cho các bộ, nghành, tỉnh xây dựng phương án tổng thể cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Theo chỉ thị số 04/2002/CT-TTg ngày 8/2/2002 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục sắp xếp đổi mới , phát triển nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, Bộ trưởng, Chủ tịch uỷ ban nhân dân các tỉnh, Chủ tịch hội đồng quản trị các tổng công ty 91 chịu trách nhiệm xây dựng đề án và trình thủ tướng Chính phủ phê duyệt trước ngày 30/4/2002. Việc xây dựng đề án xắp sếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước là vấn đề hết sức phức tạp và nhậy cảm có liên quan đến tất cả mọi doanh nghiệp nhà nước và tổng công ty nhà nước, trong điều kiện thới gian rất khẩn trương, đòi hỏi các bộ nghành, tổng công ty 91 có sự nghiên cứu, trao đổi hết sức nghiêm túc, bảo đảm thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, đồng thời có sự chỉ đạo trực tiếp và cụ thể của Đảng và chính quyền các cấp. Trước mắt đề nghị ban đổi mới doanh nghiệp trung ương cần tập trung thực hiện một số công việc sau: Tăng cường công tác huấn luyện về cổ phần hoá cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và người đứng đầu cổ phần hoá doanh nghiệp. Tổ chức các hội nghị từng vùng hoặc cả nước để trao đổi kinh nghiệm trong quá trình thực hiện cổ phần hoá và đề xuất kiến nghị sửa đổi bổ sung các chính sách phù hợp với thực tế. Hoàn thiện quy trình cổ phần hoá , đặc biệt là quy trình xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để rút ngắn thời gian thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp. Phối hợp với uỷ ban chứng khoán nhà nước để lựa chọn các công ty cổ phần tham gia vào trung tâm giao dịch chứng khoán, từ đó tác động trở lại đối với việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Phối hợp với các bộ tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật về cổ phần hoá doanh nghiệp cũng như các chính sách về khoán, bán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước cho tập thể người lao động. Phối hợp với Bộ tài chính trình chính phủ về quyết định cổ phần hoá có bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, thành lập quỹ hỗ trợ đổi mới doanh nghiệp và cổ phần hoá . Phối hợp với Bộ lao động-thương binh xã hội, trình Chính phủ các chính sách đối với người lao động dôi dư trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Hợp tác với các tổ chức quốc tế nghiên cứu tìm ra các dự án nhằm nâng cao năng lực hoạt động của ban đổi mới quản lý doanh nghiệp một số tỉnh, thành phố và tổng công ty 91, đồng thời tranh thủ các nguồn tài trợ quốc tế hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước trong diện cổ phần hoá, giải quyết các tồn đọng về tài chính và lao động. Duy trì chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất của các ban quản lý đổi mới doanh nghiệp của các bộ địa phương, tổng công ty 91 về tình hình thực hiện cổ phần hoá theo hướng dẫn của uỷ ban đổi mới doanh nghiệp trung ương, kịp thời xử lý các vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện, các vấn đề vượt quá thẩm quyền phải báo cáo Thủ tướng chính phủ. ChươngII: Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở việt nam hiện nay Và Sự CầN THIếT PHảI cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước I.Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 1.Thực trạng các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước khônmg còn được bao cấp mọi mặt như trước nữa, mặt khác lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh tranh quyết liệt,nên đã làm cho hệ thống doanh nghiệp nhà nước thay đổi khá rõ nét. Từ 12000 doanh nghiệp giảm xuống còn khoảng 5600 doanh nghiệp, nhờ đổi mới về mặt tổ chức quản lý, về kĩ thuật công nghệ của các doanh nghiệp còn lại, tổng giá trị sản phẩm không những không giảm mà còn tăng lên đáng kể Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm qua là khả quan, đặc biệt các doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân, nhất là những ngành đòi hỏi đầu tư lớn, kĩ thuật công nghệ cao, các nghành sản xuất, cung ứng các hàng hoá dịch vụ công cộng. Đồng thời doanh nghiệp nhà nước vẫn là thành phần kinh tế đóng góp chủ yếu cho ngân sách Nhà nước. Có thể thấy rằng: Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước hình thành từ thời quản lý tập trung bao cấp, khi chuyển sang cơ chế thị trường lại thiếu sự kiểm soát việc thành lập nên phát triển tràn lan (nhất là cấp tỉnh, thành phố, quận huyện, cơ quan, trường học). Mặt khác trong điều kiện kinh tế tư nhân còn non yếu, chỉ mới hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp nên doanh nghiệp nhà nước chưa thể tập trung toàn lực cho yêu cầu phát triển ở những nghành, lĩnh vực then chốt. Những đặc điểm trên luôn chi phối phương hướng, bước đi và biện pháp quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Sau 10 năm đổi mới, các doanh nghiệp nhà nước đã và đang chuyển biến khá căn bản. Đã sắp xếp lại một bước quan trọng, giảm được gần một nửa số doanh nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp địa phương nhỏ bé hoạt động không có hiệu quả. Phần lớn các doanh nghiệp còn lại được tổ chức và từng bước phát huy quyền làm chủ kinh doanh. Nhưng nhìn chung các doanh nghiệp nhà nước vẫn rất khó khăn, hiệu quả kinh doanh còn thấp, nhiều doanh nghiệp vẫn làm ăn thua lỗ triền miên, sự đóng góp cho ngân sách của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với phần đầu tư của nhà nước cho nó, cũng như tình trạng thất thoát vốn đang diễn ra hết sức nghiêm trọng, việc quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước còn quá yếu kém, đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng buông lỏng quản lý tài chính làm nhà nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu, tình trạng phân hoá, chênh lệch trong thu nhập ngày càng tăng. Tóm lại, các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta do yếu tố lịch sử để lại và đang đóng góp vai trò to lớn trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và phát sinh nhiều bất cập. Quá trình chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản doanh nghiệp nhà nước 2.Các bước để tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Trình tự và nội dung các bước tiến hành cổ phần hoá một doanh nghiệp nhà nước theo tiến độ sau: Bước1: Thành lập ban vận động cổ phần hoá doanh nghiệp. Ban vận động cổ phần hoá doa uỷ ban nhân dân các tỉnh quyết định thành lập và cử giám đốc doanh nghiệp làm trưởng ban. Bao gồm: các chuyên gia kĩ thuật, cán bộ quản lý, các chuyên gia quản lý các nghành quản lý nhà nước(nghành chủ quản, tài chính, ngân hàng). Ban vận động có nhiệm vụ chuẩn bị phương án cổ phần hoá và nội dung các bước tiến hành cổ phần hoá xây dựng