Một số giải pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2005-2010

Lời mở đầu. Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ thực hiện CHN- HĐH đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã xác định, thực hiện CNH- HĐH là con đường hiệu quả nhất để đưa Việt Nam thoát khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế xã hội cũng như phát triển đất nước lên một tầm cao mới. Và một trong những nội dung quan trọng của quá trình CNH- HĐH đó là việc tiến hành xây dựng một CCKT hợp lý trên phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương. Cùng chung tinh thần với cả nước, tỉnh Quảng Ninh cũng xác định

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2005-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đến năm 2010 trong đó có nhấn mạnh đến việc xây dựng một CCKT hoàn thiện và có hiệu quả cao. Đây được coi là một đòi hỏi tất yếu trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay. Xuất phát từ xu thế chung và những đòi hỏi thực tế của quá trình phát triển đất nước, đồng thời quán triệt tinh thần chỉ đạo của TW cũng như của tỉnh Quảng Ninh, Thị xã Uông Bí cũng xem việc thực hiện chuyển dịch CCKT là một nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của thị xã. Từ lâu, thị xã Uông Bí đã giữ một vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ninh. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng, thị xã Uông Bí đã phát huy thế mạnh, khắc phục những khó khăn, thách thức để thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. CCKT công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ chuyển dịch theo hướng: giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đây là sự chuyển biến phù hợp với xu hướng vận động có tính qui luật của quá trình chuyển dịch CCKT đã từng diễn ra ở các nước trên thế giới. Tuy vậy, cho đến nay, tốc độ chuyển dịch CCKT của thị xã diễn ra còn chậm, chưa tương xứng với các nguồn lực hiện có, các tiềm năng trong vùng chưa được khai thác hợp lý, kinh tế xã hội giữa nông thôn và thành thị, giữa người giàu và người nghèo có khoảng cách ngày càng lớn, tỷ lệ lao động thiếu việc làm còn cao. Điều này được thể hiện không chỉ ở GTSX, qui mô, tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, trình độ trang bị kỹ thuật- công nghệ, chất lượng của nguồn lao động... mà còn ở cả trình độ tổ chức quản lý sản xuất. Những yếu kém trên trong thực tế đã trở thành các lực cản làm chậm đáng kể quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của thị xã. Chính vì vậy, khai thác nguồn lực, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH- HĐH để đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2010 đã trở thành vấn đề kinh tế rất bức xúc đối với thị xã Uông Bí. Xuất phát từ thực tế đó, tôi chọn nghiên cứu đề tài “ Một số giải pháp thực hiện chuyển dịch CCKT tại thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2005-2010”. Đề tài có kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Sự cần thiết phải đẩy mạnh chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Chương 2: Thực trạng chuyển dịch CCKT ở thị xã Uông Bí. Chương 3: Phương hướng và giải pháp chuyển dịch CCKT tại thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là từ việc nêu lên những vấn đề lý luận về CCKT và chuyển dịch CCKT, tiến hành phân tích và đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch CCKT giai đoạn 2001- 2004 của thị xã Uông Bí, đưa ra được những phương hướng và giải pháp cho quá trình chuyển dịch CCKT của thị xã thời gian tới, nhằm mục đích cuối cùng là thúc đẩy kinh tế thị xã phát triển toàn diện và bền vững, đời sống nhân dân được nâng lên. Để hoàn thành được đề tài nghiên cứu này, tôi xin chân thành cảm ơn Thị uỷ, UBND Thị xã Uông Bí, đặc biệt là phòng Tài chính- Kế hoạch Thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập tại phòng, cung cấp các loại thông tin, số liệu để tôi thực hiện đề tài. Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn đối với TS. Lê Huy Đức, là thầy hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Do khuôn khổ thời gian, không gian và phạm vi nghiên cứu cũng như năng lực của bản thân tác giả, đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, đề tài nghiên cứu rất cần những ý kiến đóng góp, sửa chữa để được hoàn thiện hơn. Chương 1: Sự cần thiết phải đẩy mạnh chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. I. Những vấn đề lý luận về CCKT và chuyển dịch CCKT. 1. CCKT và các nhân tố ảnh hưởng. 1.1. Khái niệm CCKT. 1.1.1. Thế nào là cơ cấu? Nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế của các học giả, các nhà nghiên cứu cũng như trong nhiều tài liệu đã được công bố về lĩnh vực kinh tế, nhất là khi đề cập đến vấn đề chuyển dịch CCKT, đã có không ít các cách tiếp cận khác nhau về khái niệm CCKT. Hầu hết, các cách tiếp cận này đều bắt đầu từ khái niệm “cơ cấu” hay còn gọi là “kết cấu”. Theo triết học khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ cơ bản, tương đối ổn định giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống trong một thời gian nhất định. Có thể hiểu, cơ cấu được biểu hiện như là tập hợp những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của một hệ thống. Do đó, khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống. 1.1.2. Khái niệm về CCKT. Cơ cấu của một nền kinh tế quốc dân hay còn gọi là kết cấu kinh tế vĩ mô là tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế và mối quan hệ tác động qua lại giữa các bộ phận hợp thành đó. Khi đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống, CCKT có thể được hiểu một cách đầy đủ và khái quát nhất, đó là: CCKT là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này, CCKT là một phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội. 1.1.3. Các loại CCKT. Dưới các góc độ khác nhau, CCKT được phân thành nhiều loại: Cơ cấu ngành- xét dưới giác độ phân công lao động. Cơ cấu vùng- xét dưới giác độ hoạt động kinh tế xã hội theo lãnh thổ. Cơ cấu thành phần kinh tế- xét hoạt động kinh tế theo quan hệ sở hữu. Cơ cấu đối ngoại- xét trình độ mở cửa và hội nhập của nền kinh tế. Cơ cấu tích luỹ- xét tiềm năng để phát triển kinh tế... Nhưng trong giới hạn nghiên cứu, đề tài chỉ đi xem xét 3 loại cơ cấu kinh tế mang tính chất tổng hợp nhất của nền kinh tế bao gồm: 1.1.3.1. Cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển. Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia, người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành (KV) chính: Nhóm ngành nông nghiệp: bao gồm các ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Nhóm ngành công nghiệp: bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng. Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm thương mại, bưu điện, du lịch... Trong quá trình hoạt động sản xuất, các ngành có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Nông nghiệp yêu cầu cần có sự tác động của công nghiệp đối với tất cả các yếu tố đầu vào cũng như tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Công nghiệp cung cấp cho nông nghiệp phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, các công cụ sản xuất, máy móc, thiết bị phục vụ cho việc cơ giới hoá sản xuất. Sản phẩm nông nghiệp qua chế biến sẽ được nâng cao chất lượng và hiệu quả. Ngược lại, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, thức phẩm cho công nhân lao động, cho mở rộng hoạt động sản xuất công nghiệp và nó còn là thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Để những sản phẩm của hai ngành này đi vào tiêu dùng cho sản xuất hoặc tiêu dùng cho đời sống phải qua phân phối và trao đổi. Những chức năng này do hoạt động dịch vụ đảm nhận. Các hoạt động dịch vụ như thương mại, vận tải, thông tin, ngân hàng, bảo hiểm... đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được liên tục. Như vậy, sự tác động qua lại giữa các ngành tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Xét một cách toàn diện, cơ cấu ngành là bộ phận rất quan trọng trong CCKT. Sự biến động của nó có ý nghĩa quyết định đến sự biến động của nền kinh tế. Do vậy, khi đi nghiên cứu đề tài này, luận văn sẽ đi trọng tâm phân tích, đánh giá cơ cấu ngành kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. 1.1.3.2. Cơ cấu lãnh thổ. a/ Khái niệm kinh tế lãnh thổ. Kinh tế lãnh thổ là một tổng thể kinh tế tồn tại và hoạt động trên phạm vi lãnh thổ không phân biệt thuộc hình thức sở hữu nào, ngành nào và cấp nào quản lý. Kinh tế lãnh thổ là kinh tế toàn diện (bao gồm các ngành, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và đời sống xã hội), là một phần tử của nền kinh tế quốc dân, một khâu trong phân công lao động xã hội. b/ Khái niệm cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu lãnh thổ hợp lý. Cơ cấu lãnh thổ là cơ cấu không gian của các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, cơ sở sản xuất, phục vụ sản xuất và mối liên hệ về chất, tỷ lệ về lượng giữa các yếu tố, bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trên lãnh thổ với tốc độ tăng trưởng cao, nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các loại hàng hoá và dịch vụ trên một đơn vị lãnh thổ nhất định. Như vậy, nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu lãnh thổ hợp lý là cơ cấu có sự phát triển hài hoà, phù hợp giữa yếu tố sản xuất và tài nguyên thiên nhiên, sản xuất và phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, nhu cầu sản xuất và nhu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sản xuất, nhu cầu nâng cao mức sống của dân cư và phát triển kết cấu hạ tầng xã hội phục vụ đời sống dân cư, cân bằng giữa nhu cầu sản xuất và nhu cầu thị trường... 1.1.3.3. Cơ cấu thành phần kinh tế. Nếu như phân công lao động xã hội là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ thì chế độ sở hữu lại là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Trên cơ sở chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, các thành phần kinh tế cơ bản ở nước ta hiện nay bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế cùng song song tồn tại, hỗ trợ lẫn nhau phát triển. Chủ trương của Đảng và Nhà nước hiện nay là tập trung xây dựng một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý. Một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội... Theo nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế. Ba bộ phận cơ bản hợp thành CCKT là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Mặt khác, việc phân bố không gian lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế lãnh thổ. 1.2. Tính chất của CCKT. 1.2.1. Tính hệ thống. Thời kỳ đầu, khi phân công lao động xã hội và trình độ sản xuất chưa phát triển, tất nhiên là có một sự gắn bó tự nhiên, không tách rời nhau giữa các ngành, các thành phần kinh tế và các vùng lãnh thổ. Sau đó, khi lực lượng sản xuất dần phát triển, trình độ của sản xuất đã đạt đến mức cao hơn thì dần dẫn đến sự phân chia nền kinh tế thành các ngành cụ thể, cơ cấu sở hữu cũng như cơ cấu lãnh thổ được hình thành một cách rõ nét hơn, nền kinh tế đã bao gồm nhiều bộ phận khác nhau hợp lại. Trong suốt quá trình phát triển, các bộ phận cấu thành nền kinh tế luôn có sự gắn kết và phụ thuộc vào nhau, bộ phận này hỗ trợ bộ phận kia, cùng tạo tiền đề cho nhau phát triển. Điều đáng nhấn mạnh ở đây là các bộ phận cấu thành đó luôn vận động và phát triển trong cùng một hệ thống. Mọi tác động của con người nhằm điều chỉnh xu hướng phát triển cũng như mối quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận trong hệ thống đó cũng phải luôn tuân theo những qui tắc nhất định, đảm bảo cho sự phát triển cân đối và bền vững của hệ thống. 1.2.2. Tính khách quan. Mọi sự vật, hiện tượng nói chung và nền kinh tế nói riêng đều tồn tại theo những cấu trúc nhất định, vận động phát triển theo những qui luật khách quan. Vì thế, một CCKT hợp lý của nền kinh tế phải phản ánh được sự vận động của các qui luật khách quan. Vai trò chủ quan của con người trong việc xây dựng, hình thành CCKT hợp lý chính là phản ánh đúng các qui luật khách quan, phân tích và đánh giá đúng các qui luật khách quan đó. Mọi ý định nóng vội, chủ quan hay bảo thủ trong việc thay đổi CCKT đều mang lại tác động xấu đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 1.2.3. Tính kế thừa. CCKT bao giờ cũng mang tính lịch sử, kế thừa nhất định. Điều kiện cụ thể về tự nhiên, kinh tế xã hội, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế thị trường chi phối đến sự chuyển dịch CCKT. Quá trình biến đổi của CCKT ở các nước khác nhau về qui mô lãnh thổ, nguồn tài nguyên thiên nhiên và trình độ hoạch định chính sách của chính phủ, sức mạnh kinh tế của các nước, tổ chức thực hiện của chính quyền các cấp. ở mỗi địa phương có điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, phong tục tập quán, văn hoá, xã hội, trình độ phát triển của quan hệ kinh tế thị trường khác nhau sẽ tạo ra sự khác nhau về quá trình hình thành và biến đổi của CCKT. 1.2.4. Tính hiệu quả. Tính hiệu quả của CCKT thể hiện ở chính sự phát triển theo cả bề rộng lẫn bề sâu của CCKT. Trên các mặt của đời sống kinh tế xã hội, tính hiệu quả của CCKT được thể hiện ở sự tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập bình quân đầu người và hệ thống phúc lợi xã hội được cải thiện, các ngành, các thành phần kinh tế phát triển theo đúng hướng, hợp qui luật, những tiềm năng, thế mạnh của mỗi vùng được khai thác hiệu quả, đảm bảo một sự phát triển cân đối và bền vững. Có thể nói, tính hiệu quả là một đặc tính rất quan trọng của CCKT, nếu thiếu nó, CCKT không bao giờ đạt đến sự hợp lý. 1.2.5. Tính định hướng. CCKT luôn mang trong mình tính khách quan, tự bản thân nó cũng là sự phản ánh các qui luật khách quan trong quá trình vận động và phát triển. Những tác động chủ quan từ phía con người dựa trên những qui luật khách quan đó sẽ làm cho CCKT phát triển hợp lý hơn, theo đúng sự định hướng của các chính sách phát triển trong từng thời kỳ. Một CCKT phát triển không theo đúng những chiến lược, định hướng đã được vạch ra sẽ phải cần đến những sự điều chỉnh để tránh bị chệch hướng. Mặt khác, tuỳ vào mỗi giai đoạn phát triển, các mục tiêu kinh tế xã hội được đề ra và mọi sự vận động, thay đổi của CCKT cũng phải hướng tới việc đạt được các mục tiêu đó. Bản thân CCKT đã mang tính định hướng nhưng chính CCKT cũng luôn là sự theo đuổi định hướng. Các nhà hoạch định chính sách luôn cần phải dựa vào CCKT hiện tại để đề ra các sách lược phát triển cho tương lai và các chính sách này hoặc sẽ tạo ra một CCKT mới, hoặc sẽ chỉ là sự giữ vững CCKT hiện có. 1.3. Mối quan hệ giữa CCKT với CNH- HĐH. CNH- HĐH là tất yếu khách quan đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển như ở Việt Nam. Đó cũng là một trong những công việc cần thiết trong thời kỳ quá độ mà Đảng và Nhà nước đã quán triệt chỉ đạo. Mục tiêu của CNH- HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, CCKT hợp lý. Bản thân CNH- HĐH cũng được coi là một quá trình chuyển dịch CCKT. Chính trong quá trình này, việc xác lập CCKT hợp lý diễn ra dần dần gắn với các giai đoạn của CNH- HĐH và mỗi bước phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật. Đó là sự thay đổi CCKT từ tình trạng lạc hậu, mất cân đối, hiệu quả kém sang một CCKT hợp lý, đa dạng, cân đối, năng động và có hiệu quả cao, gắn với từng bước trưởng thành của cơ sở vật chất kỹ thuật do CNH- HĐH tạo ra. Sự chuyển dịch CCKT phản ánh sự thay đổi về chất của nền kinh tế theo hướng CNH- HĐH, tạo tiền đề vật chất cho sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế. 2. Chuyển dịch CCKT. 2.1. Khái niệm về chuyển dịch CCKT. 2.1.1. Chuyển dịch CCKT là gì? CCKT luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành CCKT không cố định. Đó có thể là sự thay đổi về số lượng của các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành CCKT là không đồng đều. Sự thay đổi của CCKT từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển được gọi là sự chuyển dịch CCKT. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi về lượng, mà cả về chất trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch CCKT phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới, tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch CCKT về thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên 3 mặt biểu hiện của nó, đó là: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế, nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế xã hội đã xác định cho từng thời kỳ phát triển. 2.1.2 Các tiêu thức đánh giá quá trình chuyển dịch CCKT. _ Mức độ chuyển dịch CCKT: cos= ( 0) trong đó: Si(t) là tỷ trọng ngành i tại thời điểm t . là góc hợp bởi hai véctơ cơ cấu Si và Si. Nếu góc càng lớn thì chuyển dịch cơ cấu càng nhiều và ngược lại. Khi góc =0 (cos=1), hai cơ cấu đồng nhất, không có sự chuyển dịch. Khi góc = ( cos=0), các vectơ cơ cấu là trực giao với nhau. Tỷ số n= phản ánh tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. _ Tính hợp lý của CCKT: Một CCKT hợp lý là một CCKT phù hợp với quá trình phân công lao động và hợp tác ở các phạm vi hẹp lẫn phạm vi rộng. Sự hợp lý thể hiện ở mối quan hệ chặt chẽ giữa quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với nâng cao hiệu quả kinh tế của các ngành, vùng, thành phần và nền kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. _ Tính hiệu quả của CCKT: Một CCJT có tính hiệu quả là một CCKT kết hợp được hài hoà và sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả nhất, làm cho nền kinh tế phát triển nhanh, nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định, thu nhập và đời sống của dân cư được cải thiện. _ Tính ổn định của CCKT: Quá trình chuyển dịch CCKT sẽ làm biến đổi CCKT hiện có sang một CCKT mới phù hợp hơn. Sự đánh giá quá trình chuyển dịch có thể được xem xét dưới khía cạnh tính ổn định của CCKT đó. Một CCKT ổn định là một CCKT phát triển cân đối và bền vững, không có những đột biến lớn, đảm bảo được sự phù hợp giữa nguồn lực và các mục tiêu phát triển. _ Tính mục tiêu của CCKT: Bất kỳ một CCKT nào cũng luôn mang tính mục tiêu trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Sự thành công của quá trình chuyển dịch CCKT cũng đồng nghĩa với việc xây dựng được một CCKT đạt được những mục tiêu đã định về tỷ trọng, về tốc độ phát triển giữa các ngành, vùng và thành phần kinh tế. 2.2. Tính qui luật của quá trình chuyển dịch CCKT. - Đặc trưng của CCKT là luôn luôn vận động và biến đổi. Sự biến đổi ấy rất đa dạng giữa các nước, các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội và trình độ khác nhau. Có thể khái quát quá trình vận động của CCKT ở nước ta theo một số qui luật phổ biến sau: Thứ nhất, đó là sự vận động từ một nền kinh tế tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá. Thứ hai là sự vận động theo hướng tỷ trọng công nghiệp ngày càng tăng, tỷ trọng nông nghiệp giảm tương đối (nhưng tăng tuyệt đối), phần dịch vụ tăng nhanh hơn trong tỷ trọng tổng sản phẩm quốc dân. Thứ ba là cơ cấu sản xuất thay đổi theo hướng chuyển từ ngành sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động sang ngành sản xuất sản phẩm chứa hàm lượng cao về vốn và khoa học công nghệ. Thứ tư là cơ cấu sản phẩm thay đổi theo hướng sản phẩm chế biến tăng, sản phẩm thô giảm. Thứ năm, CCKT chuyển dịch theo hướng CNH- HĐH. Thứ sáu, xu hướng biến đổi từ CCKT khép kín trong phạm vi quốc gia, thậm chí trong từng từng địa phương sang CCKT mở trong phạm vi quốc tế và trong cả nước. 2.3. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch CCKT. 2.3.1. Nhóm nhân tố khách quan. 2.3.1.1. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên có thể kể đến đó là: dự trữ tài nguyên, khoáng sản, nguồn nước, đất đai, nguồn năng lượng, khí hậu và địa hình... Thiên nhiên vừa là điều kiện chung của sản xuất xã hội, vừa là tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đối với việc hình thành CCKT mang tính trực tiếp. Tuy nhiên, trong điều kiện KHKT phát triển hiện nay, việc đánh giá vai trò các nhân tố điều kiện tự nhiên cần tránh cả hai khuynh hướng đối lập nhau: hoặc là qúa lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên hoặc xem nhẹ vai trò của nó. Cả hai khuynh hướng đó đều không đúng đắn. Dưới sự thống trị của khoa học công nghệ hiện đại, tài nguyên thiên nhiên không phải là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển. Ngược lại, nếu xem nhẹ yếu tố thiên nhiên sẽ không khai thác đầy đủ lợi thế so sánh để thúc đẩy phát triển kinh tế hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách lãng phí, phá hoại môi trường phát triển kinh tế lâu dài. 2.3.1.2. Các nhân tố kinh tế xã hội. a/ Thị trường và trình độ phát triển của kinh tế thị trường. Sự ra đời và phát triển các mô hình kinh tế mà nhân loại đã trải qua cho đến nay đã khẳng định: kinh tế thị trường có tác động to lớn đối với sự phát triển khoa học công nghệ, đối với sự thay đổi cơ cấu ngành, vùng kinh tế, đối với việc tăng năng suất lao động xã hội, đối với việc phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Trong nền kinh tế hàng hoá, thị trường là khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng, là điểm tập kết của quan hệ hàng hoá đảm bảo sự vận động không ngừng của quá trình tái sản xuất xã hội. Do đó, thị trường luôn là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế và đặc biệt nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và biến đổi CCKT. Mặt khác, nói đến thị trường là nói đến nhu cầu của con người cần được thoả mãn thông qua thị trường. Độ thoả mãn nhu cầu của con người lại phụ thuộc vào việc nền kinh tế xây dựng CCKT và chuyển dịch CCKT như thế nào, cho phép trả lời được và đúng những câu hỏi mà nhu cầu thị trường đặt ra: sản xuất cho ai? sản xuất cái gì? và sản xuất bằng công nghệ gì? Trình độ phát triển của kinh tế thị trường tỷ lệ thuận với trình độ phát triển và chuyển dịch CCKT theo hướng CNH- HĐH của nền kinh tế quốc dân. b/ Vốn và đầu tư. Nhiều nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng vốn là nhân tố quan trọng nhất đối với tăng trưởng. Vốn là một yếu tố sản xuất trong quá trình sản xuất. Vốn đóng góp vào tăng trưởng sản lượng không chỉ một cách trực tiếp như một yếu tố đầu vào mà còn gián tiếp thông qua sự cải tiến kỹ thuật. Thông qua sự cải tiến kỹ thuật thì đầu tư sẽ giúp nâng cao kỹ năng của người lao động và điều này đến lượt nó sẽ làm tăng năng suất lao động, giúp cho quá trình sản xuất trở nên hiệu qủa hơn và cuối cùng là làm tăng trưởng kinh tế. Như vậy, vốn là một yếu tố có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển dịch CCKT. Nhờ có vốn, cơ cấu sản xuất thay đổi theo hướng tăng sản lượng, chất lượng những sản phẩm có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao, tăng năng suất lao động của các ngành, làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra một cách tích cực, kéo theo sự chuyển dịch của cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần trong quá trình phát triển. c/ Lao động và vốn nhân lực. Sự tác động của dân số và lao động lên qúa trình hình thành và chuyển dịch CCKT được xem xét trên các mặt chủ yếu sau: Thứ nhất, kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới... là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các ngành đang hoạt động, là nhân tố thúc đẩy tiến bộ KHKT trong sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân. Thứ hai, qui mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng lớn đến qui mô và cơ cấu của nhu cầu thị trường. Đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng. Thứ ba, sự phát triển các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp cũng như trong các ngành kinh tế khác thường gắn liền với tập quán, truyền thống, phong tục của một địa phương, một cộng đồng người. Sự phát triển và chuyển hoá các ngành nghề này gắn chặt với đội ngũ các nghệ nhân. Sản phẩm của các ngành nghề này hầu hết là các sản phẩm độc đáo, có ưu thế và được ưa chuộng trên thị trường quốc tế. Trong lĩnh vực này, vai trò của các nghệ nhân, những lao động có chuyên môn sâu và nhiều kinh nghiệm, là rất lớn trong việc phát triển những ngành nghề thủ công truyền thống đòi hỏi kỹ thuật tinh tế và tay nghề cao. Việt Nam có một nguồn dân số và lao động trẻ, dồi dào song nền kinh tế có một điểm xuất phát thấp (sản xuất nhỏ là chủ yếu), phải chịu nhiều ảnh hưởng của chiến tranh, của cơ chế cũ nên những yếu tố đó tác dụng cả hai mặt thuận lợi và trở ngại trong quá trình hình thành và chuyển dịch CCKT. d/ Tiến bộ khoa học- công nghệ. Tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ diễn ra trên thế giới và trong nước có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự biến đổi CCKT. Trước hết nó làm thay đổi vị trí của các ngành trong nền kinh tế quốc dân, nó cũng làm thay đổi vị trí của nguyên liệu trong quá trình lao động. Tiến bộ khoa học công nghệ (KHCN) không những chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng trong tổng thể nền kinh tế (làm chuyển dịch CCKT) mà còn tạo ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện của một số ngành công nghệ non trẻ, công nghệ tiên tiến, do đó có triển vọng phát triển mạnh trong tương lai. Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, tiến bộ KHCN cho phép tạo ra các sản phẩm mới chất lượng cao, chi phí kinh doanh hạ, do đó có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường trong nước và quốc tế. Kết quả là làm chuyển dịch CCKT nói chung theo hướng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. 2.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan. Đó có thể là các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, cơ chế quản lý, chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Có thể kể đến một nhân tố chủ quan có tác động không nhỏ đến sự chuyển dịch CCKT là môi trường thể chế. Môi trường thể chế là yếu tố cơ sở cho quá trình xác định và chuyển dịch CCKT. Môi trường thể chế gắn bó chặt chẽ với thể chế chính trị và đường lối xây dựng kinh tế. Nói cách khác, quan điểm, đường lối chính trị nào sẽ có môi trường thể chế đó, đến lượt nó, môi trường thể chế lại ước định các hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói chung cũng như cơ cấu nội bộ từng ngành, từng vùng và thành phần kinh tế. Môi trường thể chế là biểu hiện cụ thể của những quan điểm, ý tưởng và hành vi của Nhà nước can thiệp và định hướng sự phát triển tổng thể cũng như sự phát triển của các bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Như vậy sự đồng bộ và tính ổn định của môi trường thể chế có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành và chuyển dịch CCKT. Việt Nam có một môi trường thể chế chính trị và đường lối đối ngoại rõ ràng và rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ... là một lợi thế quan trọng trong quá trình chuyển dịch CCKT của nước ta. II. Một số Lý thuyết về chuyển dịch CCKT. 1. Mối quan hệ giữa chuyển dịch CCKT với quá trình phát triển kinh tế. Nói đến quá trình phát triển kinh tế, người ta thường quan tâm đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, sự gia tăng các nguồn lực sản xuất theo thời gian và cách thức phân phối sản phẩm và thu nhập cho các nhân tố sản xuất. Còn khi nói đến cơ cấu của một nền kinh tế, ta thường quan tâm đến các thành phần có ý nghĩa cơ bản, tồn tại lâu dài, làm cơ sở cho những biến động có tính chất thường xuyên trong đời sống kinh tế. Cho tới nay, chưa có một lý thuyết hoàn hảo nào có thể mô tả những mối liên hệ giữa quá trình phát triển và quá trình thay đổi cơ cấu. Tuy nhiên, nhiều công trình nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng chắc chắn là có những qui luật phản ánh phương thức thay đổi của CCKT khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên. Như vậy, cơ sở giúp ta thấy được mối liên hệ giữa quá trình phát triển kinh tế và thay đổi cơ cấu là cách thức tính toán GDP theo các biến số kinh tế vĩ mô. 1.1. Xét về phía cung. Chúng ta phải phân tích cơ cấu sản xuất được tính theo các ngành sản xuất. Một kết quả quan sát cho thấy, khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên thì tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp giảm cùng với số lao động sử dụng và tỷ trọng của ngành công nghiệp, trong đó chủ yếu là ngành khai khoáng và chế biến tăng lên cùng với số lao động sử dụng. Ngành chế biến ban đầu có xu hướng tập trung vào sản xuất các mặt hàng tiêu dùng giản đơn như lương thực, thực phẩm, quần áo, sau này chuyển dần sang sản xuất các mặt hàng tư liệu sản xuất thuộc ngành công nghiệp nặng và sau cùng là sản xuất các sản phẩm vi điện tử và các sản phẩm có công nghệ cao. Vai trò của ngành dịch vụ có xu hướng tăng lên tương đối rõ rệt. Hàm sản xuất: y=(L,K,...) với >0, >0. Một khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên, tỷ trọng của công nghiệp trong GDP sẽ tăng và lao động sử dụng cũng tăng, từ đó tác động trở lại hàm sản xuất tiếp tục làm tăng tổng sản lượng, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ta cần phải chú ý đặc biệt tới một mảng có tác động không nhỏ đến CCKT là hệ thống tài chính. Nhà kinh tế Goldsmith đã thiết lập được mối liên hệ hình chữ U ngược giữa các quá trình phát triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính. Trong những giai đoạn đầu của phát triển kinh tế hệ thống tài chính phát triển nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng của GDP và của cải, sau đó chững lại ở mức tương đương rồi giảm dần xuống chậm hơn khi đất nước đạt được một mức thu nhập bình quân đầu người nhất định. Điều này có nghĩa là khu vực tài chính cũng trải qua một quá trình đa dạng hoá sản phẩm giống như các bộ phận khác của cơ cấu sản xuất. Ngoài các yếu tố trên, ta cũng cần xét thêm một vài khía cạnh khác làm thay đổi CCKT. Chẳng hạn, khi một nền kinh tế phát triển đến một mức nào đó, nhu cầu về vốn cũng thay đổi cả về kỹ thuật công nghệ cũng như công nhân lành nghề, tất yếu dẫn đến thay đổi cơ cấu. 1.2. Xét về phía cầu. Xuất phát từ công thức: AD=C+ I+G+ (X- M). Khi mức thu nhập bình quân đầu người thấp, người dân chi dùng hầu như toàn bộ thu nhập, tiết kiệm hầu như không có, toàn bộ nguồn đầu tư hầu như dựa vào vốn n._.