Một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay

Lời nói đầu Ban Mai báo hiệu những tia sáng ,cũng như hoàng hôn sẽ đưa đên bóng đêm,con người sinh ra rồi chết đi …vv Đó là tất cả những điều khách quan mà hành tinh nay ban tặng cho thế giới này. Theo vòng quay của đất trời, khi mùa đông qua đi là mùa xuân lại tới muôn loài lại thêm một tuổi. Con người cũng vậy, cái vòng Sinh-Lão-Bệnh-Tử dù muốn hay không cũng phải trải qua. Cũng vì vậy mà con người luôn luôn tồn tại và phát triển, có người sinh ra và cũng có người chết đi, không ai có thể xo

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1345 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á bỏ quy luật Sinh-Tử muôn đời của tự nhiên. Có thể nói: Bảo hiểm xã hội (BHXH) là người bạn ''tương trợ'' theo suốt cuộc đời (sinh, lão, bệnh, tử) của người lao động, từ lúc còn trong bụng mẹ được hưởng chế độ trợ cấp thai sản, đến khi trưởng thành là người lao động được hưởng trợ cấp khi ốm đau, tai nạn, thất nghiệp, lúc tuổi già được hưởng trợ cấp hưu trí và đến khi qua đời được BHXH lo toan chu đáo tiền mai táng phí, tiền tử tuất. BHXH- chính sách lớn của Đảng và Nhà nước với bản chất nhân văn sâu sắc vì cuộc sống an lành, ấm no, tự do và hạnh phúc của con người. Từ đó góp phần thực hiện mục đích phục vụ cuộc sống con người, vì dân sinh hạnh phúc, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. ở Việt Nam, chính sách BHXH đã được thực hiện từ đầu những năm 60 của thế kỷ 20. Cùng với hệ thống chính sách xã hội và phúc lợi xã hội khác, chính sách BHXH đã góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống người lao động và gia đình họ. Bước sang thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một loạt các văn bản của BHXH được ban hành đặc biệt là Nghị định 12/CP (26/1/1995), Nghị định 45/CP (15/7/1995), Nghị định 19/CP (16/2/1995). Nước ta từ khi triển khai điều lệ BHXH theo Bộ luật lao động, được sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, hệ thống BHXH đã nhanh chóng xây dựng, tổ chức, bộ máy, thực hiện đúng các chế độ, chính sách đối với người tham gia và người được hưởng BHXH, tổ chức thu đạt kết quả cao, chi trả kịp thời cho các đối tượng và bước đầu đã hình thành được quỹ BHXH tập trung độc lập với Ngân sách Nhà nước. Do vậy việc nghiên cứu để hoàn thiện các chính sách về BHXH có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Công tác chi trả các chế độ có thể coi là một khâu trọng yếu trong việc thực hiện các chính sách BHXH. Công tác chi trả các chế độ BHXH nếu được thực hiện tốt sẽ gián tiếp tạo đà cho công tác thu BHXH, điều đó cũng có nghĩa là làm cho hoạt động BHXH phát triển, từ đó góp phần làm cho mục đích của chính sách BHXH phát huy tác dụng hơn nữa. Vậy để thực hiện công tác chi trả được tốt hơn chúng ta phải làm gì ? Em xin phép được nêu ra một số ý kiến của bản thân qua việc nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam hiện nay" Kết cấu của đề tài này bao gồm: Lời nói đầu Phần I: Lý luận chung về BHXH và công tác chi trả BHXH Phần II: Thực trạng công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam hiện nay Phần III: Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện công tác chi trả các chế độ BHXH Kết luận. Phần I Lý luận chung về bảo hiểm xã hội và công tác chi trả BHXH I.Sự cần thiết khách quan của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội. Quá trình sản xuất, con người đóng vai trò đặc biệt, quyết định vì chỉ có sức lao động của con người mới mang lại giá trị thặng dư, mang lại lợi ích kinh tế, đồng thời mọi công cụ cũng như đối tượng lao động đều do con người tạo ra và chính nó giúp con người tạo ra năng suất lao động ngày càng cao. Tham gia vào quá trình lao động, sức lao động của con người bị hao phí, do đó đòi hỏi phải được khôi phục và tái tạo để quá trình lao động cũng như quá trình tái sản xuất được tiếp diễn thông qua chính tiêu dùng những sản phẩm đó. Từ đó có thể thấy rằng, con người luôn là động lực chính và là trung tâm cho sự phát triển kinh tế - xã hội, tất cả mọi hoạt động trong xã hội là do con người và vì con người. Họ là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, dịch vụ cho xã hội và cũng chính là những người tiêu dùng những sản phẩm, dịch vụ cuối cùng, từ đó thúc đẩy quá trình sản xuất diễn ra liên tục và ngày càng hoàn thiện. Con người muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải được thoả mãn những nhu cầu ăn, mặc, ở... Những điều kiện trên không có sẵn trong tự nhiên mà để có được nó, người ta lao động tạo ra sản phẩm cần thiết. Và khi sản phẩm tạo ra càng nhiều thì đời sống con người ngày càng hoàn thiện và xã hội văn minh hơn. Nhưng trong thực tế, cuộc sống của con người không phải lúc nào cũng đủ sức khoẻ và cơ hội lao động để tạo ra thu nhập và có điều kiện sống bình thường vì rất nhiều trường hợp gặp phải hoàn cảnh khó khăn, bất lợi làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập ảnh hưởng đến điều kiện sinh sống do bị bất ngờ ốm đau, tai nạn, mất khả năng lao động và khi về già không còn khả năng lao động. Trong khi đó con người luôn luôn cần phải có những nhu cầu sinh hoạt về mặt vật chất và tinh thần. Vì vậy, mỗi người lao động cần thiết phải có một nguồn lực tài chính dự trữ để kịp thời cung cấp đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần không những cho bản thân mình mà cho cả những người mình phải trực tiếp nuôi dưỡng và cho những người gặp phải những biến cố rủi ro (kể cả ngẫu nhiên và tất yếu) để bù đắp vào sự thiếu hụt thu nhập do khả năng lao động bị giảm sút, nhằm giảm bớt khó khăn trong cuộc sống, duy trì và ổn định cuộc sống cho chính họ và gia đình họ. Để giải quyết vấn đề này cần có sự quan tâm của toàn xã hội. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, con người sống theo hình thức bầy đàn cùng lao động (săn bắn, hái lượm...) kết quả đạt được chia sẻ bình quân. Khi gặp rủi ro, tai biến thì họ vừa tự mình chịu đựng, khắc phục, vừa được các thành viên của cộng đồng chia sẻ, gánh chịu. Trong xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào bổng lộc của nhà vua, còn dân cư thì dựa vào sự đùm bọc lẫn nhau của họ hàng, làng xã hoặc của những người hảo tâm và Nhà nước, ngoài ra họ còn có thể đi vay hoặc đi xin... Với những cách giải quyết này, người gặp khó khăn hoàn toàn thụ động chờ vào sự cứu trợ. Do vậy, sự trợ giúp mới chỉ là khả năng có hoặc không, nhiều hoặc ít và không chắc chắn. Xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng được nâng cao thì cách giải quyết này càng được sửa đổi, bổ sung hợp lý và nó ngày càng phát triển theo không gian, nội dung cũng như phương thức thực hiện. Dần dần cách giải quyết chung nhất mà cho đến bây giờ vẫn được sử dụng, đó là BHXH như ta vẫn gọi ngày nay. Có rất nhiều khái niệm về BHXH nhưng về nội dung thì cơ bản là giống nhau. Ta có thể tiếp cận BHXH theo khái niệm sau: ''BHXH là sự đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động và gia đình họ khi có nguy cơ mất an toàn về kinh tế do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm thông qua sử dụng nguồn quỹ huy động từ người tham gia và sự tài trợ của Nhà nước'' BHXH không chỉ là nhu cầu của người lao động mà còn là chính sách lớn của mỗi quốc gia về thực hiện BHXH sẽ góp phần ổn định xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Thực hiện BHXH sẽ hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung có thể đầu tư một phần cho các hoạt động kinh tế để sinh lời, tăng thêm nguồn thu cho quỹ BHXH. Khoản đầu tư này góp phần phát triển sản xuất, bảo đảm an toàn cho quỹ BHXH khỏi bị mất giá để chi trả trợ cấp BHXH cho người lao động và gia đình họ. Như vậy có thể nói rằng, BHXH ra đời là một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi có khó khăn về kinh tế. Điều đó đã làm cho người lao động yên tâm trong quá trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động góp phần vào việc phát triển và tăng trưởng nền kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội. - Đối với người lao động: BHXH góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân người lao động cũng như gia đình họ khi gặp khó khăn do bị mất hoặc giảm thu nhập, từ đó tạo ra tâm lý yên tâm ổn định trong cuộc sống cũng như trong lao động, góp phần nâng cao năng suất lao động cho xã hội. - Đối với người sử dụng lao động: BHXH góp phần ổn định sản xuất kinh doanh, giúp người sử dụng lao động đỡ phải bỏ ra một khoản tiền lớn, nhiều khi là rất lớn để thực hiện trách nhiệm của mình đối với người lao động khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống, từ đó góp phần ổn định môi trường lao động, ổn định xã hội, nâng cao trách nhiệm của người lao động, nâng cao năng suất lao động. - Đối với Nhà nước: BHXH là công cụ quan trọng giúp Nhà nước thực hiện chức năng xã hội được tốt hơn nhằm đạt tới mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội: Thông qua các quy định về BHXH đối với người lao động và người sử dụng lao động, Nhà nước thực hiện việc điều tiết lợi ích, quyền lợi của các bên. Nói cách khác, Nhà nước sử dụng pháp luật để can thiệp vào mối quan hệ chủ- thợ, đảm bảo những quyền lợi xã hội cho người lao động tạo sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, phân phối lại thu nhập, từ đó phát huy tốt nhân tố con người, kết hợp tốt giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. BHXH không những trợ giúp đắc lực cho Nhà nước phân phối lại thu nhập, điều tiết lợi ích các bên, mà BHXH còn là kênh huy động vốn có hiệu quả cung cấp nguồn tiền tệ lớn cho việc đầu tư phát triển đối với nền kinh tế và cũng chính điều này là sự đảm bảo cho quỹ BHXH được bảo toàn và phát triển tránh sự trượt giá của đồng tiền theo thời gian. Chúng ta có thể chắc chắn một điều rằng: Sự tồn tại của BHXH là một tất yếu khách quan ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay. Điều này được pháp luật nhiều nước công nhận và đã trở thành một trong những quyền con người được ghi nhận trong tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948: '' Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH. Quyền đó được đặt trên cơ sở quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và tự do phát triển của con người''. Đồng thời, ở cấp độ chung nhất, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và BHXH đã được Đảng ta xác định:'' Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho phát triển xã hội; ngược lại, phát triển xã hội là động lực, là mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế''; ''Mỗi chính sách kinh tế đều phải nhằm mục tiêu phát triển xã hội; Mỗi chính sách xã hội đều bao chứa nội dung và ý nghĩa kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù trước mắt hay lâu dài''. II. Sự ra đời của BHXH. Từ thời xa xưa, BHXH đã xuất hiện mầm mống của nó thể hiện tính nhân văn sâu sắc ngay cả khi chính sách BHXH chưa được thể chế hoá bằng pháp luật của Nhà nước; khi mà đường lối, chủ trương và biện pháp để giải quyết vấn đã hội, vì lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội, nhiều học thuyết mang tính nhân văn, tư tưởng nhân đạo đề cập đến tâm tư, nguyện vọng thiết tha giải thoát tất cả những nghèo khó của người lao động do gặp rủi ro đưa lại, đã ra đời. Tư tưởng nhân đạo nhân văn này đã được thể hiện từ thời cổ đại, tuy không có những tổ chức xã hội như ngày nay nhưng không phải vì vậy mà con người hoàn toàn không được bảo vệ. ở Hy Lạp, trong một số hiệp hội (chẳng hạn như hiệp hội của