Lời Mở Đầu.
Chuyên đề được kết cấu gồm 3 phần chính:
Chương I: Cơ sở lý luận của công tác kế hoạch phát triển thị trường .
Chương II: thực trạng công tác kế hoạch phát triển thị trường tại công ty đóng tàu hồng hà
Chương III: một số giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển thị trường tại công ty đóng tàu hồng hà .
Em xin chân thành cám ơn thầy Bùi Đức Tuân và các thầy cô trong khoa Kế hoạch phát triển đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và đóng góp ý kiến để giúp em có thể hoàn thiện đề
64 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1487 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển thị trường tại Công ty đóng tàu hồng hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tài này.
Em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty đóng tàu hồng hà đã tạo điều kiện để em có thể hoàn thành tốt đợt thực tập ở công ty.
Chương I
Cơ sở lí luận của công tác kế hoạch phát triển thị trường trong doanh nghiệp
I. Các vấn đề lí luận chung trong công tác kế hoạch.
1. Lịch sử phát triển của công tác kế hoạch trong doanh nghiệp.
Nền kinh tế thế giới trong thời kì từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỉ 20 là nền kinh tế trọng cung, người ta chỉ chú trọng, tập vào việc sản xuất những sản phẩm mà mình có nguồn lực, chứ chưa quan tâm đến nhu cầu của thị trường, chưa quan tâm đến việc sản xuất ra có tiêu thụ được không. Chính vì vậy công tác kế hoạch hoá đơn giản chỉ là dự báo vì chưa chịu sức ép của cầu.
Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 có sự xuất hiện ý tưởng về kinh tế trọng cầu, mối quan tâm của chủ doanh nghiệp là đảm bảo sự tăng trưởng của doanh nghiệp ít nhất bằng sự tăng trưởng của cầu, và như vậy công tác kế hoạch hoá trở thành một hệ thống hoàn chỉnh từ việc dự báo, lập ngân sách hàng năm để kiểm soát, kế hoạch được chú trọng dưới các hình thức khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi ngành hay mỗi doanh nghiệp.
Kế hoạch dài hạn: Xuất hiện từ cuối những năm 50 đầu những năm 60 trước sức ép ngày một tăng của cầu được đặc trưng bởi thời hạn từ 5 đến 10 năm, sự ràng buộc về mặt tài chính và cơ sở của dự báo dựa trên các phương pháp ngoại sung từ quá khứ với môi trường của kế hoạch hoá được hạn chế bởi thị trường nội tại của doanh nghiệp.
Kế hoạch tập trung: Xuất hiện những năm 1920 ở Liên Xô, đòi hỏi thiết lập một khu công nghiệp, nông nghiệp vận hành theo hệ thống phân phối chỉ tiêu hiên vật ở cấp doanh nghiệp với sự chỉ đạo của hệ thống bảng cân đối. Việc sản xuất áp đặt để bắt ép các nguồn lực về kinh tế và tập trung chúng vào các lĩnh vực ưu tiên, các giao dịch giữa các chủ thể kinh doanh không dựa trên các tính toán về lợi thế kinh tế, về cơ hội mà là việc giao nhận các sản phẩm hiện vật nhằm thực hiện những chỉ tiêu do nhà lập kế hoạch đề ra.
Kết quả của kế hoạch này tạo ra sự tích luỹ lớn và tiết kiệm cao, tuy nhiên thiếu sự năng động về công nghệ vì cho ra đời những sản phẩm không gắn liền với sự khuyến khích của thị trường, hiệu quả kinh tế rất thấp vừa do không có các chỉ tiêu kinh tế tương đối, vừa không có sự trừng phạt đối với tính phi hiệu quả và sự khuyến khích đối với tính hiệu quả, bên cạnh đó các doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh, nhất là trong logic nền kinh tế trọng cầu.
Kế hoạch trong nền kinh tế thị trường: cho phép doanh nghiệp nhận biết được các nhiệm vụ chủ đạo và các chính sách của mình một cách rõ ràng nhất, trợ giúp việc ra quyết định của các bộ phận chức năng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao tiếp nội bộ trong doanh nghiệp cũng như đối với các đối tác bên ngoài.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, kế hoạch hoá cho phép doanh nghiệp sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả khuyến khích các nhà quản lý thực hiện các quyết định quản lý trong tương lai, cho phép doanh nghiệp đối phó với những thay đổi bất ngờ của môi trường bên ngoài, đồng thời tăng cường khả năng kiểm tra trong mỗi doanh nghiệp.
