Lời mở đầu
Con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế xã hội mà sức khoẻ là một yếu tố quan trọng tạo nên một con người có ích cho xã hội. Bác Hồ đã từng nói: “ ... giữ gìn sức khoẻ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần phải có sức khoẻ mới thành công... Chính phủ Việt Nam cũng có quan điểm rằng con người là yếu tố hàng đầu, quyết định sự phát triển của đất nước, sức khoẻ là cái gốc để con người phát triển, là niềm hạnh phúc của mỗi người, mỗi g
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp về đầu tư cho ngành y tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ia đình.
Với chức năng bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ, ngành y tế giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, hoạt động y tế chỉ được duy trì và phát triển khi được đầu tư đúng và đủ. Đầu tư xây dựng các cơ sở y tế, mua sắm trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực ... là những yếu tố cơ bản cho các hoạt động y tế được tiến hành.
Trong những năm qua, đặc biệt từ năm 1990 trở lại đây, đầu tư đã góp phần làm cho ngành y tế đạt được những bước tiến bộ được nhân dân và bạn bè trên thế giới công nhận. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục.
Sau một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu về y tế Việt Nam tại Vụ Lao động- Văn hoá- Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, em đã có những nhận thức nhất định về y tế Việt Nam. Em xin được đưa ra một số ý kiến của mình trong khuôn khổ đề tài:
Thực trạng và một số giải pháp về đầu tư cho ngành y tế.
Nội dung bài viết bao gồm:
- Phần 1: Tổng quan về đầu tư trong ngành y tế.
- Phần 2: Thực trạng về đầu tư cho ngành y tế Việt Nam thời kỳ 1991- 2000.
- Phần 3: Một số giải pháp về đầu tư cho ngành y tế.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại bộ môn kinh tế đầu tư cũng như trong quá trình thực hiện đề tài , em đã nhận được sự giúp đỡ của giáo viên - Thạc sĩ Từ Quang Phương và các thầy cô giáo trong Bộ môn kinh tế đầu tư. Ngoài ra, để hoàn thành đề tài, em còn nhận được sự chỉ bảo tận tình của chú Vũ Xuân Thạnh và các bác, các cô, các chú làm việc tại Vụ Văn hoá - Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Em xin chân thành cảm ơn!
Phần thứ nhất
Tổng quan về đầu tư trong ngành y tế
I. Đầu tư và vai trò của đầu tư đối với ngành y tế
1. Đầu tư - khái niệm và đặc điểm
a/ Khái niệm đầu tư
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đã đạt được kể trên, những kết quả là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế xã hội. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế và cả cộng đồng được thụ hưởng.
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, chúng ta có các loại đầu tư sau:
Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua lãi suất Chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân người đầu tư. Tuy nhiên, đầu tư tài chính là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao sở hữu hàng hoá. Đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và cho nền sản xuất xã hội nói chung.
Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động là đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng năng lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị ...
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm các hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn đã sử dụng để đạt được những kết quả đó.
Như vậy, nếu xét trên phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay phạm trù đầu tư phát triển.
Tóm lại, đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đầu tư trong ngành y tế là một lĩnh vực đầu tư đặc biệt. Nếu như trong các đơn vị sản xuất kinh doanh, mục đích của đầu tư là lợi nhuận, là thu nhập của người đầu tư; trong giáo dục đào tạo, mục đích của đầu tư là trí tuệ, là kiến thức, là trình độ tăng thêm thì trong y tế, mục tiêu của đầu tư là sức khoẻ cộng đồng. Kết quả của hoạt động đầu tư y tế là số người được cứu chữa, giảm mắc và chết do bệnh tật, ốm đau, là chất lượng sức khoẻ người dân được tăng lên. Tuy nhiên, khi nói đến vai trò y tế, ta phải nói đến vai trò gián tiếp của nó, đó là cái mà nền kinh tế xã hội được nhận do sức khoẻ con người đem lại, là năng suất lao động tăng thêm, là việc giảm các chi phí mà xã hội phải bỏ ra nếu như có quá nhiều người dân mắc bệnh và chết vì bệnh tật.
Xuất phát từ khái niệm chung về đầu tư phát triển ta thấy đầu tư cho y tế cũng là một lĩnh vực hoạt động của đầu tư phát triển. Đầu tư y tế là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, bồi dưỡng, đào tạo nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên khác nhằm mục đích nâng cao sức khoẻ cộng đồng. Đây là một lĩnh vực đầu tư đặc biệt vì nó ảnh hưởng đến sự phát triển của tất cả các ngành khác và ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ phát triển của cả nền kinh tế xã hội.
Bảo vệ sức khoẻ cộng đồng vừa là biện pháp, vừa là mục đích của quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Trong mọi hoạt động, từ lao động chân tay đến lao động trí óc, từ việc học tập nghiên cứu đến sản xuất kinh doanh con người đều cần đến sức khoẻ. Có sức khoẻ, con người mới có khả năng lao động tạo ra của cải, vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống. Nếu không có sức khoẻ thì không những họ không thể làm việc và cống hiến cho xã hội mà còn trở thành gánh nặng của xã hội. Trong khi đó, con người lao động sản xuất và tạo ra của cải vật chất là để phục vụ những nhu cầu của mình, để nâng cao chất lượng cuộc sống mà một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá chất lượng cuộc sống đó là sức khoẻ. Như vậy, sức khoẻ vừa là phương tiện, vừa là mục đích của quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Do đó, ngành y tế là một ngành đặc biệt quan trọng vì nó có chức năng bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Nói cách khác, ngành y tế vừa tạo điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội vừa tạo ra kết quả trực tiếp cho quá trình đó.
b/ Vốn đầu tư.
Đối với đầu tư của một quốc gia nói chung, vốn đầu tư được hiểu là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra các tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Đối với các nước nghèo, để phát triển kinh tế, và từ đó thoát khỏi cảnh nghèo thì một vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vố gay gắt và thiếu các điều kiện khác cho sự phát triển như công nghệ, cơ sở hạ tầng... Do đó trong những bước đi ban đầu, để tạo ra được cái “hích” đầu tiên cho sự phát triển, để có được tích luỹ ban đầu từ trong nước, không thể không huy động vốn nước ngoài. Không có một nước chậm phát triển nào trên con đường phát triển lại không tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở.
Đối với một quốc gia, vốn đầu tư được hình thành từ hai nguồn chính, đó là nguồn trong nước và nguồn nước ngoài. Nguồn trong nước bao gồm: vốn tích luỹ từ ngân sách, vốn tích luỹ từ doanh nghiệp và tiền tiết kiệm của dân cư. Đây là nguồn vốn quan trọng và khá ổn định, đóng vai trò trọng yếu trong việc thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vốn nước ngoài bao gồm: vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp. Trong đó, vốn đầu tư trực tiếp có các hình thức như: hợp đồng hợp tác kinh doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh; vốn đầu tư gián tiếp bao gồm các hình thức: viện trợ không hoàn lại, hợp tác, vay ưu đãi, vay thương mại... Trong điều kiện hiện nay, khi mà nền kinh tế nước ta còn chưa phát triển, tích luỹ trong nước còn nhỏ thì vốn đầu tư nước ngoài là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, để có thể phát huy tác dụng cơ sở vật chất kỹ thuật của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế, ta lại cần một khối lượng vốn đầu tư trong nước đủ lớn. Tỷ lệ giữa vốn đầu tư huy động được ở trong nước để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài tuỳ thuộc vào đặc điểm và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. ở Việt Nam theo các nhà kinh tế, tỷ lệ này phải là 2:1.
Trong y tế, vốn đầu tư cũng được hình thành từ hai nguồn: trong nước và ngoài nước, trong đó vốn đầu tư trong nước là chính, đặc biệt là nguồn ngân sách Nhà nước. Hiện nay nguồn ngân sách Nhà nước chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu tư cho ngành y tế. Nguồn vốn từ bảo hiểm y tế và viện phí cũng ngày càng tăng và giữ vai trò khá quan trọng. Vốn đầu tư từ nước ngoài cho đến nay bao gồm vốn vay, viện trợ, liên doanh, 100% vốn nước ngoài...
Hoạt động đầu tư cho y tế bao gồm:
- Đầu tư xây dựng hệ thống phòng bệnh và khám chữa bệnh.
- Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực y tế.
- Đầu tư mua sắm trang thiết bị y tế.
- Đầu tư thực hiện các chương trình y tế quốc gia.
- Đầu tư nghiên cứu, xây dựng và ban hành các chính sách y tế, các biện pháp quản lý y tế, hành lang pháp lý cho ngành y tế...
Đầu tư xây dựng hệ thống phòng bệnh và khám chữa bệnh là hoạt động đầu tư nhằm xây dựng các cơ sở y tế từ trung ương đến địa phương bao gồm hệ thống phòng bệnh như: các viện vệ sinh dịch tễ, các cơ sở y tế dự phòng và hệ thống chữa bệnh như các bệnh viện, viện điều dưỡng và các y tế cơ sở. Hệ thống y tế được sắp xếp khoa học, gần gũi với người dân sẽ tạo điều kiện cho người dân dễ dàng sử dụng các dịch vụ y tế, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực là một lĩnh vực đầu tư quan trọng trong ngành y tế. Đội ngũ cán bộ y tế giỏi về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng tiếp cận với những kỹ thuật y tế hiện đại và có y đức cao là điều kiện tiên quyết đối với kết quả của hoạt động y tế. Nguồn nhân lực y tế đủ về số lượng, mạnh về chất lượng đang là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển ngành y tế Việt Nam.
Đầu tư mua sắm trang thiết bị y tế là hoạt động đầu tư nhằm cung cấp trang thiết bị cho các cơ sở y tế. Trong thời đại hiện nay, khoa học công nghệ phát triển với một tốc độ chóng mặt và có tác động không nhỏ đến hoạt động y tế. Nhờ có khoa học công nghệ mà rất nhiều bệnh dịch bị đẩy lùi, nhiều bệnh trước đây không phát hiện ra hoặc không có khả năng chữa trị nay đã được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Vì vậy, khi lập kế hoạch đầu tư cho y tế cần xem xét và giành một phần kinh phí thoả đáng cho mua sắm trang thiết bị y tế.
Đầu tư thực hiện các chương trình y tế quốc gia là đầu tư của Nhà nước, lấy kinh phí từ ngân sách Nhà nước (bao gồm cả nguồn viện trợ). Mục đích của các chương trình y tế quốc gia là tiêu diệt hoặc đẩy lùi các bệnh dịch lớn, các bệnh lây truyền hoặc bệnh xã hội có ảnh hưởng trên diện rộng. Đây là một lĩnh vực hoạt động quan trọng của ngành y tế bởi vì nó có tác dụng rộng rãi và ảnh hưởng mạnh đến các chỉ số về sức khoẻ của cộng đồng trong một quốc gia.
Đầu tư nghiên cứu, xây dựng và ban hành các chính sách y tế là việc đầu tư cho các cơ quan chức năng nhằm nghiên cứu và đưa ra hành lang pháp lý cho ngành y tế bao gồm các chính sách về biện pháp quản lý trong ngành y tế, các chính sách về viện phí, chế độ thu viện phí và bảo hiểm y tế, các chính sách về thu nhập đối với nhân viên y tế, chế độ quản lý bệnh viện, phát triển y tế tư nhân, chính sách về quản lý thuốc...
c/ Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển thường đòi hỏi khối lượng vốn lớn, vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Khác với hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại, vốn nhỏ, ít rủi ro và có thể nhanh chóng sinh lời, vốn cho đầu tư phát triển thường lớn và không sinh lời trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Khi rủi ro trong hoạt động đầu tư phát triển xảy ra thì mất mát rất lớn.
Hoạt động đầu tư phát triển là hoạt động có tính chất lâu dài. Thời gian cần thiết để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các kết quả của nó phát huy tác dụng thường kéo dài nhiều năm và chịu ảnh hưởng của các biến đổi của môi trường tự nhiên cũng như môi trường kinh tế xã hội. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn hoặc đến khi thanh lý tài sản cũng kéo dài và chịu tác động của nhiều yếu tố không ổn định.
Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ngay ở nơi mà chúng được tạo nên. Do đó, các điều kiện về địa lý, địa hình sẽ ảnh hưởng không chỉ đến quá trình thực hiện đầu tư mà còn ảnh hưởng đến sự hoạt động của các kết quả đầu tư sau này.
Do yêu cầu về vốn lớn, thời gian thực hiện kéo dài nên hoạt động đầu tư phát triển dễ gặp rủi ro trong quá trình thực hiện và gây hậu quả lớn cho nền kinh tế xã hội.
2. Vai trò của đầu tư phát triển
a/ Vai trò của đầu tư phát triển đối với nền kinh tế quốc dân
Hoạt động đầu tư có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế xã hội của một quốc gia. Đối với nền kinh tế xã hội, đầu tư góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cũng như của toàn xã hội.Trong một nền kinh tế, hoạt động đầu tư có thể được coi là việc cung cấp các chất bổ dưỡng cần thiết cho một cơ thể sống. Nếu không có hoạt động đầu tư, cơ thể ấy sẽ trở nên què quặt, ốm yếu và không có sức sống.