ước ngoài, CCKT phụ thuộc nên việc chủ động ra các chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế bị hạn chế nhiều. Một khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên, tỷ trọng thu nhập dùng cho ăn uống giảm dần và tỷ lệ tiết kiệm tăng lên, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư giảm đi, việc chủ động vạch ra những chính sách thay đổi cơ cấu sản xuất của nền kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng đã dần dần có hiệu lực. Các qui luật trên đây cho thấy rằng khi các loại nhu cầu biến đổi, tương ứng ta cần có sự thay đổi về cơ cấu sản xuất. Tuy nhiên, một ảnh hưởng mạnh mẽ đến thay đổi cơ cấu là ngoại thương. Nhờ có ngoại thương, các cơ hội chuyên môn hoá sẽ được mở ra phần nào làm cho nền kinh tế phát triển thuận lợi hơn. Nhìn chung, quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia thường được xem xét như là một quá trình làm thay đổi thu nhập bình quân đầu người. Mặc dù có nhiều thay đổi trong quan niệm về phát triển và tăng trưởng nhưng chỉ tiêu trên vẫn được coi trọng và làm thước đo cho sự phát triển về kinh tế. Một xu hướng mang tính qui luật là cùng với sự phát triển của kinh tế, cũng diễn ra một quá trình thay đổi về CCKT tức là một sự thay đổi tương đối về vai trò mức đóng góp, tốc độ phát triển của từng thành phần, từng yếu tố riêng cấu thành nên toàn bộ nền kinh tế. Một trong những CCKT được quan tâm và nghiên cứu nhiều trong mối liên hệ với quá trình tăng trưởng và phát triển là cơ cấu ngành. Cơ cấu đó về phần mình lại được thể hiện trong quá trình sản xuất, tiêu dùng và ngoại thương. Mối quan hệ giữa vấn đề chuyển đổi cơ cấu xét theo khía cạnh này với sự phát triển chung của nền kinh tế là có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi vì gắn với nó là cả một động thái về phân bổ các nguồn lực hạn hẹp của một quốc gia trong những thời điểm nhất định vào những lĩnh vực hoạt động sản xuất riêng. Điều này có thể giúp chúng ta phân tích, nhận biết được tính hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực, từ đó có thể rút ra những kết luận tương ứng về khả năng phát triển bền vững của nền kinh tế. Tương tự, cơ cấu ngành trong quan hệ ngoại thương cũng thể hiện các lợi thế tương đối và khả năng cạnh tranh của một quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu. Quá trình chuyển dịch cơ cấu là một quá trình tất yếu gắn liền với sự phát triển kinh tế. Đồng thời nhịp độ phát triển, tính chất bền vững của quá trình tăng trưởng lại phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch cơ cấu linh hoạt, phù hợp với những điều kiện bên ngoài và các lợi thế tương đối của một nền kinh tế. 2. Các mô hình chuyển dịch CCKT. 2.1. Mô hình Lewis hay mô hình thặng dư lao động. Mô hình Lewis được xem như là lý thuyết chung về quá trình phát triển của thặng dư lao động ở các nước đang phát triển trong suốt thập niên 1950 đến những năm đầu thập niên 70. Trong mô hình của mình, Lewis xem nền kinh tế chỉ có 2 khu vực: khu vực truyền thống đặc trưng bởi năng suất lao động biên bằng 0 và khu vực còn lại là khu vực công nghiệp hiện đại có năng suất lao động cao thu hút thặng dư lao động từ nông thôn chuyển đến. Có 2 giả định về khu vực nông nghiệp: thứ nhất là sự tồn tại của thặng dư lao động, hàm ý rằng lao động biên là bằng 0, thứ hai, mọi lao động nông nghiệp đều có thể được thu hút chuyển sang làm việc ở khu vực công nghiệp. Mô hình Lewis tập trung nghiên cứu cả 2 quá trình dịch chuyển lao động cũng như sự gia tăng sản lượng và nguồn nhân lực trong khu vực công nghiệp. Sản lượng gia tăng do tỷ lệ đầu tư và tích luỹ vốn ngày càng tăng đã thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp chuyển đến ngày càng nhiều. Do đó, đường cung của lao động nông thôn chuyển đến làm việc ở khu vực công nghiệp được cho là hoàn toàn co giãn. Mặt khác, với giả định thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì đường sản phẩm lao động biên của khu vực công nghiệp chính là đường cầu của lao động. Bởi vì có sự khác nhau giữa tiền công của 2 khu vực nên những ông chủ nhà máy có thể thuê mướn bao nhiêu lao động nông nghiệp tuỳ thích mà không cần phải tăng tiền công. Với một nguồn vốn cố định thì các ông chủ sẽ tối đa hoá lợi nhuận bằng cách thuê mướn thêm nhân công cho đến khi sản phẩm biên bằng với tiền công thực tế. Toàn bộ lợi nhuận được giả định là sẽ được tái đầu tư. Như vậy, tổng dự trữ vốn ngày càng tăng và đến lượt nó làm cho đường tổng sản phẩm tăng lên và kéo theo sự gia tăng của đường sản phẩm biên. Quá trình tăng trưởng của khu vực công nghiệp cũng như gia tăng lao động trên được giả định là tiếp tục cho đến khi toàn bộ thặng dư lao động nông nghiệp bị hút về khu vực công nghiệp và sản phẩm biên của lao động nông nghiệp không còn bằng 0 nữa. 2.2. Mô hình hai khu vực Tân cổ điển. ý nghĩa của tăng trưởng dân số hay lực lượng lao động trong mô hình Tân cổ điển hoàn toàn khác với ý nghĩa của chúng trong mô hình thặng dư lao động. Một sự gia tăng dân số và lao động nông nghiệp sẽ làm cho sản lượng nông nghiệp gia tăng và ngược lại. Nghĩa là mô hình Tân cổ điển khác với mô hình thặng dư lao động ở chỗ sản phẩm lao động biên không bao giờ bằng 0. Và tiền công thay vì được định giá cao hơn thì sẽ bằng với sản phẩm lao động biên. Vì vậy, tăng trưởng dân số trong mô hình Tân cổ điển không phải hoàn toàn là một hiện tượng tiêu cực. Nền công nghiệp phát triển thành công, phải có các nỗ lực đồng thời để bảo đảm rằng nông nghiệp phát triển nhanh đủ để nuôi sống lao động ở cả khu vực công nghiệp và nông nghiệp ở mức tiêu thụ cơ bản thậm chí phải cao hơn để ngăn ngừa chỉ số giá trở nên không có lợi cho công nghiệp. Một khu vực nông nghiệp trì trệ, nghĩa là khu vực có ít tiến bộ về công nghệ và đầu tư, sẽ làm cho tiền công của công nghiệp thành thị tăng lên nhanh chóng và vì vậy làm giảm lợi nhuận và những nguồn dành cho phát triển công nghiệp. Theo mô hình Tân cổ điển này cần thiết phải có một sự cân bằng giữa công nghiệp và nông nghiệp lúc khởi đầu. 2.3. Mô hình thực tiễn. Cũng giống như mô hình Lewis, việc phân tích các cơ chế phát triển của chuyển dịch cơ cấu tập trung vào quá trình mà qua đó công nghiệp đã thay thế nông nghiệp để trở thành động lực cho sự tăng trưởng. Tuy nhiên, bên cạnh việc xem gia tăng tiết kiệm và đầu tư như là những điều kiện cần thì những mô hình này cũng xem xét đến nhiều sự thay đổi có mối liên hệ qua lại với nhau trong CCKT liên quan đến mọi chức năng kinh tế bao