2. vai trò của kế hoạch hoá :
2.1 sức mạnh thần bí của kế hoạch hoá :
trong thập kỷ sau thế chiến thứ hai, việc theo đuổi phát triển kinh tế của các nước thế giới thứ ba được báo hiệu bằng sự chấp nhận hầu như phổ biến của họ đối với kế hoạch hoá phát triển như là con đường chắc chắn nhất và trực tiếp nhất đi tới những tiến bộ kinh tế . Cho đến gần đây , ít nước thế giới thứ ba nghi ngờ tính hợp lí của việc hoạch định và thực hiện một kế hoạch quốc gia .Việc kế hoạch hoá đã thành một nếp sống trong các bộ của hầu hết các nước kém phát triển và cứ 5 năm hoặc gần như thế một kế hoạch phát triển mới nhất lại được tổng duyệt với sự phô trương ầm ĩ .nhưng tại sao , cho đến gần đây lại có ánh hào quang và sức mạnh bí hiểm về việc kế hoạch hoá phát triển và niềm tin vào tính hữu ích hiển nhiên của nó đến như vậy ? cơ bản là bở vì nhiều người tin rằng kế hoạch hoá quốc gia tập trung sẽ tạo ra một cơ chế quản lý cốt yếu và và có lẽ là duy nhất để vượt qua tất cả mọi trở ngại để phát triển và đảm bảo duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao . Trong một số trường hợp kế hoạch hoá tập trung còn được xem là “vừng ơi , mở cửa ra “cho phép các nước thế giới thứ ba nhanh chóng vượt qua hàng rào ngăn cách mức sống thấp của họ vơí sự thịnh vượng của những kẻ cầm quyền trước đây . Nhưng để đuổi kịp ,các nướ nghèo đã bị thuyết phục và còn tin rằng họ cần một kế hoạch quốc gia toàn diện .Thật không may , thành tích kế hoạch hoá lại không tồn tại được như sự quoảng cáo của nó và nhiều nước kém phát triển giờ đây đang chuyển hướng theo các nền kinh tế định hướng thị trường .
2.2 kế hoạch hoá trong nền kinh tế mệnh lệnh :
nói đến kế hoạch hoá trong nền kinh tế mệnh lệnh chủ yếu được liên tưởng đến nền kinh tế liên xô và những nền kinh tế kiểu xô viết ở đông âu , nơi mà trước những cuộc cải cách kinh tế năm 1990 chính phủ đã trực tiếp khống chế những hoạt động kinh tế thông qua quá trình đưa ra những quyết định từ trung ương . Một loạt những mục tiêu cụ thể được định trước bởi những nhà kế hoạch kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ . các nguồn lực , cả vật tư và tài chính , đã được phân phối không phải theo gía thị trường và các điều kiện cung cầu như ở như ở các nền kinh tế thị trường lí tưởng , mà phân phối theo nhu cầu vật tư , lao động và vốn của kế hoạch tổng thể . Do sự khác nhau cốt yếu giữa kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường và kinh tế mệnh lệnh là sự khác nhau giữa thuyết phục và khống chế trong khi nền kinh tế thị trường chỉ cố gắng ngăn chặn nền kinh tế khỏi đi lạc con đường tăng trưởng ổn định mong muốn bằng những công cụ chính sách năng động nhưng gián tiếp , thì nền kinh tế tập trung không chỉ đề ra một loạt những mục tiêu cụ thể thể hiện một quá trình tiến bộ kinh tế mong muốn , mà còn cố gắng thực hiện kế hoạch của mình bằng việc khống chế trực tiếp những hoạt động của hầu như tất cả các đơn vị sản xuất trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân . Tóm lại , kế hoạch kinh tế tập trung áp đặt tình trạng tương lai của tất cả các biến số kinh tế ,bao gồm cả giá cả .