Vai trò của đầu tư phát triển đối với nền kinh tế được thể hiện trong các mặt sau đây:
Đầu tư vừa có tác động đến tổng cung, vừa có tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên làm thúc đẩy sản lượng của nền kinh tế.
Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định nền kinh tế của mọi quốc gia.
Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ phát triển kinh tế ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15- 25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
ICOR=
Vốn đầu tư
Mức tăng GDP
Vốn đầu tư
Từ đó suy ra:
Mức tăng GDP=
ICOR
Nếu ICOR không thay đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để tăng trưởng nhanh là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh ở toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ. Đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị,... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn làm bàn đạp cho những vùng khác phát triển.
Đầu tư góp phần tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
b/ Vai trò của vốn đầu tư đối với ngành y tế
Đối với ngành y tế, đầu tư quyết định sự tồn tại và phát triển của nó
Ngành y tế Việt Nam ra đời từ rất sớm nhưng chỉ được phát triển mạnh từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Ngành y tế lúc này được bao cấp hoàn toàn. Trong chiến tranh, y tế giữ vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của thương bệnh binh cũng như của nhân dân. Khi hoà bình lập lại, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được được tầm quan trọng của hoạt động y tế và có những chính sách thuận lợi cho việc phát triển ngành y tế. Trong thời gian đầu, ngành y tế tiếp tục được bao cấp. Tuy nhiên, lúc này cơ chế bao cấp không còn phù hợp và bộc lộ nhiều hạn chế. Hệ thống y tế nước nhà hoạt động trì trệ; trang thiết bị y tế nghèo nàn, lạc hậu; các cơ sở y tế hoạt động ỷ lại, chỉ trông chờ vào ngân sách Nhà nước. Các nhà quản lý y tế không có sự năng động, sáng tạo trong việc khai thác các nguồn lực kinh tế khác cũng như tìm ra cơ chế sử dụng kinh phí hợp lý để tăng hiệu quả sử dụng.
Trong Đại hội Đảng VIII (1986), Chính phủ đã đưa ra một chương trình đổi mới trên mọi mặt của nền kinh tế, trong đó có các chính sách đổi mới trong ngành y tế: y tế tư nhân ra đời, hoạt động tư đầu tư được chú trọng, các chế độ về viện phí và bảo hiểm y tế được thực hiện. Hàng năm, Nhà nước đã giành một phần ngân sách để đầu tư cho y tế, mở rộng và nâng cao chất lượng của hệ thống y tế, đầu tư mua sắm trang thiết bị hiện đại, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ y tế cho phù hợp với thời kỳ mới về cả chuyên môn và trình độ quản lý; thực hiện các chương trình y tế quốc gia... Bên cạnh đó khu vực kinh tế tư nhân cũng bắt đầu tham gia đầu tư phát triển hệ hệ thống y tế và góp phần không nhỏ trong sự phát triển chung của ngành y tế. Nhờ có sự tăng cường đầu tư mà hệ thống y tế nước ta cho đến nay đã có những bước tiến bộ đáng ghi nhận. Các cơ sở y tế trong cả nước được mở rộng, nâng cấp và hoạt động có hiệu quả hơn. Cán bộ y tế nâng cao được trình độ chuyên môn và trình độ quản lý. Một số kỹ thuật y tế hiện đại được áp dụng. Hệ thống cung cấp thuốc hoạt động tốt, đưa thuốc kịp thời tới tay người tiêu dùng. Các bệnh dịch giảm hẳn, một số bệnh trước đây phải bó tay nay đã được phát hiện và chữa trị kịp thời. Vì vậy, các chỉ số về sức khoẻ của nhân dân Việt Nam được cải thiện và được đánh giá cao trong khu vực và trên thế giới. Ví dụ như các chỉ số về tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tăng dân số tự nhiên, chết trẻ em, chết mẹ của một số nước được đưa ra trong bảng 1.
Bảng 1 - Dân số, tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tăng tự nhiên, chết trẻ em,
chết mẹ ở một số nước châu á 1994 - 1995
Nước
Tỷ lệ sinh thô
CBR %o
Tỷ lệ chết thô
CDR %o
Tỷ lệ tăng TN
NGR %o
Tỷ lệ chết trẻ em
IMR %o
Tỷ lệ chết mẹ
(%o)
Indonesia
24,1
7,8
16,3
55
...
Malaysia
27,1
4,6
22,5
10,9
20
Philippines
27,5
6,8
20,7
50,4
185,6
Singapore
16,4
4,7
11,7
4
6,1
Thái Lan
16,3
5,2
11,1
7,2
10,8
Việt Nam
27
6,5
20,5
37
11
(Nguồn: Niên giám thống kê y tế 1997)
Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy, mặc dù có thu nhập quốc dân trên đầu người thấp trong khu vực song những chỉ số về sức khoẻ của Việt Nam khá khả quan. Chúng ta có tỷ lệ chết thô (CDR) là 6,5%o thấp hơn Philippines và Indonesia nhưng lại cao hơn Singapore, Thái Lan và Malaysia là những nước có thu nhập cao hơn Việt Nam. Tỷ lệ chết trẻ em và chết mẹ của Việt Nam cũng nhỏ hơn một số nước có thu nhập tương đương hoặc thậm chí cao hơn trong khu vực.
Vì có những chính sách đầu tư hợp lý mà tình hình bệnh tật của Việt Nam có những bước chuyển biến theo hướng tích cực. Nhiều bệnh trước đây là nỗi kinh hoàng của người dân đến nay đã hầu như được đẩy lùi. Sáu bệnh truyền nhiễm ở trẻ em là bạch hầu, ho gà, uốn ván, sởi, bại liệt được tiêm phòng đầy đủ. Các bệnh xã hội như lao, phong, tâm thần... cũng được quan tâm đầu tư và có những kết quả đáng ghi nhận. Thông qua một số số liệu về tình hình giảm bệnh tật từ năm 1990 đến năm 1998 tại bảng 2 dưới đây chúng ta thấy được tác động của đầu tư từ phía Nhà nước cho công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Bảng 2 - Tình hình giảm bệnh tật 1990 - 1998 / 100000 dân
STT
Tên bệnh
Năm 1990
Năm 1998
Giảm 1990-1998 (lần)
Mắc
bệnh
Chết
Mắc
Bệnh
Chết
Mắc
Bệnh
Chết
1
2
3
4
5
6
7
8
Bạch hầu
Ho gà
Uốn ván
Sởi
Bại liệt
Lao
Phong
Sốt rét
0,77
6,14
0,48
9,80
0,47
54,6
35,88
14,54
0,09
0,04
0,31
o,06
0,03
0,11
.....
6,19
0,12
0,43
0,31
13,17
0,76
182,5
27,90
491,1
0,02
0,004
0,21
0,01
0,001
2,96
.....
0.23
3,34
3
tăng
1,46
còn 2ca
.......
.......
2,5
4,5
tới 0
tăng
tới 0
tới 0
........
.......
30
(Nguồn: Niên giám thống kê y tế 1998- Bộ Y tế).
Theo số liệu bảng 2, trừ bệnh uốn ván có xu hướng tăng, còn lại hầu hết các bệnh như Bạch hầu, ho gà, sởi, bại liệt, phong, lao... đều có xu hướng giảm. Đặc biệt các bệnh như ho gà, sởi, bại liệt giảm tiến tới 0. Điều này chứng tỏ đầu tư cho y tế đã đạt được những kết quả khả quan.
Nhờ có chính sách tăng cường đầu tư cho y tế cơ sở, đầu tư cho chương trình mục tiêu nên công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân đã được đẩy mạnh. Trên 95% trẻ em dưới 1 tuổi đã được tiêm chủng đầy đủ phòng 6 bệnh gây dịch nguy hiểm, 99% trẻ em dưới 3 tuổi được phòng bệnh mù loà vì thiếu Vitamin A, 95% trẻ em dưới 5 tuổi được chương trình phòng chống tiêu chảy bảo vệ. Với hệ thống điều trị và dự phòng tích cực, tỷ lệ bệnh tật của trẻ em đã giảm rõ rệt. đặc biệt tỷ lệ trẻ em chết dưới 1 tuổi, một chỉ số khá quan trọng để đánh giá tình trạng y tế của một nước trong thập kỷ 90 đã giảm đáng kể: giảm từ 46%o năm 1990 xuống 37%o năm 1998.
Như vậy, hoạt động đầu tư có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của ngành y tế. Đầu tư đúng hướng, đúng đối tượng, đúng địa chỉ, đúng điểm can thiệp sẽ tạo những điều kiện quan trọng để Nhà nước thực hiện việc phân phối lợi ích Nhà nước về y tế công bằng và hiệu quả. Ngược lại, nếu đầu tư không đúng hướng, không theo quy hoạch, can thiệp không đúng chỗ thì việc phân phối lợi ích của Nhà nước về y tế sẽ kém hiệu quả. Vì vậy, cần có chiến lược đầu tư đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư.
II. Y tế - đặc điểm, vai trò và quan điểm phát triển của Đảng và Nhà nước
1. Đặc điểm
Trước hết khi nói đến y tế ta phải khẳng định đây là ngành có chức năng chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Khác với các ngành sản xuất vật chất, hoạt động của chúng tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế xã hội, ngành y tế hoạt động nhằm cung cấp các dịch vụ có liên quan đến sức khoẻ con người. Đó là các dịch vụ phòng bệnh, khám bệnh và chữa bệnh. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc phát triển ngành y tế và tính nhân đạo trong ngành y tế.
Y tế Việt Nam được bảo đảm chủ yếu bằng ngân sách Nhà nước. Nguồn ngân sách này duy trì ở mức khoảng 70% tổng ngân sách đầu tư cho ngành y tế. Tỷ lệ nguồn thu từ ngân sách Nhà nước / tổng ngân sách y tế cao nhằm bảo đảm tính ổn định và công bằng trong ngành y tế, bảo vệ lợi ích người bệnh, đặc biệt là người nghèo. Các nguồn thu khác như bảo hiểm y tế, viện phí, viện trợ cũng giữ vai khá quan trọng. Trong tương lai, cần tận dụng các nguồn thu này cùng với việc tăng cường đầu tư từ phía Nhà nước và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư trong ngành y tế.
Ngành y tế Việt Nam mang đậm bản chất của một nền y tế xã hội chủ nghĩa và bản chất nhân văn. Các cơ sở y tế công có nhiều sự chuyển biến lớn về nguồn thu, về phương thức hoạt động song không chạy theo lợi nhuận. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc phát triển ngành y tế là bảo đảm tính công bằng. Điều này có nghĩa là bảo đảm cho khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế của nhóm người giàu và nghèo có khoảng cách không lớn. Để thực hiện điều này, Nhà nước duy trì một hệ thống y tế rộng khắp với các trạm y tế cung cấp dịch vụ y tế miễn phí hoặc có mức phí phù hợp với khả năng chi trả của người dân. Đối với người nghèo và các đối tượng xã hội như thương binh, người có công với cách mạng, trẻ em cơ nhỡ, người già cô đơn..., Nhà nước có chế độ miễn giảm viện phí hoặc cung cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Đây là những hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc của nền y tế xã hội chủ nghĩa.
Tương quan cung - cầu trong thị trường y tế và thị trường thương mại có sự khác biệt. Trong thị trường thương mại, nhu cầu không phải cầu, cầu là nhu cầu được thể hiện trong sức mua (nhu cầu này được đáp ứng tuỳ thuộc vào khả năng chi trả và vào sở thích của mỗi đối tượng). Trong thị trường y tế nhu cầu về khám chữa bệnh của mỗi con người là những nhu cầu cụ thể, nhu cầu này chính là nhu cầu của thị trường y tế. Những nhu cầu này không do chủ quan bản thân con người quyết định được khi mắc bệnh, không phụ thuộc vào khả năng chi trả cũng không phụ thuộc và sở thích của người tiêu dùng dịch vụ y tế. Họ không thể lựa chọn và quyết định được dịch vụ mình cần và càng không thể mặc cả khi cần phải sử dụng dịch vụ đó.
Kết quả của hoạt động y tế có ảnh hưởng đến tất cả các ngành khác đến toàn xã hội và có tác dụng lâu dài. Sức khoẻ cộng đồng được nâng cao có tác dụng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả hiện tại và tương lai. Người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung khi làm việc. Việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ tốt sẽ góp phần làm tăng năng suất lao động. Từ đó có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của tất cả các ngành khác. Đối với toàn xã hội, những thành viên khoẻ về thể chất, lành mạnh về tinh thần là yếu tố quyết định cho một xã hội phát triển bền vững.
2. Quan điểm phát triển sự nghiệp y tế của Đảng và Nhà nước
*) Chính phủ Việt Nam cho rằng con người là yếu tố hàng đầu, quyết định sự phát triển của đất nước. Sức khoẻ là cái gốc để con người phát triển, là niềm hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói’’... giữ gìn sức khoẻ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần đến sức khoẻ mới thành công.”