những người thợ thủ công) thì các hội viên đã có sự hỗ trợ lẫn nhau. ở Rome kể từ đầu công nguyên đã có quỹ cho người lao động ốm và chết, đó là những tổ chức mang tính BHXH đầu tiên, các quỹ này hoạt động với giấy phép của Nhà nước và chịu trách nhiệm kiểm tra của Nhà nước. Đến thời trung cổ, thì vấn đề tương trợ đầy tính nhân đạo, nhân văn được nâng lên ở mức cao hơn. Điển hình là quỹ tương trợ của nhà thờ, đặc biệt là sự tương trợ của các tu viện (Caritas). Các tu viện cũng còn tiếp nhận cả những người không có khả năng làm việc lẫn người già được chăm sóc. Cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm (1618-1648) đã phá hỏng các cơ sở tương trợ của nhà thờ và lập tức được thay vào đó là hình thức cứu trợ trên cơ sở cộng đồng. Điển hình của hình thức này là hội cứu trợ của ngành mỏ, do có sự nguy hiểm nghề nghiệp nên đã xuất hiện các tổ chức cứu trợ. Tiếp đến thời cận đại, do công cuộc công nghiệp hoá bắt đầu, tính chất các hội giảm dần, vì vậy những người ốm đau bệnh tật, mất sức lao động, già yếu không thể trông chờ vào sự tương trợ của đồng nghiệp. Để đảm bảo đời sống của những đối tượng này, Nhà nước của nhiều dân tộc đã có sự can thiệp vào lĩnh vực này. Nước Phổ là nước đầu tiên có bộ luật đại cương ban hành ngày 5/2/1794 quy định sự chăm sóc đối với các trường hợp nghèo do rủi ro đưa lại- bức thông điệp của vua William I ngày 17/11/1881 đã mở đầu cho sự nghiệp xây dựng quỹ BHXH công nhân. Thông điệp quy định người công nhân cần được bảo hiểm trước nguy cơ bệnh tật, tai nạn mất sức, già yếu. Tính nhân văn, nhân đạo của BHXH được thể hiện khá đầy đủ và sâu rộng. Tuy nhiên, các tư tưởng đầy tính nhân văn ấy chưa vạch ra đầy đủ cùng một lúc chính sách cho lĩnh vực xã hội đầy tính phức tạp này. Trong quá trình phát triển công nghiệp, giai cấp công nhân ngày càng đông đảo, cơ chế giải quyết vấn đề giảm thu nhập cũ đã không còn phù hợp, sức ép về chính trị ngày càng lớn làm ảnh hưởng đến đời sống chính trị xã hội của các quốc gia, bởi lợi ích giữa các bên (người lao động và người sử dụng lao động) không thể điều hoà theo cơ chế cũ được nữa. Để ổn định lại trật tự môi trường xã hội và bảo vệ lợi ích các bên, Chính phủ các nước đặc biệt là các nước công nghiệp không thể không quan tâm đến tình cảnh của người lao động, do đó, Nhà nước đã phải can thiệp để tạo ra chế độ và hình thức thích hợp hơn nhằm tỏ ra chăm sóc tới người lao động. Và từ năm 1850 đến năm 1889, một hệ thống BHXH lớn đầu tiên đã ra đời với sự tham gia bắt buộc của những người làm công ăn lương, theo nguyên tắc những người được bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm xã hội và có sự hỗ trợ thêm của Nhà nước và trách nhiệm của người sử dụng lao động. Đồng thời cả 3 thành viên xã hội này là người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước đều có vị trí, trách nhiệm trong việc quản lý hệ thống BHXH. Năm 1950 dưới thời thủ tướng Bis-mác, nhiều bang của Đức đã giúp các địa phương thành lập quỹ bảo hiểm ốm đau. Chế độ ốm đau này được phổ cập trong toàn nước Đức vào năm 1883 do các hội tương tế lúc bấy giờ của công nhân quản lý. Năm 1884 xuất hiện tiếp chế độ bảo hiểm các rủi ro nghề nghiệp (tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp) do các hiệp hội chủ doanh nghiệp quản lý. Năm 1889 lại xuất hiện tiếp chế độ bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật do chính quyền các tỉnh quản lý. Tiếp theo Đức, năm 1981, Pháp thực hiện bảo hiểm xã hội phổ cập trong cả nước nhưng không thành công. Năm 1930, Pháp thông qua đạo luật thứ 2 về BHXH, áp dụng chủ yếu cho ngành công nghiệp và thương mại. Sau đó, bắt đầu những thập kỷ 30 thế kỷ XX, liên tiếp các nước Mỹ la tinh, Hoa kỳ, Canađa đều áp dụng. Từ sau thế chiến thứ 2, tầm quan trọng của BHXH tiếp tục được nhiều nước Châu Phi, Châu á và vùng Caribe công nhận và thi hành. Để bình ổn xã hội, giúp người lao động yên tâm sản xuất và đáp ứng những nguyện vọng sâu sắc nhất, chung nhất của nhân dân toàn thế giới. Ngày 28/6/1952 Hội nghị toàn thể của Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) đã thông qua công ước số 102 về an toàn xã hội trong đó có BHXH là cơ chế chủ yếu, giúp các nước định hướng trong việc xây dựng hệ thống BHXH với 9 chế độ BHXH. BHXH, từ khi ra đời cho đến nay, nó luôn được hoàn thiện và chứng tỏ sự phù hợp với xã hội đương thời thông qua sự vận động hài hoà các mối quan hệ giữa 3 bên: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Qua thực tế và lý luận cho thấy BHXH có những tác dụng rất to lớn giúp giải quyết tốt mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động ổn định trật tự và trợ giúp phát triển xã hội. III. Những nội dung cơ bản về BHXH. 1. Bản chất, chức năng và nhiệm vụ của BHXH. 1.1. Bản chất của BHXH. * Bản chất kinh tế của BHXH. Thông qua BHXH, người lao động chỉ cần đóng hàng tháng một tỷ lệ nhỏ phần trăm so với tiền lương của mình cùng với sự hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước để tạo ra một quỹ BHXH, quỹ này là sự tập hợp của số đông người lao động tham gia BHXH để bù đắp cho số ít người tham gia bị rủi ro. Khi rủi ro xảy ra, bằng hình thức lấy số đông bù số ít người bị rủi ro sẽ giúp khắc phục những khó khăn trong đời sống cá nhân từng lao động do bị mất hoặc giảm thu nhập,BHXH không phải là dịch vụ sản xuất mà nó là dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những khoản thu nhập bị mất của người lao động khi gặp sự cố trong cuộc sống. * Bản chất xã hội của BHXH: Bản chất xã hội của BHXH là sự san sẻ rủi ro giữa tập thể người lao động. Qua đó cũng thể hiện rõ trách nhiệm xã hội giữa chủ sử dụng lao động với người lao động, của người lao động với nhau và sự quan tâm của Nhà nước tới sự cống hiến cho lợi ích xã hội của người lao động. * Bản chất pháp lý của BHXH: Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH được quy định, điều chỉnh thông qua bộ luật BHXH hoặc các văn bản BHXH dưới luật hoặc phần quy định về BHXH ở một bộ luật khác (VD: ở Bộ Luật lao động), do đó nó ràng buộc rất chặt chẽ trách nhiệm và quyền lợi của các bên có liên quan và ở đây trách nhiệm lớn nhất của người lao động và của người sử dụng lao động là đóng phí BHXH cho các cơ quan BHXH, quyền lợi lớn nhất của người lao động là được chi trả BHXH khi có sự cố theo quy định của pháp luật. Thực chất, BHXH là bản cam kết giữa cơ quan BHXH, người sử dụng lao động và người lao động về trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên thông qua các quy định của pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ về BHXH. 1.2. Các chức năng và nhiệm vụ cơ bản của BHXH * Chức năng của BHXH: - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc bị mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, từ đó đảm bảo ổn định đời sống- kinh tế cho người lao động và gia đình họ theo những điều kiện nhất định. Suy cho cùng, sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì: mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH; Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời hạn và thời điểm được hưởng phải đúng qui định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ tính chất và cả cơ chế tổ chức, hoạt động của BHXH. - Thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người lao động tham gia BHXH. Chức năng này được thể hiện rõ nét và được thực hiện thông qua quá trình lập và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước với mục đích trang trải khó khăn cho người lao động. Về nguyên tắc, người lao động có quyền được hưởng trợ cấp BHXH, nhưng phải lưu ý đến những điểm sau: + Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau mà mức hưởng và thời hạn hưởng còn phải phụ thuộc vào những điều kiện khác nhau. + Phân phối trong BHXH vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Những biến cố xảy ra mang tính tất nhiên đối với con người là thai sản (đối với lao động nữ), tuổi già và chết, trong trường hợp này, BHXH phân phối mang tính bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó. Số lượng này thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, quỹ BHXH được lập do sự đóng góp của số đông người lao động, người sử dụng lao động và có thể có sự hỗ trợ của Nhà nước nhưng chỉ dùng để phân phối lại cho một số ít người lao động không may bị rủi ro, thiệt hại trong thu nhập. Theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều ngang và chiều dọc, giữa những người có thu nhập cao và thấp hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc... điều đó có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Góp phần kích thích, khuyến khích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội , đồng thời tạo điều kiện cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục, đều đặn. Người lao động khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất được chủ sử dụng lao động trả tiền công; Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già... đã có BHXH đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập bị mất, do đó, đời sống của bản thân và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Chính điều đó sẽ làm cho họ gắn bó với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, góp phần tăng năng suất lao động cũng như tăng hiệu quả kinh tế. Đồng thời, nhờ những khoản trợ cấp BHXH, người lao động nhanh chóng được phục hồi cả về mặt thể xác cũng như mặt tinh thần, từ đó có thể tham gia tiếp tục vào quá trình sản xuất tạo điều kiện tốt diễn ra bình thường, ổn định. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa những người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động... Khi nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển, việc thuê mướn nhân công trở lên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau dã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản... Cũng có khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi một đồng nào; Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc một khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do đó, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp giải quyết và điều hoà những mâu thuẫn đó thông qua BHXH, và như thế cả hai bên đều cảm thấy mình có lợi và được bảo vệ, từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Bằng phương thức dàn trải rủi ro thiệt hại theo cả thời gian và không gian, BHXH đã giảm tối thiểu thiệt hại cho số đông người trong xã hội, đồng thời làm tăng khả năng giải quyết rủi ro, khó khăn của những người lao động tham gia bảo hiểm với một tổng dự trữ ít nhất, nhưng vẫn giải quyết tốt nhất những rủi ro, khó khăn về đời sống và gia đình họ nhờ cả sự hỗ trợ thêm của Nhà nước và trách nhiệm của người sử dụng lao động. Với người sử dụng lao động, trách nhiệm của họ đối với người lao động cũng vì thế mà được giải quyết một cách thuận lợi nhất, có lợi cho cả hai bên. Với Nhà nước, quỹ BHXH là nguồn vốn lớn cung cấp cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước, đồng thời qua đó cũng làm tăng thêm nguồn thu cho quỹ. Từ đó, nó giúp việc chi trả cho người lao động được dễ dàng hơn. Như vậy, lợi ích của 3 bên tham gia BHXH nhờ thông qua BHXH ngày càng trở nên gắn bó với nhau chặt chẽ hơn kể cả về lợi ích trước mắt và lâu dài. * Nhiệm vụ của bảo hiểm xã hội: Với chức năng quan trọng như vậy, BHXH cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu và ban hành các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội từng thời kỳ. Chính sách BHXH là định hướng quan trọng nhất cho hoạt động BHXH. Do