2.3 kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường :
trước tiên chúng ta phải nhận thức rằng , thậm chí trong những nền kinh tế mà công ty tư nhân chiếm ưu thế như ở mỹ , Anh ,Nhật , kế hoạch hoá cũng đóng vai trò sống còn , mặc dù tương đối gián tiếp trong nền kinh tế .Trong khung cảnh những nền kinh tế này , kế hoạch hoá thường bao gồm những cố gắng có ý thức của chính phủ để đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh chóng với mức việc làm cao và giá cả ổn định thông qua những chính sách tài khoá và tiền tệ khác nhau của mình . Nhận thức được rằng thả lỏng hoàn toàn nền kinh tế theo cơ chế thị trường có thể dẫn đến tình trạng kinh tế mất ổn định cao độ , những chính phủ này đã tích cực lập kế hoạch để tạo ra những điều kiện mà sẽ ngăn chặn được sự mất ổn định kinh tế trong khi vẫn kích thích tăng trưởng kinh tế .Những công cụ chính sách được sử dụng chủ yếu là những công cụ trong những lĩnh vực tiền tệ tài chính và các quan hệ ngoại thương . Những chính sách tăng chi tiêu tài chính và tỉ lệ thuế được tăng cường đã tạo ra việc làm nhiều hơn và thu nhập cao hơn cho số dân ngày một tăng , lạm phát và giảm phát được kiểm soát bằng những chính sách phản chu kỳ ,các cuộc điều chỉnh lãi suất và các nguyên tắc chỉ đạo về giá và tiền lương . Những biến động trong cán cân thanh toán được sử lí bằng những điều chỉnh về thuế nhập khẩu , kiểm soát tỉ giá , hạn ngạch nhập khẩu và khuyến khích thuế trong tất cả các phương pháp nói trên , thì những công cụ của chính sách là năng động nhưng gián tiếp Chúng năng động ở chỗ chúng thúc đẩy nền kinh tế theo hướng mong muốn Chúng gián tiếp ở chỗ chỉ nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi sẽ ảnh hưởng đến quyết định của tư nhân xử sự theo cách có thể thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng ổn định . Mặc dù không có kế hoạch chi tiết nào theo nghĩa là một loạt những mục tiêu cụ thể được lập ra trong hầu hết các nền kinh tế thị trường , nhưng việc đật kế hoạch có giới hạn của chính phủ cũng đã được thực hiện trên cơ sở phân tích những xu hướng quá khứ và những dự án cho những điều kiện kinh tế trong tương lai .
2.3 kế hoạch trong nền kinh tế hỗn hợp đang phát triển :
kế hoạch trong nền kinh tế hỗn hợp đang phát triển được áp dụng hầu hết ở các nước thế giới thứ ba . Đặc điểm của những nền kinh tế này là sự tồn tại của một bối cảnh thể chế ,trong đó một phần nguồn lực sản xuất do tư nhân sở hữu và điều hành trong khi phần kia do nhà nước kiểm soát .Tỷ lệ phân chia thực sự quyền sở hữu tư nhân và nhà nước là khác nhau tuỳ theo từng nước , tuy nhiên không giống như những nền kinh tế thị trường thường chỉ có một mức độ nhỏ cho sở hữu nhà nước , các nền kinh tế hỗn hợp của những nước kém phát triển có sự khác biệt là phần lớn quyền sở hữu và kiểm soát nằm trong tay chính phủ . Khu vực tư nhân của những nền kinh tế này thường có bốn dạng sở hữu riêng biệt :
thành phần tự túc truyền thống bao gồm các tiểu trang trại tư nhân , bán một phần sản phẩm của họ ra thị trường địa phương
kinh doanh thương mại và các dịch vụ quy mô nhỏ của các cá nhân và gia đình
các công ty thương mại tầm trung trong các lĩnh vực nông nghiệp , công nghiệp , thương mại và giao thông được sở hữu và điều hành bởi các doanh nghiệp địa phương
các xí nghiệp chế tạo , công ty khai thác mỏ và các đồn điền lớn , liên doanh với nước ngoài hoặc có vốn nước ngoài hoàn toàn , chủ yếu bán ra thị trường nước ngoài nhưng đôi khi khá nhiều trên thị trường địa phương . Vốn cho những xí nghiệp này thường được huy động từ nước ngoài , trong khi phần lớn lợi nhuận có xu hướng chuyển ra nước ngoài .
trong bối cảnh thiết lập thể chế như vậy , chúng ta có thể nhận biết hai thành phần cơ bản của việc kế hoạch hoá phát triển trong nền kinh tế hỗn hợp đó là :
việc chính phủ sử dụng có cân nhắc tiền tiết kiệm trong nước và tài chính nước ngoài là đẻ thực hiện những dự án đầu tư của nhà nước và để huy động những nguồn lực khan hiếm vào các lĩnh vực có thể được mong đợi là đòng góp lớn nhất cho việc thực hiện những mục tiêu kinh tế lâu dài .
chính sách kinh tế của chính phủ dể kích thích , hướng dẫn , và trong một số trường hợp them chí còn kiểm soát hoạt động kinh tế tư nhân , nhằm bảo đảm một mối quan hệ hài hoà giữa nhữngnguyện vọng của những doanh nghiệp tư nhân và những mục đích xã hội của chính phủ trung ương .