*) Sự nghiệp bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của nhân dân phải theo quan điểm dự phòng tích cực và chủ động. Những can thiệp của y tế phải tập chung vào quảng đại quần chúng và vào sức khoẻ, chứ không phải chỉ tập chung vào bệnh tật.
*) Phải xã hội hoá công tác chăm sóc sức khoẻ. Sự nghiệp bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của nhân dân là trách nhiệm của mỗi người, tập thể và cộng đồng, là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng và chính quyền, đoàn thể và tổ chức xã hội.
*) Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khoẻ.
*) Kế thừa và nâng cao nền y học cổ truyền dân tộc, kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại để thực hiện có hiệu quả cho công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
3. Vai trò và nhiệm vụ của ngành y tế
a/ Vai trò
Con người là vốn quý của xã hội, sức khoẻ là vốn quý của con người, sức khoẻ là yếu tố quan trọng trong mọi hoạt động của con người. Như Bác Hồ đã từng nói”... giữ gìn sức khoẻ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công”. Vì vậy, công tác chăm sóc sức khoẻ là một hoạt động hết sức cần thiết trong bất kỳ một quốc gia nào. Hoạt động y tế góp phần đẩy lùi bệnh tật, nâng cao sức khoẻ cán bộ và nhân dân từ đó nâng cao năng suất, hiệu quả lao động của những người này. Sức khoẻ tốt giúp con người nhanh chóng tiếp thu được kiến thức trong học tập và đạt được những kỹ năng cần thiết trong hoạt động sản xuất. Hoạt động chăm sóc sức khoẻ không những chỉ có tác động trong hiện tại mà còn trong cả tương lai. Đầu tư chăm sóc sức khoẻ cũng giống như đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư cho tương lai vì nó ảnh hưởng lâu dài.
Chăm sóc sức khoẻ vừa là động lực vừa là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ khi con người có đủ sức khoẻ mới có khả năng lao động và sáng tạo ra của cải, vật chất, nâng cao đời sống cho mọi người trong xã hội. Với sức khoẻ không tốt con người không những không có khả năng lao động giúp ích cho sự phát triển của nền kinh tế mà còn trở thành gánh nặng của xã hội. Một trong những thước đo về sự phát triển của một cộng đồng là sức khoẻ. Xã hội càng phát triển thì con người càng quan tâm đến sức khoẻ và sức khoẻ được chăm sóc nhiều hơn. Sức khoẻ tốt, đời sống vật chất và tinh thần đầy đủ cho nhân dân chính là mục tiêu phấn đấu của các quốc gia trên thế giới.
Ngoài ra, phát triển y tế góp phần nâng cao các chỉ số về sức khoẻ, tuổi thọ... góp phần nâng cao vị trí của quốc gia trong khu vực và trên thế giới. ở Việt Nam, mặc dù kinh tế còn chậm phát triển, tổng sản phẩm quốc nội cũng như thu nhập quốc dân / đầu người còn thấp song do chú trọng đầu tư cho giáo dục và y tế, Việt Nam đã đạt được một số chỉ tiêu phát triển con người quan trọng. Về y tế, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn được Tổ chức Y tế thế giới công nhận. Thành tựu này góp phần đưa chỉ tiêu phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng 30 bậc so với thành tựu về kinh tế. T._.a có thể thấy điều này qua bảng 3 số liệu về chỉ số HDI của một số quốc gia như sau:
Bảng 3- Chỉ số HDI của một số nước châu á
Nước
Triển vọng sống trẻ SS
Tỷ lệ dân số biết chữ
TL nhập học cấp
1,2,3
GDP thực/ đầu dân
GDP điều chỉnh
Chỉ số triển vọng sống
Chỉ số giáo dục
Chỉ số GDP
Chỉ số
HDI
Singapore
77,1
91,0
72
20,98
6,072
0,87
0,85
0,99
0,900
Thái Lan
69,5
93,5
53
7,104
5,906
0,74
0,80
0,96
0,833
Malaysia
71,2
83,0
62
8,865
5,945
0,77
0,76
0,97
0,832
Sri Lanka
72,2
90,1
66
3,277
3,277
0,79
0,82
0,53
0,711
Philipines
67,0
94,4
78
2,681
2,681
0,70
0,89
0,43
0,672
Indonesia
63,5
83,2
62
3,740
3,740
0,64
0,76
0,60
0,668
China
68,9
80,9
58
2,604
2,604
0,73
0,73
0,41
0,626
Việt Nam
66,0
93,0
55
1,208
1,208
0,68
0,80
0,18
0,557
India
61,3
50,2
56
1,348
1,348
0,60
0,53
0,21
0,446
Cambodia
52,4
35,0
58
1,084
1,084
0,46
0,43
0,16
0,348
(Nguồn: Niên giám thống kê y tế 1998)
Nhìn vào biểu trên ta thấy, nếu chỉ xét các chỉ tiêu về GDP như GDP/ đầu người, GDP điều chỉnh hay chỉ số GDP thì Việt Nam có các chỉ số này rất thấp, chỉ cao hơn Cambodia. Tuy nhiên, Việt Nam lại có những chỉ số khác như triển vọng sống trẻ sơ sinh, chỉ số triển vọng sống và các chỉ số về giáo dục khá cao, xấp xỉ một số nước có thu nhập cao hơn Việt Nam như Indonesia, India, China...
b/ Nhiệm vụ của ngành y tế
Nhiệm vụ tổng quát của ngành y tế được xác định trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII như sau:
Cải thiện các chỉ tiêu cơ bản về sức khoẻ cho mọi người, từng bước nâng cao thể trạng và tầm vóc, trước hết là nâng cao thể lực bà mẹ, trẻ em.
Tạo chuyển biến nhanh trong việc thực hiện chiến lược dân số cả về quy mô, cơ cấu và phân bổ, tập trung trước hết vào mục tiêu mỗi cặp vợ chồng có không quá hai con và nuôi dạy con tốt, giảm nhanh tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên. Ngoài việc đầu tư thêm kinh phí và phương tiện kỹ thuật, cần tăng cường giáo dục truyền thông, bổ sung các chính sách về hạn chế sinh đẻ, củng cố hệ thống quản lý dân số, kế hoạch hoá gia đình các cấp, có mạng lưới đến tận thôn xóm, đường phố. Giảm nhịp độ phát triển dân số xuống dưới 1,8% đến năm 2000.
Thực hiện chương trình dinh dưỡng quốc gia, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 30% vào năm 2000 và không còn suy dinh dưỡng nặng, đưa tỷ lệ dân số có mức ăn dưới 2100 calo/ ngày xuống dưới 10%, chăm sóc phụ nữ có thai và sinh đẻ, giảm tỷ lệ tử vong của phụ nữ khi đẻ xuống 0,5%o, của trẻ em dưới một tuổi xuống dưới 30%o, của trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 55%o.
Giảm hẳn tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết do các bệnh nhiễm khuẩn, ký sinh trùng như sốt rét, lao, bệnh ỉa chảy và viêm phổi ở trẻ em, mở rộng việc phòng chống bệnh biếu cổ, thực hiện toàn dân ăn muối có iốt, thanh toán bệnh bại liệt, phòng bệnh uốn ván trẻ sơ sinh, nhanh chóng dập tắt các ổ dịch, phòng chống bệnh dại. Chống tệ nạn nghiện hút, mại dâm. Ngăn chặn nhiễm HIV/AIDS và tổ chức điều trị những người đã mắc.
Phát triển các dịch vụ khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu của y tế Nhà nước cũng như y tế dân lập. Thí điểm hình thức liên doanh giữa cơ sở y tế Nhà nước và cơ sở y tế nước ngoài về cả y và dược. Phát triển y học cổ truyền dân tộc, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại. Chấn chỉnh tổ chức quản lý ngành dược, đổi mới công nghệ, mở rộng mặt hàng và nâng cao chất lượng sản phẩm của các cơ sở sản xuất và cung ứng thuốc và trang thiết bị y tế.
Tăng chi ngân sách và huy động nhiều nguồn vốn khác để đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở y tế. Đến năm 2000, tất cả các xã trong nước đều có trạm y tế, trong đó 40% có bác sĩ, tất cả các trạm y tế có sản, nhi hoặc nữ hộ sinh, các thôn có y tá. Tất cả các huyện đều có trung tâm y tế, bệnh viện tuyến tỉnh đều có đủ thiết bị chủ yếu cho các khoa, xây dựng các trung tâm y tế chuyên sâu.
Cải thiện chính sách thù lao đối với cán bộ y tế, nhất là cán bộ y tế cơ sở và miền núi. Đa dạng hoá các loại hình bảo hiểm y tế. Xoá bỏ phân biệt giữa khám bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế và theo chế độ thu phí dịch vụ. Có chính sách giải quyết viện phí cho người nghèo và nhân dân các vùng xa xôi hẻo lánh.
Cụ thể, nhiệm vụ chủ yếu của ngành y tế bao gồm:
- Phòng chống dịch bệnh.
- Công tác khám chữa bệnh.
- Công tác chăm sóc sức khoẻ Bà mẹ và trẻ em.
- Công tác dược.
- Thực hiện các chương trình y tế quốc gia.
*) Phòng chống dịch bệnh.
Ngành y tế tập trung giả quyết các dịch bệnh có khả năng xuất hiện hoặc đã xuất hiện như: dịch tả, sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản ... không để các dịch lớn xảy ra. Duy trì kết quả phòng bệnh từng đợt, khi có bệnh dịch xảy ra phải huy động mọi biện pháp dập tắt.
Chủ động và tích cực phòng chống thiên tai địch hoạ, hạn chế thiệt hại về người. Tiếp tục duy trì các cơ sở thuốc và trang thiết bị để hỗ trợ cho các địa phương bị thiên tai đặc biệt là trong các mùa mưa lũ.
Thực hiện các hoạt động phòng chống HIV/AIDS, tư vấn, giáo dục, truyền thông cho mọi người hiểu rõ tác hại của căn bệnh thế kỷ này. Bảo đảm sàng lọc 100% chai máu trước khi truyền cho bệnh nhân.
Triển khai mạnh mẽ công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: tổ chức thẩm định, quản lý hồ sơ, kiểm tra điều kiện vệ sinh tại các cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm tại các chợ, nhà hàng, quán ăn...
Tăng cường công tác giám sát dịch tễ, chủ động phòng chống dịch bệnh, không để dịch lớn xảy ra trong điều kiện vệ sinh môi trường còn ô nhiễm, nhất là các bệnh sốt xuất huyết, viêm não, tả, lị...
Củng cố và phát triển các cơ sở y tế dự phòng.
*) Công tác khám, chữa bệnh.
Ngành y tế phải luôn nâng cao chất lượng công tác khám, chữa bệnh, củng cố hệ thống labo, chẩn đoán hình ảnh, hồi sức cấp cứu... Phát triển hệ thống phòng chống bệnh ung bướu, nâng cao năng lực quản lý các bệnh viện, quản lý tài chính trong các cơ sở khám chữa bệnh.
Nâng cấp, xây dựng các cơ sở khám chữa bệnh bằng các nguồn lực tại chỗ, trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, trong đó có lựa chọn ưu tiên cho các vùng tái lập, vùng trọng điểm.
Tập trung đầu tư nâng cấp trang thiết bị y tế và tăng cường giáo dục y đức góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Triển khai tốt các dự án đầu tư nâng cấp và xây dựng mới các cơ sở khám chữa bệnh.
Phát triển hệ thống huyết học và truyền máu, khuyến khích công tác hiến máu nhân đạo nhằm nâng cao chất lượng và bảo đảm an toàn trong truyền máu ở các cơ sở khám chữa bệnh.
*) Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ Bà mẹ & Trẻ em
Đẩy mạnh các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ Bà mẹ & Trẻ em, triển khai có hiệu quả mục tiêu phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em trên phạm vi toàn quốc.
Nâng cao chất lượng các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình nhằm giảm tỷ lệ thất bại trong các biện pháp phòng tránh thai. Đầu tư cho đào tạo nữ hộ sinh cho các xã, phấn đấu giảm xã trắng về nữ hộ sinh.
*) Công tác dược
Quản lý hành nghề dược của các tổ chức, cá nhân trên toàn quốc, thực hiện chính sách quốc gia về thuốc.
Qui hoạch và tổ chức lại ngành công nghiệp dược trên cơ sở sắp xếp hệ thống sản xuất, lưu thông thuốc theo chỉ thị 500 TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Đầu tư chiều sâu cho phát triển công nghiệp dược và trang thiết bị y tế, xây dựng các dự án vay vốn trong nước và nước ngoài.
Tăng cường công tác bảo đảm chất lượng thuốc, phát triển công tác nuôi trồng và chế biến dược liệu, chấn chỉnh công tác xuất nhập khẩu, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về dược.
*) Thực hiện các mục tiêu của chương trình y tế quốc gia
Mục tiêu của chương trình y tế quốc gia là thanh toán các bệnh xã hội như: bệnh Lao, bệnh Suy dinh dưỡng ở trẻ em, bệnh Phong, bệnh Sốt rét, bệnh Sốt xuất huyết... nhiệm vụ của ngành y tế trong thực hiện các chương trình quốc gia là:
Kiểm tra giám sát dịch tễ học, đề ra các nhiệm vụ ưu tiên cần giải quyết trong từng năm, chú trọng thực hiện các mục tiêu dã cam kết với cộng đồng Quốc tế.