đó, nghiên cứu và ban hành các chính sách, chế độ BHXH phù hợp là nhiệm vụ quan trọng nhất trong các nhiệm vụ của BHXH. Sự phù hợp của chính sách là cơ sở tồn tại của chính nó, một chính sách BHXH đúng đắn được áp dụng là điều kiện tốt nhất cho việc nâng cao, phát huy hiệu quả của hoạt động BHXH. Để có được điều kiện đó, việc hoạch định chính sách BHXH cần dựa trên cơ sở, điều kiện cụ thể về đặc điểm dân số, kinh tế, lao động và xã hội... từ đó mới có thể tạo ra sự tồn tại, sức sống thực tế của chính sách BHXH. - Thu hút đông đảo người lao động trong mọi thành phần kinh tế tham gia bảo hiểm xã hội. BHXH cũng như mọi lĩnh vực bảo hiểm khác- hoạt động trên nguyên tắc: ''lấy số đông bù số ít''. Số người tham gia BHXH sẽ là yếu tố quyết định đến thu của BHXH. Thu của BHXH ngày càng lớn thì khả năng chi, tức khả năng đáp ứng chế độ càng cao, đem lại sự đảm bảo về vật chất tốt hơn cho số ít người lao động gặp rủi ro được hưởng BHXH. Đồng thời, sự tham gia đông đảo của người lao động là điều quan trọng để BHXH đạt được mục tiêu xã hội của mình, đảm bảo công bằng, ổn định cho sự phát triển xã hội và điều đó cũng phù hợp với xu hướng xã hội hoá BHXH của thế giới. - Tổ chức tốt mọi hoạt động của hệ thống bảo hiểm xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ này, BHXH cần thực hiện các công việc như: chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thu chi quản lý quỹ; quyết định các biện pháp để bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH; thẩm tra và quyết toán thông qua dự toán hàng năm; kiến nghị với Chính phủ và cơ quan Nhà nước có liên quan bổ sung, sửa đổi tạo sự phù hợp về chính sách BHXH; đề xuất, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ quản lý của các đơn vị BHXH các cấp. Ngoài ra, còn phải hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ BHXH thống nhất trong toàn quốc, toàn bộ hệ thống BHXH. 2. Quỹ Bảo hiểm xã hội. 2.1. Nguồn hình thành quỹ BHXH: BHXH được thực hiện sẽ hình thành nên quỹ BHXH- là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Đây là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất trong toàn bộ quy trình thực hiện chính sách BHXH. Theo quy định của điều lệ BHXH ban hành theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 thì quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau: * Sự đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động: - Người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị, trong đó, 10% để chi các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. - Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất. * Nhà nước đóng và hỗ trợ: Để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động, hàng tháng, Bộ Tài chính trích từ ngân sách Nhà nước số tiền bổ sung vào quỹ BHXH đủ chi trả các khoản thuộc về BHXH như sau: - Chi trả các chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất cho tất cả các đối tượng được thụ hưởng chế độ BHXH trước ngày thi hành ''Điều lệ BHXH'' được ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ. - Hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động thuộc khu vực Nhà nước ban hành sau ngày ban hành ''Điều lệ BHXH'' - Đóng toàn bộ Bảo hiểm y tế cho các đối tượng đang được thụ hưởng chế độ BHXH. * Các nguồn thu khác: Bao gồm các nguồn thu chủ yếu sau đây: - Tiền lãi, tiền sinh lời từ việc thực hiện các phương án bảo tồn và phát triển quỹ BHXH. - Các nguồn tài trợ, viện trợ khác của cộng đồng quốc tế và trong nước, kể cả các tổ chức phi Chính phủ hoặc các cá nhân hảo tâm... Tuy nhiên, nguồn này không ổn định và không nhiều nhất là hoạt động BHXH của nước ta còn chưa phát triển. - Giá trị các tài sản cố định của BHXH được đánh giá lại theo quy định của Chính phủ. - Các nguồn thu khác: phạt tiền do nộp BHXH chậm so với thời gian quy định, tiền truy thu khi các đơn vị sử dụng lao động và người lao động đóng thiếu tiền BHXH hoặc nhận thừa so với chế độ BHXH được hưởng thụ... * Mục đích sử dụng nguồn quỹ BHXH: Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau đây: 1/ Chi thực hiện các chế độ BHXH cho người tham gia BHXH: Khoản chi thực hiện các chế độ BHXH cho người tham gia BHXH là khoản chi chủ yếu, chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi của hệ thống BHXH. ở Việt nam thực hiện chi cho 5 chế độ: a- Chế độ trợ cấp ốm đau quy định như sau: Người lao động nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn rủi ro mà có xác nhận của tổ chức y tế do Bộ Y tế quy định được hưởng chế độ trợ cấp ốm đau. Thời gian tối đa cho người lao động được hưởng trợ cấp ốm đau: + Đối với người lao động làm việc trong điều kiện bình thường: 30 ngày trong một năm nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm 45 ngày trong một năm nếu đã đóng BHXH từ 15 đến dưới 30 năm 50 ngày trong một năm nếu đã đóng BHXH từ 30 năm trở lên + Đối với người lao động làm các nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại: làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên: 40 ngày trong một năm nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm 50 ngày trong một năm nếu đã đóng BHXH từ 15 năm đến dưới 30 năm 60 ngày trong một năm nếu đã đóng BHXH từ 30 năm trở lên Danh mục nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành. Nếu người lao động bị mặc bệnh cần điều trị dài ngày theo danh mục do Bộ Y tế ban hành thì thời gian được hưởng trợ cấp ốm đau tối đa là 180 ngày trong một năm không phân biệt thời gian đóng bảo hiểm nhiều hay ít. Trong trường hợp, nếu hết thời hạn 180 ngày mà còn phải tiếp tục điều trị thêm được hưởng trợ cấp bằng 70% mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH trước khi nghỉ việc nếu đã đóng BHXH 30 năm trở lên; bằng 65% mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH trước khi nghỉ việc nếu đã đóng BHXH dưới 30 năm. Ngoài ra, khi có con thứ nhất, thứ hai dưới 7 tuổi bị ốm đau phải nghỉ việc theo yêu cầu của tổ chức y tế để chăm sóc con ốm đau cũng được hưởng trợ cấp BHXH. Thời gian tối đa hưởng trợ cấp để chăm sóc con ốm đau tối đa là 20 ngày trong một năm đối với con dưới 3 tuổi và 15 ngày trong một năm đối với con từ 3 tuổi đến 7 tuổi. Mức trợ cấp là 75% mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH trước khi nghỉ việc. b- Chế độ trợ cấp thai sản: Lao động nữ có thai, sinh con thứ nhất, thứ hai được hưởng chế độ trợ cấp thai sản trong các trường hợp nghỉ việc sau: + Ba lần đi khám thai, mỗi lần một ngày. + 20 ngày nếu bị thai sản dưới 3 tháng và 30 ngày nếu sảy thai từ 3 tháng trở lên + 4 tháng nghỉ sinh con đối với người làm việc trong điều kiện bình thường. + 5 tháng đối với người làm các nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại; làm việc theo chế độ 3 ca, làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,5 và 0,7. + 6 tháng đối với người làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 1; người làm nghề hoặc công việc đặc biệt theo danh mục do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội ban hành. Nếu sinh đôi trở lên, thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con người mẹ được nghỉ thêm 30 ngày. + 75 ngày nếu con dưới 60 ngày tuổi bị chết (kể cả trường hợp đẻ thai chết lưu); 15 ngày nếu con 60 ngày tuổi trở lên bị chết. Thời gian nghỉ tính từ ngày sinh. + 4 tháng nếu nhận nuôi con sơ sinh theo quy định tại luật hôn nhân và gia đình. Mức trợ cấp thai sản khi nghỉ vi._.ệc trong các trường hợp trên bằng 100% mức lương đóng BHXH trước khi nghỉ việc. Ngoài ra, khi sinh con còn được trợ cấp một lần bằng 1 tháng tiền lương đóng BHXH. c- Chế độ trợ cấp TNLĐ- BNN : Người lao động sẽ được hưởng trợ cấp TNLĐ- BNN nếu bị tai nạn trong các trường hợp sau: + Bị tai nạn trong giờ làm việc, tại nơi làm việc kể cả việc ngoài giờ do yêu cầu của người sử dụng lao động. + Bị tai nạn ngoài nơi làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động. + Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc. Mức trợ cấp được tính trên cơ sở mức độ suy giảm khả năng lao động và mức tiền lương tối thiểu chung do Chính phủ công bố như sau: + Bị suy giảm từ 5% đến 30% khả năng lao động được trợ cấp 1 lần theo quy định dưới đây: Mức suy giảm khả năng lao động Mức trợ cấp một lần Từ 5%- 10% Từ 11%- 20% Từ 21%- 30% 4 tháng tiền lương tối thiểu 8 tháng tiền lương tối thiểu 12 tháng tiền lương tối thiểu + Bị suy giảm từ 31% khả năng lao động trở lên được hưởng trợ cấp hàng tháng kể từ ngày ra viện theo quy định dưới đây: Mức suy giảm khả năng lao động Mức trợ cấp hàng tháng Từ 31%- 40% Từ 41%- 50% Từ 51%- 60% Từ 61%- 70% Từ 71%- 80% Từ 81%- 90% Từ 91%- 100% 0,4 tháng tiền lương tối thiểu 0,6 tháng tiền lương tối thiểu 0,8 tháng tiền lương tối thiểu 1,0 tháng tiền lương tối thiểu 1,2 tháng tiền lương tối thiểu 1,4 tháng tiền lương tối thiểu 1,6 tháng tiền lương tối thiểu Ngoài mức trợ cấp hàng tháng người lao động còn được hưởng Bảo hiểm y tế do quỹ BHXH trả. Ngoài ra, quỹ BHXH còn đảm bảo quyền lợi sau cho người lao động: -) Trả trợ cấp phục vụ hàng tháng bằng 80% mức tiền lương tối thiểu ; nếu giảm khả năng lao động là 81% trở lên mà bị liệt cột sống, bị mù hai mắt, bị cụt 2 chi, tâm thần nặng. -) Được trang cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt phù hợp với các chức năng bị tổn thất (tay, tai, mắt, răng, cột sống...) theo niên hạn. -) Được giới thiệu đi giám định lại mức độ suy giảm khả năng lao động do thương tật khi vết thương tái phát. -) Được trợ cấp 1 lần bằng 24 tháng lương nếu chết khi bị tai nạn lao động, kể cả trong thời gian điều trị lần đầu. Người bị bệnh nghề nghiệp cũng được hưởng các chế độ tương tự như các trường hợp bị tai nạn lao động. d- Chế độ hưu trí : Người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng khi nghỉ việc mà có 1 trong các điều kiện sau đây: 1- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở lên. 2- Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà trong 20 năm đó có thời gian làm việc thuộc 1 trong các trường hợp sau: - Đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại. - Đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên. - Đủ 10 năm công tác ở miền Nam, ở Lào trước ngày 30/4/1975 hoặc Campuchia trước ngày 31/8/1989. Người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương hưu thấp hơn chế độ hưu trí quy định ở trên khi có 1 trong những điều kiện sau: 1. Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 15 năm đến dưới 20 năm. 2. Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên. 3. Người lao động có ít nhất 15 năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc, đặc biệt độc hại đã đóng BHXH đã đóng đủ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên (không phụ thuộc vào tuổi đời). Danh mục nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, đặc biệt nặng nhọc, đặc biệt độc hại do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành. Người lao động hưởng chế độ hưu trí hàng tháng được hưởng quyền lợi sau đây: 1. Lương hưu hàng tháng tính theo số năm đóng BHXH và mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH như sau: a) Người lao động có thời gian đóng BHXH đến 15 năm tính bằng 45% mức bình quân ra tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH, sau đó cứ thêm một năm đóng BHXH tính thêm 2%. Mức lương hưu hàng tháng tối đa bằng 75% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH. b) Đối với người lao động hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương hưu thấp hơn cứ mỗi năm nghỉ việc hưởng lương hưu trước tuổi so với quy định thì giảm đi giảm 1% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH. Đối với người lao động nam đủ 55 tuổi đến dưới 60 tuổi, nữ đủ 50 tuổi đến dưới 55 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 30 năm trở lên, có nguyện vọng về hưu mỗi năm nghỉ việc hưởng lương hưu trước tuổi không phải giảm 1% mức bình quân của tiền lương đóng BHXH. Đối với quân nhân, công an nhân dân có 30 năm đóng BHXH trở lên đủ 50 tuổi đến dưới 55 tuổi (đối với nam) hoặc đủ 45 tuổi đến dưới 50 tuổi (đối với nữ), thì khi hưởng lương hưu trước tuổi không phải giảm 1% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH. Mức lương hưu thấp nhất cũng bằng mức tiền lương tối thiểu. 