3. Sự cần thiết và bản chất của kế hoạch hoá doanh nghiệp trong cơ chế quản lý mới.
3.1. Sự cần thiết khách quan.
Cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước mà nước ta đang hướng tới xây dựng, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề về lí luận và thực tiễn cần được nghiên cứu giải quyết. Riêng trong lĩnh vực kế hoạch hoá, trong những năm chuyển đổi cơ chế vừa qua đã tồn tại các ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về vai trò và sự tồn tại khách quan của công tác này. Giờ đây thị trường trực tiếp điều tiết và hướng dẫn doanh nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản, công tác kế hoạch nói chung, công tác kế hoạch doanh nghiệp nói riêng tồn tại như một khâu, một bộ phận của công tác quản lý. Thực tế quản lý doanh nghiệp trong những năm chuyển đổi cơ chế đưa lại những bài học bổ ích. “ Coi thường yêu cầu của công tác kế hoạch theo phương thức hạch toán kinh doanh, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ “, đã dẫn đến một số cách làm tuỳ tiện thiếu kỷ cương không kiểm soát nổi. Thực tế đó đã dẫn đến một thực trạng thiếu ổn định trong quản lí và kế hoạch hoá doanh nghiệp.
Từ năm 1981 trở lại đây, qua các cuộc trao đổi, nghiên cứu và bài học thực tế, tài liệu, kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đã cho phép khẳng định: sự tồn tại của công tác kế hoạch trong cơ chế quản lí mới là một tất yếu khách quan, trong điều kiện mới kế hoạch hoá cần phải được tăng cường và đổi mới.
Thực chất của quá trình kế hoạch hoá là quá trình định hướng và điều khiển theo định hướng đối với sự phát triển sản xuất theo quy luật tái sản xuất mở rộng ở mọi cấp của nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình xã hội hoá sản xuất và mở rộng phân công hiệp tác lao động, phạm vi và trình độ kế hoạch ngày càng được nâng cao tương xứng. Mô hình kinh tế mà nước ta đang hướng tới xây dựng là mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp, thích ứng với nó là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Trong đó kế hoạch được xác định là một trong những công cụ điều tiết để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế. Như vậy kế hoạch hoá sẽ cùng tồn tại và cùng được cải tiến với các công cụ điều tiết khác của nhà nước. sản xuất
Trong thực tế các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều rất quan tâm đến kế hoạch hoá công ty. Họ đánh giá đúng vai trò, vị trí, xác định rõ chức năng và tổ chức nghiên cứu, thực thi nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện công tác này. Nhà kinh tế học người Anh Roney cho rằng hoạt động kế hoạch hoá công ty là thực sự cần thiết nhằm hai mục đích là tận dụng cơ hội để tăng khả năng thành công của doanh nghiệp và tránh các rủi ro, cạm bẫy của thị trường.
Trong cuốn “ The Pratic of Manafement “, nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ Peter - Drucker cho rằng: Việc lập các đích quyết định các mục tiêu của công ty, huy động các nguồn lực thực hiện và xác định cách đánh giá việc thực hiện các mục tiêu, là nhóm công tác đầu tiên trong tổ hợp gồm 4 nhóm với 19 công việc của quản lý có kế hoạch cấp công ty. Các nhà kinh tế học và các chuyên gia quản lý Pháp và Thuỵ Điển cũng xác định chức năng dự kiến hay kế hoạch hoá là chức năng đầu tiên trong chu trình quản lý cấp công ty.
3.2. Thực chất của kế hoạch doanh nghiệp:
Cũng như mỗi phạm trù quản lý, công tác kế hoạch hoá cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên đều nhằm lột tả đúng bản chất của phạm trù quản lý này. Cách tiếp cận theo quá trình cho rằng, kế hoạch hoá hoạt động của doanh nghiệp là một quá trình liên tục kể từ khi chuẩn bị xây dựng kế hoạch cho tới khi thực hiện kế hoạch nhằm đưa các hoạt động của doanh nghiệp phát triển theo các mục tiêu đã chọn.
Theo Steiner thì: “ Kế hoạch hoá là một quá trình bắt đầu bởi việc thiết lập các mục tiêu và qui định chiến lược, các chính sách và các kế hoạch chi tiết để đạt được mục tiêu. Nó cho phép thiết lập các quyết định và đưa vào thực thi và nó bao gồm một chu kỳ mới của việc thiết lập mục tiêu và qui định chiến lược được thực hiện nhằm hoàn thịên hơn nữa “.
Trong cách tiếp cận này, các khái niệm, hiện tượng tương lai, tính liên tục của quá trình, sự gắn bó của hàng loạt hành động và quyết định để đạt được kết quả mong muốn đều đã được thể hiện. Ngày nay kế hoạch hoá doanh nghiệp được xem như là một quá trình xác định các mục tiêu, các phương án huy động nguồn lực nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã chọn.
3.3. Lợi ích và hạn chế của hoạt động kế hoạch doanh nghiệp.
+Lợi ích của kế hoạch hoá.