gồm cả việc chuyển đổi quá trình sản xuất, những thay đổi trong cấu thành nhu cầu tiêu dùng, thương mại quốc tế, sử dụng nguồn lực cũng như những thay đổi trong các nhân tố kinh tế xã hội như sự đô thị hoá. Nói chung, các mô hình chuyển dịch cơ cấu thực tiễn nhấn mạnh đến cả hai loại trở ngại cho sự phát triển: đó là trở ngại nội sinh và ngoại sinh. Trở ngại nội sinh liên quan đến các trở ngại kinh tế như tài nguyên sẵn có, dân số... cũng như các trở ngại về mặt thể chế, ví dụ như chính sách của Nhà nước. Trong khi đó, trở ngại ngoại sinh liên quan đến các vấn đề về công nghệ, thương mại quốc tế hay là khả năng tiếp cận với các nguồn vốn bên ngoài. III. Sự cần thiết phải thực hiện chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã Uông Bí. Qua việc nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận ở các phần trước, ta có thể thấy rằng, vai trò to lớn của chuyển dịch CCKT trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia, một địa phương là không thể phủ nhận. Việc xây dựng và hình thành nên một CCKT hợp lý và hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc tăng trưởng, phát triển kinh tế cũng như giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng tích cực tại bất cứ địa phương nào. CCKT hợp lý thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cần thiết để hoàn thiện hơn nữa CCKT trong tương lai. Như vậy, trên phương diện lý thuyết, vai trò cần thiết của chuyển dịch CCKT trong phát triển kinh tế xã hội đã hoàn toàn được khẳng định. Có thể coi như đó là một lý do thứ nhất để thị xã Uông Bí nên và cần thiết phải tiến hành chuyển dịch CCKT trong điều kiện hiện tại cũng như tương lai. Và lý do thứ hai để thấy rằng, việc thực hiện chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã Uông Bí là cần thiết phải kể đến các quan điểm về phát triển thể hiện trong đường lối chính sách của quốc gia, của tỉnh Quảng Ninh nói chung và chính quyền thị xã Uông Bí nói riêng. Một cách cụ thể, đó chính là các định hướng phát triển đã được áp dụng trong thời gian qua và sẽ được tiếp tục áp dụng trong thời gian tới. Trong các định hướng phát triển đó, nhiệm vụ chuyển dịch CCKT luôn được các nhà hoạch định chính sách nhấn mạnh và coi là nhiệm vụ hàng đầu. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ VII của Đảng đã xác định: “thúc đẩy sự chuyển dịch CCKT theo hướng CNH- HĐH, coi đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu thời gian tới”. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của TW, tỉnh Quảng Ninh cũng xây dựng hướng chiến lược phát triển của Tỉnh đến 2010 dựa trên quan điểm tiếp tục chỉ đạo thực hiện chuyển dịch CCKT trên địa bàn tỉnh một cách toàn diện và hiệu quả. Chiến lược phát triển của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2001-2010 chỉ ra rằng: “Tập trung xây dựng một CCKT hợp lý, có hiệu quả cao, trọng tâm là phát triển các lĩnh vực kinh tế có thế mạnh như công nghiệp, du lịch, kinh tế biển, cảng biển, kinh tế cửa khẩu...” Thị xã Uông Bí là một thị xã của tỉnh Quảng Ninh, từ lâu đã giữ một vị trí không kém phần quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế của tỉnh. Đảng bộ và nhân dân thị xã trong nhiều năm qua đã không ngừng thực hiện theo những đường lối, chính sách của Nhà nước và của tỉnh trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị xã. Do đó vấn đề về chuyển dịch CCKT cũng luôn được thị xã coi là một nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt tiến trình phát triển kinh tế những năm qua và trong cả nhiều năm tới. Việc thực hiện chuyển dịch CCKT được xem như là cách thức để đạt đến sự phát triển một cách nhanh nhất. Chính vì vậy, đối với từng địa phương cụ thể, việc quán triệt quan điểm chỉ đạo và linh hoạt tiến hành các bước chuyển dịch căn cứ vào điều kiện khách quan của địa phương mình là một yêu cầu cấp thiết, đó không chỉ đơn thuần là việc chấp hành đường lối mà quan trọng hơn, đó là con đường hữu hiệu để cải thiện bộ mặt nền kinh tế của địa phương mình. Vì tất cả những điều đó, tiến hành chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã Uông Bí là cần thiết. Cuối cùng, một lý do thứ ba, không kém phần quan trọng đó là xuất phát từ chính thực tế phát triển những năm qua của thị xã Uông Bí. Quá trình phối hợp chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch CCKT những năm qua trên địa bàn thị xã Uông Bí, mặc dù đã thu được những thành công nhất định song bên cạnh đó vẫn còn tồn tại không ít hạn chế và bất cập. CCKT ngành của thị xã đã chuyển dịch theo hướng: tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp, cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ chuyển dịch hợp lý nhưng tốc độ chuyển dịch nhìn chung còn chậm, chưa tương xứng với các nguồn lực hiện có. Các tiềm năng trong vùng chưa được khai thác hợp lý, cụ thể như tiềm năng về du lịch, về đất đai. Đó là một hạn chế mà thị xã cần có hướng điều chỉnh. Thêm nữa, khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, giữa người giàu và người nghèo còn gây nhiều bức xúc, tỷ lệ thất nghiệp còn cao. Những yếu kém trên nếu không kịp thời khắc phục thì sẽ trở thành những rào cản bất lợi cho thị xã trong quá trình hội nhập và phát triển. Vì lẽ đó, thị xã Uông Bí cần phải có những chính sách thích hợp để cải thiện tình hình mà một trong những biện pháp được xem như hiệu quả nhất là cần phải tiến hành chuyển dịch CCKT một cách toàn diện và phù hợp hơn. Trên đây là ba lý do cơ bản khiến cho quá trình chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã Uông Bí trở nên cần thiết hơn hết. Trong thời gian tới, thị xã cần có nhiều biện pháp thật hữu hiệu để chuyển dịch CCKT thực sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển toàn diện kinh tế xã hội của thị xã. Và dưới đây là một mô hình chuyển dịch CCKT thành công mà thị xã Uông Bí cần học hỏi: IV. Kinh nghiệm chuyển dịch CCKT của thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh là một thị xã công nghiệp khai thác than lớn nhất cả nước. Trải qua trên 47 năm, thị xã đã không ngừng được cải tạo, phát triển thành đô thị lớn có tốc độ đô thị hoá nhanh, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, CCKT chuyển dịch đúng định hướng, diện mạo đô thị ngày càng được thay đổi và phát triển. Ngày 6/1/2005, thị xã được Bộ Xây Dựng công nhận là đô thị loại 3, nâng cấp từ đô thị loại 4. Trên thực tế, thị xã Cẩm Phả có nhiều nét tương đồng với thị xã Uông Bí về các mặt tự nhiên cũng như kinh tế xã hội. Đặc biệt, trong thời gian tới, thị xã Uông Bí cũng tiến hành xây dựng một đề án xin nâng cấp thị xã từ đô thị loại 4 lên loại 3. Vì tất cả lẽ đó, đề tài tiến hành nghiên cứu một cách cụ thể về quá trình chuyển dịch CCKT của thị xã Cẩm Phả, từ đó tìm ra được những mặt thành công cũng như những mặt còn hạn chế để áp dụng vào điều kiện khách quan của thị xã Uông Bí, phục vụ cho quá trình chuyển dịch CCKT của địa phương. 