2. Ngoài lương hưu hàng tháng, đối với người lao động có thời gian đóng BHXH trên 30 năm khi nghỉ hưu được trợ cấp một lần theo cách tính một lần như sau: từ năm 31 trở lên mỗi năm (12 tháng) đóng BHXH được nhận bằng một nửa tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH, nhưng tối đa không quá 5 tháng. Đối với quân nhân, công an nhân dân: -) Quân nhân, công an nhân dân đã có thời gian đóng BHXH theo mức tiền lương thuộc công việc nặng nhọc, độc hại hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại đủ 15 năm trở lên mà chuyển sang làm công việc khác đóng BHXH theo mức lương đóng BHXH thì khi nghỉ hưu được lấy các mức lương đóng BHXH của 5 năm liền kề làm công việc nặng nhọc, độc hại làm cơ sở tính lương hưu. -) Quân nhân, công an nhân dân có đủ 20 năm tuổi trở lên, theo yêu cầu của tổ chức, điều động sang công tác tại các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể ngoài lực lượng vũ trang, nếu khi nghỉ hưu có mức lương thấp hơn mức lương khi đang tại ngũ thì được lấy mức lương đóng BHXH của 5 năm cuối cùng trước khi chuyển ra ngoài lực lượng vũ trang để làm cơ sở tính lương hưu. -) Quân nhân, công an nhân dân có đủ 15 năm đến dưới 20 năm tuổi được điều động như trên hoặc những quân nhân, công an nhân dân có đủ 20 năm tuổi quân trở lên mà tự nguyện xin ra làm việc ngoài quân đội và công an, nếu khi nghỉ hưu có mức lương thấp hơn mức lương khi đang tại ngũ, thì được lấy mức lương bình quân của 10 năm đóng BHXH (bao gồm 5 năm cuối trước khi chuyển ngành cộng với 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu). 3. Người lao động hưởng lương hưu hàng tháng được bảo hiểm y tế do quỹ BHXH trả. 4. Người lao động hưởng lương hưu hàng tháng khi chết, gia đình được hưởng chế độ tử tuất. - Người lao động nghỉ việc nhưng chưa đủ tuổi đời để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng, thì được hưởng trợ cấp một lần, cứ mỗi năm đóng BHXH được tính bằng 1 tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH, hoặc có thể chờ đến khi đủ tuổi đời thì được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng. - Cách tính mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH để làm cơ sở tính lương hưu hàng tháng, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu quy định như sau: + Người lao động đóng BHXH theo các mức tiền lương tháng trong các hệ thống thang lương, bảng lương do Nhà nước quy định thì tính bình quân gia quyền các mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH trong 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu. + Người vừa có thời gian đóng BHXH theo tiền lương trong các hệ thống thang lương, bảng lương do Nhà nước quy định, vừa có thời gian đóng BHXH không theo các mức lương trong các hệ thống thang lương, bảng lương do Nhà nước quy định thì tính bình quân gia quyền các mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH chung của các thời gian. + Người lao động đang hưởng lương hưu mà ở lại nước ngoài hợp pháp thì uỷ nhiệm do thân nhân ở trong nước nhận lương hưu hàng tháng (Giấy uỷ nhiệm có giá trị trong 6 tháng và phải có xác nhận của Sứ quán nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tại nước mà người đó cư trú). + Riêng đối với những người có thời gian đóng BHXH theo các mức tiền lương thuộc công việc nặng nhọc, độc hại hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại đủ 15 năm trở lên mà chuyển sang làm công việc khác đóng BHXH theo thang, bảng lương do Nhà nước quy định có mức lương thấp hơn thì khi nghỉ hưu được lấy các mức lương cấp bậc của 5 năm liền kề làm công việc nặng nhọc, độc hại để tính mức bình quân làm cơ sở tính hưởng lương hưu. e) Chế độ tử tuất - Người lao động đang làm việc, người lao động nghỉ việc chờ giải quyết chế độ hưu trí, người lao động đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng khi chết thì người lo mai táng được nhận tiền mai táng bằng 8 tháng tiền lương tối thiểu. - Người lao động đã có thời gian đóng BHXH đủ 15 năm trở lên, người lao động nghỉ việc chờ giải quyết chế độ hưu trí hàng tháng; người đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng và người lao động đang làm việc bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp chết thì những thân nhân do họ trực tiếp nuôi dưỡng sau đây được hưởng tiền tuất hàng tháng: 1. Con chưa đủ 15 tuổi (bao gồm con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú được pháp luật công nhận, con đẻ mà khi người chồng chết người vợ đang mang thai). Nếu con còn đi học thì được hưởng tiền tuất hàng tháng đến khi đủ 18 tuổi. 2. Bố, mẹ (cả bên vợ và chồng); vợ hoặc chồng; người nuôi dưỡng hợp pháp đã hết tuổi lao động (nam đủ 60 tuổi trở lên, nữ đủ 55 tuổi trở lên). Mức tiền tuất hàng tháng đối với mỗi thân nhân quy định bằng 40% mức tiền lương tối thiểu. Trong trường hợp thân nhân không có nguồn thu nhập nào khác và không còn người thân trực tiếp nuôi dưỡng thì mức tiền tuất hàng tháng bằng 70% mức tiền lương tối thiểu. Số thân nhân được hưởng tiền tuất hàng tháng không quá 4 người và được hưởng kể từ ngày người lao động chết. Trường hợp đặc biệt do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội xem xét giải quyết. +) Người lao động đang làm việc; người lao động nghỉ việc chờ giải quyết chế độ hưu trí; người lao động đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng và người lao động đang làm việc bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp chết mà không có thân nhân thuộc diện hưởng tiền tuất hàng tháng thì gia đình được nhận tiền tuất 1 lần. +) Mức tiền tuất 1 lần đối với gia đình người lao động đang làm việc hoặc người lao động nghỉ việc chờ giải quyết chế độ hưu trí chết, tính theo thời gian đã đóng BHXH, cứ mỗi năm tính bằng 1/2 tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH này nhưng tối đa không quá 12 tháng. +) Mức tiền tuất một lần đối với gia đình người lao động đang hưởng lương hưu, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng thì tính theo thời gian đã hưởng lương hưu hoặc trợ cấp, nếu chết trong năm thứ nhất thì tính bằng 12 táng lương hưu hoặc trợ cấp đang hưởng, nếu chết từ năm thứ 2 trở đi thì mỗi năm giảm đi 1 tháng nhưng tối thiểu bằng 3 tháng lương hưu hoặc trợ cấp. Ngoài ra, BHXH Việt nam còn thực hiện chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ đối với người tham gia BHXH bắt buộc có đủ 3 năm làm việc trở lên tại cơ quan, đơn vị mà bị suy giảm sức khoẻ; sau khi điều trị do ốm đau, TNLĐ- BNN mà chưa phục hồi sức khoẻ hoặc lao động nữ nếu yếu sức khoẻ sau khi nghỉ thai sản. Người bị suy giảm sức khoẻ được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ 1 lần trong năm. Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 5 đến 10 ngày tuỳ thuộc vào mức độ suy giảm sức khoẻ của người lao động. Thời gian nghỉ dưỡng sức không bị trừ vào thời gian nghỉ phép hàng năm của người lao động. Mức chi phí nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ gồm 2 mức là 80.000đ/ngày/ người đối với người nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tập trung; 50.000đ/ngày/ người đối với người nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại gia đình; lao động nữ nếu yếu sức khoẻ sau khi nghỉ thai sản. BHXH Việt nam tổ chức quản lý cấp phát và quyết toán kinh phí nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ cho từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Kinh phí để thực hiện nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ do Quỹ BHXH bảo đảm bằng 0,6% tổng quỹ tiền lương thực đóng BHXH, được trích trong nguồn 5% tính trên tổng quỹ tiền lương đóng BHXH cho 3 chế độ: ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN. 2/ Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH Kinh phí chi hoạt động bộ máy của hệ thống BHXH Việt nam là khoản kinh phí dùng để chi cho toàn bộ hoạt động quản lý của hệ thống BHXH VN. Chi phí hoạt động quản lý của hệ thống BHXH VN gồm rất nhiều nội dung chi nhưng xét theo tính chất và chu kỳ chi phí, có thể chia thành 2 nhóm nội dung chi, đó là chi hoạt động quản lý thường xuyên và chi đầu tư cơ sở vật chất. * Chi hoạt động thường xuyên: Đó là những chi phí nhằm duy trì hoạt động quản lý thường xuyên của bộ máy quản lý BHXH. Công tác quản lý chi hoạt động thường xuyên của hệ thống BHXH Việt nam tập trung vào một số nội dung cụ thể, đó là: - Quản lý lao động (cán bộ, công chức, viên chức) và quỹ tiền lương đối với từng đơn vị dự toán cấp 2 và cấp 3. - Quản lý chi hoạt động nghiệp vụ: Chi phí cho công tác thu BHXH, chi cho công tác chi BHXH, hội nghị, tiếp khách, chi văn phòng phẩm, điện, nước, điện thoại, sửa chữa nhỏ, mua sắm tài sản... - Quản lý kinh phí đào tạo, đào tạo lại cán bộ, công chức, viên chức: đối tượng đi đào tạo lại, nội dung đào tạo, kinh phí chi cho từng đối tượng, từng lớp đào tạo... - Quản lý chi thông tin, tuyên truyền về chính sách, chế độ BHXH. - Quản lý chi đoàn ra, đoàn vào, hợp tác quốc tế. * Chi đầu tư cơ sở vật chất: Đó là những chi phí nhằm đảm bảo các điều kiện, phương tiện làm việc cho cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống, gồm có: chi đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, trang bị phương tiện làm việc như hệ thống máy vi tính (gồm cả chương trình phần mềm quản lý), ô tô, bàn ghế, tủ hồ sơ... Nội dung quản lý chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của hệ thống BHXH VN tập trung vào một số nội dung cụ thể, đó là: - Về trụ sở làm việc: quy mô đầu tư (diện tích làm việc, cấp công trình), tổng mức đầu tư đối với từng dự án đầu tư xây dựng của từng cấp (TW, tỉnh, huyện), phù hợp với kiến trúc và tập quán sinh hoạt của từng địa phương. Chú trọng quản lý chất lượng và giá trị quyết toán công trình, đảm bảo đúng quy trình, quy phạm của Nhà nước quy định. - Về phương tiện làm việc: phải đảm bảo theo tiêu chuẩn kinh tế- kỹ thuật và định mức trang bị, sử dụng do Nhà nước quy định. 3. Hệ thống các chế độ BHXH. Chế độ Bảo hiểm xã hội là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể về đối tượng, phạm vi, điều kiện hưởng, mức hưởng trợ cấp... và nêu rõ sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện. Những quy định này được luật pháp hoá và thể chế hoá dưới dạng luật hoặc các văn bản pháp luật khác, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Các chế độ BHXH có tính chất pháp lý chặt chẽ với những quy định rõ ràng, chi tiết và dễ hiểu. Vì vậy, có thể chính sách BHXH của một số nước giống nhau, nhưng nội dung các chế độ BHXH thường khác nhau, thậm chí rất khác nhau. Theo công ước Giơnever số 102 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thuộc liên hợp quốc tế ký ngày 28/6/1952, BHXH có 9 chế độ sau: Chăm sóc y tế. Trợ cấp ốm đau. Trợ cấp thất nghiệp. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Trợ cấp tuổi già. Trợ cấp gia đình. Trợ cấp sinh đẻ. Trợ cấp khi tàn phế. 9) Trợ cấp cho người còn sống. Hiện nay có hơn 150 nước tham gia ký kết hiệp định Giơnevơ (1952) trong đó có 33 nước thực hiện cả 9 chế độ; 84 nước chưa thực hiện chế độ trợ cấp thất nghiệp; 9 nước chưa thực hiện trợ cấp gia đình. Sở dĩ như vậy là vì ở các nước khác nhau phạm vi, đối tượng hình thành quỹ... không giống nhau . Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể cuả từng nước và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển mà mỗi nước có những hình thức áp dụng cho phù hợp. ở Việt Nam dưới chính quyền Pháp thuộc, chúng đã thực hiện BHXH đối với công chức và quân nhân Việt Nam hưởng lương phục vụ trong bộ máy hành chính và quân đội Pháp ở Đông Dương khi họ ốm đau, tuổi già hoặc chết. Còn đối với công nhân Việt Nam, việc thực hiện BHXH hết sức khó khăn, gần như chính quyền Pháp không công nhận một quyền lợi nào về BHXH. Công nhân Việt Nam chết, ốm đau, tai nạn trong các nhà máy, đồn điền cao su... không được mai táng, chữa bệnh, phụ nữ sinh đẻ vẫn phải làm việc, trẻ em sinh ra yếu ớt không được chăm sóc. Chỉ đến khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà ra đời, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH: Sắc lệnh 54/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức; Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 đã ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn và tiền tuất đối với viên chức... thì quyền lợi người lao động mới được đảm bảo. Trong khu vực sản xuất, lúc này chưa thành lập quỹ BHXH, nhưng sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 đã cụ thể hoá các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân. Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, thực hiện hiến Pháp năm 1949, Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước kèm theo Nghị định 218/CP ra đời ngày 27/12/1961 quy định như sau: Chế độ trợ cấp BHXH gồm 6 loại: Trợ cấp ốm đau. Trợ cấp thai sản. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Trợ cấp mất sức lao động. Trợ cấp hưu trí. Trợ cấp tử tuất. Trong một thời kỳ dài 6 chế độ này nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu của xã hội và người lao động, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiều chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, khi chuyển sang cơ chế thị trường điều kiện kinh tế của Nhà nước đã thay đổi hẳn vì vậy Nghị định 43/CP ra đời ngày 22/6/1993 và Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 đều thống nhất một quan điểm là BHXH chỉ thực hiện 5 chế độ và bỏ chế độ trợ cấp mất sức lao động. 1/ Trợ cấp ốm đau: người lao động là người tạo ra sản phẩm cho xã hội, là động lực chính thúc đẩy xã hội phát triển, vì vậy, khi họ ốm đau phải được xét trợ cấp BHXH trong thời gian ốm đau. Chế độ này đã giúp cho người lao động có khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc do bị ốm đau. Việc thiết kế chế độ này hiện hành đã tránh được những hiện tượng lạm dụng và bình quân hoá trong khi xét trợ cấp, đảm bảo công bằng giữa đóng và hưởng BHXH. Mức trợ cấp phụ thuộc vào 3 yếu tố: - Tình trạng sức khoẻ và thời gian công tác. - Tiền lương thực tế đang làm. - Phụ thuộc vào ngành nghề công tác của người đó. 2/ Trợ cấp thai sản: lao động nữ chiếm quá một nửa lực lượng lao động xã hội. Họ không chỉ tạo ra sản phẩm vật chất mà còn tạo ra nhiều sản phẩm tinh thần cho xã hội, vì vậy, khi họ sinh đẻ phải được nghỉ ngơi an dưỡng và nuôi con, họ phải được xét trợ cấp BHXH thay vì tiền lương trong thời gian nghỉ đẻ, mức lương được hưởng trợ cấp thông thường là bằng mức tiền lương và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia đó. 3/ Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: Người lao động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, Nhà nước cơ quan doanh nghiệp phải có trách nhiệm xét trợ cấp bảo hiểm cho họ để họ tiếp tục ổn định và duy trì cuộc sống, mức độ trợ cấp phụ thuộc vào 4 yếu tố: - Tình trạng thương tật và sức khoẻ thông qua giám định y khoa. - Tiền lương thực tế. - Thời gian làm việc. - Ngành nghề công tác của người đó. 4/ Trợ cấp hưu trí: người lao động khi hết tuổi lao động họ phải được nghỉ ngơi an dưỡng, khi đó có một số nhu cầu không những giảm đi mà còn tăng lên, vì vậy, họ vẫn phải được xét trợ cấp BHXH dưới hình thức tiền hưu trí, mức trợ cấp phụ thuộc vào 5 yếu tố: - Tiền lương thực tế bình quân một số năm trước khi nghỉ hưu. - Phụ thuộc vào thời gian công tác. - Phụ thuộc vào mức đóng BHXH. - Phụ thuộc vào ngành nghề công tác và độ tuổi khi nghỉ hưu. - Phụ thuộc vào tuổi thọ bình quân của quốc gia. Tuy vậy, mức được hưởng lương thấp nhất phải bằng mức sống tối thiểu của quốc gia đó. 5/ Trợ cấp tử tuất: người lao động không may bị chết, Nhà nước và cơ quan doanh nghiệp phải có trách nhiệm với những người còn sống trong gia đình họ: bố mẹ già không nơi nương tựa, con cái chưa đến tuổi trưởng thành, mức được hưởng phụ thuộc vào 3 yếu tố: - Chi phí mai táng chôn cất hồi hương. - Hoàn cảnh thực tế gia đình người lao động. - Tiền lương của người lao động trước khi bị chết. Tuy vậy, mức được hưởng cao nhất không vượt quá tiền lương thực tế đang làm trước khi bị chết. Đây là chế độ BHXH mang tính nhân đạo nhất. Chế độ này giúp cho thân nhân người chết có được khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của người của gia đình do người lao động bị chết. IV. Vấn đề chi trả BHXH. 1. Các mô hình chi trả BHXH Chi trả trợ cấp BHXH là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của các tỉnh, thành phố và của toàn ngành. Việc chi trả đầy đủ, đúng đối tượng hưởng BHXH không chỉ có ý nghĩa về mặt xã hội mà còn có ý nghĩa kinh tế và chính trị rất to lớn, nó không những đảm bảo cuộc sống hàng ngày của đối tượng mà còn góp phần tích cực vào việc đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Công tác chi trả các chế độ BHXH liên quan đến đối tượng được coi là thước đo để đánh giá sự quan tâm chăm lo của ngành, của Nhà nước đối với đối tượng, là hệ quả của quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao. Để thực hiện nhiệm vụ chi trả và trợ cấp BHXH cho đối tượng hưởng các chế độ BHXH ở nước ta đã áp dụng 2 mô hình chủ yếu là: Mô hình chi trả gián tiếp và mô hình chi trả trực tiếp. 1.1. Mô hình chi trả gián tiếp Mô hình chi trả gián tiếp là mô hình chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH được thực hiện bởi sự uỷ quyền của cơ quan BHXH các cấp cho các đơn vị sử dụng lao động hoặc các đại điện pháp nhân thuộc Uỷ ban nhân dân các phường, xã chi trả hộ (các đại lý chi trả). 1.2. Mô hình chi trả trực tiếp Mô hình chi trả trực tiếp là là hình thức chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH được thực hiện trực tiếp do cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống Bảo hiểm xã hội chi trả hay nói một cách khác: Mô hình chi trả trực tiếp là hình thức chi trả cho người được hưởng các chế độ BHXH không thông qua khâu trung gian. 2. Tổ chức thực hiện Về công tác tổ chức thực hiện các mô hình chi trả BHXH được thực hiện như sau: Mô hình chi trả gián tiếp thực hiện thông qua ký hợp đồng uỷ thác giữa cơ quan BHXH huyện với đại lý chi trả ở xã, thị trấn và chi trả cho các đối tượng ốm đau, thai sản thông qua đơn vị sử dụng lao động. Về cơ bản, hình thức chi trả này được thực hiện như sau: Cơ quan Bhxh cấp quận, huyện, thị xã ký hợp đồng trách nhiệm với một số cá nhân thuộc xã, phường, thị trấn để hình thành đại lý chi trả (những cá nhân này thường là những người đang hưởng chế độ BHXH, có trách nhiệm, có uy tín, ở địa phương và được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn giới thiệu). Hàng tháng đại lý chi trả nhận danh sách đối tượng và tiền từ cơ quan BHXH cấp quận, huyện, thị xã, hoặc nhận tay ba tại Kho bạc Nhà nước, để tiến hành chi trả, sau mỗi kỳ chi trả, đại lý chi trả có trách nhiệm thanh, quyết toán với cơ quan BHXH. Còn đối với các đơn vị sử dụng lao động, cơ quan BHXH chuyển khoản qua tài khoản của đơn vị hoặc đơn vị nhận tiền mặt trực tiếp tại cơ quan BHXH để chi trả cho người lao động. Mô hình chi trả trực tiếp xuất hiện từ khi có tổ chức BHXH Việt Nam. Về cơ bản mô hình này được thực hiện như sau: Mỗi cán bộ làm công tác chi trả của cơ quan BHXH chịu trách nhiệm chi trả cho đối tượng hưởng BHXH ở một số xã, phường và đơn vị sử dụng lao động có trong quận, huyện, thị xã); cán bộ làm công tác chi trả có trách nhiệm chuẩn bị mọi công việc có liên quan đến việc chi trả từ khâu nhận danh sách đối tượng do BHXH tỉnh chuyển xuống, lên kế hoạch và thông báo thời gian chi trả cho từng xã, phường được phân công phụ trách, chuẩn bị tiền chi trả đến khâu thanh, quyết toán sau khi chi trả. Mô hình này chủ yếu áp dụng cho các đối tượng hưởng các chế độ dài hạn. Tuy nhiên trong quá trình chi trả, cán bộ của cơ quan BHXH không làm việc độc lập mà vẫn phải có sự giúp đỡ của đại biểu các tổ chức hưu trí ở xã, phường, thị trấn. Việc áp dụng mô hình nào là tốt hơn hay kết hợp cả hai mô hình là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương. Phải áp dụng phương thức quản lý và chi trả cho phù hợp với từng loại đối tượng và từng loại trợ cấp, sao cho đảm bảo được nguyên tắc chi trả: Đúng đối tượng Đúng chế độ Đầy đủ Kịp thời Chính xác An toàn Phần II Thực trạng công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam hiện nay I. Vài nét về chính sách BHXH ở Việt Nam 1. Trước năm 1995 BHXH theo nghĩa hiện đại xuất hiện từ những năm 1930, đó là các chế độ trợ cấp do chính quyền của thực dân Pháp thực hiện đối với công chức và quân nhân Việt nam hưởng lương phục vụ trong bộ máy hành chính và lực lượng vũ trang của Pháp ở Đông Dương bị ốm đau, tuổi già hoặc chết. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng và Chính phủ đã sớm thông qua Sắc lệnh 54/SL ngày 1/11/1945 ấn định những điều kiện cho công chức để họ yên tâm với việc chăm sóc, cải thiện đời sống cho người lao động. Vì vậy, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH như: - Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức. - Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể về chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, thất nghiệp và tiền tuất đối với công chức. - Trong khu vực sản xuất lúc này chưa lập quỹ BHXH nhưng Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 đã ấn định cụ thể các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất đối với công nhân. Tuy nhiên, tất cả các chế độ có tính chất BHXH đã ban hành và thực hiện trong thời gian này chưa được xây dựng trên nguyên tắc thống nhất. Sau hoà bình lập lại ở Miền Bắc, ngày 27/12/1961 Hội đồng Chính phủ đã ban hành “Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức” kèm theo Nghị định 218/CP và được thi hành từ ngày 1/1/1962 bao gồm 6 loại trợ cấp : ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất. Trên cơ sở thực tế có thể coi đây là Văn bản pháp luật gốc quy định các chế độ BHXH ở Việt nam. Nghị định 218/CP có một số đặc điểm cơ bản sau: * Đối tượng tham gia BHXH - Công nhân viên chức Nhà nước. - Lực lượng vũ trang (quân đội, công an). - Người làm việc trong các tổ chức đoàn thể, tổ chức Xã hội thuộc hệ thống chính trị của Đảng và Nhà nước . - Người làm việc trong các xí nghiệp quốc doanh . Những người làm việc trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa được áp dụng các chế độ BHXH. * Cơ chế hình thành quỹ BHXH: Quỹ BHXH được hình thành từ những nguồn chính sau đây: - Tiền do các cơ quan chính quyền và đoàn thể, các xí nghiệp, công trường, nông trường và lâm trường... của Nhà nước nộp hàng tháng vào quỹ BHXH là 4,7% quỹ tiền lương của CNVC Nhà nước. - Tiền trợ cấp hàng tháng của Nhà nước cho quỹ BHXH - Các khoản thu khác (tặng phẩm, tiền ủng hộ...) * Các chế độ BHXH Trong thời kỳ này, BHXH thực hiện 6 chế độ: 1/- Chế độ ốm đau 2/- Chế độ thai sản 3/- Chế độ tai nạn lao động(TNLĐ), bệnh nghề nghiệp (BNN) 4/- Chế độ mất sức lao động 5/- Chế độ hưu trí 6/- Chế độ tử tuất * Mục đích chi trả: Chi trả cho 6 chế độ và chi phí về công tác quản lý quỹ BHXH và quản lý sự nghiệp BHXH. Quỹ BHXH Nhà nước được Đảng và Chính phủ giao cho Tổng Công đoàn Việt nam quản lý cùng với trách nhiệm quản lý toàn bộ sự nghiệp BHXH. Quỹ BHXH Nhà nước không kết dư. Nếu quản lý tốt mà hàng năm còn thừa tiền thì được dùng số tiền thừa đó chi vào việc xây dựng thêm các sự nghiệp BHXH. - Trợ cấp khi công nhân viên chức Nhà nước ốm đau: CNVC Nhà nước khi ốm đau được khám bệnh, thuốc men và bồi dưỡng do Nhà nước đài thọ. - Trợ cấp khi CNVC Nhà nước sinh đẻ, sẩy thai, mất sữa: Nữ công nhân viên chức Nhà nước được hưởng quyền lợi khi khám thai ở các cơ sở y tế Nhà nước, được nghỉ trước và sau khi đẻ tất cả là 60 ngày (kể cả chủ nhật và ngày lễ). Nếu sinh đôi thì được nghỉ thêm 10 ngày, sinh 3 thì được nghỉ thêm 20 ngày. Nhà nước cũng quan tâm đặc biệt đến CNVC Nhà nước làm việc ở những điều kiện nặng nhọc, độc hại. - Trợ cấp khi CNVC Nhà nước bị TNLĐ- BNN: Nếu bị tai nạn là động thì sẽ được thanh toán các loại chi phí điều trị (kể cả thời gian nghỉ điều trị khi vết thương tái phát), nếu bị thương tật thì được hưởng trợ cấp thương tật với mức trợ cấp thương tật phụ thuộc vào tỷ lệ thương tật. Tỷ lệ này do Bộ Lao động và Bộ Nội vụ quy định cụ thể. - Trợ cấp khi CNVC Nhà nước mất sức lao động: Khi CNVC Nhà nước bị thôi việc vì ốm, vì tai nạn lao động không thuộc diện hưởng chế độ trợ cấp về tai nạn lao động, hoặc vì già yếu nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ trợ cấp hưu trí, khi đã công tác từ 5 năm trở lên thì được hưởng trợ cấp MSLĐ. - Chế độ trợ cấp hưu trí: Khi CNVC Nhà nước đến tuổi nghỉ hưu (năm đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi, năm thời gian công tác nói chung là 25 năm trong đó thời gian công tác liên tục 5 năm) thì được hưởng chế độ trợ cấp hưu trí, có mức trợ cấp ưu tiên cho những CNVC Nhà nước đã từng làm việc ở điều kiện nặng nhọc, độc hại. - Chế độ trợ cấp chôn cất và trợ cấp mất người chủ gia đình (trợ cấp tiền tuất): Khi CNVC Nhà nước chết thì thân nhân của họ được cấp một khoản tiền cấp tuất hàng tháng. Tuỳ vào điều kiện cụ thể mà thân nhân của họ sẽ được hưởng ở những mức khác nhau. * Bộ máy quản lý thực hiện chính sách BHXH. - Nhà nước giao Tổng Liên đoàn Lao động VN quản lý thực hiện các chế độ trợ cấp: + ốm đau + Thai sản + Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp - Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quản lý thực hiện các chế độ. + Hưu trí + Mất sức lao động. + Tử tuất - Bộ Tài chính cấp phát từ ngân sách cho Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động VN để chi BHXH. * Về tài chính để thực hiện BHXH. Do NSNN bao cấp nên các khoản chi BHXH luôn bị hạn chế và có lúc, có nơi chậm trả lương hưu 2-3 tháng và việc chi BHXH càng ngày càng tăng dẫn đến tình trạng khó khăn cho NSNN (bình quân mỗi năm khoảng 5000 tỷ). 2. Thời kỳ năm 1995 đến nay. Để phù hợp với tình hình đổi mới về kinh tế XH và khắc phục những tồn tại về BHXH, ngày 16/1/1995 Chính phủ ban hành Nghị định 12._. chỉnh tăng, giảm đối tượng hàng tháng do đại lý chi trả thực hiện song mức phụ cấp trách nhiệm có thể thấp hơn so với đại lý đảm nhận hình thức chi trả gián tiếp. Đối với những địa bàn có số lượng, đối tượng rải rác, có địa hình phức tạp cần hợp đồng với đại lý là cán bộ xã, phường, vừa đảm nhận công tác chính quyền cơ sở, vừa tham gia làm đại lý. Có như vậy mới phát huy được trách nhiệm của đại lý, nâng cao vai trò của chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp quản lý đối tượng sinh sống. Đồng thời với việc sử dụng linh hoạt các hình thức chi trả, việc quy định trách nhiệm của các bên liên quan cũng phải được định ra một cách cụ thể, rõ ràng trong các hợp đồng ký kết. * Đối với đại lý: thực hiện chi trả toàn bộ tiền lượng hưu và trợ cấp hàng tháng đầy đủ, kịp thời, tận tay người hưởng, không được chi trả chậm hoặc chiếm dụng tiền làm ảnh hưởng đến đời sống của người hưởng. Khi có vướng mắc liên quan đến chế độ, chính sách mà đại lý không thể giải quyết được theo chức năng của mình thì báo cáo hoặc kiến nghị với BHXH huyện, thị xã để giải quyết thường xuyên nắm chắc tình hình diễn biến của đối tượng, lý do tăng giảm để báo cáo kịp thời với cơ quan BHXH( nếu có). Mở sổ sách đầy đủ để ghi chép theo và kiểm tra việc chi trả cho đối tượng. * Đối với BHXH huyện thị xã: Thường xuyên tổ chức kiểm tra, rà soát chặt chẽ, cụ thể từng trường hợp ở danh sách chi trả và phiếu nhận tiền, nếu phát hiện chưa đầy đủ chữ ký của đối tượng thì kiên quyết không chấp nhận hồ sơ quyết toán của đại lý. Đồng thời, báo cáo kịp thời cho UBND xã, phường cùng xử lý. Các trường hợp chi trả không đúng đối tượng thì BHXH huyện, thì xã phải thu hồi hoặc trừ lại tiền khi cấp ứng cho các đại lý. Trường hợp đại lý không chấp hành thủ tục hồ sơ, chứng từ thì không giải quyết thanh toán các khoản lệ phí chi trả và có biện pháp xử lý kịp thời theo quy định và hợp đồng đã ký kết. Thông qua kiểm tra, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của đối tượng nhằm giải thích kịp thời những vướng mắc về chế độ chính sách BHXH cho đối tượng hiểu và cùng thực hiện, đồng thời báo cáo lên cơ quan cấp trên về những trường hợp không thuộc quyền xử lý (Nếu có). * Đối với BHXH tỉnh: Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện củng cố và kết hợp hài hoà giữa hai hình thức chi trả, thường xuyên tổ chức kiểm tra công tác chi trả ở huyện, thị xã và đại lý xã, phường để sửa chữa, khắc phục những thiếu sót và tăng cường các biện pháp quản lý đối tượng, quản lý chi trả, quản lý tiền mặt đảm bảo an toàn, thuận lợi góp phần thực hiện tốt công tác chi trả tại các địa phương và cơ sở trong toàn tỉnh. Mặt khác, nghiên cứu phân bổ hợp lý lệ phí chi trả, có ưu tiên vùng sâu, vùng xa nhằm góp phần bù đắp một phần chi phí sức lao động và động viên đại lý chi trả hoàn thành nhiệm vụ. Chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH là nhiệm vụ trung tâm, là khâu cuối cùng của việc giải quyết chính sách cho đối tượng. Vì vậy, công tác chi trả BHXH phải tranh thủ được sự giúp đỡ của các cấp và các ngành trên địa bàn tỉnh. Như vậy, cần tiếp tục củng cố và hoàn thiện các mô hình chi trả đang thực hiện ở địa phương để công tác chi trả BHXH ở địa phương ngày càng hoàn thiện hơn, với phương châm đảm bảo thuận lợi nhất cho đối tượng cũng như việc đảm bảo các yêu cầu quản lý tài chính của ngành. 2. Đào tạo, nâng cao tinh thần trách nhiệm và trình độ chuyên môn cán bộ làm công tác quản lý chi trả. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) nêu rõ: “ Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của Cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. ở bất kỳ lĩnh vực hay ngành nghề nào, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của người cán bộ là một yêu cầu vô cùng quan trọng. Đối với BHXH cũng vậy nhất là trong khâu chi trả phục vụ người lao động thì tinh thần trách nhiệm, sự tâm huyết với nghề nghiệp cũng như trình độ chuyên môn của người cán bộ bảo hiểm là hết sức cần thiết để đảm bảo nguyên tắc “ chi đúng, chi đủ, chính xác, kịp thời, an toàn”. Ta hãy đánh giá sơ bộ thực trạng đội ngũ cán bộ công chức của ngành BHXH nói chung cũng như cán bộ làm công tác chi trả BHXH nói riêng từ khi thành lập đến nay; đội ngũ cán bộ công chức có những mặt mạnh và hạn chế sau: * Mặt mạnh: - Được giáo dục rèn luyện, kinh qua thực tiễn công tác thể hiện bản lĩnh vững vàng, cán bộ công chức ngành BHXH đã kế thừa những kinh nghiệm sẵn có, nắm vững chính sách, pháp luật BHXH trước đây, nhanh chóng nghiên cứu nắm bắt những chíng sách BHXH đổi mới, chuyển đổi thích ứng với nhiệm vụ trong một tổ chức thống nhất, hoạt động theo cơ chế mới. - Thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật các chế độ BHXH đối với các đối tượng tham gia BHXH. - Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, của công tác quản lý BHXH theo cơ chế mới, nhiều cán bộ cao cấp đã cố gắng vươn lên, chủ động học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp thu những kiến thức mới về quản lý, về khoa học và công nghệ, tin học, ngoại ngữ,... để hoàn thành nhiệm vụ được giao. - Đội ngũ cán bộ công chức có độ tuổi trung bình trẻ, năng động, đoàn kết. Số công chức mới tuyển dụng phần đông được đào tạo cơ bản, dễ tiếp thu, thích ứng với cơ chế mới, thông qua chế độ thi tuyển chặt chẽ tạo thành lực lượng nòng cốt của ngành trong tương lai. - Đội ngũ cán bộ công chức được hình thành sớm và tiếp tục được tăng cường bổ sung, về cơ bản bảo đảm được những tiêu chuẩn quy định về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý... đáp ứng nhiệm vụ chính trị giao. * Hạn chế Bên cạnh những mặt mạnh, đội ngũ cán bộ công chức cũng bộc lộ những tồn tại, bất cập với nhiệm vụ, tập trung ở những điểm chính dưới đây: - Đội ngũ cán bộ công chức tập hợp chủ yếu do bàn giao từ hệ lao động thương binh và xã hội và Tổng LĐLĐ Việt Nam và tiếp nhận bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau về ngành, không đồng đều về trình độ chuyên môn và năng lực; một số hẫng hụt về trình độ, năng lực, kiến thức quản lý... Phần lớn CBCC chưa được đào tạo có hệ thống, trưởng thành do tích luỹ kinh nghiệm lâu năm trong ngành, quen với cách làm việc theo cơ chế tập trung, bao cấp. - Đội ngũ CBCC nhìn chung trình độ học vấn chưa cao (tỷ lệ học đại học chỉ chiếm 30%); số có trình độ sơ cấp chiếm tỷ lệ đáng kể, thiếu số CBCC hiểu biết sâu về chế độ chính sách, lao động tiền lương, tài chính. - Đội ngũ cán bộ chủ chốt chưa đầy đủ đã phải dàn trải để đảm đương nhiệm vụ trong bối cảnh chuyển đổi cơ chế, chuyển đổi tổ chức, không có thời gian chuẩn bị đội ngũ, nhưng phải bảo đảm hoạt động liên tục, không ách tắc trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH đối với đối tượng tham gia BHXH. Một số cán bộ quản lý bộc lộ trình độ chuyên môn, năng lực quản lý bất cập với nhiệm vụ. Cho đến nay, các chức danh cán bộ quản lý ở cả ba cấp chưa đầy đủ, còn thiếu ở hầu hết các đơn vị. - Chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ của ngành chưa thoả đáng nên không tuyển chọn được CBCC giỏi về công tác tại ngành và chưa động viên được tinh thần làm việc, ý thức trách nhiệm, gắn bó với ngành và khuyến khích việc học tập nâng cao trình độ.... Số công chức mới tuyển dụng thì thâm niên, năng lực quản lý chưa đáp ứng được để đưa vào dự nguồn. Ngành đang bị hẫng hụt một thế hệ chuyển tiếp giữa thế hệ dày dạn kinh nghiệm và thế hệ trẻ trong công tác cán bộ. Vì vậy, đào tạo đội ngũ cán bộ bảo hiểm nói chung và cán bộ bảo hiểm làm công tác chi trả nói riêng có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao là một vấn đề cấp thiết. Biện pháp: * Xây dựng giáo trình chuyên ngành về BHXH * Đưa chương trình giảng dạy BHXH vào các trường đại học, cao đẳng, trung học thuộc khối kinh tế * Cần tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hệ thống BHXH từ khâu quy hoạch, thi tuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá sử dụng, quản lý đến việc xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ, chế độ chính sách đặc thù, cải thiện thu nhập... theo hướng dưới đây: - Rà soát lại các văn bản cán bộ, công chức của ngành, nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện phù hợp với các văn bản pháp quy của Nhà nước mới ban hành và phù hợp với thực tế quản lý điều hành của ngành. - Căn cứ vào chiến lược phát triển của ngành để xây dựng quy hoạch cán bộ, đặc biệt là cán bộ từ TW đến địa phương nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, dồi dào về năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành trong giai đoạn mới. - Xuất phát từ tính chất đặc thù của ngành, cần xúc tiến việc nghiên cứu xây dựng và đề nghị với cơ quan chức năng Nhà nước ban hành hệ thống tiêu chuẩn nghiệp vụ đầy đủ riêng cho công chức nghành BHXH làm căn cứ pháp lý để tuyển dụng, bố trí công chức làm đúng ngành nghề, đúng việc, đúng nhu cầu của ngành và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức của ngành. - Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cả nội dung chương trình lẫn phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, hướng trọng tâm vào các kiến thức cơ bản chuyên ngành BHXH, nâng cao chất lượng lý luận chính trị, quản lý hành chính Nhà nước, quản lý ngành trong cơ chế mới, pháp luật, tin học, ngoại ngữ và các kỹ năng hành chính nghiệp vụ khác. Sớm xây dựng giáo trình đào tạo chuyên ngành BHXH. - Triển khai thực hiện đề án khoán chi phí hoạt động bộ máy, quỹ lương và biên chế khi được Chính phủ phê duyệt nhằm tạo động lực, đổi mới hoạt động của ngành theo cơ chế mới. - Xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt chế độ, chính sách đặc thù đối với công chức ngành BHXH phù hợp với tính chất đặc thù trong hoạt động của ngành nhằm tạo động lực khuyến kích động viên cán bộ, công chức nâng cao chất lượng thực thi công vụ, tránh bình quân trong hưởng thụ. Xây dưng chính sách phù hợp để có thể thường xuyên thay thế số cán bộ, công chức trình độ, năng lực hạn chế, bất cập với yêu cầu, nhiệm vụ của ngành hoặc thoái hoá, sa sút phẩm chất, đạo đức, kém ý thức tổ chức kỷ luật... và để tuyển chọn được những người có đức, có tài vào ngành. Đặc biệt đối với những cán bộ, công chức làm công tác chi trả BHXH cần có những chính sách khuyến khích như: tăng lệ phí chi trả, ưu tiên những cán bộ làm công tác chi trả ở các xã vùng sâu, vùng xa. 3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác chi trả. - Trước hết tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung các mẫu biểu có liên quan đến công tác chi trả, đến việc thanh, quyết toán của các đại lý chi trả với cơ quan BHXH, tạo điều kiện để các đại lý chi trả dễ thực hiện nhưng đồng thời vẫn đảm bảo yêu cầu quản lý của ngành. - Chính sách BHXH phải có những thay đổi cho phù hợp với tình hình hiện nay: + Đối với chế độ trợ cấp ốm đau: Nên chăng, ngành BHXH cần quy định chặt chẽ về thời hạn giải quyết trợ cấp ốm đau, đối với các đơn vị sử dụng lao động và người lao động phải được giải quyết dứt điểm trong tháng hoặc trong quý: quy định thời gian tối thiểu đóng BHXH trước khi được hưởng; thời hạn tối đa là 12 tháng hoặc 24 tháng được hưởng trợ cấp cho chế độ trợ cấp ốm đau dài ngày, không thể quy định như hiện nay. Sau điều trị, nếu chưa đủ điều kiện hưởng hưu, nên có chế độ trợ cấp tàn phế cho những người mất sức lao động từ 81% trở lên, mức trợ cấp tính theo lương tối thiểu và cao hay thấp tuỳ thuộc vào số năm đóng BHXH nhiều hay ít. Chế độ trợ cấp nghỉ thực hiện biện pháp dân số kế hoạch hoá gia đình nên chuyển sang cho chế độ trợ cấp thai sản quản lý. Ngoài ra, nên quy định rõ tối đa số lần được nghỉ ốm. + Đối với chế độ thai sản: Chế độ thai sản nên quy định thời gian dự bị (thời gian đóng BHXH trước khi hưởng chế độ nghỉ đẻ). Người lao động chỉ được hưởng trợ cấp thai sản khi đã đóng BHXH từ 12 tháng trở lên. Việc quy định thời gian nghỉ từ 4-6 tháng phụ thuộc vào điều kiện làm việc nặng nhọc hay bình thường là không phù hợp với nguyên tắc đóng- hưởng. + Đối với chế độ TNLĐ- BNN: Cần bổ sung điều kiện về thời gian tham gia BHXH ít nhất là 6 tháng trước khi xảy ra tai nạn mới được hưởng trợ cấp tai nạn lao động. Trong khoảng 6 tháng này, nếu xảy ra tai nạn lao động thì chủ lao động phải chịu toàn bộ chi phí điều trị và phải trả trợ cấp tai nạn lao động cho người lao động. Có như vậy mới ràng buộc người sử dụng lao động trong việc sắp xếp, bố trí công việc cho người lao động mới vào làm việc một cách phù hợp và thực hiện tốt công tác huấn luyện an toàn vệ sinh lao động. Đồng thời nên loại bỏ quy định khi bị tai nạn lao động trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc được xác định là tai nạn lao động nhằm loại bỏ kẽ hở dễ lợi dụng: cố tình nhầm lẫn TNGT với tai nạn lao động vì chế độ BHXH hiện nay không chỉ giới hạn trong cán bộ công chức, viên chức Nhà nước mà đã mở rộng đến người lao động làm việc có tham gia BHXH ở các thành phần kinh tế. + Đối với chế độ hưu trí: Nên chăng: -) Nâng cao tuổi nghỉ hưu của lao động nữ làm việc trong khối HCSN nhưng trên tinh thần tự nguyện nhằm phát huy hết được khả năng cũng như kinh nghiệm của họ; đối với lao động nữ làm việc trong khối lao động trực tiếp thì có thể giữ nguyên tuổi nghỉ hưu nhưng nếu họ có yêu cầu ở lại khi đến tuổi quy định thì cũng nên xem xét tạo điều kiện cho họ. -) Tiền lương làm cơ sở đóng BHXH phải căn cứ vào cơ chế tiền lương ở từng khu vực sản xuất, hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp liên doanh... để xác định cho hợp lý. Có thể quy định mức sàn đóng và mức trần đóng BHXH cụ thể đối với từng ngành nghề, khu vực, loại hình, đặc điểm, tính chất, công việc để đảm bảo khoảng cách hợp lý với những người hưởng lương hưu. -) Về cách tính lương hưu nên sửa đổi lại theo hướng tính tiền lương bình quân của cả quãng đời công tác, vừa đảm bảo công bằng giữa đóng BHXH đồng thời đảm bảo an toàn cho quỹ. + Đối với chế độ tử tuất: Nên chăng: -) Quy định tiền trợ cấp tuất theo thứ tự ưu tiên. Như ở các nước trợ cấp tuất danh ưu tiên cho người vợ quá cố và cô nhi là chủ yếu. Nước ta cũng nên xem lại và thực hiện theo hướng như ở nước này sẽ vừa đảm bảo được sự công bằng vừa có ý nghĩa thực tế hơn Khi đã xác định thứ tự ưu tiên thì không nên khống chế số xuất tuất là 4 xuất như hiện nay. Với điều kiện kinh tế xã hội ở nước ta, tiền lương của người nghỉ hưu còn thấp do đó việc xác định trợ cấp tuất một mặt dựa trên tiền lương hưu, mặt khác cũng nên dựa vào mặt bằng chung để đảm bảo mức sống tối thiểu cho những thân nhân đủ điều kiện hưởng chế độ. -) Đối với trợ cấp tuất một lần: do trợ cấp tuất một lần mang tính xã hội góp phần giảm mức khó khăn ban đầu khi người nghỉ hưu chết. Vì vậy nó đã thể hiện phần nào tính bồi hoàn khi người hưởng hưu chưa hưởng hết số tiền mình đáng được hưởng. Để đảm bảo hơn tính công bằng trong thụ hưởng, ta có thể tính toán lại số tiền trợ cấp một lần trên cơ sở thời gian đóng BHXH và số thời gian đã hưởng trợ cấp của người nghỉ hưu cho phù hợp hơn. -) Trong khi chưa có sự thay đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định về thủ tục hồ sơ và chứng từ có liên quan đến việc thanh toán chế độ ốm đau, thai sản. BHXH Việt nam và các tỉnh, thành phố phải chủ động làm việc với Bộ Y tế và các sở y tế để có những hướng dẫn và quy định tạm thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động và các đơn vị sử dụng lao động khi thanh toán chế độ ốm đau, thai sản. Trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu, cải tiến, tiếp tục hoàn thiện quy định đối với công tác chi trả BHXH theo hướng đơn giản hoá, giảm bớt thủ tục hành chính phiền hà nhưng đảm bảo quản lý có hiệu quả, với mục tiêu phục vụ người lao động tốt hơn. 4. Đẩy mạnh việc cải tiến quy trình và thủ tục chi trả Đối với việc thành lập đại lý chi trả, BHXH tỉnh, thành phố cần trao đổi để có hợp đồng trực tiếp với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, thay cho việc lý hợp đồng với các cá nhân được chính quyền địa phương giới thiệu như hiện nay, sau đó tuỳ thuộc vào đối tượng hưởng BHXH có ở xã, phường, thị trấn vào sự thảo thuận với cơ quan BHXH, Uỷ ban nhân dân sẽ lựa chọn người và ký với họ để thành lập đại lý chi trả. - Trong 2 chế độ ốm đau, thai sản cần hạn chế đến mức thấp nhất việc chi trả trực tiếp bằng tiền mặt cho đơn vị sử dụng lao động, nên chi trả bằng hình thức chuyển khoản thông qua tài khoản của đơn vị để đảm bảo nguyên tắc quản lý tài chính cũng như số tiền chi trả đến được đúng đối tượng. - Danh sách chi trả nhất thiết phải được in và chuyển từ BHXH tỉnh, thành phố xuống BHXH các quận huyện, thị xã, sau khi đã điều chỉnh sự tăng giảm đối tượng thông qua khâu xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH của cơ quan BHXH, qua việc cắt giảm đối tượng đã hết thời hạn hưởng và qua tình hình giảm đối tượng của các đại lý chi trả. Tránh hiện tượng danh sách chi trả được lập từ xã lên. 5. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền. Để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển ngành BHXH từ nay đến năm 2010 nói chung và công tác chi trả BHXH nói riêng, phải đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền rộng rãi đến mọi người lao động, các Ngành, các cấp. * Nội dung tuyên truyền: Cần tuyên truyền các nội dung chính sau đây: - Tuyên truyền mục đích của BHXH, sự khác nhau giữa BHXH với bảo hiểm thương mại (BHTM). BHTM lấy lợi nhuận làm mục đích cho các hoạt động của mình, còn hoạt động BHXH là những hoạt động không phải vì mục đích lợi nhuận mà vì sự an toàn, an sinh con người, vì con người, đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong suốt cuộc đời con người: từ khi còn trong bụng mẹ, đến khi về già. - Tuyên truyền về chế độ chính sách BHXH. Đây là nội dung tuyên truyền rất quan trọng, làm cho người lao động hiểu rõ chế độ chính sách BHXH, từ đó họ tự giác tham gia BHXH, vì họ hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình trong việc tham gia BHXH. - Thông tin tuyên truyền về các hoạt động BHXH Việt nam, kinh nghiệm hoạt động BHXH của nước ngoài. * Biện pháp tuyên truyền: - Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng ở TW và địa phương như: Đài truyền hình TW, Báo Nhân dân, Báo Quân đội nhân dân, các báo ngành và các cơ quan thông tin, báo chí ở địa phương. - BHXH phát hành các tài liệu tuyên truyền giải thích các chế độ chính sách về BHXH như: in sách giới thiệu về BHXH, in tờ gấp, khẩu hiệu, áp phích... - Tuyên truyền trên tờ Tạp chí BHXH phát hành hàng tháng. Muốn thực hiện tốt công tác tuyên truyền cần các điều kiện sau: - Phải đảm bảo kinh phí cho hoạt động thông tin tuyền truyền. - Đầu tư cán bộ có trình độ hiểu biết về BHXH chuyên trách làm công tác tuyên truyền từ TW đến cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW. - Đầu tư đầy đủ phương tiện làm việc để bảo đảm cho hoạt động thông tin, tuyên truyền. 