Trước hết, kế hoạch hoá giúp doanh nghiệp phác thảo những ý tưởng và định hướng các tiến triển của doanh nghiệp, bằng cách vạch ra các rủi ro có thể gặp phải và những cơ hội có thể xảy ra.
Kế hoạch hoá vạch ra các chiến lược, chương trình, kế hoạch. . . đó là những khung tổng quát cho sự suy nghĩ, đồng thời là cơ sở cho những quyết định về quản lý doanh nghiệp.
Các khung tổng quát do kế hoạch hoá thiết lập là công cụ trong chỉ đạo và điều hành sản xuất kinh doanh, nó giúp khắc phục những bất trắc trong sản xuất-kinh doanh do sự thiếu hoặc méo mó của thông tin thị trường.
Cuối cùng bằng việc vạch ra các con đường có thể phối hợp các nguồn lực thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp, kế hoạch hoá giúp điều chỉnh nhanh chóng, kịp thời các quyết định quản lý trước những biến đổi thường xuyên, nhanh chóng của thị trường.
+Hạn chế của kế hoạch hoá.
Các phương án và quyết định kế hoạch thường dựa trên cơ sở kết quả các dự đoán, dự báo, do đó kế hoạch hoá có thể gặp sai lầm do các hiện tượng, quá trình dự tính có thể thay đổi trước các biến động của môi trường. Các thay đổi đó, làm đảo lộn các dự kiến và kết quả dự đoán ban đầu. Khi đó sự sai lệch so với kế hoạch ban đầu sẽ xẩy ra và việc điều chỉnh lại là một tất yếu.
Kế hoạch hoá là một quá trình dài và khó khăn nó đòi hỏi sự nỗ lực của nhiều người, những khoản chi phí lớn. Mọi sự thay đổi hoặc điều chỉnh phương án kế hoạch thường kéo theo các hậu quả nhiều mặt, vì vậy đều khó thực hiện.
Cùng với sự gò bó của thủ tục hành chính, sự thiếu đồng bộ của môi trường pháp lý cũng làm sai lệch kết quả thực hiện và cản trở đến các hoạt động khác nhau của kế hoạch hoá.
4. Vai trò của công tác kế hoạch trong điều kiện hiện nay.
4.1. Doanh nghiệp, thị trường và vai trò hoạt động của kế hoạch hoá doanh nghiệp.
Trong mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp, về nguyên tắc thị trường sẽ trực tiếp điều tiết hoạt động của doanh nghiệp. Thị trường sẽ hướng dẫn doanh nghiệp trong định hướng, xây dựng và thực thi các phương án sản xuất kinh doanh tối ưu để tìm giải pháp cho các vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp. Song trong mô hình kinh tế hiện nay ở nước ta với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì trước khi trực tiếp điều tiết và hướng dẫn hoạt động của doanh nghiệp, thị trường đã được nhà nước điều tiết.
Sơ đồ 1 mối quan hệ giữa nhà nước, doanh nghiệp và thị trường.
Nhà nước
Thị trường trong nước
Cung Cầu
Thị trường quốc tế
Cầu Cung
Cung
-----------------
Doanh nghiệp
-----------------
Cầu
( Nguồn: Giáo trình chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp. )
Trong phạm vi doanh nghiệp, kế hoạch hoá là khâu đầu tiên, bộ phận quan trọng của công tác quản lý. Hoạt động này giúp doanh nghiệp hoạch định các mục tiêu hoạt động dự báo các khả năng và nguồn lực, xác định và đánh giá các phương án hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh. Các phương án kế hoạch với các sản phẩm khác nhau theo thời gian (chiến lược, chương trình, dự án. . . ) là công cụ để điều hành và chỉ huy sản xuất, là cơ sở để xác định nhiệm vụ và mối quan hệ công tác giữa các bộ phận và giữa người lao động trong quá trình thực thi các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
4.2. Kế hoạch trong chu trình quản lý doanh nghiệp.
Quản lý là một quá trình liên tục bao gồm các khâu xác định mục tiêu, tổ chức thực hiện các mục tiêu và kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu. Quá trình đó lập thành một chu trình quản lý với việc thực hiện các chức năng quản lý kế tiếp nhau. Chu trình quản lí doanh nghiệp được biểu hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: chu trình quản lý doanh nghiệp.
Lập kế hoạch thực hiện các mục tiêu
Chỉ huy đơn vị hướng tới mục tiêu
Tổ chức các nguồn lựcthực hiện mục tiêu
Phối hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài
Kiểm tra và điều chỉnh
Nguồn: Giáo trình chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp.