Giám sát dịch tễ sốt rét, đặc biệt chú ý đến các vùng trọng điểm có diễn biến bệnh dịch phức tạp, vùng có tỷ lệ mắc và chết cao, biến động dân cư lớn để phát hiện nguy cơ lớn để phát hiện nơi có nguy cơ dịch xảy ra nhất trong mùa mưa.
Xây dựng và củng cố hệ thống kiểm định xét nghiệm tại tuyến tỉnh, kiểm tra chặt chẽ công tác thực hiện điều trị, mở rộng màng lưới chống lao tới các vùng sâu, vùng xa, cung cấp đầy đủ thuốc chống lao, cốc đờm, lam kính và hoá chất xét nghiệm cho hoạt động chống lao.
Thành lập các dự án hành động và tổ chức các chiến dịch đặc biệt loại trừ bệnh phong cho những địa phương có tỷ lệ lưu hành bệnh phong cao.
Tập trung chỉ đạo các tỉnh hoàn thành công tác huấn luyện chuyên môn, nâng cao chất lượng tiêm chủng, xoá xã trắng về tiêm chủng mở rộng ở các huyện vùng sâu, vùng xa. Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, Ngành trong công tác chỉ đạo tiêm chủng mở rộng, trình Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị về đẩy mạnh các hoạt động tiêm chủng mở rộng cho từng năm.
Đánh giá tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em theo từng vùng sinh thái và chung cho toàn quốc và qua đó xác định ưu tiên để phấn đấu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở mức cao nhất.
III. Sự cần thiết phải đầu tư cho ngành y tế
Đầu tư cho ngành y tế là cần thiết bắt nguồn từ vai trò, nhiệm vụ của hoạt động y tế, từ thực trạng ngành y tế cũng như từ vai trò của đầu tư đối với ngành y tế.
Như đã nói ở trên, hoạt động y tế giữ vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Hoạt động y tế với chức năng chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân đã góp phần tích cực vào sự tiến bộ chung của toàn xã hội. Trên thực tế, hoạt động y tế chỉ có thể được thực hiện và phát huy được vai trò của mình khi có sự đầu tư. Đầu tư tạo ra những điều kiện cơ bản cần thiết cho hoạt động y tế như: mua sắm trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực, mua sắm các chi phí thường xuyên, các vật liệu tiêu hao như bông, băng, thuốc... Đầu tư đúng hướng sẽ góp phần bảo đảm tính công bằng và nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư.
Trong những năm qua, ngành y tế Việt Nam đã có những bước đổi mới và những thành tựu đáng ghi nhận. Đó là việc xây dựng được mạng lưới y tế rộng khắp, từng bước đổi mới trang thiết bị y tế ngày càng hiện đại, đào tạo đội ngũ cán bộ y tế có trình độ, có khả năng tiếp thu và sử dụng những kỹ thuật hiện đại, giảm đáng kể các vụ dịch bệnh, các bệnh lây truyền và bệnh xã hội được Nhà nước quan tâm đầu tư và thu được những kết quả tốt. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được nêu trên, ngành y tế Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều khó khăn, bệnh tật vẫn diễn biến một cách phức tạp, các bệnh nguy hiểm như lao, ung thư, lây nhiễm HIV/AIDS ngày càng tăng. Bên cạnh đó, hệ thống y tế vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ kỹ thuật còn thấp kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Xuất phát từ vai trò cũng như thực trạng ngành y tế kể trên, ta có thể thấy được sự cần thiết phải đầu tư cho ngành y tế nhằm hiện đại hoá ngành y tế và phát huy được vai trò của ngành y tế trong sự nghiệp xây dựng và phát triển xã hội.
Phần thứ hai
Thực trạng về đầu tư cho ngành Y tế thời kỳ 1991-2000
I. Tình hình huy động vốn đầu tư cho ngành Y tế
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, Y tế nước ta được bao cấp hoàn toàn từ nguồn Ngân sách nhà nước, điều này được thể hiện trong hầu hết mọi mặt: xây dựng, sửa chữa các trang thiết bị y tế từ trung ương đến địa phương, mua sắm các trang thiết bị y tế từ đơn giản đến hiện đại, đào tạo nhân lực y tế, người dân khi đến các cơ sở y tế đã không phải trả tiền khám chữa bệnh, tiền thuốc mà trong thời gian nằm điều trị còn được nuôi ăn.
Trong điều kiện đất nước tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc, phương thức quản lý trên là hoàn toàn phù hợp, đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập và củng cố hệ thống y tế nước ta, góp phần bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng ở miền Nam, thể hiện tính nhân đạo của nền y tế xã hội chủ nghĩa. Nhưng sau khi kết thúc chiến tranh, bước vào thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước, nhất là những năm gần đây khi chúng ta chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, phương thức trên đã bộc lộ nhiều hạn chế, tạo tâm lý ỷ lại vào ngân sách nhà nước. Cán bộ y tế chỉ biết trông chờ vào ngân sách được cấp, chi tiêu một cách thụ động theo danh mục được áp đặt, thủ tiêu tính năng động sáng tạo trong việc khai thác các nguồn kinh tế khác cũng như tìm ra cơ chế sử dụng kinh phí hợp lý để tăng cường hiệu quả sử dụng. Người dân có thói quen được phục vụ vô điều kiện mà không biết mình phải có trách nhiệm gì trong việc đóng góp xây dựng ngành y tế và góp phần chăm lo đời sống của cán bộ y tế.
Năm 1986, Chính phủ đã khởi xướng một chương trình cải cách kinh tế trên quy mô lớn. Đây là chương trình tất yếu phải được thực hiện khi mà nền kinh tế vĩ mô bị lâm vào tình trạng sa sút và khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Sau năm 1979, nguồn tài trợ từ các nước phương Tây cho Việt Nam giảm mạnh. Việc nguồn tài trợ từ các nước phương Tây giảm cùng với tình trạng cô lập về chính trị của Việt Nam đã đến cùng với thời kỳ lạm phát trầm trọng và tình trạng bất ổn của nền kinh tế vĩ mô khoảng đầu và giữa thập kỷ 1980. Nguồn chi ngân sách Nhà nước không thể giữ được tỷ lệ như trước đó và hầu hết các ngành, đặc biệt là y tế và giáo giục đã phải cắt giảm phần lớn kinh phí.
Nhiều hoạt động đổi mới đã được áp dụng cho ngành y tế. Việc đưa viện phí vào áp dụng tại các cơ sở y tế công tuyến trên (bệnh viện), quy định về pháp luật đối với các hoạt động hành nghề y tế tư nhân, tự do hoá ngành công nghiệp dược và việc bỏ quy định trong bán lẻ thuốc và dược phẩm là một số các hoạt động đổi mới quan trọng nhất. Tất cả các hoạt động đổi mới này đều có ảnh hưởng sâu sắc đến ngành y tế và hành vi tìm kiếm các dịch vụ y tế của các hộ gia đình.
Một trong những đổi mới quan trọng là từ năm 1993 ngành y tế đã áp dụng phương thức bảo hiểm y tế cho nhiều đối tượng trong xã hội bao gồm cả bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Từ đó đến nay nguồn thu này đã phát triển nhanh chóng và cùng với nguồn thu từ viện phí trở thành nguồn lực bổ sung quan trọng trong ngành y tế, đặc biệt là ở tuyến 2 và tuyến 3 (khám và chữa bệnh), góp phần giảm sự căng thẳng ngân sách của ngành y tế.
Hiện nay, các nguồn tài chính chủ yếu cung cấp kinh phí cho ngành y tế bao gồm:
- Ngân sách Nhà nước.
- Bảo hiểm y tế.
- Viện phí.
- Các nguồn khác trong đó chủ yếu là nguồn viện trợ nước ngoài.
1.Ngân sách Nhà nước đầu tư cho y tế
a/ Quy mô cơ cấu vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
Ngành y tế Việt Nam hiện nay hoạt động dựa trên kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau, tuy nhiên, nguồn ngân sách Nhà nước vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao và giữ vai trò chủ đạo. Nguồn vốn này được sử dụng để xây dựng và sửa chữa những công trình y tế quan trọng, mua sắm những trang thiết bị y tế cần thiết, hiện đại, đào tạo đội ngũ cán bộ y tế, thực hiện các chương trình y tế quốc gia...
Trong những năm qua, đặc biệt từ năm 1990 trở lại đây, Nhà nước đã chú trọng đầu tư phát triển ngành y tế từ việc xây dựng hệ thống phòng bệnh và khám chữa bệnh, việc thực hiện các chương trình y tế quốc gia đến việc đầu tư nghiên cứu, xây dựng và ban hành các chính sách, phương thức quản lý và hành lang pháp luật trong ngành y tế. Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Nhà nước mà hệ thống y tế Việt Nam đã được cải thiện đáng kể.
Chi ngân sách Nhà nước cho y tế hàng năm chiếm tỷ trọng khoảng 4 - 5% tổng chi ngân sách. Đây là con số tuy không lớn nhưng lại là sự cố gắng lớn của Nhà nước trong việc duy trì và hiện đại hoá nền y tế nước nhà. Điều này được thể hiện trong bảng 4- Chi tiêu đầu tư cho y tế.
Bảng 4 - Chi tiêu ngân sách Nhà nước cho y tế. (Đơn vị: nghìn tỷ đồng).
Chỉ tiêu
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng dân số (triệu người)
-
67,774
69,405
71,025
72,025
73,962
75,335
76,714
78,095
80,0
--
Chi NSNN
-Chi cho y tế
-Tỷ trọng (%)
9,186
0,4392
4,48
12,081
0,7633
6,32
23,710
1,1824
4,99
39,063
2,017
5,16
44,207
3,823
8,6
62,679
2,892
4,6
70,539
3,246
4,16
78,057
3,852
4,93
80,820
3,960
4,9
82,500
3,809
4,62
86,635
3,729
4,3
Chi thường xuyên
-Chi cho y tế
-Tỷ trọng(%)
5,300
0,367
6,9
8,093
0,636
7,8
13,745
1,065
7,7
23,066
1,617
7,0
30,642
3,413
11,1
38,825
2,387
6,14
42,414
2,761
6,5
49,270
3,033
6,15
49,535
3,150
6,36
47,400
2,910
6,14
48,000
3,000
6,25
Chi ĐTXDCB
-Chi cho y tế
-Tỷ trọng(%)
2,704
0,0792
2,93
4,509
0,1273
2,82
5,832
0,1174
2,01
9,538
0,4002
4,2
8,950
0,408
4,56
7,769
0,505
6,34
9,320
0,485
5,21
10,522
0,819
7,78
12,377
0,810
6,54
15,555
0,899
5,78
13,500
0,7285
5,32
NSNN chi cho y tế /đầu người
(VNĐ)
11,262
17,036
28,402
53,056
39,103
43,078
50,212
50,730
47,981
46,202
(Nguồn: Đánh giá mục tiêu ưu tiên và xu hướng chi tiêu công cộng cho ngành y tế 91-2000- Nguyễn Trung Dũng và các cộng sự).
Mặc dù tổng chi ngân sách tăng qua các năm tăng nhưng tỷ trọng chi cho y tế có xu hướng giảm. Đặc biệt từ năm 1997, do có sự chững lại trong phát triển kinh tế nên chi cho y tế còn giảm cả về giá trị tuyệt đối. Chi thường xuyên cho y tế khá cao, chiếm khoảng 7% chi thường xuyên ngân sách Nhà nước. Đây là khoản chi cho bộ máy quản lý các bệnh viện, bác sĩ, y tá, đặc biệt là việc trả lương cho hệ thống y tế xã. Điều này có tác dụng duy trì hệ thống y tế xã, tăng khả năng tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ y tế. Chi đầu tư xây dựng cơ bản ngành y tế tăng khoảng 10 lần từ năm 1990 đến năm 2000. Năm 1990 con số này chỉ là 0, 0792 nghìn tỷ đồng, đến năm 2000 đã là 0,7285 nghìn tỷ đồng. Điều này chứng tỏ Nhà nước đã chú trọng việc hiện đại hoá nền y tế Việt Nam.