luận chứng sơ bộ về cổ phần hoá : quy mô, loại hình sản xuất kinh doanh... Bước 2: Phân tích và tổ chức doanh nghiệp. Bước này nhằm làm rõ thực trạng về các mặt những vấn đề đặt ra cần xử lý trước khi tiến hành cổ phần hoá Bước 3: Xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị của doanh nghiệp là giá cả của doanh nghiệp khi bán cho chủ sở hữu khác, vì vậy nó cũng chịu sự chi phối của thị trường, quan điểm cung cầu tại thời điểm cổ phần hoá và những điều kiện kèm theo do bên bán hoặc bên mua đặt ra việc xác định giá trị doanh nghiệp tiến hành theo các bước sau: Xác định giá trị doanh nghiệp theo số liệu thống kiểm kê thời điểm 1/1/1996 và điều chỉnh theo hệ số tại thời điểm 1/1/1997 -Đánh giá lại giá trị tài sản và vốn trong diện cổ phần hoá -Phân tích phương án kinh doanh và lợi nhuận trong 10 năm tới. -Xác định sơ bộ giá trị doanh nghiệp theo phương án lợi nhuận nêu trên. -Đối chiếu kết quả này với: Trị giá vốn theo sổ sách, trị giá vốn theo đánh giá, so với vốn đầu tư một doanh nghiệp mới, có công suất tương đương ở trong nước hoặc ở nước ngoài (có tỷ lệ hao mòn tương đương với doanh nghiệp cổ phần hoá) -Dự kiến trị giá doanh nghiệp và báo cáo lên hội đồng thẩm định xem xét trước khi cấp có thẩm quyền quyết định -Xác định tổng số cổ phần và mệnh giá cổ phiếu, mệnh giá cổ phiếu bằng tổng trị giá của doanh nghiệp chia cho tổng số cổ phần. Nói chung mệnh giá cổ phiếu nên đặt ở mức thấp để có thể huy động được một nguồn vốn nhàn rỗi, vừa tạo điều kiện dễ dàng khi chuyển nhượng cổ phiếu. Bước 4:Dự tính số cổ phiếu đem bán và vận động người mua. Tổng số cổ phiếu được chia thành các cổ phần. Cổ phiếu do nhà nước nắm giữ, số cổ phiếu hưởng lợi cho tập thể công nhân viên doanh nghiệp cổ phần hoá(nếu có) số cổ phiếu bán trả chậm cho công nhân viên, số cổ phiếu bình thường. Bước 5: Xác định giá bán thực tế cổ phiếu và tiền bán hàng. Bước 6: Họp đại hội cổ đông để làm thành lập công ty, thông qua điều lệ và đăng ký lại doanh nghiệp. Toàn bộ nội dung các bước trên đây được thể hiện trong đề án cổ phần hoá doanh nghiẹp và được chủ tịch uỷ ban doanh nghiệp tỉnh thông qua trước khi tiến hành cổ phần hoá. 3.Tiến trình cổ phần hoá- Những kết quả đạt được. Kể từ khi có quyết định 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng nay là Thủ tướng chính phủ về việc thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần cho tới nay là tròn 10 năm và chủ trương cổ phần hoá đã thu được những kết quả đáng khích lệ, đặc biệt là từ năm 1998 trở lại đây. Trong ba năm(1990-1993) Chính phủ đã đưa ra ba văn bản về cổ phần hoá nhưng đến cuối năm 1993 mới có hai doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá đó là công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển và công ty cổ phần cơ điện lạnh. Năm 1994 là một doanh nghiệp. Năm 1995 là 3 doanh nghiệp.Năm 1996 là 5 doanh nghiệp Cho mãi đến hết năm 1997, tức là sau 7 năm mới chuyển được 18 doanh nghiệp. Dưới tác động của Nghị định 28/CP (ban hành ngày 7/5/1996) và Nghị định 25/CP (sửa đổi bổ sung Nghị định 28/CP), ban hành ngày 26/3/1997 đã có 100 doanh nghiệp được cổ phần hoá trong năm 1998. Việc ban hành Nghị định 44/CP ngày 19/6/1998 thay thế cho Nghị định 28/CP và hệ thống các văn bản hướng dẫn đã kiến tạo khuôn khổ pháp luật đầy đủ nhất cho việc cổ phần hoá, khắc phục được những khuyết điểm nảy sinh trong Nghị định 28/CP đặc biệt là các vấn đề về ưu đãi cho người lao động, xác định giá trị doanh nghiệp, thẩm quyền định giá, thẩm quyền ra quyết định cổ phần hoá . Về cơ bản nó mang những nội dung tích cực phù hợp với thực tiễn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Vì vậy năm 1999 công tác cổ phần hoá có những bước khởi sắc nhất định cổ phần hoá được 250 doanh nghiệp. Năm 2000 cổ phần hoá được 212 doanh nghiệp và năm 2001 là 149 doanh nghiệp cho đến nay có khoảng 774 doanh nghiệp nhà nước trong cả nước được cổ phần hoá. Trong số các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá có tới 60 doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá kinh doanh thua lỗ. Số còn lại khi có lãi khi lỗ, tính chung thì có lãi ở mức thấp. Nhưng sau khi cổ phần hoá đã đạt được. Kết quả bước đầu như sau: -Huy động được khoảng 3.000 tỉ đồng vốn ngoài xã hội vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh -Doanh thu tăng 1,4 lần -Lợi nhuận tăng 2 lần -Nộp ngân sách tăng 1,2 lần -Thu nhập người lao động so với khi còn là doanh nghiệp nhà nước tăng 22% -Số lao động tăng 5,1 lần -Vốn của người lao động trong công ty tăng từ 1,5 đến 2 lần so với mức mua cổ phiếu -Giá trị cổ phiếu tăng từ 3 đến 4 lần -Vốn điều lệ tăng từ nguồn lợi nhuận của doanh nghiệp và phát hành thêm cổ phiếu. Phần vốn góp nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hoá được xác định lại một cách rõ ràng, minh bạch hơn, được đánh giá đúng hơn, nên vốn nhà nước đã tăng lên so với sổ sách kế toán, đồng thời cũng tăng lên sau cổ phần hoá -Thời gian cổ phần hoá từ 7 tháng đến 9 tháng, trung bình là 27 tháng. Những số liệu trên đây cho thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước sau khi đã cổ phần hoá đã tỏ ra hoạt động có hiệu quả, thu nhập của cổ đông, người lao động đều tăng khá. Các doanh nghiệp đã cổ phần hoá có vốn Nhà nước dưới 10 tỉ đồng chiếm 94,3% và đạt trên 10 tỉ đồng chỉ chiếm 5,7%. Trong các doanh nghiệp cổ phần hoá , Nhà nước có cổ phần ở 59% số công ty cổ phần . Nhà nước nắm trên 30% tổng số vốn điều lệ ở trên 25% số công ty cổ phần , nắm trên 50% vốn điều lệ ở 8% công ty cổ phần . công ty cổ phần trong đó Nhà nước giữ vốn tới 80% là công ty cổ phần in và bao bì Hải Phòng. Trong tổng số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá thì có tới 50,6% thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng; 34,7% thuộc lĩnh vực thương mại dịch vụ; 9,9% thuộc lĩnh vực giao thông và 4,7% thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản.. Nếu so với công cuộc cổ phần hoá ở Trung quốc thì ta thấy rõ chỉ sau 6 năm triển khai cổ phần hoá (tháng 2 năm 1993 Chính phủ Trung quốc ra sắc lệnh về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và đầu năm 1994 triển khia ở một số doanh nghiệp nhà nước) đến đầu năm 2000 Trung Quốc đã cổ phần hoá được 1,6 vạn doanh nghiệp chiếm khoảng 5% tổng số doanh nghiệp. Kế hoạch đặt ra đến năm 2003 Trung Quốc phấn đấu sẽ cổ phần hoá xong 2/3 tổng số doanh nghiệp thuộc đối tượng phải cổ phần hoá, thì chúng ta thấy tiến trình cổ phần hoá của nước bạn đạt được là hết sức khả quan đáng để cho chúng ta những bài học kinh nghiệm để học tập. Mà mục tiêu của chúng ta đề ra trong giai đoạn mới(2002-2005) sẽ cơ bản hoàn thành sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước vì vậy chúng ta cần đẩy nhanh hơn nữa tốc độ cổ phần hoá trong những năm tới. II.sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 1.Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta Nghị định 44/CP ngày 29/06/1998 của Chính phủ về việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ: Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu: Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Huy động vốn và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đó cũng là điều kiện tốt quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay vốn kinh doanh đang là một trong những vấn đề nan giải của các doanh nghiệp. Việc huy động thêm vốn từ cổ phần hoá là điều kiện xác lập người chủ ấy cùng với người đại diện nhà nước ở doanh nghiệp quản lý hoạt động kinh doanh một cách hữu hiệu nhất. Hơn nữa, việc huy động vốn là phương tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế. Tạo điều kiện chủ động và độc lập cho doanh nghiệp cổ phần hoá trong các quan hệ tự nguyện về liên doanh, liên kết cả trong và ngoài nước, mở ra khả năng tự nguyện hợp tác hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh đấp ứng với yêu cầu sản xuất kinh doanh lớn trong nước và đảm bảo sức mạnh cạnh tranh với các đối tác trong nước và trên thị trường quốc tế. Đây cũng là tiền đề thuận lợi tiến đến công ty cổ phần đa quốc gia. Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả tăng cường phát triển đất nước nâng cao thu nhập của người lao động góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã tách biệt rõ ràng quyền sở hữu và quyền kinh doanh, hành vi của chính quyền và hành vi của doanh nghiệp được hợp lý hoá một cách rõ nét. Sự can thiệp trực tiếp của các chính quyền vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ giảm đến mức thấp nhất. Thông qua việc mua cổ phần, người lao động mới có điều kiện để thực hiện trên thực tế quyền làm chủ đích thực của mình, với tư cách là cổ đông họ tham gia cùng với các cổ đông khác quyết định chiến lược phát triển công ty, tham gia quản lý, phân chia lợi nhuận, sáp nhập, giải thể công ty, lựa chọn hội đồng quản trị. Tạo mọi điều kiện cho những người góp vốn và người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp bằng cổ phiếu của mình. Xét cho cùng đây chính là để thực hiện công bằng xã hội, là mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội và cũng là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy mục tiêu hàng đầu của cổ phần hoá là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những người chủ sở hữu tài sản. Huy động thêm vốn bằng bán cổ phần và phát hành cổ phiếu là điều kiện cần thiết để tạo thành những người chủ đích thực của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào sử dụng vốn hiện có và vốn huy động thêm. 2.Sự cần thiết phải cổ phần hoá Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hình thành từ thời quản lý tập trung bao cấp, khi chuyển sang cơ chế thị trường lại thiếu sự kiểm soát chặt chẽ việc thành lập nên phát triển tràn lan. Một bộ phận quan trọng doanh nghiệp nhà nước không đầy đủ điều kiện tối thiểu để hoạt động như: thiếu vốn, trang thiết bị quá đơn sơ, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng, những đặc điểm trên đây đã chi phối phương hướng bước đi và biện pháp trong quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã đạt được kết quả hết sức khả quan, song cũng bộc lộ những mặt yếu kém cơ bản, khó có thể khắc phục được nếu không thực hiện các giải pháp cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, cổ phần hoá nhằm đạt được những mục đích sau: Thứ nhất: Cổ phần hoá nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Qua nghiên cứu tổng quan kinh tế quốc doanh của Việt Nam trong những năm qua, các nhà kinh tế đã có những nhận xét là hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn thấp chưa tương xứng với phần đầu tư của nhà nước. Có thể minh hoạ nhận xét này qua một vài chỉ tiêu cụ thể sau đây: Tính đến năm 2001 hầu hết các bộ, nghành, địa phương đã sắp xếp lại một loạt các doanh nghiệp nhà nước trong toàn quốc nhưng chỉ có 40/% doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi, số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ là 29%, còn lại tức là khoảng 31/% ở trạng thái không có lãi hoặc lãi không đáng kể trong điều kiện phần lớn các doanh nghiệp này vẫn được nhà nước bao cấp phần lớn vốn và tiêu thụ sản phẩm. Tuy số đầu doanh nghiệp nhà nước được thu gọn lại ( năm 1989 là 12.089 doanh nghiệp đến năm 2001 còn 5.500 doanh nghiệp) nhưng tổng số vốn do nhà nước cấp cho các doanh nghiệp nhà nước lại tăng gấp đôi, song sự đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước vào GDP vẫn ở mức thấp. Tỷ trọng hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí sáng tạo ra một phần thu nhập quốc dân thường cao gấp 2 lần so với kinh tế tư nhân. Mức tiêu hao vật chất của doanh nghiệp nhà nước trong sản xuất một đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường gấp 1,3 lần so với mức trung bình trên thế giới. Ví dụ: Sản phẩm hoá chất là 1,88 lần, sản phẩm cơ khí là 1,5 lần. Mức tiêu hao năng lượng của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng cao hơn mức trung bình trên thế giới. Ví dụ: Hoá chất là 1,44 lần, than là 1,75 lần. Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp thấp và không ổn định. Trung bình khu vực kinh tế chỉ có khoảng 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; 65% đạt tiêu chuẩn dưới trung bình để tiêu dùng nội địa; 20% sản phẩm kém chất lượng. Do đó, hiện tượng hàng hoá ứ đọng làm hơn 10% vốn lưu động toàn xã hội không luân chuyển thường xuyên. Hệ số tính lời của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp. Một đồng vốn trong doanh nghiệp nhà nước chỉ làm ra lợi nhuận trước thuế chưa đến 0,1 đồng Hiệu qủa khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp. Trong những năm gần đây, một năm nhà nước dùng hơn 70% vốn đầu tư ngân sách cho các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp này sử dụng lao động có trình độ đại học, công nhân kĩ thuật lành nghề, phần lớn tín dụng ngân hàng thương mại quốc doanh, song chỉ sáng tạo được khoảng 40% tổng sản phẩm xã hội. Thêm vào đó, nhà nước có hàng loạt chính sách bù giá, bù lương, bù chênh lệch ngoại thương và hàng loạt các khoản bao cấp khác cho doanh nghiệp nhà nước khiến gánh nặng tài chính và các khoản vay nợ của nhà nước ngày càng nặng nề và trầm trọng. Tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả thấp xuất phát từ chỗ: Cơ chế quản lý doanh nghiệp đã có đổi mới nhưng đổi mới đó chưa thích ứng với điều kiện chuyển nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp nhà nước vẫn được hình thành và phát triển trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân sách nhà nước và do đó tất cả các hoạt động vẫn chịu kiểm soát và chi phối trực tiếp của nhà nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được xem là giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước và mang lại lợi ích cho nhà nước. Có thể thấy rõ lợi ích của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước qua các mặt sau đây: Cổ phần hoá sẽ tạo ra hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cao hơn doanh nghiệp nhà nước chưa cổ phần hoá, lợi nhuận thu được từ một đồng vốn cao hơn so với đầu tư của nhà nước. Ví dụ: Một đồng vốn do nhà nước đầu tư chỉ làm ra lợi nhuận trước thuế không đến 0,1 đồng. Nhưng một đồng vốn ở doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá thì thu được tới 0,2 đồng lãi Bằng việc bán một phần sở hữu của mình nhà nước có thể đầu tư vốn vào các ngành kinh tế khác cần thiết hoặc có lợi hơn. Nhờ việc tham gia vào quản lý công ty cổ phần mà nhà nước đào tạo được một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế của nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường. -Thứ hai: Cổ phần hoá để tạo phương thức tạo vốn của các doanh nghiệp nhằm đáp ứng ngày càng lớn về vốn trong các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Thực tế chứng minh rằng khả năng huy động vốn của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường không đáp ứng đưọc nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế. Về vốn lưu động: Phần lớn doanh nghiệp nhà nước chỉ mới bảo đảm được 10% so với yêu cầu tối thiểu của nhà nước cần đầu tư là 30%, nhiều doanh nghiệp nhà nước không vay được vốn dài hạn để đầu tư chiều sâu, mở rộng mặt hàng và quy mô sản xuất họ phải vay vốn ngắn hạn với lãi suất cao để đầu tư vào sản xuất nên kém hiệu quả, khó hoàn lại vốn và không có khả năng trả nợ khi đến hạn, từ đó lầm vào tình trạng khó khăn về tài chính. Về vốn cố định: Nhiều nhà kinh tế đã chứng minh sự lạc hậu về máy móc thiết bị và dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay là trình độ của thế giới cách đây từ 15 đến 20 năm. Mức trang bị vốn cố định cho một người lao động của nước ta rất thấp, chỉ bằng 13% của các xí nghiệp vừa và nhỏ trong khu vực. Mức hao mòn hữu hình từ 30% đến 50% hàng năm, thậm chí có 30% đến 38% máy móc thiết bị đang ở dạng chờ thanh lý. Trừ một số dây chuyền hiện đại mới nhập còn phần lớn công nghệ vẫn ở trình độ thấp. Điều đáng quan tâm là số nợ hàng ngàn chục tỷ đồng vay trong và ngoài nước mà nghĩa vụ trả nợ lại chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Do tình trạng nợ nần khá phổ biến lại dây dưa khó đòi nên tài chính của các doanh nghiêp rất khó lành mạnh hoá, cản trở sự phát ._. diễn ra như một quá trình gồm nhiều giai đoạn: Chuẩn bị các điều kiện về mặt tổ chức, lựa chọn các mục tiêu, phương pháp thực hiện, kiểm soát và điều chỉnh. Trên thực tế không có sự phân định rõ ràng, chắc chắn giữa các giai đoạn. Quan điểm cổ phần hoá là một quá trình nhiều giai đoạn có ý nghĩa chỉ đạo về mặt thực tiễn, đó là: -Nó truyền đạt một cách rõ ràng và dễ hiểu những biện pháp và nhiệm vụ cơ bản, phức tạp đến những người còn chưa quen với cổ phần hoá. -Nó cho phép các nhà phân tích, hoạch định và phối hợp chính sách, lượng định được những gì sẽ sảy ra trong giai đoạn kế tiếp. -Nó cho thấy cần phải gạt bỏ những ảo tưởng nóng vội”muốn làm tất cả cùng một lúc” của những người cực đoan và khuyến khích tính thận trọng với các giải pháp trình tự hợp lý. -Tính quá trình đó bao hàm cả việc di chuyển một cách liên tục sở hữu nhà nước sang sở hữu của các thành phần kinh tế khác cả về vi mô lẫn vĩ mô. Đối với nước ta: Cần phải xác định tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ là một quá trình lâu dài, vừa rút kinh nghiệm có những bước đi cụ thể phối hợp, trong hoàn cảnh điều kiện nước ta hiện nay thì đây thực sự là một công việc đầy khó khăn phức tạp đòi hỏi phải được thực hiện trong nhiều năm. Vì vậy, quán triệt quan điểm quá trình trong việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta là rất cần thiết. III. Điều kiện đẩy nhanh tốc độ và kết quả đạt được của quá trình cổ phần hoá. Cổ phần hoá là một trong những giải pháp quan trọng để tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước nhằm hoạt động có hiệu quả hơn. Đây là một quá trình phức tạp lâu dài, tương đối mới trong nền kinh tế nước ta. Để đẩy nhanh tối đa cổ phần hoá , đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch, chỉ tiêu cổ phần hoá mà Chính phủ đề ra chúng ta phải chủ động tạo lập các điều kiện sau: 1.ổn định tiền tệ. ổn định tiền tệ, giảm tốc độ lạm phát là điều kiện quan trọng nhất cho việc hình thành và phát triển công ty cổ phần. ổn định tiền tệ là một điều kiện quan trọng cho sự ra đời của công ty cổ phần, ổn định tiền tệ là yếu tố tác động đến nền kinh tế. Sự ổn định tiền tệ sẽ thúc đẩy sự ra đời của các doanh nghiệp mới trong đó có công ty cổ phần, những doanh nghiệp mới ra đời có nghĩa là một khối lượng tiền tệ trong xã hội được di chuyển vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy, cần có những chính sách kinh tế vĩ mô tạo điều kiện ổn định tiền tệ, kích thích tiết kiệm và chuyển tiết kiệm vào hoạt động đầu tư, vì thực chất người mua cổ phiếu là đầu tư tài chính với mục đích lợi nhuận cao. Lạm phát từ lâu đã là căn bệnh chung của nền kinh tế thị trường, lạm phát cao hạn chế khả năng phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp và gây khó khăn cho việc tính toán và hoạch định các phương án kinh doanh thiếu chính xác. Trong trường hợp này các doanh nghiệp sẽ khó có thể tránh khỏi những rủi ro có thể sảy ra ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hoá. Vì vậy, giảm lạm phát là vấn đề hàng đầu trong mục tiêu và chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước và cũng là một trong những biện pháp thúc đẩy nhanh sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần. 2.Xây dựng môi trường pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của các công ty cổ phần. *Mục đích của việc xây dựng môi trường pháp lý. -Về khách quan: Xét trên tầm quản lý vĩ mô, các công ty cổ phần cũng như các bộ phận khác của nền kinh tế đều phải chịu sự điều tiết của nhà nước thông qua các công cụ quản lý được thể chế hoá bừng pháp luật. Với những công cụ này, nhà nước một mặt tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh tế khai thác những thế mạnh, những ưu thế của mình để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, mặt khác nó hạn chế những hoạt động nào không phù hợp với lợi ích của đất nước. Dù trong bất kỳ giai đoạn nào, sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật “bàn tay vô hình “đối với nền kinh tế thị trường cũng hết sức quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế cũng như các đơn vị kinh tế cơ sở. -Về chủ quan: Sự hình thành và hoạt động của các công ty cổ phần đòi hỏi phải có tiền đề pháp lý nhằm: Một là: Bảo đảm cho công ty cổ phần được hình thành và phát triển theo những nguyên tắc và trật tự nhất định, điều chỉnh các chức năng và hoạt động của nó thích ứng với mỗi thời kỳ phát triển kinh tế. Hai là: Bảo đảm cho công ty cổ phần phát triển bình thường, ổn định và có hiệu quả, từ đó góp phần vào việc thực hiện những phương hướng mục tiêu chung của nền kinh tế. Ba là: Bảo đảm mối quan hệ qua lại hợp lý của các công ty cổ phần với những bộ phận khác của nền kinh tế thị trường. Điều quan trọng là môi trường pháp lý dược xác lập phù hợp với những quan hệ xã hội nảy sinh trong quá trình hình thành và phát triển công ty cổ phần công ty cổ phần để đảm bảo tính thực tiễn hiệu quả của pháp luật. Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế và xác lập nên kinh tế thị trường nói chung, cũng như để tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước ta cần phải hướng dẫn kịp thời Luật doanh nghiệp ban hành năm 1999. -Luật đầu tư tư nhân: Để tạo điều kiện cho quá trình cổ phần hoá ở nước ta tránh được những khó khăn vấp váp, ổn định tâm lý dân chúng và người nước ngoài muốn đầu tư vào các doanh nghiệp được cổ phần hoá nhà nước cần hướng dẫn luật đầu tư tư nhân nói chung trong đó, có việc tư nhân tham gia cổ phần hoá . Đạo luật này quy định những nguyên tắc chung trong quá trình thực hiện tư nhân hoá, chẳng hạn: phân loại các doanh nghiệp nhà nước cần tư nhân hoá, các quy chế pháp lý và các nguyên tắc đánh giá doanh nghiệp, những nguyên tắc bảo vệ quyền lợi quốc gia, việc bán cổ phiếu cho tư nhân, cho người nước ngoài, đặc quyền của nhà nước, chính sách cổ đông và công chúng ngoài doanh nghiệp, quyền ưu tiên cho cán bộ công nhân viên doanh nghiệp nhà nước muốn trở thành cổ đông, các phương thức tư nhân hoá. -Luật chứng khoán: Công ty cổ phần ra đời và hoạt động trong mối liên hệ mật thiết với thị trường vốn và các chủ thể tham gia thị trường đó. Để điều hoà các mối quan hệ này cần hướng dẫn luật thị trường vốn. Luật thị trường vốn là đạo luật quy định các hoạt động về phát hành, mua bán chuyển nhượng chứng khoán.Luật thị trường vốn bao gồm hai phần: Phần thứ nhất: Xác định những quy chế pháp luật cụ thể về chứng khoán, các điều kiện, thể thức và trình tự thực hiện việc phát hành mua bán, chuyển nhượng chứng khoán. Phần thứ hai: Quy định trách nhiệm đối với những hành vi vi phạm lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường như giả mạo chứng từ, thao túng thị trường, chèn ép và gây áp lực đối với cổ đông. -Luật về sở giao dịch chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán là nơi tập trung các giao dịch chứng khoán là “trái tim “ của thị trường vốn. Luật sở giao dịch chứng khoán bao gồm các điều kiện về vai trò, chức năng của sở, quy định về mức vốn pháp định, về phương thức tổ chức cũng như quy chế hoạt động của sở, những điều kiện và nguyên tắc tham gia vào hoạt động của sở, chế độ làm việc, chức năng thông tin của sở. Ngoài ra, nhà nước nên có sự nghiên cứu và ban hành một bộ luật đặc biệt để làm cơ sở căn bản cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đó là luật chuyển đổi sở hữu nhà nước. Quá trình cổ phần hoá không mang tính chất tạm thời trong một giai đoạn nhất định cũng như không thể diễn ra quá trình quốc hữu hoá các công ty cổ phần. Luật chuyển đổi sở hữu nhà nước ban hành sẽ khẳng định sự cam kết của nhà nước đi theo con đường phát triển nền kinh tế thị trường, tạo những điều kiện pháp lý cần thiết cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đạo luật này cũng sẽ quy định những nguyên tắc chung thể hiện về mặt pháp lý quan điểm nhất quán của nhà nước, trong các vấn đề như doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành hoặc lĩnh vực nào được cổ phần hoá và có sự tham gia của khu vực tư nhân, quy trình định giá doanh nghiệp và phương thức tiến hành cổ phần hoá, hệ thống tổ chức quyết định và thi hành cổ phần hoá, quản lý và sử dụng các nguồn vốn cũng như xử lý các hành vi lạm dụng, cố ý làm trái nguyên tắc... Bên cạnh luật doanh nghiệp nhà nước, luật chuyển đổi sở hữu nhà nước sẽ đóng vai trò đảm bảo về mặt pháp lý cho bước trung gian chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật đương nhiên đòi hỏi phải có thời gian, bởi vì nó không chỉ phụ thuộc vào mức độ phát triển các đối tượng của luật mà còn phụ thuộc vào trình độ, năng lực pháp lý ở nước ta. Do đó, trong khi chưa thể ban hành luật đầy đủ và hoàn thiện các đạo luật cần thiết nhà nước cần đưa ra các quy định dưới luật nhằm tạo điều kiện pháp lý để triển khai quá trình cổ phần hoá và hình thành thị trường vốn ở nước ta trong thời gian sắp tới. 3 Thị trường chứng khoán và công ty cổ phần Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán, các giấy ghi nợ trung và dài hạn. Thị trường này cung ứng các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư dài hạn chủ yếu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán gồm hai bộ phận: Thị trường sơ cấp: Là thị trường phát hành các chứng khoán mới. Thị trường thứ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán đã phát hành. Trong việc sản xuất kinh doanh, mọi yếu tố của sản xuất đều được quy về tiền vốn, vốn là tiền đề cho sự phát triển kinh tế. Hoạt động của thị trường chứng khoán nhằm thu hút tiền vốn của công chúng, sau đó dùng tiền này để đầu tư các lĩnh vực để thu lợi nhuận. Nhờ có thị trường chứng khoán nguồn vốn trong xã hội được phân phối một cách có hiệu quả, giúp cho công chúng giảm tối thiểu các rủi ro trong việc lựa chọn và giữ các loại chứng khoán, đồng thời nguồn vốn thực tế được đầu tư vào kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. Cho nên, có thể nói trị trường vốn là yếu tố cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường, có tác dụng tích cực trong việc cung ứng kịp thời cho các nhu cầu về vốn của nền kinh tế thông qua việc mua bán, chuyển nhượng các chứng khoán có giá trị và có ý nghĩa quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế ở nước ta. ở nước ta, tuy đã có các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư phát triển sau khi chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ một cấp thành hai cấp, nhưng phương thức và phương pháp hoạt động còn chưa đổi mới kịp với những đòi hỏi của thị trường vốn trong xã hội. Hệ thống các quỹ tín dụng và ngân hàng cổ phần mới ra đời và hoạt động trong thời gian ngắn, chưa đủ thực lực và kinh nghiệm để làm điều kiện cho các công ty cổ phần ra đời và hoạt động. Như vậy, cần tiếp tục củng cố và tiếp tục đổi mới hoạt động của ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển và các quỹ tín dụng để làm nòng cốt cho việc tổ chức bước đầu phát hành chứng khoán cho các công ty, thực hiện các nhiệm vụ về mua bán chứng khoán, lựa chọn các cơ hội đầu tư và phân tán rủi ro... Nhà nước cần thành lập một công ty tài chính quốc gia có trách nhiệm quản lý, sử dụng và kinh doanh nguồn vốn thuộc sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá. Công ty này sẽ góp phần quan trọng cho sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán, đồng thời cũng là một công cụ điều tiết của nhà nước đối với hoạt động của thị trường này. Sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính. Đây là một sự kiện quan trọng có ý nghĩa đối với nền kinh tế, mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn. Việc đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động vừa tạo ra cơ hội, đồng thời cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp. Với tính ưu việt của thị trường, sẽ khuyến khích các chủ thể tham gia phải tự đổi mới, cải tiến phương thức quản trị công ty để tạo sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế. Nghị định 48/1998/ND-CP là văn bản pháp lý cao nhất về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhưng khi triển khai cũng gặp một số hạn chế nhất định; chưa phân định rõ về phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết chứng khoán; chưa phân định cụ thể vai trò của trung tâm giao dịch chứng khoán và uỷ ban chứng khoán nhà nước trong việc giám sát quản lý thị trường; mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ chưa rõ ràng và thiếu tính hiện thực; một số chính sách về quản lý tài chính và hạch toán kế toán đối với công ty cổ phần chưa được ban hành đồng bộ; quy định về chính sách thuế và quản lý ngoại hối đối với các nhà đầu tư nước ngoài chưa được ban hành. Ngày 20/7/2000 trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một trong những yếu tố quan trọng trong việc tạo ra nguồn hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Hoạt động thị trường chứng khoán phát triển cũng sẽ thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá và ngược lại 4.Kết quả đạt dược của quá trình hực hiện cổ phần hoá Tính từ ngày 08/06/1992 Chính phủ ra QĐ số 202/CT chọn và trực tiếp chỉ đạo thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, đến tháng 4/2002 cả nước có 774 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. Thành phố Hồ Chí Minh là tỉnh đi đầu trong cả nước trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đây là thành phố triển khai tích cực, vững chắc và có hiệu quả nhất, một mẫu hình cho công tác chỉ đạo thực hiện để cả nước học tập. Bên cạnh đó còn có nhiều bộ , tổng công ty và địa phương chưa triển khai cổ phần hoá: 10 trong số 61 địa phương, 12 trong số 21 bộ nghành và 6 trong số tổng công ty 91 chưa có đơn vị nào thực hiện cổ phần hoá hoặc thực hiện rất chậm như: ở tổng công ty hoá chất Việt Nam theo phương án đã được Chính phủ phê duyệt thì đến cuối năm 2000, tổng công ty phải cổ phần hoá 4 công ty và 3 bộ phận công ty, sau năm 2000 sẽ tiếp tục cổ phần hoá 14 công ty nữa và sẽ sắp xếp hoặc chuyển hướng sản xuất 4 công ty thành viên. Nhưng đến đầu năm 2000 tổng công ty mới cổ phần hoá được 3 đơn vị Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá đều ăn nên làm ra. Theo kết quả sơ bộ của hơn 200 công ty cổ phần hoạt động trên một năm cho tấy doanh thu tăng 43%, lợi nhuận tăng hơn 100%, nộp ngân sách tăng 18%, lao động tăng 5%, thu nhập tăng 22%. Có một số công ty cổ phần có doanh thu tăng rất cao như: Đại lý liên hiệp vận chuyển từ 16,6 tỷ đồng lên 255 tỷ đồng; Bông Bạch Tuyết từ 55 tỷ đồng lên 86,6 tỷ đồng; Bánh kẹo Biên Hoà từ 78,8 tỷ lên 157,6 tỷ đồng; Cao su Sài Gòn từ 2,31 tỷ lên 23 tỷ đồng tỷ đồng... Các công ty có mức tăng nộp ngân sách cao đó là: Đại lý liên hiệp vận chuyển từ 5,1 tỷ đồng lên 69 tỷ đồng; Bông Bạch Tuyết từ 6,9 tỷ đồng lên 18,5 tỷ đồng; Cao su Sài Gòn từ 3,99 tỷ đồng lên 14,4 tỷ đồng...Người lao động ở một số công ty cổ phần có thu nhập bình quân hàng tháng tăng khá, điển hình như ở công ty bông Bạch Tuyết: từ 2,8 tiệu đồng lên 3,3 triệu đồng... Có thể nói việc chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần đã đem lại kết quả hết sức khả quan đối với tình hình kinh tế, tài chính của bản thân doanh nghiệp. Có thể tổng kết bươc đầu những kết quả ở phạm vi doanh nghiệp khi thực hiện chủ trương cổ phần hoá như sau: Thứ nhất: Vấn đề hiệu quả đồng vốn được quan tâm hơn. Việc phân bố vốn trong quá trình kinh doanh trong quá kinh doanh được tất cả các doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần chú ý đúng mức, vì vậy tăng được số vòng quay của vốn, xây dựng được tỷ lệ tối ưu về vốn, giảm sản phẩm dang dở, thành phẩm và sản phẩm tiêu thụ tăng, đưa nhanh các tiến bộ kĩ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh. Thứ hai: Các doanh nghiệp tham gia tích cực vào thị trường trong tất cả mọi phương diện kinh doanh, coi thị trường là suất phát điểm, đồng thời là đối tượng của mọi chủ trương đầu tư, kế hoạch tổ chức sản xuất, hoạch định chiến lược kinh doanh. Trong quá trình nước ta đang chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường thì việc các doanh nghiệp nhận thức được vai trò của thị trường như trên là một kết quả hết sức quan trọng. Thứ ba: Bằng hình thức cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, một nhà nước thu được một phần vốn đầu tư của mình, mặt khác tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển nguồn vốn kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, thực tế cho ta thấy chưa có một doanh nghiệp nào khi hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần mà tổng số vốn ban đầu giảm xuống mà luôn luôn có xu hướng tăng lên chứng minh kết quả tích cực của chủ trương chuyển các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Thứ tư: Người lao động trong doanh nghiệp trưởng thành một bước quan trọng cả về mặt nhận thức, vai trò và trình độ của mình khi tham gia vào quản lý công ty. Họ coi vấn đề dân chủ trong phương hướng tổ chức sản xuất kinh doanh của giám đốc và hội đồng quản trị là những vấn đề liên quan đến lợi ích kinh tế thiết thực của họ. Vì vậy không còn thái độ thờ ơ, lãnh đạm hoặc thái độ là người lao động làm công ăn lương như trước kia nữa. IV. Một số khuyến nghị nhằm đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá ở nước ta. Nhìn lại công tác đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước và tình hình thực thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, chúng ta có thể đánh giá rằng bức tranh cổ phần hoá đã bắt đầu xuất hiện nhiều điểm sáng. Công ty cổ phần đã được chính phủ chú trọng và quan tâm chỉ đạo, đã thu