Trong chu trình này, lập kế hoạch là khâu đầu tiên với việc phác thảo các mục tiêu và phương án thực hiện. Trong thực hành quản lý, dù ở bất kì cấp nào, các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều xác định dự kiến là loại chức năng đầu tiên trong hệ thống các chức năng quản lý. Hoạt động này không những góp phần xác định đúng các mục tiêu, hướng đi mà còn góp phần xác lập, đánh giá và lựa chọn các phương án phối hợp các nguồn lực bên trong để thực hiện có kết quả tốt các mục tiêu sản xuất kinh doanh.
5. Yêu cầu của công tác kế hoạch doanh nghiệp:
Quá trình đổi mới hoàn thiện công tác kế hoạch hoá doanh nghiệp cần quán triệt những yêu cầu chủ yếu sau:
5.1. Công tác kế hoạch trong doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu hiệu quả .
Phải coi hiệu quả là tiêu chuẩn hàng đầu cho việc xây dựng, lựa chọn và quyết định phương án kế hoạch của doanh nghiệp. Để làm được điều này cần thực hiện kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh, đặt nền tảng hoạt động của doanh nghiệp trên các nguyên tắc kinh doanh, xoá bỏ bao cấp, đẩy doanh nghiệp đối mặt với thị trường, xoá bỏ sự bảo hộ sản xuất trong lĩnh vực kinh doanh, đồng thời coi nhu cầu thị trường và các tiềm năng của doanh nghiệp là căn cứ hàng đầu trong quá trình hoạch định, đánh giá và lựa chọn phương án kinh doanh của doanh nghiệp.
5.2. Công tác kế hoạch doanh nghiệp cần phải quán triệt yêu cầu hệ thống - đồng bộ -linh hoạt .
Thực hiện yêu cầu này, trong các khâu công tác kế hoạch hoá phải đảm bảo cho mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp đồng hướng và góp phần thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu bao trùm cả hệ thống. Để làm được việc này thì việc đổi mới công tác kế hoạch phải gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý và kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân chuyển hệ thống kế hoạch doanh của nghiệp từ chỗ là tổng hợp các chỉ tiêu được tính toán rời rạc, cơ học. . . sang xác định các phương án kế hoạch theo phương pháp đồng bộ có mục tiêu.
Bên cạnh đó việc đổi mới, hoàn thiện công tác kế hoạch doanh nghiệp phải tiến hành đồng bộ từ phạm vi, nội dung phương pháp đến đổi mới các vấn đề lí luận và phương pháp luận truyền thống.
5.3. Công tác kế hoạch doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu vừa tham vọng vừa khả thi.
Yêu cầu này đòi hỏi khi hoạch định kế hoạch phải điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, môi trường kinh doanh, nắm chắc cơ hội, rủi ro và cạm bẫy của thị trường.
Kế hoạch phải được hoạch định trên cơ sở chủ động khai thác các khả năng của nguồn lực bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, có tính đến sự thay đổi của chúng dưới tác động của tiến bộ khoa học-kĩ thuật. Đồng thời phải đảm bảo được tính toàn diện và kế thừa.
5.4. Công tác kế hoạch doanh nghiệp phải quán triệt nhu cầu kết hợp mục tiêu chiến lược và mục tiêu tình thế.
Các mục tiêu kế hoạch phải được hoạch định và điều chỉnh linh hoạt theo yêu cầu thay đổi của môi trường và điều kiện kinh doanh, phải thực hiện phương châm “Lợi dụng mọi cơ hội kinh doanh, lấy ngắn nuôi dài coi lợi ích trước mắt là phương tiện để đạt được mục đích cơ bản hơn, cao hơn trong tương lai. Kết hợp chuyên môn hoá với đa dạng hoá sản xuất và kinh doanh tổng hợp trong hoạch định kế hoạch.
5.5. Công tác kế hoạch doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp.
Kết hợp hài hoà các loại lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp là động lực cho sự phát triển, là cơ sở thực thi các phương án kinh doanh. Yêu cầu này cần được quán triệt trong các khâu của công tác kế hoạch doanh nghiệp theo các hướng:
+Việc hoạch định, lựa chọn và điều chỉnh các phương án kinh doanh phải quán triệt yêu cầu toàn diện và hệ thống. Vừa chú trọng quan điểm cục bộ, vừa chú ý đúng mức đến lợi ích kinh tế quốc dân.
+Xử lý các quan hệ tài chính giữa nhà nước với doanh nghiệp và các phương án phân phối trong nội bội doanh nghiệp. Đồng thời trong việc giải quyết các mối quan hệ hợp tác, liên doanh và liên kết kinh tế phải trên nguyên tắc: Bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau hai bên cùng có lợi.