Qua số liệu đầu tư cho ngành y tế trong giai đoạn 1991- 2000 chúng ta nhận thấy rằng tuy còn rất nhiều khó khăn nhưng Đảng và Chính phủ rất cố gắng giành nguồn đầu tư cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. Tỷ trọng đầu tư giành cho y tế từ nguồn ngân sách Nhà nước được duy trì ở mức từ 4-5% tổng chi ngân sách, đặc biệt năm 1994 đạt tới mức 8,6%. Để nâng cao chất lượng các dịch vụ khám chữa bệnh cho người bệnh tại các tuyến, giảm sự căng thẳng về điều trị tại các cơ sở y tế và đẩy mạnh nhiều hơn nữa hoạt động của y tế cơ sở đặc biệt là y tế xã và y tế thôn bản. Nhà nước đã nâng tỷ trọng đầu tư xây dựng cho y tế trong chi đầu tư xây dựng chung từ 2,93% năm 1990 lên khoảng 6% vào những năm 1996- 1998, riêng trong năm 1997, tỷ trọng này đạt tới 7,78%. Hầu như toàn bộ hệ thống y tế từ trung ương đến cơ sở được cải tạo, nâng cấp về cơ sở trang thiết bị chuyên môn y tế, bao gồm 95 bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, bệnh viện các tỉnh với 113000 giường bệnh. Nhiều kỹ thuật chẩn đoán và điều trị hiện đại được đầu tư và triển khai hiệu quả như: chụp cắt lớp, chụp mạch máu, mổ nội soi, phá sỏi thận ngoài cơ thể,... Với mục tiêu đến cuối năm 2000 sẽ thanh toán xã trắng về y tế, Nhà nước đã ưu tiên tập trung đầu tư cho công việc xây dựng và nâng cấp trạm y tế xã (đến năm 1996 chỉ tiêu này đã đạt 95,6%). Chắc chắn sau năm 2000 chúng ta sẽ bảo đảm thực hiện được chỉ tiêu do Đại hội Trung ương Đảng VIII đề ra: 100% số xã có trạm y tế.
Ngân sách chi thường xuyên cho các hoạt động y tế được duy trì từ 6-7% tổng chi ngân sách của cả quốc gia. Ngân sách Nhà nước chi cho y tế trên đầu người cũng tăng song cũng chững lại từ năm 1998 trở lại đây một phần do có sự gia tăng về dân số, một phần do sự cắt giảm trong ngân sách y tế của Nhà nước. Nước ta là một trong những nước có chỉ tiêu ngân sách y tế trên đầu người thấp nhất khu vực, kém xa mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới là 12 USD/năm.
Như vậy, từ số liệu về chi tiêu ngân sách Nhà nước cho y tế, ta có thể thấy rằng chi tiêu cho y tế từ ngân sách phụ thuộc rất nhiều vào các chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước cũng như phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế xã hội nói chung. Trong những năm gần đây do có sự đúng đắn trong nhận thức về tầm quan trọng của ngành y tế, Nhà nước đã có những chính sách thuận lợi tạo điều kiện cho y tế Việt Nam phát triển hiện đại. Song cùng với nó, cần phải thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, nâng cao thu nhập cũng như trình độ của nhân dân. Chỉ có như vậy, ngành y tế mới có thể phát triển và phát huy được vai trò của mình trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cán bộ và nhân dân.
Bên cạnh việc tăng cường vốn đầu tư cho ngành y tế, Nhà nước cần cải thiện cơ cấu vốn đầu tư cho ngành y tế nhằm không những mở rộng mà còn hiện đại hoá hệ thống y tế, chú trọng nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế. Trong những năm qua, nhìn chung ngân sách y tế phân theo lĩnh vực vẫn không có chuyển biến lớn. Theo bảng 5- Ngân sách y tế phân theo lĩnh vực năm 1999, tổng chi ngân sách cho y tế năm 1999 là 4756,75 tỷ đồng. Trong đó, chi cho sự nghiệp y tế là 4004,54 tỷ đồng chiếm 84,07% tổng ngân sách y tế, chi cho xây dựng cơ bản tuyến trung ương là 649,85 tỷ đồng chiếm 16,66%. Mặc dù đã có chính sách tạo điều kiện thúc đẩy việc đào tạo và nghiên cứu khoa học nhưng tỷ lệ ngân sách giành cho đào tạo và nghiên cứu khoa học chỉ chiếm 2,02% ngân sách y tế. Quản lý hành chính năm 1999 là 6,54 tỷ đồng chiếm 0,14% ngân sách.
Bảng 5- Ngân sách y tế phân theo lĩnh vực, 1999.
Tổng số (tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)
Tổng số chi
1.Xây dựng cơ bản tuyến trung ương
2.Nghiên cứu khoa học
3.Đào tạo
4.Chi cho sự nghiệp y tế theo nguồn
Trong đó:
- Viện trợ + vốn vay
- Viện phí
- BHYT
- NS Nhà nước cấp
5.Quản lý hành chính
4756,75
649,85
11,75
84,07
4004,54
426,00
570,00
600,00
2402,00
6,54
100,00
16,66
0,25
1,77
84,19
8,96
11,96
12,61
50,50
0,14
(Nguồn: Niên giám thống kê y tế 1999).
Hàng năm, Nhà nước ta đã giành ra một phần ngân sách để đầu tư cho y tế, trong đó có Bộ Y tế. Tình hình cấp vốn ngân sách chỉ tính riêng cho Bộ Y tế có chiều hướng tăng ổn định. Theo số liệu bảng 6 - Tình hình cấp vốn đầu tư cho Bộ Y tế. Năm 1996, tổng vốn đầu tư cấp cho Bộ Y tế là 66,7 tỷ đồng, đến năm 1997 là 72,5 tỷ đồng, tăng 8% so với năm 1996. Riêng năm 1998, Bộ Y tế được cấp 236,316 tỷ đồng, tăng 127% so với năm 1997.
Bảng 6 - Tình hình cấp vốn đầu tư cho Bộ Y tế 1996- 1998
Năm
Đơn vị
1996
1997
1998
Tổng số
Tăng so năm trước
Trong đó
Xây lắp
Thiết bị
Chi khác
Tỷ đồng
%
%
%
%
66,7
_
76,9
15,7
7,4
72,5
8
66,4
27,3
6,3
236,316
127
63,6
30,3
6,1
(Nguồn : Niên giám thống kê Y tế 1997, 1998 1999)
Như vậy, vốn đầu tư cho Bộ Y tế tăng qua các năm. Trong đó tỷ trọng đầu tư cho xây lắp giảm (từ 76,9% năm 1996 xuống còn 63,6% năm 1998), tỷ trọng đầu tư cho thiết bị tăng (17,5% năm 1996 lên 30,3% năm 1998). Điều này chứng tỏ Bộ Y tế đã quan tâm đến chất lượng của hệ thống y tế, đầu tư đổi mới các máy móc thiết bị phù hợp, hiện đại nhằm rút ngắn khoảng cách về kỹ thuật giữa y tế Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giơí.
Ngoài ra, các địa phương (tỉnh, huyện, xã) cũng đã quan tâm đầu tư cho y tế. Đầu tư cho y tế từ ngân sách địa phương hiện nay chiếm tỷ trọng khá cao và có vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển hệ thống y tế cơ sở.
b/ Đầu tư cho hệ thống phòng bệnh.
Từ nguồn vốn ngân sách, chúng ta đầu tư xây dựng và củng cố 5 bệnh viện quốc gia, 6 bệnh viện khu vực và 53 trung tâm y tế dự phòng tuyến tỉnh, tổ chức lồng ghép ở 574 trung tâm y tế huyện và 10105 trạm y tế xã. Nhờ vậy, hệ thống y tế dự phòng đã bắt đầu thực hiện được chức năng theo dõi giám sát phát hiện dịch, tổ chức khống chế và đi tới dập tắt các ổ dịch góp phần làm giảm số vụ dịch, số người mắc và chết do dịch gây ra.
Ngành y tế còn tổ chức các chương trình y tế quốc gia như: chương trình phòng chống bệnh phong, bệnh lao, bệnh sốt rét, bệnh biếu cổ, phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, chương trình bảo vệ sức khoẻ tâm thần cộng đồng, chương trình tiêm chủng mở rộng, phòng chống bệnh sốt xuất huyết... Nhờ vậy mà mặc dù là một trong những nước nghèo nhất châu á song các chỉ số sức khoẻ ở Việt Nam khả quan hơn nhiều so với mức thu nhập dự tính.
c/ Đầu tư cho hệ thống khám chữa bệnh
Với phương châm tăng cường mạng lưới y tế cơ sở, trong những năm 1994 - 2000 Nhà nước đã đầu tư khoảng 250 tỷ đồng xây dựng và nâng cấp 1713 trạm y tế xã, cơ bản xoá xã trắng về y tế. Ngoài ra Chính phủ còn đứng ra vay vốn của Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng châu á 250 triệu USD để chi tiêu cho ngành y tế và kế hoạch hoá gia đình, trong đó giành ra 80 triệu USD tương đương với 1120 tỷ đồng Việt Nam để xây dựng 4564 trạm y tế xã, nâng cấp và tăng cường trang thiết bị cho 321 bệnh viện huyện, 15 trung tâm y tế tuyến tỉnh, 440 nhà y tế bản của 32 tỉnh... Nếu loại trừ thiên tai tàn phá thì đến năm 2000 hầu hết các xã trong cả nước đều có trạm y tế.
Trong 10 năm 1991-2000, ngân sách Nhà nước đã giành ra khoảng 62030 tỷ đồng để xây dựng và cải tạo hệ thống khám chữa bệnh với 30 bệnh viện tuyến trung ương đều được cải tạo và nâng cấp; 700 bệnh viện chuyên khoa tuyến huyện, tuyến tỉnh cũng bước đầu được cải tạo và tăng cường trang thiết bị mới. Nhà nước đã giành hơn 400 tỷ đồng để đầu tư cho hai trung tâm y tế chuyên sâu là Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến năm 1999, ngân sách Nhà nước đã đầu tư trên 400 tỷ đồng để nhập các loại máy siêu âm chẩn đoán, máy tán sỏi, máy CT Scanner, máy cộng hưởng từ... Nhờ vậy ngành y tế đã phát hiện kịp thời và chữa khỏi nhiều trường hợp mà trước đây y tế đành bó tay. Đến năm 1995, cứ 1 triệu dân có 155 cơ sở và 431 người dân có 1 giường bệnh. Tỷ lệ này là khá cao so với các nước trong khu vực.
Tuy nhiên, đối với cơ sở phòng bệnh và khám chữa bệnh vấn đề không phải là số lượng mà là điều kiện của các cơ sở đó (tính hiện đại và đồng bộ...). Phần lớn các bệnh viện trên cả nước đều có trình độ kỹ thuật lạc hậu, thiếu ngân sách để bảo trì, cán bộ ít được cập nhật kiến thức.
Cơ sở vật chất y tế không được phân bổ đều giữa các vùng trong cả nước, phần lớn các trang thiết bị hiện đại, cán bộ giỏi đều tập trung tại Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn khác. Trên một số địa bàn bố trí nhiều cơ sở y tế chồng chéo gây lãng phí nhân tài vật lực. Trong khi các bệnh viện trung ương thì quá tải, các bệnh viện huyện lại chưa sử dụng hết năng lực.
Như vậy, trong 10 năm qua, Nhà nước đã quan tâm đầu tư cho hệ thống phòng cũng như khám chữa bệnh trên cả nước. Tuy còn nhiều thiếu sót song hệ thống này đã có đóng góp to lớn cho sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ của cán bộ và nhân dân ta.
2. Nguồn viện trợ quốc tế
ở Việt Nam hiện nay, có một số ước tính khác nhau về tổng số viện trợ ODA cho ngành y tế, ví dụ các số liệu của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, và cả các nhà tài trợ. Hầu hết các số liệu này không thống nhất với nhau. Một nguyên nhân quan trọng của sự không thống nhất này là vì một số viện trợ ODA được rót vào ngân sách Nhà nước, trong khi một số không theo đường ngân sách mà đi trực tiếp vào những dự án hỗ trợ địa phương. Một lý do khác là các nhà tài trợ khác nhau thì có sự tính toán khác nhau về sự đóng góp của họ.
Ban Quản lý các dự án Bộ Y tế có trách nhiệm giúp Bộ Y tế điều phối các nhà tài trợ và các hỗ trợ của các Tổ chức phi chính phủ cho ngành y tế đã báo cáo rằng, vào cuối tháng 12 năm 1998, trong lĩnh vực y tế có tổng số 179 dự án ODA đang được thực hiện, với tổng cam kết là 668 triệu USD (Ban Quản lý các dự án, 1999). Các chương trình dọc (hỗ trợ các chương trình y tế quốc gia), kế hoạch hoá gia đình (KHHGD) và chăm sóc sức khoẻ ban đầu (CSSKBĐ), mỗi nhóm chiếm khoảng 1/4 của tổng cam kết. Phần còn lại là hỗ trợ cho các bệnh viện và các phòng khám, xây dựng chính sách và kế hoạch của ngành..
Trong số 179 dự án cho y tế, có 99 dự án trực thuộc Bộ Y tế, được cung cấp tài chính bởi 19 nước viện trợ song phương, 4 Tổ chức Liên hiệp quốc, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu á và cộng đồng chung châu Âu... Ngoài ra, có 106 Tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực y tế.
Những mặt được trong việc sử dụng ODA
Trong những năm qua, chúng ta đã tranh thủ được một khối lượng viện trợ tương đối lớn trong lĩnh vực y tế, góp phần đáng kể trong việc bù đắp cho phần thiếu hụt của ngân sách Nhà nước giành cho lĩnh vực này. Viện trợ cho lĩnh vực y tế chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn ODA không hoàn lại mà các nhà tài trợ cung cấp cho Việt Nam.