6. Đầu tư phương tiện tin học, nối mạng trong toàn ngành BHXH để quản lý các hoạt động BHXH. Việc ứng dụng công nghệ thông tin quản lý nghiệp vụ BHXH không chỉ có lợi ích giảm chi phí, mà còn giúp thống nhất cách nhìn của nhiều người, nhiều đơn vị, dưới cùng một tiêu chuẩn thống nhất; Tạo ra phong cách làm việc khoa học và hiệu quả, xây dựng các nguyên tắc bảo mật an toàn, có sự kiểm soát và tính toán khoa học khi lưu trữ, xây dựng được sự tin cậy đối với các đối tượng tham gia quan hệ BHXH... từ đó nâng cao chất lượng phục vụ. Đối với việc quản lý hồ sơ đối tượng BHXH, được quản lý, lưu trữ chi tiết các tiêu thức theo hồ sơ gốc của hàng triệu đối tượng trong toàn quốc, sẽ tạo tiền đề cho việc quản lý thống nhất trong toàn hệ thống. Số liệu có tính nhất quán và chính xác cao do được áp dụng thống nhất phương pháp tính toán ở tất cả các đơn vị. Phát hiện nhanh chóng các sai sót trong tính toán mức hưởng đối với các hồ sơ cũ. Quản lý chặt chẽ biến động, giúp loại trừ khả năng giả mạo hồ sơ và kê khống đối tượng hưởng. Cung cấp thông tin nhanh chóng cho yêu cầu quản lý. Đưa công nghệ thông tin vào quản lý tài chính quỹ BHXH từ các khâu: kế hoạch, thực hiện thanh quyết toán thu- chi, hệ thống sổ sách biểu mẫu kế toán, thống kê phân tích tài chính và dự báo xu thế... sẽ tiết kiệm thời gian, công sức tiền bạc và số người tham gia làm công tác quản lý tài chính, giúp các đơn vị thấy rõ tình hình tài chính ở nhiều góc độ khác nhau. Đối với công tác chi trả BHXH, việc áp dụng công nghệ quản lý bằng máy vi tính sẽ góp phần quan trọng vào mục đích nâng cao hiệu quả quản lý. Rõ ràng, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ quản lý BHXH nói chung và công tác chi trả BHXH nói riêng là một hướng phát triển tất yếu, đã và sẽ đem lại hiệu quả rất cao. Để ngày càng ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào nghiệp vụ quản lý BHXH, cần coi trọng hơn nữa quan hệ giữa các yếu tố cần thống nhất trong nghiệp vụ thu- chi, kế toán, chế độ chính sách. Từ đó cùng với những đổi mới về kỹ thuật, công nghệ xây dựng được hệ thống xử lý số liệu BHXH có chất lượng và hiệu quả. Muốn vậy, phải có sự phối hợp đồng bộ từ TW đến địa phương, giữa các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố với nhau. Để có một mạng máy tính mạnh cho hệ thống BHXH, chúng ta phải mạnh dạn ứng dụng kỹ thuật hiện đại bằng việc quan tâm đầu tư, trang bị máy móc thiết bị hiện đại cho toàn hệ thống, đào tạo đội ngũ đáp ứng yêu cầu. Điều quan trọng và cần làm trước hết là xây dựng cho được hệ thống các tiêu chuẩn trong các nghiệp vụ BHXH. Chẳng hạn: chuẩn hoá các mã quản lý, danh mục các báo biểu, các chỉ tiêu thống kê và phương pháp tính... Ngoài ra, còn phải đầu tư cho các phần mềm đáp ứng nhu cầu tự động hoá cao có khả năng thích ứng với sự thay đổi về chế độ chính sách. 7. Bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH Như chúng ta đã biết, thực hiện tốt công tác chi trả các chế độ sẽ là nhân tố thúc đẩy hiệu quả thu, ngược lại, công tác thu thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chi trả. Như vậy tất yếu đặt ra vấn đề: Bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH, bởi vì quỹ BHXH tăng trưởng thì công tác chi trả cho các chế độ mới được thuận lợi và đảm bảo. Để tăng nguồn thu cho quỹ BHXH cần có những biện pháp sau đây: * Mở rộng đối tượng tham gia Đối tượng tham gia BHXH là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc đảm bảo an toàn xã hội và tăng nguồn đóng góp vào quỹ BHXH. Hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm đến các giải pháp tăng số lượng người tham gia. - Mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc: Chẳng hạn các doanh nghiệp sử dụng từ 5 lao động trở lên. - Thực hiện BHXH tự nguyện. Trong tương lai tiến tới thực hiện BHXH toàn dân để mọi người không còn lo lắng, yên tâm làm việc hơn vì đã có chính sách BHXH quan tâm. * Tiếp tục lấy nguyên tắc hạch toán cân đối thu chi quỹ làm căn bản trong trong chính sách BHXH. Trên cơ sơ nguyên tắc này, cần xác định mức đóng và mức trợ cấp hợp lý theo từng thời kỳ phù hợp với sự biến động của giá cả, khả năng đầu tư tăng trưởng nguồn quỹ. * Đầu tư nguồn quỹ nhàn rỗi Với mục tiêu hoạt động của BHXH là tự cân đối thu- chi, do đó quỹ BHXH luôn phải có một lượng tiền tích luỹ để chi các chế độ trợ cấp dài hạn như: hưu trí, tử tuất, thương tật. Lượng tiền tích luỹ này phải được hoạt động đầu tư để bảo tồn giá trị và tăng trưởng. Quỹ BHXH nhằm để đảm bảo chi trả các trợ cấp cho người thụ hưởng, nó liên quan đến lợi ích của rất nhiều người. Vì vậy, đầu tư quỹ BHXH có những đặc điểm và nguyên tắc nhất định đó là: Tính hiệu quả; độ an toàn cao; khả năng thanh toán và có lợi ích cho xã hội. Hiệu quả của đầu tư (lãi đầu tư) là sự tăng lên toàn bộ giá trị đầu tư được tính trong một giai đoạn nhất định (thường là 1 năm). Lãi đầu tư làm tăng thu cho quỹ BHXH đồng thời cho phép hạ tỷ lệ đóng góp hoặc không làm tăng tỷ lệ đóng góp BHXH. Để đảm bảo an toàn cho quỹ BHXH thì phải lựa chọn cách đầu tư và lĩnh vực đầu tư để giảm thiểu rủi ro. Quỹ BHXH phải chi thường xuyên, nhất là chi trả các trợ cấp BHXH dài hạn, do đó, khi đầu tư phải lưu ý khả năng có thể rút được tiền ngay, đặc biệt là tiền mặt. Điều này đòi hỏi các nhà đầu tư bảo hiểm phải cân nhắc lĩnh vực đầu tư không nhất thiết phải là lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận cao nhất nhưng rủi ro lớn hoặc lĩnh vực có nhiều lợi nhuận nhưng vốn lại bị “ găm” lâu như bất động sản. ở Việt nam, do tình hình kinh tế chưa phát triển, các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn và môi trường cạnh tranh còn nhiều bất cập, nên trước mắt chỉ nên đầu tư vào lĩnh vực mua trái phiếu và bất động sản. Khi thị trường chứng khoán ổn định thì có thể tham gia nhưng phải có sự bảo lãnh đặc biệt. Ngoài ra, quỹ BHXH có thể liên doanh với một số công ty mạnh đầu tư vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng. 8. Tăng cường giám sát hoạt động công đoàn cơ sở trong thực hiện chính sách BHXH. Đây cũng là một nhiệm vụ rất cần thiết để thực hiện tôt công tác chi trả BHXH. Bởi vì , hiện nay, trong công tác chi trả BHXH còn rất nhiều khe hở có thể lợi dụng. Biện pháp: Công đoàn tổ chức kiểm tra, giám sát hoặc phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước để thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc thực hiện đóng đầy đủ, đúng kỳ tiền BHXH cho cơ quan BHXH theo quy định và đảm bảo việc quản lý chặt chẽ và cung cấp đầy đủ hồ sơ, tư liệu cần thiết làm cơ sở cho việc thực hiện các ché độ BHXH. - Giám sát hoạt động BHXH các cáp trong việc chi trả các chế độ BHXH, bảo đảm đầy đủ, kịp thời và thuận tiện. - Xây dựng chương trình phối hợp giữa công đoàn và BHXH các cấp để thực hiện tốt nội dung giám sát của công đoàn và BHXH các cấp để thực hiện tốt nội dung giám sát của công đoàn đối với hoạt động của BHXH. - Phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan quản lý Nhà nước và BHXH các cấp giải quyết những vướng mắc, khiếu nại của người lao động về chế độ chính sách BHXH. 9. Đầu tư cho phương tiện đi lại và công tác đảm bảo an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả Đây là một tồn tại mà cho đến nay về cơ bản cơ quan BHXH vẫn chưa khắc phục được, trong khi đó hàng tháng các tỉnh và thành phố vẫn phải đảm bảo chi trả an toàn gần 500 tỷ đồng tiền mặt. Trừ một số tỉnh, thành phố lớn có điều kiện giao thông đi lại thuận tiện thì phương tiện vận chuyển tiền từ Kho bạc và Ngân hàng xuống các đại lý chi trả chủ yếu dùng ôtô, các tỉnh còn lại, phương tiện vận chuyển chủ yếu là bằng xe máy và xe đạp. Ngoài ra ở các xã, phường nếu không chi hết tiền trong ngày, cũng không có két bạc chuyên dùng để bảo vệ tiền mặt đến ngày chi trả sau. Tồn tại trên nếu không sớm được khắc phục, sẽ là một trong những nguyên nhân làm mất hoăc thất thoát tiền của đối tượng trong quá trình chi trả. 10. Có kế hoạch hợp tác với các ngành, các cấp trong việc tổ chức thực hiện. ở TW: BHXH VN phải kết hợp chặt chẽ với các ngành đặc biệt là các ngành: Tài chính, Lao động- Thương binh- Xã hội, Liên đoàn Lao động VN. Tranh thủ sự chỉ đạo của lãnh đạo các bộ, các ngành trong việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH. ở địa phương: BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc TW phải tranh thủ lãnh đạo và chỉ đạo các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, hợp đồng kết hợp chặt với các ngành trong địa phương. Sự kết hợp với các ngành trong công tác tổ chức thực hiện các hoạt động BHXH phải được xây dựng thành kế hoạt hàng năm để chủ động trong sự phối kết hợp. 11. Hoàn thiện công tác cấp sổ BHXH. Mục đích của công tác cấp sổ BHXH nhằm quản lý chặt chẽ các đối tượng tham gia và đóng BHXH giúp cho người lao động có cơ sở pháp lý kiểm tra giám sát kết quả đóng và thực hiện các chế độ BHXH của người sử dụng lao động. Tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo sự công bằng cho người lao động khi chuyển nơi làm việc vẫn duy trì được quyền lợi BHXH... Ngoài ra, sổ BHXH còn là cơ sở giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan BHXH. Yêu cầu: Việc cấp sổ BHXH phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Tính trung thực trong việc kê khai thời gian làm việc, thời gian đóng BHXH. - Việc cấp sổ BHXH phải được thực hiện tại đơn vị cơ sở. - Phải được ghi chép chính xác, đầy đủ theo hồ sơ gốc của mỗi người đã xác định trong tờ khai cấp sổ BHXH. - Trong sổ không được tẩy, xoá và sửa chữa tuỳ tiện, không được sử dụng sai mục đích. Trên đây là một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện công tác chi trả các chế độ BHXH. Hy vọng rằng trong tương lai gần, công tác chi trả BHXH nói riêng và của ngành BHXH nói chung phát triển hơn nữa đáp ứng được nhu cầu của người tham gia BHXH, tạo được sự tin cậy của người lao động vào chính sách BHXH. kết luận Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước , chi trả trợ cấp BHXH là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan BHXH và của cơ quan quản lý tài chính nhà nước . Việc chi trả trợ cấp BHXH có kịp thời, đầy đủ và chính xác cho đối tượng hưởng BHXH hay không, có đáp ứng được nhu cầu phục vụ ngày càng cao của đối tượng hưởng BHXH hay không, có phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tiễn của từng địa phương, đơn vị hay không là những vấn đề luôn được các cấp, các ngành cũng như người lao động và người sử dụng lao động quan tâm. Để giải quyết tốt vấn đề đó cần phải đưa ra các giải pháp hữu hiệu phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, có tính khả thi trong điều kiện cho phép. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động và qua quá trình nghiên cứu luận văn em xin được nêu ra một số biện pháp nhằm đảm bảo thực công tác chi trả các chế độ BHXH. Hy vọng rằng đây sẽ là những giải pháp có hiệu quả thiết thực trong thời gian tới. Song, muốn thực hiện tốt các biện pháp đã nêu trên thì ngoài sự nỗ lực của riêng ngành BHXH còn phải có sự hỗ trợ của các ngành, các cấp có liên quan, đặc biệt là có được cơ chế quản lý và hệ thống chế độ, chính sách đồng bộ. Đó sẽ là tiền đề cho việc thực hiện tốt công tác chi trả BHXH nói riêng và hoạt động của ngành BHXH nói chung. Từ đó, phát huy hơn nữa mục đích cao đẹp của BHXH: vì dân sinh hạnh phúc, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Qua thời gian học tập tại trường học viện tài chính và thực tập tại Vụ Hành chính sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cô giáo: LAN cô Chu Thị Hoát, chú Vũ Văn Thao ,chị Hiền cùng toàn thể cán bộ trong Vụ Hành chính sự nghiệp đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Tuy nhiên với trình độ có hạn, mặc dù bản thân em đã có nhiều cố gắng nhưng chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót, em mong thầy cô trong khoa và các cán bộ trong Vụ Hành chính sự nghiệp thông cảm và chỉ bảo để em có thể hiểu hơn nữa về vấn đề này. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33894.doc
Tài liệu liên quan