Sơ đồ 4: mối quan hệ giữa các kế hoạch tác nghiệp của doanh nghiệp:
Kh
tài chính
KH
Marketing
Kh r&p
Kh
sản xuất
Kh
nhân sự
( Nguồn: Giáo trình kế hoạch kinh doanh. )
II / các vấn đề lí luận chung về thị trường và cạnh tranh .
bản chất của thị trường :
( Phòng Marketing mới sẽ có chức năng tham mưu cho cho giám đốc về thị trường, tiêu thụ sản phẩm và thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ điều tra nghiên cứu thị trường
+ phân đoạn thị trường, xác định thị trường mục tiêu và triển khai các chiến lược xâm nhập thị trường
+ thiết kế mẫu mã, bao bì, nhãn mác cho các sản phẩm
+ xây dựng các chính sách hỗ trợ tiêu thụ, chính sách giá cả và các kênh phân phối
+ tổ chức tiêu thụ sản phẩm
Với chức năng và nhiệm vụ như trên cơ cấu phòng Marketing được đề xuất như sau:
Bảng 17: Cơ cấu phòng Marketing
STT
Chức danh
Số người
1.
Trưởng phòng
1
2.
Phó phòng
1
3.
Chuyên viên nghiên cứu thị trường
1
4.
Chuyên viên quảng cáo
1
5.
Nhân viên tiêu thụ
10
6.
Nhân viên quản lí hồ sơ
1
Trưởng phòng Marketing: chịu trách nhiệm trước giám đốc về hoạt động marketing và tiêu thụ sản phẩm của công ty, có nhiệm vụ phân công chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cho các nhân viên trong phòng.
Phó phòng Marketing: giúp trưởng phòng đôn đốc chỉ đạo nhân viên trong phòng và cùng họ thực hiện nhiệm vụ được giao, thay mặt trưởng phòng giải quyết mọi công việc của phòng khi được trưởng phòng uỷ nhiệm.
Chuyên viên nghiên cứu thị trường: có nhiệm vụ xây dựng và tổ chức thực hiện các hoạt động điều tra nghiên cứu thị trường đồng thời xử lí, phân tích các số liệu thông tin, các số liệu đã thu thập được để cung cấp cho các bộ phận khác.
Chuyên viên quảng cáo làm nhiệm vụ nghiên cứu thiết kế lựa chọn các hình thức quảng cáo, các chương trình quảng cáo của công ty.
Nhân viên tiêu thụ: có trách nhiệm tổ chức kí kết và thực hiện các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm của công ty.
Nhân viên quản lí hồ sơ: làm nhiệm vụ tổng hợp và lưu trữ hồ sơ, giáy tờ, số liệu liên quan, và cung cấp khi cần thiết. )
+Kế hoạch Marketing: Là cơ sở của mọi kế hoạch tác nghiệp khác trong doanh nghiệp, từ dự báo nhu cầu, đến kế hoạch bán hàng, kế hoạch sản xuất, kế hoạch dự trữ, kế hoạch ngân sách. Từ kế hoạch phát triển sản phẩm mới đến kế hoạch bán hàng và kế hoạch nhân sự. Để có thể xây dưng kế hoạch Marketing doanh nghiệp phải xác định được khối lượng bán hàng trên thị trường, phải đánh giá được nhu cầu của thị trường từ đó đưa ra các hoạt động Marketing khác. Muốn làm vậy doanh nghiệp cần quan tâm đến:
Cầu thị trường về loại sản phẩm hàng hoá mà công ty sản xuất kinh doanh: Đó là toàn bộ khối lượng sản phẩm được mua bởi một loại khách hàng nhất định, tại một vùng địa lý nhất định, với những điều kiện môi trường nhất định và tương ứng với một chương trình Marketing nhất định. Chính vì vậy việc dự báo nhu cầu thị trường là vô cùng quan trọng đối với việc lập các kế hoạch Marketing của doanh nghiệp.
Cầu doanh nghiệp: là một bộ phận của cầu thị trường do doanh nghiệp lắm giữ, việc xác định, đánh giá yếu tố này là rất quan trọng, nó cho phép doanh nghiệp biết vị thế của họ trên thị trường, vè nhu cầu và khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nó là cơ sở để quyết định quy mô, phương thức tiến hành các hoạt động Marketing. Doanh nghiệp sẽ căn cứ vào thị phần của mình trên thị trường, đối tượng khách hàng mình đang phục vụ để ra các quyết định Marketing cho phù hợp.
Việc lựa chọn thị trường của doanh nghiệp: là quá trình phân chia người tiêu dùng thành nhóm trên cơ sở khác biệt về nhu cấu, tính cách, hành vi từ đó căn cứ vào khả năng thực tế của doanh nghiệp để lựa chọn thị trường cho phù hợp.