Số lượng dự án cho lĩnh vực y tế, sức khoẻ chiếm tỷ lệ cao hơn so với một số lĩnh vực khác. Quy mô của dự án đã lên đến hàng chục triệu USD đối với nguồn viện trợ không hoàn lại.
Việc tranh thủ nguồn ODA cho lĩnh vực này diễn ra thuận lợi là do:
- Các cơ quan hữu quan của Việt Nam đã phối hợp tích cực, chủ động xây dựng và thực hiện các chương trình và dự án sử dụng nguồn vốn ODA cho lĩnh vực này.
- Lĩnh vực y tế sức khoẻ là một lĩnh vực xã hội mang nhiều ý nghĩa nhân đạo và phúc lợi cho con người nên được các nhà tài trợ quan tâm và ưu tiên cung cấp viện trợ.
- Cơ cấu viện trợ trong lĩnh vực này cũng đã có sự thay đổi tích cực, chuyển từ giai đoạn hỗ trợ vật chất là chủ yếu sang giai đoạn kết hợp hỗ trợ vật chất, chuyển giao kỹ thuật, với xây dựng năng lực chuyên môn và quản lý nhằm mục tiêu sử dụng có hiệu quả nhất nguồn viện trợ.
- Việc sử dụng nguồn viện trợ trong thời gian qua phù hợp với mục tiêu ưu tiên của Chính phủ trong lĩnh vực y tế như:
+ Tăng cường trang thiết bị, nâng cấp, cải tạo và xây dựng mới các cơ sở y tế các cấp, đặc biệt ở cấp cơ sở, cũng như cung cấp thuốc thiết yếu nhằm cải thiện điều kiện và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ, phòng chống và chữa bệnh cho nhân dân.
+ Cùng với ngân sách Nhà nước thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia và các chương trình mục tiêu về phòng chống bệnh tật, đem lại hiệu quả thiết thực như: tiêm chủng mở rộng, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dinh dưỡng, phòng chống lao, nhiễm khuẩn đường hô hấp, phòng chống biếu cổ, chống sốt rét, chống tiêu chảy...
+ Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên môn và quản lý từ cấp trung ương đến cấp cơ sở thông qua hoạt động đào tạo dài hạn và trung hạn ở nước ngoài, nghiên cứu, khảo sát và các lớp tập huấn ngắn hạn trong và ngoài nước.
Những tồn tại và thiếu sót
Trong thời gian qua việc sử dụng viện trợ trong lĩnh vực y ._.u khám chữa bệnh của nhân dân.
Ngoài ra Việt Nam còn là một trong những nước làm tốt các chương trình y tế quốc gia. Trong những năm gần đây, số các vụ dịch và số người mắc, chết do các bệnh lây truyền giảm đáng kể. Nhờ vậy mà Việt Nam có các chỉ số sức khoẻ như tuổi thọ, tỷ lệ chết bà mẹ, trẻ em... được đánh gía cao trong khu vực và trên thế giới.
Y tế tư nhân trong những năm trở lại đây cũng có sự phát triển vượt bậc. Số các cơ sở y tế tư nhân tăng nhanh, số người dân sử dụng các dịch vụ y tế tư nhân cũng tăng. Các cơ sở y tế tư nhân ngày càng được nâng cao về chất lượng phục vụ.
Bên cạnh những thành tựu đạt được nêu trên, ngành y tế Việt nam vẫn bộc lộ một số hạn chế. Trình độ y tế nói chung còn thấp với các nước trong khu vực, nhiều cơ sở y tế còn đang ở trong tình trạng lạc hậu chưa tiếp cần được với kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu cán bộ còn nhiều bất cập.Việc huy động và sử dụng vốn đầu tư chưa thật hiệu quả.
I> một số thách thức lớn đối với nền y tế Việt Nam
+Về vấn đề cung cấp tài chính cho y tế
Chi phí cho y tế cao, đặc biệt là các dịch vụ nội trú đối với người nghèo. Mặc dù giá thuốc thực tế có giảm trong những năm gần đây, chi phí khám chữa bệnh, đặc biệt ở các bệnh viện công có ảnh hưởng lớn đến thu nhập của người nghèo. Ví dụ, một lần đến bệnh viện công chiếm mất 22% chi phí ăn uống trong một năm của một người thuộc nhóm có thu nhập thấp nhất. Như vậy, chỉ cần một lần ốm nặng phải nằm viện dài ngày có thể ngốn hết số tiền giành dụm trong nhiều năm của một người nghèo. Điều này có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của họ đối với những khoản chi phí không lường trước được trong tương lai.
Phần lớn ngân sách Nhà nước chi cho y tế dùng để chi tiêu cho bệnh viện, đặc biệt ở tuyến tỉnh. Trong khi bệnh viện ngốn một phần lớn ngân sách của nhà nước bao cấp cho y tế ở các nước đang phát triển, số liệu về chi tiêu công cộng ở Việt Nam cho thấy phân bổ cho bệnh viện công chiếm một phần khá lớn trong tổng ngân sách y tế hiện nay (khoảng 80%). Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do chính quyền địa phương (cấp tỉnh) phải chi tiêu nhiều cho bệnh viện công.
Độ bao phủ của báo hiểm y tế vẫn còn hạn chế. Tuy chương trình bảo hiểm y tế ở Việt Nam phát triển nhanh chóng trong 5 năm đầu, bắt đầu từ con số không, độ bao phủ của bảo hiểm y tế đã chững lại trong hai năm vừa rồi, ở mức 13% tổng dân số. Hơn nữa, độ bao phủ lại lớn hơn đối với nhóm người khá giả, bởi vì nó được thực hiện bắt buộc đối với công chức Nhà nước và nhân viên ở khu vực có tổ chức, mà hầu hết những người nay thuộc nhóm có thu nhập cao hơn. Điều này có nghĩa là ở Việt Nam những người thuộc tầng lớp khá giả tham gia bảo hiểm nhiều hơn.
Chi tiêu y tế công cộng không đồng đều giữa các tỉnh. Chi tiêu y tế công cộng cho y tế được phân bố không đồng đều giữa các tỉnh. Các tỉnh giàu có có mức chi tiêu y tế công cộng / đầu người cao hơn nhiều so với các tỉnh nghèo. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình này là chi tiêu cho y tế ở tuyến tỉnh do chính quyền tỉnh cấp từ nguồn thu riêng của họ, các nguồn thu này có quan hệ chặt chẽ với thu nhập của tỉnh. Hơn nữa, phần ngân sách quốc gia do tỉnh quản lý được trung ương phân bổ theo tiêu chuẩn và theo dân số của tỉnh, cách phân chia này không giúp được mấy để giảm bớt sự bất bình đẳng về vốn chi tiêu y tế trên đâù người giữa các tỉnh.
Lương của nhân viên y tế thấp. Nhân viên y tế là một trong những đầu vào quan trọng nhất của hệ thống y tế. Vì thế, chất lượng dịch vụ y tế thường đồng nghĩa với vấn đề đạo đức và động cơ của nhân viên y tế. ở Việt Nam, mức lương tháng trung bình của nhân viên y tế không mấy thay đổi (theo giá trị thực tế) từ năm 1994. Năm 1998, mức lương tháng trung bình của nhân viên y tế Nhà nước chỉ bằng 29 USD. Vì thế, các nhân viên y tế nhà nước đôi khi phải tìm kiếm các nguồn thu nhập thêm. Điều này làm giảm bớt thời gian, sự chú ý và sự tận tâm của họ đối với công việc.
+Về vấn đề năng lực y tế.
Số lượng bệnh viện lớn. Như đã trình bày ở trên, Việt Nam có số giường bệnh so với dân số cao hơn nhiều nước khác, kể cả những nước có thu nhập / đầu người cao hơn rất nhiều. Các bệnh viện huyện phụ thuộc rất nhiều vào quy mô kinh tế của đại phương, nghĩa là có quá nhiều bệnh viện trong cả nước và một số thì quá nhỏ để cung cấp dịch vụ một cách có hiệu quả. Trong tình hình này có thể sát nhập và củng cố các bệnh viện huyện cỡ nhỏ để mang lại hiệu quả cao hơn, đặc biệt là khi sát nhập không làm giảm khả năng tiếp cận về mặt địa lý tới cơ sở đó.
Cơ cấu y tế hỗn hợp. Trong 20 năm qua, số lượng bác sĩ tăng nhanh hơn so với y sĩ và dược sĩ, trong khi đó số lượng y tá và nữ hộ sinh / đầu dân lại có xu hướng giảm. Điều này là cho Việt Nam có tỷ lệ bác sĩ / y tá rất cao. Vì đào tạo bác sĩ tốn kém hơn rất nhiều so với y tá, cho nên cần phải xem xét lại cơ cấu nhân viên y tế hỗn hợp có cân nhắc tới vấn đề chi phí so với hiệu quả. Một điều quan trọng hơn là cơ cấu nhân viên y tế hỗn hợp có thể làm giảm khả năng tiếp cận của người nghèo tới các dịch vụ y tế, vì nhiều bác sĩ được đào tạo chính quy không muốn chuyển về nông thôn làm việc. Điều này có nghĩa là các xã nghèo nhất trong cả nước không chỉ không có bác sĩ mà còn cả y tá, nữ hộ sinh và dược sĩ- những người có thể đã được đào tạo bằng những nguồn lực hạn hẹp hiện nay phân bổ cho công tác đaò tạo nhân viên y tế.
Khả năng tiếp cận dịch vụ y tế về mặt địa lý thấp ở các vùng xa xôi hẻo lánh. Trong khi khả năng tiếp cận (về mặt địa lý) tới các dịch vụ y tế của người dân Việt Nam nói chung là tốt thì việc tiếp cận về mặt địa lý ở một số vùng vẫn còn bị hạn chế. Những vùng này chủ yếu thuộc Tây Nguyên và miền núi phía Bắc nơi có 55 dân tộc thiểu số đang sinh sống. Trên những vùng này, mật độ dân số thấp và địa hình khó khăn cho nên thời gian để đi đến một cơ sở y tế địa phương thường rất dài. Hơn nữa vì nghèo cho nên các vùng này khó có thể thu hút được y tế tư nhân, và vì thế khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế là rất thấp.
Đào tạo nhân viên y tế. Mặc dù Việt Nam đã cung cấp số nhân viên y tế so với dân số khá cao nhưng vẫn cần phải cải thiện nhiều cho công tác đào tạo và nâng cao năng lực cho nhân viên y tế trong cả nước. Các chương trình đào tạo ban đầu trong lĩnh vực y tế đôi khi chỉ hoàn toàn mang tính lý thuyết, có rất ít tác động qua lại và kích thích sinh viên tìm cách ứng dụng các kiến thức được học. Phương tiện và giáo viên thực hành còn rất hạn chế, không có một viện trường chính thức nào, hầu hết những người tốt nghiệp bắt đầu ra làm có quá ít kinh nghiệm thực hành. Ngoài ra các nguồn lực phân bổ cho đào tạo lại quá ít cho nên cơ hội cho các nhân viên y tế được cập nhật với sự phát triển mới trong lĩnh vực của mình là rất hạn chế.
Quy chế đối với những người cung cấp dịch vụ. Tuy đã có nhiều nghị định và quy chế quy định các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu và các quy trình kỹ thuật đối với các nhà cung cấp dịch vụ, việc thực hiện các luật lệ này thông qua công tác thanh tra thường xuyên đối với các cơ sở y tế vẫn chưa đạt yêu cầu. Một phần là do sự tăng nhanh số lượng các cơ sở y tế, nhất là các nhà cung ứng và quầy thuốc tư nhân, trong mấy năm gần đây. Sở Y tế, người có trách nhiệm tiến hành thanh tra thường xuyên đối với tất cả các cơ sở y tế tư nhân, lại không có đủ nhân lực cũng như ngân sách để tiến hành các hoạt động này.
Điều phối các nhà quản lý viện trợ. Viện trợ nước ngoài cho ngành y tế Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng (theo giá trị tuyệt đối) từ rất thấp. Đến cuối năm 1998 có 179 dự án ODA đang được thực hiện trong lĩnh vực y tế. Quy mô viện trợ lớn đã làm tăng lên gánh nặng quản lý đối với Bộ Y tế.
II> Một số giải pháp về đầu tư trong ngành y tế
Để cải thiện tình hình trên, Nhà nước cần có một số biện pháp tích cực, hiệu quả theo các nhóm giải pháp sau:
1. Nhóm các giải pháp về đầu tư phát triển nhân lực y tế.
2. Nhóm các giải pháp về kinh tế y tế.
3. Nhóm các giải pháp về kỹ thuật y tế.
4. Nhóm giải pháp đầu tư nghiên cứu, xây dựng và ban hành các cơ chế quản lý và chính sách y tế.
1. Nhóm các giải pháp đầu tư phát triển nguồn nhân lực y tế
Trong mọi lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là trong ngành y tế, nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển của ngành. Xây dựng một đội ngũ cán bộ y tế có trình độ chuyên môn vững vàng, có khả năng tiếp cận với kỹ thuật y tế hiện đại là một trong những mục tiêu phát triển của ngành y tế hiện nay. Ngoài ra cán bộ quản lý trong ngành y tế cũng cần được đào tạo lại để nâng cao trình độ quản lý trong thời kỳ mới.