được những kết quả đáng khích lệ tuy chưa phải là toàn diện cả về mặt cơ chế chính sách lẫn công tác tổ chức bộ máy chỉ đạo. Tốc độ thực hiện còn chậm, số lượng doanh nghiệp nhà nước đăng ký và chuyển sang công ty cổ phần còn ít. Kết quả cổ phần hoá trong năm 2001 vừa qua đạt kết quả thấp chỉ cổ phần hoá được 149 doanh nghiệp (theo dự kiến là từ 250 đến 300 doanh nghiệp) Mặc dù phía trước còn rất nhiều khó khăn đang chờ đợi. Theo dự kiến của ban quản lý đổi mới doanh nghiệp trung ương, số lượng doanh nghiệp nhà nước sẽ được cổ phần hoá và chuyển đổi hình thức sở hữu đến năm 2005 là trên 2500 doanh nghiệp. Nếu so với số doanh nghiệp đã được cổ phần hoá từ trước tới nay thì đây là một mục tiêu khá táo bạo, để thực hiện được đòi hỏi phải có những giải pháp hợp lý. Vì vậy chúng ta cần triển khai đồng bộ một số công việc sau: 1.Về công tác xây dựng chính sách cổ phần hoá Nghị định 44/CP về cổ phần hoá thay thế Nghị định 28/CP mặc dù đã khắc phục được một số điểm bất cập trong nghị định này nhưng cho đến Nghị định 44/CP cũng đã bộc lộ những mặt yếu kém. Vì vậy cần có một Nghị định mới nhằm thay thế Nghị định 44/CP, để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ cần sớm ban hành quy chế bán cổ phần hoá cho người nước ngoài. Đây là biện pháp phức tạp để huy động vốn, công nghệ và học hỏi những phương pháp quản lý tiên tiến của nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, tăng thêm nguồn lực để phát triển đất nước. Đây là vấn đề mới, cần cân nhắc thận trọng, vừa đảm bảo quyền lợi của nhà nước trong doanh nghiệp cũng như quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài, tránh tình trạng ban hành rồi lại tiến hành sửa đổi nhiều lần, gây mất lòng tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Cần khẩn trương thành lập quỹ hỗ trợ cổ phần hoá theo hướng sẽ tư vấn kỹ thuật, trợ giúp tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Chức năng của quỹ sẽ tập trung vào giải quyết những hậu quả nảy sinh từ quá trình sắp sếp lại doanh nghiệp nhà nước như giải quyết việc làm và trợ cấp tài chính cho lao động dôi dư, hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết những tồn đọng về tài chính trước khi cổ phần hoá. Chuẩn bị những hướng dẫn cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia của các doanh nghiệp cổ phần hoá vào thị trường chứng khoán. Cho phép các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán 2.Về công tác tổ chức thực hiện Tiếp tục kiện toàn và củng có bộ máy chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá, bảo đảm tất cả các bộ, địa phương và tổng công ty đều có bộ máy chỉ đạo công tác cổ phần hoá. Tăng cường công tác giám sát, đôn đốc và phối hợp công tác giữa ban chỉ đạo trung ương với ban đổi mới doanh nghiệp cơ sở. Nâng cao chất lượng cán bộ chỉ đạo, đảm bảo cán bộ cơ sở có thể giải quyết nhanh những vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện cổ phần hoá ở từng doanh nghiệp. Tiến hành tổng kết và rút kinh nghiệm về thực hiện kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước năm 2001 làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện các biện pháp nhằm hoàn thành kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước năm 2002. Trên cơ sở quy hoạch chương trình tổng thể quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, các cấp lãnh đạo các bộ, nghành địa phương, tổng công ty cần có kế hoạch triển khai nhanh chóng các bước trong phương án cổ phần hoá các doanh nghiệp đã được chính phủ phê duyệt, tập trung chỉ đạo công tác cổ phần hoá tại một số bộ, địa phương như: Bộ công nghiệp, Bộ thuỷ sản...,Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổ chức đẩy mạnh công tác tuyên truyền chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để nâng cao sự hiểu biết của quần chúng nhân dân về lợi ích của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 3.Về công tác có một chính sách hỗ trợ hợp lý về vốn. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong vài năm trở lại đây có những chuyển biến rõ rệt nhờ chính sách khuyến khích, hỗ trợ của nhà nước, đặc biệt từ khi có nghị định số 44/CP ngày 29/06/1998 của chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Tuy nhiên trong quá trình này cũng nảy sinh nhiều vấn đề cần phải giải quyết không những trước và trong khi cổ phần hoá cả khi công ty đã đi vào hoạt động. Một trong những vấn đề đó là những khó khăn của các công ty cổ phần khi tìm kiếm nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy, việc thay đổi hình thức sở hữu đã và đang kéo theo sự thay đổi mà có thể gọi là chính sách đối sử. Trước khi cổ phần hoá, các doanh nghiệp thuộc hình thức sở hữu nhà nước nên khi vay vốn doanh nghiệp được ngân hàng tập trung đầu tư hơn, nhất là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Đi kèm theo chính sách này là các quy định ưu đãi về tài chính và tài sản như không phải cầm cố thế chấp tài sản khi vay vốn, nếu hoạt động kinh doanh đang thua lỗ nhưng dự án kinh doanh khả thi, giúp khắc phục tình trạng tài chính hiện tại và ngân hàng có khả năng thu nợ thì vẫn được xem xét cho vay. Sau khi cổ phần hoá, doanh nghiệp trở thành công ty cổ phần thì các chính sách này không được áp dụng nữa. Khi vay vốn, điều kiện đầu tiên là doanh nghiệp cần có tài sản để thế chấp cầm cố, phải có kết quả kinh doanh tốt và dự án kinh doanh khả thi. Khó khăn ở đây là đa số các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, trì trệ, cần phải thay đổi phương thức sở hữu để tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Tài sản của doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá không lớn, máy móc nhà xưởng thiết bị thường cũ kỹ lạc hậu. Do vậy, khi thẩm định tài sản thế chấp cầm cố, các ngân hàng thường đánh giá tài sản này rất thấp và có nhiều rủi ro. Rõ ràng là đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá, các cơ quan có thẩm quyền cần lưu tâm hơn nữa đến vấn đề này. Việc cổ phần hoá có hiệu quả không chỉ giải quyết tốt việc chuyển đổi sở hữu, không chỉ là việc củng cố lại phương thức quản lý và kinh doanh trên lý thuyết, mà cần phải có một chính sách hỗ trợ hợp lý về vốn. 4.Về công tác khác nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố giao cho Bộ, Sở văn hoá thông tin chủ trì phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc cổ phần hoá . Ngoài ra tổ chức các lớp tập huấn về chính sách của Đảng và Nhà nước đến các đối tượng: giám đốc, kế toán trưởng, chủ tịch công đoàn các doanh nghiệp Cần có sự tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sản xuất. Hiện tại vẫn còn sự can thiệp sâu, trực tiếp của cơ quan nhà nước trên các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đây là thói quen được hình thành từ thời