Doanh nghiệp có thể tập trung vào một thị trường đơn lẻ phù hợp tự nhiên với sản phẩm của doanh nghiệp, hoặc phải tập trung để sản xuất 1 loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường, hoặc tập trung vào việc thoả mãn tối đa nhu cầu của một nhóm người nào đó, hay là việc tập trung vào thoả mãn nhu cầu của toàn bộ thị trường.
Sau khi doanh nghiệp đã xác định được thị trường mục tiêu, cần tiến hành việc dự báo nhu cầu của thị trường. Công việc này cho phép các đơn vị sản xuất kinh doanh thiết kế được sản phẩm để thoả mãn nhu cầu. Quyết định đầu tư thiết bị và thiết kế công suất hợp lý, làm giảm chi phí sản xuất và chi phí hoạt động. Bên cạnh đó việc dự báo cầu thị trường chó phép doanh nghiệp giảm được tối đa các chi phí về dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất, bố trí lao động, quản lý sản xuất, tồn kho …. Làm giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Để tiến hành công tác dự báo, người làm công tác kế hoạch có thể sử dụng một số phương pháp sau:
Phương pháp giản đơn: theo phương pháp này thì nhu cầu về hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường trong thời kì dự báo chính bằng yêu cầu thực tế kì trước.
Ta có Ft+1 = Dt
Trong đó Ft+1: nhu cầu về sản phẩm doanh nghiệp trong tương lai.
Dt: mức yêu cầu thực tế kì trước.
Phương pháp này có ưu điểm đơn giản, rễ áp dụng tuy nhiên chỉ chính xác trong một số trường hợp, đó là các sản phẩm thiết yếu ít chịu sự tác động biến đổi của các yếu tố trong nền kinh tế.
Phương pháp trung bình: theo phương pháp này nhu cầu củathị trường kì dự báo chính bằng trung bình cộng của các mức yêu cầu thực tế trong quá khứ.
Ft+1 =
Trong đó Ft+1: nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trong tương lai.
Dt: mức yêu cầu thực tế tron quá khứ.
Phương pháp trung bình động: là sự kế hợp giữa phương pháp giản đơn và phương pháp trung bình. Với n là số hữu hạn thì mỗi kì dự báo ta bỏ đi số liệu thống kê cũ và số liệu thống kê mới.
Phương pháp phân tích cấu trúc dòng cầu: thông qua sự tác động của 3 yếu tố là tính xu hướng của dòng cầu, tính thời vụ và tính ngẫu nhiên, người ta có thể xác định được xu hướng biến đổi của dòng cầu thị trường, sự thay đổi như thế nào của cầu thị trường về các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đang tham gia sản xuất kinh doanh trước những tác động mang tính thời vụ cũng như các tác động mang tính ngẫu nhiên.
Bên cạnh các phương pháp định lượng người làm công tác kế hoạch cũng cần quan tâm đến một số phương pháp định tính như việc dự báo trên đánh giá của người bán, dự báo trên đánh giá của khách hàng cũng như việc sử dụng phương pháp mô phỏng để dự báo.
Kế hoạch Marketing được thực hiện thông qua một loạt các kế hoạch như: kế hoạch bán hàng, kế hoạch phân phối, kế hoạch quảng cáo, kế hoạch khuyến mại và kế hoạch phát triển lực lượng bán hàng.
Chươngii
thực trạng công tác kế hoạch phát triển thị trường tại công ty đóng tàu hồng hà
I. giới thiệu chung về công ty.
1. Sơ lược về Công ty đóng tàu hồng hà :
1.1 . Lịch sử hình thành của công ty.
- Công ty đóng tàu hồng hà,tổng cục hậu cần nay thuộc tổng cục công nghiệp quốc phòng - bộ quốc phòng
được thành lập tiền thân từ xí nghiệp đóng tàu 173 {thành lập 30/10/1965 }
là đơn vị gán nhiệm vụ sản xuất quốc phòng với kinh tế ,chuyên đóng mới và sửa chữa tàu các loại .
- Địa chỉ kinh doanh của công ty hiện nay : Xã Lê Thiện - An Hải - Hải Phòng{Km 17 quốc lộ 5 ; Hải Phòng - Hà Nội } .
- Trước đây xí nghiệp đóng tàu 173 là một xí nghiệp nhỏ trang thiết bị lạc
hậu chủ yếu là t được những thành tựu xuất xắc . công ty đã phát huy nội lực
dám nghĩ dám làm dám chịu trách nhiệm . Đã tổ chức lại sản xuất đào tạo tuyển sửa chữa ca nô , sà lan và tàu sông .
Khi nền ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT437.doc