Như đã đề cập ở phần trên, hàng năm ngân sách nhà nước đầu tư gần một trăm tỷ đồng cho sự nghiệp đào tạo cán bộ y tế. Con số này tuy chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành song đã là sự cố gắng lớn của nhà nước. Trong thời gian tới, một mặt chúng ta phải tận dụng kinh phí và các nguồn khác, đặc biệt là nguồn viện trợ cho công tác đào tạo. Chỉ có như vậy, chúng ta mới nâng cao được chất lượng trình độ của cán bộ y tế.
Mặc dù số bác sĩ trung bình trên 100000 dân của nước ta ở vị trí khá cao trong khu vực song hiện nay chỉ có 30% số xã trong cả nước có bác sĩ thấp hơn mục tiêu đề ra cho năm 2000 là 40%. Sở dĩ mục tiêu trên không đạt được là có 2 lý do. Thứ nhất, đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu.Thứ hai là sự mất cân đối trong phân phối các cán bộ y tế khi ra trường.Vì vậy trong thời gian tới các trường đại học và trung học y dược cần tiếp tục tuyển sinh nâng cao chất lượng đào tạo. Bên cạnh đó cần có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với các cán bộ y tế làm việc tại các vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn.
Để khắc phục sự mất cân đối trong tỷ lệ giữa bác sĩ và y tá, trong những năm tiếp theo các trường đại học và trung học cần khuyến khích tuyển sinh y tá không chỉ ở trình độ trung cấp mà còn ở cả trình độ đại học. cán bộ y tá khi ra trường được khuyến khích làm việc tại các vùng khó khăn bằng chế độ lương thưởng phụ cấp thoả đáng. Ngay cả tại các thành phố lớn, các cán bộ y tá cũng phải được đãi ngộ hợp lý, tránh có sự chênh lệch quá lớn trong thu nhập giữa bác sĩ và y tá.
Riêng đối với công tác đào tạo cán bộ y tế có trình độ đại học và sau đại học cần làm tốt một số nhiệm vụ sau:
- Sắp xếp mạng lưới các trường khoa: xây dựng trường cấp 3 tại trường Đại học y Hà Nội, trường Đại học y dược Thành phố Hồ Chí Minh và trường Đại học y Huế, xúc tiến nhanh việc thành lập trường Đại học y học cổ truyền và Đại học răng hàm mặt; đổi tên trường Quản lý y tế thành trường y tế công cộng, xác định quy mô đào tạo, phân vùng đào tạo của các trường đại học y tế.
- Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy: ban giám hiệu các trường có trách nhiệm xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy. Bộ y tế có kế hoạch sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí đào tạo đội ngũ cán bộ này, đặc biệt đầu tư bồi dưỡng đội ngũ cán bộ bằng nguồn kinh phí trong nước.
- Có những quy định phù hợp để tổ chức thực hiện sự ưu tiên đầu tư đại học và sau đại học cho các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa.
- Phát huy hệ thống bệnh viện sẵn có, tăng cường đầu tư và chuẩn hoá đội ngũ các bệnh viện được chọn là bệnh viện thực hành của các trường đại học, tạo điều kiện tốt nhất cho thầy và trò giảng dạy, học tập.
- Đầu tư điều chỉnh lại chương trình giảng dạy cho phù hợp. Đảm bảo cân đối mục tiêu đào tạo về khoa học cơ bản, y học cơ sở, y học lâm sàng và các môn học khác.
Quan tâm đầu tư các phương tiện dạy và học như các labo, thư viện, đặc biệt chú ý đến các phương tiện lâm sàng của sinh viên y.
- Đầu tư kinh phí tăng cường công tác nghiên cứu khoa học: các trường đại học y, dược kết hợp với các viện nghiên cứu để thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học.
- Mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực giảng dạy và học tập, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Các trường đại học y dược là một trong những đầu mối quan trọng trong chuyển giao khoa học công nghệ của ngành, thiết thực góp phần hiện đại hoá ngành y.
- Chăm lo đời sống thầy và trò về điều kiện vật chất, tinh thần để thầy trò yên tâm tập trung nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học.
2. Nhóm giải pháp về kinh tế y tế
Nếu như trong thời kỳ trước đây, mọi hoạt động y tế đều được bao cấp bởi ngân sách Nhà nước thì hiện nay, trong thời kỳ đổi mới, nguồn lực tài chính cho y tế bao gồm: ngân sách Nhà nước, bảo hiểm y tế, viện phí và viện trợ. Trong đó nguồn vốn từ ngân sách vẫn giữ vai trò chủ đạo. Đây là nguồn lực mang tính ổn định nhất để thực hiện định hướng công bằng và hiệu quả trong công tác chăm sóc sức khoẻ. Trong điều kiện nước ta còn nghèo, kinh tế có phát triển nhưng còn chậm, cần phải biết tận dụng các nguồn vốn và sử chúng có hiệu quả. Có như vậy chúng ta mới đảm bảo phát triển bền vững theo xu hướng hiện đại hoá của ngành y tế.
Như đã nói ở trên, nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chiếm trên 50% tổng kinh phí đầu tư cho ngành y tế. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải tiếp tục duy trì đầu tư từ ngân sách Nhà nước vào sự nghiệp y tế nhằm đảm bảo định hướng công bằng, hiệu quả và nhân đạo trong công tác y tế.
Nguồn thu viện phí cũng là một nguồn thu khá quan trọng, đặc biệt là với hoạt động của các cơ sở y tế. Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt mục tiêu tăng thu từ nguồn này thì đây sẽ là gánh nặng cho người bệnh, đặc biệt là đối với người nghèo. Hiện tại, trong điều kiện kinh tế còn khó khăn, chúng ta phải duy trì nguồn thu này, song phải giảm bớt gánh nặng cho người nghèo và các đối tượng xã hội khác. Trong thực tế hiện nay có một tình trạng là phần lớn người được miễn giảm viện phí trong bệnh việc lại thuộc tầng lớp có thu nhập cao trong xã hội do vị trí xã hội của họ hoặc do các mối quan hệ họ hàng, quen biết. Trong khi đó thì viện phí lại trở thành gánh nặng của người dân, làm cho họ ngại hoặc sợ phải đến bệnh viện. Vì vậy cần phải cân đối, thu đúng, thu đủ nguồn viện phí đảm bảo tính nhân đạo và công bằng. Trong các bệnh viện có thể mở thêm phòng khám tư nhân hoặc bán công với chất lượng phục vụ tốt hơn giành cho người có thu nhập cao, nhằm sử dụng nguồn thu này bao cấp chéo cho người nghèo. Khi thực hiện phương thức này cần phải thận trọng tránh sử dụng mọi nguồn lực, phương tiện tốt nhất cho khu vực tư nhân, làm giảm tính công bằng trong việc cung cấp các dịch vụ y tế.
Bảo hiểm y tế là nguồn thu được đánh giá là quan trọng và có triển vọng. Hiện nay, mặc dù độ phủ của bảo hiểm (tức là số người tham gia bảo hiểm trên số đối tượng bảo hiểm) còn rất nhỏ song nguồn thu này chiếm khoảng 16% tổng kinh phí cho ngành y tế. Đây là nguồn thu khá ổn định, có ý nghĩa cơ bản và lâu dài. Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh công tác thu bảo hiểm ở cả phương thức bắt buộc và tự nguyện. Đối với phương thức bắt buộc, cần duy trì chế độ mua bảo hiểm của công nhân viên chức và người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước. Quản lý, giám sát và kiên quyết buộc các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mua bảo hiểm cho người lao động. Đối với phương thức tự nguyện, cần khuyến khích mọi đối tượng trong xã hội, từ nông thôn đến thành thị, tham gia bảo hiểm y tế. Điều quan trọng là phải làm cho họ hiểu được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm y tế từ đó khuyến khích họ tham gia. ở đây có thể sử dụng các phương tiện phát thanh truyền hình hoặc các phương tiện thông tin đại chúng khác để tuyên truyền.Việc làm này không những làm tăng nguồn thu cho ngân sách y tế mà còn là giảm gánh nặng cho người dân khi họ sử dụng các dịch vụ y tế. Riêng đối với người thực sự lâm vào hoàn cảnh khó khăn hoặc với những đối tượng chính sách, Nhà nước nên có những chính sách thích hợp như cấp sổ khám, chữa bệnh hoặc mua bảo hiểm y tế cho họ.
Đối với nguồn viện trợ ODA, một mặt cần duy trì các đối tác cũ, tìm kiếm những đối tác mới nhằm tận dụng nguồn vốn ODA. Mặt khác, cần nâng cao trình độ của cán bộ quản lý nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA không những có tác dụng thúc đẩy phát triển nền y tế nước nhà phát triển mà còn tạo niềm tin đối với các đối tác nước ngoài để huy động ngày càng nhiều vốn đầu tư từ nguồn vốn này.Viện trợ là nguồn vốn không ổn định nhưng khá quan trọng, giúp nền y tế Việt nam tiếp cận với kỹ thuật và phương thức quản lý hiện đại của các nước trên thế giới. Vì vậy cần tận dụng nguồn vốn này, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nhằm rút ngắn khoảng cách giữa y tế Việt nam và thế giới.
Bên cạnh việc huy động các nguồn lực cho sự nghiệp y tế, cần quan tâm đến việc sử dụng hợp lý các nguồn lực đó. Phương hướng lâu dài phải nghĩ đến việc hạch toán trong ngành y tế. Nhưng trong những năm trước mắt chưa thể tiến hành ngay được, một mặt vì điều kiện kinh tế xã hội cũng như cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta chưa cho phép, mặt khác trình độ quản lý kinh tế trong y tế chưa cao. Nhân lực y tế hiện nay vừa thừa lại vừa thiếu, thừa về số lượng một số cán bộ nhưng lại thiếu cán bộ giỏi chuyên môn, nhất là cán bộ giỏi về quản lý kinh tế trong y tế nhiều cán bộ lãnh đạo các cơ quan y tế vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào ngân sách Nhà nước.
Để xây dựng một nền kinh tế y tế phát triển và bền vững cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, trên cơ sở các chính sách xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước cần khuyến khích việc xã hội hoá và đa dạng hoá các loại hình khám chữa bệnh cũng như đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong y tế như cổ phần hoá, liên doanh, bán công, 100% vốn nước ngoài, bệnh viện tư, thuê mua tài chính.. . để thu hút các nguồn vốn cho sự phát triển y tế.
Thứ hai là tìm cách phân bổ nguồn lực tài chính sao cho đảm bảo được tính công bằng và hiệu quả trong chăm sóc sức khoẻ. Chẳng hạn, có nên duy trì việc phân bổ ngân sách Nhà nước cho các tỉnh một cách đồng đều dựa trên việc tính theo đầu người (mặc dù đã có hệ số điều chỉnh cho các tỉnh miền núi) hay là cần tính ra tổng chi tiêu y tế của từng tỉnh dựa trên cơ sở nhu cầu, rồi từ đó ưu tiên cho các tỉnh nghèo và tỉnh miền núi bằng cách cung cấp một phần lớn tổng chi tiêu y tế (70-80%) từ nguồn ngân sách Nhà nước. Trái lại, với những tỉnh không nghèo (có một lượng tài chính khá lớn từ bảo hiểm y tế và viện phí) Nhà nước chỉ nên cung cấp khoảng 40-50% tổng chi tiêu y tế. Ngoài ra, Nhà nước phải tăng cường công tác quản lý và điều phối nguồn viện trợ không hoàn lại và vốn vay, dùng nguồn này để cung cấp cho các tỉnh nghèo với một tỷ lệ cao hơn trong tổng chi tiêu y tế so với các tỉnh khác.
Thứ ba là phải quy hoạch lại mạng lưới khám chữa bệnh, đưa dịch vụ y tế về gần dân nghèo hơn để đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận dễ dàng hơn với các cơ sở y tế. Có chính sách khuyến khích thoả đáng để cán bộ y tế có điều kiện về phục vụ nhân dân ở xa các đô thị lớn.
Thứ tư là phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hiện có, tận dụng tối đa các trang thiết bị, tăng cường tiết kiệm, tránh lạm dụng kỹ thuật cao, lạm dụng thuốc trong khá chữa bệnh.