bao cấp. Việc can thiệp này thường gắn với lợi ích kinh tế nên chính nó là lực cản của quá trình cổ phần hoá. Để các doanh nghiệp tự chủ trong việc kinh doanh, tận dụng thời cơ, thời điểm kinh doanh thích hợp nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho cả công ty, cơ quan cấp trên tức cơ quan quản lý Nhà nước chỉ thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, chỉ can thiệp khi có trục trặc cần thiết. Vấn đề ở đây là phải thay đổi vai trò của Nhà nước từ cơ quan quản lý sang cổ đông khi cổ phần hoá phải thuyết phục khách hàng trên thị trường về tính xác đáng của các dự án được đưa ra thảo luận tại hội đồng quản trị Tạo lập một chế độ tài chính bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Không nên duy trì đặc ân riêng cho bộ phận kinh doanh nào như ưu đãi về sử dụng đất, về thuế xuất; nhập khẩu, về quyền vay trả lãi cho các tổ chức tín dụng, quyền miễn giảm các loại thuế, các khoản tài trợ, bù lỗ làm giảm khả năng của doanh nghiệp. Phải thay vì việc khuyến khích lên danh sách các doanh nghiệp sẽ tiến hành cổ phần hoá như trước đây thì nay các Bộ, ngành, địa phương, chỉ xác định những doanh nghiệp duy trì sở hữu nhà nước. Như vậy, tất cả các doanh nghiệp khác đều phải tự động lên kế hoạch cổ phần hoá hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu. Không nên giới hạn tỷ lệ cổ phần bán cho cá nhân hay pháp nhân, trong hay ngoài nước, có thể bán cho mọi đối tượng miễn là phải đảm bao cơ cấu cổ đông theo luật doanh nghiệp vì: nó giúp làm tự do hoá thị trường, kích cầu cổ phiếu (vì nhiều người mua hơn sẽ đẩy giá cổ phần lên cao hơn, Nhà nước sẽ thu lợi nhiều hơn) Thống nhất quy định mọi doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá đều phải được định giá qua một công ty kiểm toán độc lập không do doanh nghiệp chọn nhằm loại bỏ tính chủ quan và ảnh hưởng của những người lãnh đạo doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. Nên quy định một tỷ lệ cổ phiếu dành riêng cho người lãnh đạo doanh nghiệp (có thể tăng hoặc bán rẻ). Chúng ta biết rằng giá cổ phiếu phụ thuộc nhiều vào phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mà phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì do ban cổ phần hoá doanh nghiệp lập ra. Với tỷ lệ cổ phần được xem như là phần thưởng sẽ tạo động lực thúc đẩy họ hăng say làm việc Chính phủ nên cho phép các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán vì thị trường này sẽ kiểm định lại những đánh giá của các công ty kiểm toán về giá trị doanh nghiệp, vả lại việc phát hành trên thị trường này có những ưu điểm nổi bật hơn tất cả các thị trường khác. Kết luận Trong điều kiện chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường đã đặt ra những khó khăn thử thách cho doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước việc thích ứng được với cơ chế thị trường là một vấn đề hết sức nan giải. Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp nhà nước đều được nhà nước bao cấp từ đầu vào cho đến đầu ra, nên cơ chế quản lý không có tính năng động và sáng tạo, việc sử dụng đầu vào không cần phải tính toán đến hiệu quả sản xuất gây nên lãng phí ngân sách nhà nước mà sản phẩm đầu ra lại đạt chất lượng thấp. Để thích ứng với cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp nhà nước phải chấp nhận sự cạnh tranh lành mạnh trong thị trường. Do đó, yêu cầu phải đổi mới phương thức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp này là một yêu cầu cấp thiết. Sau khi nghiên cứu tình hình các doanh nghiệp trong nước và học hỏi kinh nghiệm những nước có điều kiện kinh tế xã hội gần giống ta Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạn đưa ra giải pháp cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Đây là một phương thức đổi mới phương thức quản lý vốn, tạo ra hiệu quả cao cho đồng vốn đưa vào sản xuất, tạo sự chủ động sáng tạo cho đội ngũ cán bộ công nhân viên của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong nền kinh tế thị trường, với định hướng đó, Chính phủ đã ra quyết định 202/CT. Ngày 08/06/1992 về việc thí điểm cổ phần hoá và các giải pháp đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Cho đến nay đã có khoảng 774 doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá và các doanh nghiệp này đã phần nào đạt được kết quả tốt trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là một kết quả đáng khích lệ. Mặc dù có những thành tựu kể trên nhưng trên thực tế quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn vì nhiều nguyên nhân khác nhau như việc xác định giá trị doanh nghiệp, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá ...Để điều chỉnh các vấn đề này đòi hỏi Nhà nước phải sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật mục đích dần hoàn thiện một khung pháp lý đầy đủ để điều chỉnh hoạt động chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Đặc biệt trong giai đoạn mới 2002- 2005 nhằm đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Để giải quyết một số tồn tại trước mắt tạo tiền đề thuận lợi cho quá trình cổ phần hoá trong tương lai em có đưa ra một số giải pháp như đã trình bày trong bài khoá luận này. Em hy vọng các giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong những năm tiếp theo. tài liệu tham khảo 1.Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần PTS: Đoàn Văn Hạnh 2.Hoạt động của kinh tế thị trường và vai trò của Nhà nước-nhà xuất bản Hà Nội 1993 3.Phát triển các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh doanh ở nước ta hiện nay: GS, PTS Vũ Đình Bách-Ngô Đình Giao. Nhà xuất bản chính trị quốc gia- Hà Nội 1997 4.Luật doanh nghiệp 1/1/2000 5.Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/1998 của Chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần 6.Giáo trình luật kinh tế: Trường đại học luật năm 2000 7.Tài liệu tập huấn về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước-Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp 1998 8.Nguyễn Hoàng Anh: Doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Báo chứng khoán Việt Nam số 2- tháng 2 năm 2002 9.Cổ phần hoá vì lợi ích của nhân dân. Báo công nghiệp hoá chất- số 3/2002 10.TS Nguyên Văn Quảng: Sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Báo kinh tế và dự báo- số 3/2002 11.Phạm Hoài Thanh: Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước quá chậm, kết quả và những vấn đề phải tiếp tục giải quyết. Thời báo kinh tế Việt Nam số 29 ngày 8/3/2002 12. Lê Hoàng Hải: Một vài vướng mắc trong việc thực hiện chính sách ưu đãi và hỗ trợ đối với doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu. Báo tài chính tháng 1+2 năm 2002 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0204.doc
Tài liệu liên quan