Cùng với việc thực hiện bốn điều trên, đồng thời phải tăng cường bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế và đào tạo cán bộ quản lý kinh tế y tế từ cấp bộ đến cấp cơ sở. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để đảm bảo cho công tác kinh tế y tế được tiến hành trong khuôn khổ pháp lý. Với tinh thần dù còn nghèo nhưng một đồng tiền dù là nguồn ngân sách Nhà nước hoặc từ nguồn viện trợ hay vốn vay đều phải được sử dụng với hiệu quả cao nhất trong phòng và chữa bệnh mà không được lãng phí hoặc rơi vào túi bọn tham nhũng. Có như vậy mới đảm bảo kinh tế y tế vừa là động lực thúc đẩy ngành y tế đi lên, vừa tạo điều kiện để thực hiện tính nhân văn của nền y tế xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Nhóm giải pháp về kỹ thuật y tế
Khoa học công nghệ và kỹ thuật là một yếu tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển ngành y tế của các nước nói chung, ngành y tế Việt Nam nói riêng. Khoa học kỹ thuật đã tạo ra những bước tiến mới trong việc chẩn đoán và điều trị. ở Việt Nam, khoa học kỹ thuật đã góp phần tích cực để khống chế, đẩy lùi và từng bước thanh toán một số bệnh lây truyền, giảm tỷ lệ mắc, tỷ lệ tử vong của sốt rét, tiêu chảy, nhiễm khuẩn cấp tính đường hô hấp ở trẻ em, khống chế không để xảy ra các nạn dịch lớn.
Chúng ta đã nghiên cứu, mua sắm, ứng dụng nhiều kỹ thuật mới, hiện đại, thiết thực nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị. Các kỹ thuật chẩn đoán bằng hình ảnh đã được áp dụng tại hai trung tâm y tế chuyên sâu là Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã góp phần phát hiện chính xác một số căn bệnh mà trước đây chưa chẩn đoán được. Các kỹ thuật điều trị hiện đại như phẫu thuật nội soi, tán sỏi, ghép thận, ghép tuỷ, hồi sức cấp cứu.. . đã cứu chữa được nhiều người bệnh mà trước kia điều trị kết quả thấp hoặc không chữa được.
Mặc dù đã có sự tiến bộ song Việt Nam vẫn là một trong những nước có kỹ thuật y tế thấp nhất trong khu vực. Các cơ sở y tế không có vốn đầu tư để hiện đại hoá trang thiết bị. Cơ sở khoa học công nghệ còn nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và vốn. Trong thời gian tới, mục tiêu đề ra là: một mặt phải từng bước đổi mới và hiện đại hoá trang thiết bị của tất cả các trang thiết bị trên toàn quốc, đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân; mặt khác phải đầu tư trang thiết bị hiện đại, kỹ thuật cao vào hai trung tâm y tế chuyên sâu là Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh nhằm tiếp cận với những kỹ thuật hiện đại trên thế giơí. Việc mua sắm các trang thiết bị này phải được tính toán phù hợp, không để mua phải những thiết bị cũ kỹ, lạc hậu cũng không mua thiết bị quá hiện đại, công suất quá lớn hoặc quá đắt tiền vừa gây lãng phí về vốn đầu tư vừa không có ngay cán bộ có thể sử dụng thiết bị gây lãng phí về nguồn lực.
Mục tiêu cụ thể do Bộ Y tế đề ra cho những năm tới là:
- Đầu tư nghiêm cứu, khống chế và thanh toán một số bệnh dịch, bệnh xã hội có tính cấp bách, ngăn chặn nhiễm HIV/AIDS. Ngăn ngừa các bệnh xuất hiện trong quá trình công nghiệp hoá và phát triển xã hội như: bệnh tim mạch, ung thư, bệnh nghề nghiệp.. . Quan tâm chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em và người có tuổi.
- Nghiên cứu những ảnh hưởng của các hoá chất độc hại dùng trong nông nghiệp, công nghiệp tới con người, bảo vệ môi sinh và các biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, cải thiện tình trạng dinh dưỡng.
- Đầu tư phát triển công nghiệp sản xuất vaccine, các chế phẩm và phương pháp chẩn đoán bệnh đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Đầu tư xây dựng cơ sở khoa học công nghệ có nền móng khoa học cơ bản và y tế cơ sở để đón nhận khoa học công nghệ tiên tiến vào đầu thế kỷ 21. Ví dụ: y sinh học phân tử, tin học trong y học, miễn dịch học, di truyền học...
- áp dụng các kỹ thuật hiện đại trong nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng của y học cổ truyền.
- ứng dụng công nghệ tiên tiến về sinh học, tin học... trong sản xuất thuốc, trang thiết bị y tế, tiếp tục đầu tư cho hai trung tâm y tế chuyên sâu là Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh với kỹ thuật cao, hiện đại và cập nhật.
Để thực hiện được những mục tiêu quan trọng về phát triển khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y dược nêu trên, cần có những giải pháp chiến lược như sau:
*) Tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn giỏi ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ hiện đại hoá ngành y dược. Tăng cường năng lực đào tạo trong nước, ở rộng hợp tác quốc tế, đào tạo cán bộ ở các nước có nền y học tiên tiến, kỹ thuật cao nhằm cập nhật kiến thức và trình độ kỹ thuật của thế giới.
*) Sắp xếp mạng lưới hệ thống bệnh viện, viện nghiên cứu, trường đào tạo, cơ sở sản xuất thuốc và trang thiết bị y tế một cách khoa học, hợp lý và hiệu quả để phát huy được mọi tiềm năng sẵn có về sức người, sức của trong phát triển khoa học kỹ thuật y tế.
*) Tăng cường đầu tư trên cơ sở quy hoạch và kế hoạch phát triển khoa học công nghệ và đảm bảo nguyên tắc hiện đại hoá trên cơ sở chuẩn hoá thường quy và đồng bộ, lựa chọn ưu tiên phù hợp. Đầu tư trang thiết bị song song với đầu tư cơ sở hạ tầng và đào tạo cán bộ, ưu tiên chẩn đoán hình ảnh, sinh hoá, huyết học, vi sinh, giải phẫu bệnh, nội soi, các kỹ thuật hồi sức cấp cứu.. .
*) Xây dựng một hệ thống chính sách nhằm thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ y tế.
*) Các chuyên khoa sâu phải xác định được cụ thể hoá kế hoạch phát triển khoa học công nghệ để đầu tư có hiệu quả thiết thực.
*) Tăng cường vai trò tư vấn về khoa học công nghệ của hội đồng khoa học kỹ thuật các cấp trong phát triển khoa học công nghệ.
*) Tăng cường vai trò quản lý khoa học công nghệ các cấp theo các chương trình nghiên cứu và triển khai các cấp: quốc gia, bộ, cơ sở.
*) Mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở trao đổi và hợp tác nhằm tiếp thu và cập nhật được trình độ khoa học công nghệ thế giới về y tế và y học, chủ động đầu tư gửi cán bộ đi học nước ngoài theo hướng phát triển khoa học công nghệ.
*) Chăm lo tốt đời sống cán bộ khoa học.
4. Nhóm giải pháp đầu tư nghiên cứu, xây dựng, ban hành cơ chế quản lý và các chính sách y tế
Cơ chế quản lý cũng như các chính sách y tế là một điều kiện quan trọng thúc đẩy ngành y tế phát triển. Cải tiến chính sách y tế, thay đổi cơ chế quản lý nhằm phát huy cao độ trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi cộng đồng, mỗi cấp chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội đóng góp cho sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Phải gắn thu nhập của nhân viên y tế với thành quả lao động của chính họ. Đây là động lực quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất để ngành y tế vươn lên đáp ứng nhu cầu về dịch vụ y tế của nhân dân theo đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Chính phủ.
Những vấn đề chính sách cần được nghiên cứu, xây dựng, ban hành trong thời gian tới là:
+) Chính sách về viện phí: hiện nay Chính phủ Việt Nam đang chủ trương chuyển chế độ thu một phần viện phí thành chế độ thu viện phí, trên cơ sở tính đủ, tính đúng. Hoàn thiện và phát triển bảo hiểm y tế, đồng thời có chính sách khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.
+) Ban hành chế độ gắn thu nhập của nhân viên y tế với kết quả làm việc của họ, nâng cao y đức của người thầy thuốc.
+) Cải tiến chế độ quản lý bệnh viện để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có.
+) Phát triển y tế tư nhân: Chính phủ Việt Nam chủ trương xã hội hoá công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. khuyến khích phát triển các loại hình: bệnh viện bán công, bệnh viện liên doanh, bệnh viện tư nhân (kể cả 100% vốn nước ngoài). Vai trò của Nhà nước cần tập trung vào khâu phòng bệnh và y tế công cộng.
+) Về quản lý thuốc: vấn đề bức sức nhất đối với Việt Nam hiện nay là làm sao có thể kiểm soát được hiệu quả việc sử dụng thuốc có mặt tại khắp nơi trên toàn quốc, bất kể từ nguồn nào. Yêu cầu đặt ra là: người dùng thuốc được bảo đảm an toàn, hiệu quả và giá thành hợp lý, không lạm dụng. Tuy nhiên, đây là vấn đề khó khăn, đòi hỏi phải có cơ chế chính sách hợp lý. Nhà nước đã và đang có chính sách để khuyến khích, phát triển sản xuất thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho nhân dân.
+) Tổ chức hệ thống thông tin Y tế cấp Quốc gia. Thông tin là công cụ quan trọng để quản lý, điều hành và triển khai các hoạt động chăm sóc sức khoẻ nhân dân. hiện nay, thông tin y tế ở Việt Nam rất yếu kém: thiếu nhiều số liệu, số liệu mâu thuẫn, không kịp thời, không phản ánh được thực trạng bệnh tật và sức khoẻ nhân dân, không có số liệu y tế tư nhân. Đó là chưa kể các biểu mẫu, các chỉ tiêu cần phải có tính Quốc gia và Quốc tế để “hoà nhập” với các tổ chức ngành dọc và khu vực, quốc tế. Tổ chức lại hệ thống thông tin y tế cấp quốc gia là yêu cầu phải được quan tâm giải quyết sớm nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động y tế.
Hiện nay, hàng năm Chính phủ chỉ có thể giành một khoảng ngân sách có hạn (khoảng 5% tổng ngân sách chi của Nhà nước) cho ngành y tế. Ngành y tế sử dụng sao cho có hiệu quả nhất? Chi bao nhiêu cho phòng bệnh? cho chữa bệnh? Làm sao có thể bảo đảm công bằng trong chăm sóc sức khoẻ? Tất cả tình trạng nói trên đang đòi hỏi chúng ta phải cải tiến chính sách, hoàn thiện cơ chế quản lý mới hy vọng thay đổi được tình hình.
Kết luận
Đầu tư cho y tế là đầu tư cho con người, vì vậy cần phải tăng cường đầu tư cho y tế và nâng cao hiệu quả đầu tư cho y tế nhằm thúc đẩy yếu tố con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay, mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định song y tế Việt Nam vẫn còn rất nhiều tồn tại vần khắc phục. Đối mặt với những thách thức, khó khăn, yếu kém trong lĩnh vực y tế hiện nay, một trong những vũ khí hữu hiệu nhất đó là đổi mới cơ chế, chính sách, phát huy nội lực, vận dụng tốt các quy luật của cơ chế thị trường để sử dụng hiệu quả nguồn lực vốn đã rất hạn hẹp để can thiệp đúng đối tượng, đúng trọng tâm nhằm dần từng bước thoát ra khỏi tình trạng hiện nay.
Một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất là cần phải xác định lại vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực này, đó là: thực hiện tốt chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước thông qua việc xây dựng và ban hành các quy hoạch mạng lưới của ngành (quy hoạch bệnh viện, quy hoạch ngành dược...); hoạch định các chính sách (cả chính sách xã hội, cả chính sách kinh tế) trong lĩnh vực phát triển y tế; các quy định quả lý về chuyên môn kỹ thuật; đảm bảo cung cấp một số các dịch vụ y tế dự phòng và một số dịch vụ mang tính kỹ thuật cao và tính xã hội cao mà không một thành phần kinh tế nào có khả năng bảo đảm tốt hơn là y tế công. Huy động các thành phần kinh tế cũng như các tổ chức kinh tế xã hội và cả cộng đồng tham gia vào công cuộc chăm sóc sức khoẻ cho mọi người.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế đầu tư, trường Đại học Kinh tế quốc dân, PGS.PTS Nguyễn Ngọc Mai, nhà xuất bản giáo dục, 1998.
2. Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư, trường Đại học Kinh tế quốc dân, TS Nguyễn Bạch Nguyệt, nhà xuất bản Thống kê, 2000.
3.Y tế Việt Nam trong quá trình đổi mới, Bộ Y tế, nhà xuất bản Y học, 1999.
4. Đánh giá mục tiêu ưu tiên và xu hướng chi tiêu công cộng cho ngành y tế thời kỳ 1991-2000, Nguyễn Trung Dũng và các cộng sự, 1999.
5. Đánh giá thực trạng tác động của một số chương trình quốc gia 1991- 2000, Bộ Y tế.
6. Tổng quan y tế Việt Nam, 1999.
7. Niên giám thống kê y tế 1997, 1998, 1999, Bộ Y tế.
8. Tóm tắt số liệu thống kê y tế 1945- 1996, 1997, 1998, Bộ Y tế.
9. Báo cáo thực trạng và triển vọng dịch vụ y tế tuyến tỉnh, Bộ Y tế, 1999.
10. Thực trạng, xu hướng biến động về sức khoẻ và sử dụng dịch vụ y tế của các cộng đồng dân cư Việt Nam, Bộ Y tế, 1999.
Và một số sách, báo, tạp chí khác.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0014.doc