1. Những thành công trong quá trình chuyển dịch CCKT tại thị xã Cẩm Phả. 1.1. Về kinh tế. Thị xã Cẩm Phả là một thị xã công nghiệp được hình thành từ khá lâu, do đó CCKT của thị xã cũng được hình thành tập trung vào các ngành CN- TTCN, thương mại, dịch vụ, du lịch với tỷ lệ tăng trưởng nhanh. Năm 2003, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thị xã đạt trên 12%/năm, trong CCKT, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm 76,05%, thương mại- dịch vụ chiếm 21,15%, nông- lâm- ngư nghiệp chiếm 2,8%, thu nhập bình quân đầu người đạt 665 USD/ người/năm. Đến năm 2004, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thị xã đã tăng lên 13,79%/năm, tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong CCKT đạt 77,16%, thương mại- dịch vụ- du lịch là 20,26%, nông- lâm- ngư nghiệp là 2,58%, thu nhập bình quân đầu người đạt 757 USD/người/năm. So với nhiều năm trước đó, CCKT hai năm gần đây đã chuyển biến rất nhiều, tỷ trọng ngành thương mại- dịch vụ- du lịch đã có sự tăng lên rõ rệt, tỷ trọng nông nghiệp cũng giảm theo từng năm. Sự chuyển biến CCKT ngành của thị xã Cẩm Phả là theo đúng qui luật phát triển, đúng định hướng chỉ đạo và hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tế về tự nhiên, về nguồn lực của thị xã. Chính nhờ CCKT các ngành của thị xã chuyển dịch một cách tích cực đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của thị xã và cải thiện một cách đáng kể đời sống của nhân dân, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 3,73% (2002) xuống còn 1,41% (2004). Sự chuyển dịch CCKT theo hướng tích cực của thị xã Cẩm Phả còn được thể hiện ở quá trình chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Năm 2004 so với năm 2001, khu vực kinh tế trong nước có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh được cải thiện, phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, ngành nghề kinh doanh được đa dạng, thu hút hàng ngàn lao động, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của thị xã. Khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài có rất nhiều khởi sắc, nguồn vốn đầu tư nước ngoài được thu hút vào thị xã nhiều hơn, các hình thức hợp tác kinh doanh trên địa bàn được khuyến khích và tạo điều kiện phát triển. Theo số liệu thống kê của thị xã, năm 1991, thị xã có 79 doanh nghiệp Nhà nước, có 16 doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH, 92 HTX tiểu thủ công nghiệp. Năm 2004 có 83 doanh nghiệp Nhà nước, có trên 200 doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH và công ty cổ phần và có trên 6800 hộ kinh doanh. Cơ cấu thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng hợp lý đã làm cho hiệu quả sản xuất tăng cao, tạo điều kiện giải quyết việc làm và cải thiện đời sống cho người lao động, thúc đẩy kinh tế trên địa bàn thị xã phát triển. 1.2. Về xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị. Trong quá trình thực hiện chuyển dịch CCKT, thị xã Cẩm Phả không ngừng đầu tư vào việc xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị bởi đây vốn được coi là cơ sở nền tảng cho việc phát triển kinh tế hiện tại cũng như tương lai. Đầu tư xây dựng cơ bản tăng bình quân 150%/năm. Tập trung các nguồn vốn và huy động nguồn lực trong nhân dân để cải tạo và xây dựng hệ thống đường điện, đường giao thông, hệ thống cấp thoát nước, trạm xá, bệnh viện, trường học và các công trình công cộng đạt hiệu quả cao. Năm 2004, thị xã có 67,9 km đường giao thông chính nội thị được trải nhựa và bê tông hoá chiếm 90%, 100% số hộ dân nội thị có điện sử dụng, khu vực nội thị có 59,2km hệ thống điện chiếu sáng công cộng, đạt 87,2%. Hệ thống nước sinh hoạt được đầu tư xây dựng với công suất 56000m3/ngày đêm, đảm bảo cung cấp cho trên 85% hộ dân nội thị có nước sạch sinh hoạt và sử dụng. Hệ thống thông tin bưu điện của thị xã khá hoàn thiện với Tổng đài điện tử trung tâm dung lượng cao và có 4 Tổng đài khu vực. Đến nay toàn thị xã có trên 29000 máy điện thoại cố định, đạt tỷ lệ 17 máy/100 người dân. 1.3. Về văn hoá- xã hội. Thị xã Cẩm Phả có hệ thống giáo dục khá phát triển. Hiện nay thị xã có 3 trường Công nghiệp kỹ thuật, 56 trường từ mầm non đến phổ thông trung học. Đến nay thị xã đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục THCS. Mạng lưới y tế thị xã được củng cố với 3 bệnh viện, trên 500 giường bệnh, có 16 trạm y tế xã, phường, 13 trạm y tế của các cơ quan doanh nghiệp với tổng số y, bác sĩ trên 600 người, đảm bảo việc chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ, công nhân và nhân dân trên địa bàn thị xã. Công tác thực hiện chính sách xã hội được tổ chức tốt, các gia đình chính sách, đối tượng xã hội được quan tâm giúp đỡ, tích cực trong công tác giải quyết việc làm, thực hiện xoá đói giảm nghèo, đến nay thị xã không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo còn 1,41%. 2. Các biện pháp chuyển dịch CCKT đã được thực hiện tại thị xã Cẩm Phả. 2.1. Về phát triển kinh tế. Thị xã đã tập trung tạo điều kiện môi trường thông thoáng để các thành phần kinh tế phát triển, có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân làm giàu chính đáng, hợp pháp, thực hiện tốt chính sách đầu tư, có cơ chế về đất đai, thuế, vốn, thị trường, sử dụng lao động, tích cực mở rộng ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông, lâm, ngư nghiệp, phát triển kinh tế rừng, kinh tế biển, kinh tế trang trại và du lịch sinh thái vừa góp phần phát triển kinh tế, vừa giữ vững cảnh quan môi trường. 2.2. Về qui hoạch và phát triển đô thị. Thị xã đã thực hiện qui hoạch chi tiết các khu trung tâm đô thị, công khai hướng qui hoạch đô thị để cho các tổ chức và nhân dân tham gia cùng thực hiện, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và phát triển thị xã. Đồng thời, thị xã Cẩm Phả cũng tiến hành khai thác có hiệu quả các cơ sở hạ tầng sẵn có, tập trung đầu tư và hoàn thiện không gian kiến trúc các khu vực trung tâm, thực hiện các dự án theo qui hoạch và chú trọng đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng cùng các công trình công cộng. Trong quá trình thực hiện chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã Cẩm Phả, bên cạnh những thành công thì cũng còn tồn tại không ít những hạn chế. Thứ nhất, qui hoạch tổng thể còn chưa phù hợp với địa hình của thị xã, chưa triệt để phát triển kinh tế biển để khai thác cảnh quan và phát huy lợi thế kinh tế biển. Thứ hai, mặc dù kinh tế thị xã đã có mức tăng trưởng khá cao song cần phải phát huy lợi thế mở rộng kinh tế biển, dịch vụ du lịch và sản xuất vật liệu xây dựng. Thứ ba, khi cơ sở hạ tầng đã được đầu tư xây dựng khá đồng bộ thì cần tiếp tục hoàn chỉnh thêm nhất là về cảnh quan môi trường. Đó là những hạn chế chính được rút ra từ quá trình thực hiện chuyển dịch CCKT của thị xã Cẩm Phả mà thị xã Uông Bí có thể từ đó rút ra được những kinh nghiệm cho địa phương mình. 3. Bài học kinh nghiệm từ thực tế của thị xã Cẩm Phả. Để có thể thực hiện chuyển dịch CCKT thành công trên địa bàn, thị xã Uông Bí cần phải có sự đánh giá, học hỏi từ kinh nghiệm thực tế của thị xã Cẩm Phả để hoàn thiện các chính sách phát triển của mình. Cụ thể, đối với điều kiện khách quan của địa phương, thị xã Uông Bí nên có những chính sách thông thoáng và cởi mở hơn trong việc phát triển các thành phần kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, thị xã Uông Bí cũng cần có sự quan tâm tốt hơn nữa đối với vấn đề bồi dưỡng nguồn nhân lực, ứng dụng KHKT vào sản xuất, cũng như giải quyết các vấn đề môi trường, tận dụng lợi thế trong phát triển thương mại- dịch vụ- du lịch. Song song chú trọng đến các vấn đề kinh tế, thị xã cần phải có những cơ chế đặc thù để giải quyết các vấn đề xã hội như: xoá đói giảm nghèo, phát triển mạng lưới phúc lợi công cộng, giữ gìn an ninh trật tự... Có như vậy, quá trình chuyển dịch CCKT của thị xã mới có kết quả như mong đợi. Chương 2: Thực trạng chuyển dịch CCKT ở thị xã Uông Bí. I. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. 1. Đặc điểm tự nhiên. Thị xã Uông Bí có vị trí kinh tế đặc biệt, nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc: Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh; có nguồn than dồi dào, chất lượng tốt là thế mạnh để phát triển ngành công nghiệp khai thác, có điều kiện tự nhiên, khí hậu thích hợp phát triển ngành nông- lâm- thuỷ sản theo hướng đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi; khu danh thắng Yên Tử, khu du lịch Hồ Yên Trung, Lựng Xanh, Hang Son nằm trên địa bàn thị xã là những điểm du lịch nổi tiếng được nhiều người biết đến. 1.1. Vị trí địa lý. Thị xã Uông Bí nằm phía Tây tỉnh Quảng Ninh trên trục quốc lộ 18A, cách Hà Nội 120km, cách Hải Phòng 29km và cách trung tâm tỉnh lỵ hơn 40km về phía đông. Phía đông giáp huyện Yên Hưng, phía tây giáp huyện Đông Triều, phía bắc giáp huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang, phía nam giáp thành phố Hải Phòng qua sông Đá Bạc chảy ra sông Bạch Đằng, phía đông giáp huyện Hoành Bồ. Uông Bí nằm ở sườn phía đông nam vòng cung Đông Triều, vị trí này tạo cho Uông Bí một điều kiện tự nhiên khác với các vùng lãnh thổ khác. 1.2. Đặc điểm thời tiết, khí hậu, thuỷ văn. Theo số liệu của cục thống kê Quảng Ninh, điều kiện tự nhiên, khí hậu thị xã Uông Bí năm 2004 được thể hiện qua bảng 1. Nhiệt độ trung bình năm là 24,40C, nhiệt độ cao nhất tập trung vào tháng 6, 7, 8, nhiệt độ thấp nhất tập trung vào tháng 12,1,2 năm sau. Lượng mưa trung bình 1672 mm tập trung và phân bổ theo mùa, đặc biệt vào các tháng 7,8,9. Độ ẩm không khí trung bình năm là 83,2%, thay đổi theo mùa từ cao nhất là 88% đến thấp nhất là 72%. Số giờ nắng bình quân trong năm là 1730,4 giờ, tập trung vào các tháng 7,8,9, 10. Nhìn chung, thị xã Uông Bí chịu ảnh hưởng của vùng khí hậu Đông Bắc Bắc bộ khá rõ nét với đặc trưng nóng ẩm, mưa nhiều về mùa hè, hanh khô kéo dài về mùa đông. Với khí hậu đa dạng như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp theo hướng đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi. Số giờ nắng trung bình năm tương đối cao tạo điều kiện cho các loại cây trồng tăng trưởng nhanh. Độ ẩm không khí thay đổi theo mùa là yếu tố cần tính đến trong việc bố trí sản xuất và bảo quản nông sản. Tuy nhiên, với lượng mưa lớn tập trung, địa hình dốc là nguyên nhân chính gây nên xói mòn, úng lụt, huỷ hoại đất... ảnh hưởng không nhỏ tới việc phát triển kinh tế của thị xã nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng. Bảng 1: Đặc điểm khí hậu, thời tiết năm 2004 của thị xã Uông Bí. Tháng Nhiệt độ trung bình (oC) Giờ nắng trung bình (Giờ) Lượng mưa trung bình (mm) Độ ẩm trung bình (%) Cả năm 24,4 1730,4 1672 83,2 Tháng 1 16,5 119,3 40,6 82,0 Tháng 2 20,7 70,1 26,0 87,0 Tháng 3 21,5 70,0 16,7 88,0 Tháng 4 25,6 112,7 164,9 88,0 Tháng 5 28,5 170,3 195,2 86,0 Tháng 6 29,8 155,6 205,5 83,0 Tháng 7 29,9 249,8 298,4 84,0 Tháng 8 28,7 134,8 432,6 87,0 Tháng 9 27,5 167,2 256,1 86,0 Tháng 10 25,0 184,6 34,5 78,0 Tháng 11 22,5 148,9 1,2 77,0 Tháng 12 17,0 147,1 0,3 72,0 Nguồn: Cục Thống kê Quảng Ninh. 1.3. Đặc điểm địa hình, điều kiện đất đai. Thị xã có địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam, phía Bắc cao nhất là núi Yên Tử, có đỉnh cao tới 1064m, núi Bảo Đài cao 875m (so với mặt biển), phía Nam là vùng thấp nhất với các bãi bồi, trũng ngập nước ven sông Đá Bạc. Địa hình bị chia cắt bởi các sông suối nhỏ. Theo đặc điểm địa hình, Uông Bí có 2/3 diện tích là đồi núi dốc nghiêng từ Bắc xuống Nam và được phân chia thành 3 vùng: Vùng núi cao, vùng thung lũng và vùng thấp. Do địa hình phức tạp và đa dạng nên kết cấu đất cũng phức tạp. Theo điều tra nông hoá thổ nhưỡng toàn thị xã có 5 loại đất và được chia thành 2 nhóm. Nhóm đất đồi núi gồm: đất dốc tụ có khoảng 100ha (0,42% diện tích đất tự nhiên) phân bố ở các chân đồi, núi có địa hình dốc thoải. Đất Feralit nâu vàng phát triển trên phù sa cổ, loại này có khoảng 700ha (2,92% diện tích tự nhiên) phân bố ở độ cao 15 – 40 m. Đất Feralit đỏ vàng hoặc xám vàng trên sa thạch, đá cát, loại này có diện tích 14.500ha (chiếm 60,4% tổng diện tích đất tự nhiên), phân bố ở nơi có địa hình dốc thoải, có tầng mỏng khoảng 50- 70cm, đất không có kết cấu, dễ bị rửa trôi. Nhóm đất đồng bằng ven biển gồm: đất phù sa cũ bạc màu, loại này tập trung ở ven đường 18A, đất chua mặn phân bố ở ngoài đê bao. Bảng 2: Tình hình đất đai, sử dụng đất đai năm 2004 của thị xã Uông Bí. TT Chỉ tiêu diện tích (ha) tỷ trọng (%) Tổng diện tích tự nhiên 24.041,30 100 1. Đất nông nghiệp 3.513,56 14,61 1.1. Trồng cây hàng năm 2.137,14 1.2. Đất vườn tạp 342,48 1.3. Cây lâu năm 123,04 1.4. Mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 910,9 2. Đất lâm nghiệp 11.469,9 47,71 2.1. Rừng tự nhiên 5.588,50 2.2. Rừng trồng 5.881,40 3. Đất chuyên dùng 3.483,04 14,49 3.1. Đất xây dựng 651,28 3.2. Đất giao thông 675,77 3.3. Đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng 389,19 3.4. Đất di tích lịch sử và văn hoá 202,15 3.5. Đất khai thác khoáng sản 1.239,36 3.6. Đất chuyên dùng khác 325,29 4. Đất ở 674,49 2,81 4.1. Đất ở đô thị 288,81 4.2. Đất ở nông thôn 295,68 5. Đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá 4.900,31 20,38 5.1. Đất bằng chưa sử dụng 266,28 5.2. Đất đồi núi chưa sử dụng 1700,73 5.3. Sông, suối 1.590,97 5.4. Đất chưa sử dụng khác 942,34 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu phòng thống kê thị xã. Hai loại đất trên chiếm khoảng 25% diện tích đất tự nhiên. Với địa hình đa dạng, sự đan xen giữa các loại đất tạo nên sự phân bố những dải sinh thái hẹp, do đó cho phép bố trí được nhiều loại cây trồng, vật nuôi khác nhau. Thị xã có tổng diện tích đất tự nhiên 24.041,30 ha, trong đó đất lâm nghiệp có diện tích lớn nhất 11.469,9 ha, chiếm 47,71%, còn lại là đất chưa sử dụng và sông suối 4.900,31 ha chiếm 20,38%. Trong tổng diện tích 3.483,04 ha đất chuyên dùng, có 1.239,36 ha là đất sử dụng cho khai khoáng. Đây là diện tích đáng kể trong việc khai thác tài nguyên khoáng sản và sẽ có ảnh hưởng lớn tới môi trường sinh thái, lâm nghiệp và nguồn nước. Diện tích này sẽ thay thế chuyển sang mục tiêu trồng rừng sau khi kết thúc hoạt động khai thác than. Tình hình sử dụng đất đai của thị xã được chỉ rõ ở bảng 2. 2. Đặc điểm kinh tế xã hội. 2.1. Dân số và lao động. Bảng 3: Số hộ, nhân khẩu, lao động chia theo nông nghiệp và phi nông nghiệp năm 2004 của thị xã Uông Bí. TT Địa bàn số hộ (hộ) Nhân khẩu (người) Lao động (người) Tổng số Nông nghiệp Tỷ lệ (%) Phi nông nghiệp Tỷ lệ (%) Tổng số 22.051 97.032 59.468 23.193 39 36.275 61 I. Thành thị 16.195 70.107 43.075 9.907 23 33.168 77 1. Phường Vàng Danh 2.936 12.691 7.820 883 11,29 6.937 88,71 2. Phường Bắc Sơn 1.398 6.154 3.753 1.137 30,3 2.616 69,7 3. Phường Trưng Vương 1.697 7.466 4.682 503 10,74 4.179 89,26 4. Phường Quang Trung 4.137 17.852 10.985 2.706 24,69 8.252 75,31 5. Phường Thanh Sơn 2.714 11.648 7.166 1.316 18,36 5.850 81,64 6. Phường Nam Khê 1.827 7.894 4.851 1.417 29,21 3.434 70,79 7. Phường Yên Thanh 15.486 6.402 3.945 1.945 49,30 2000 50,70 II. Nông thôn 5.856 26.925 16.393 14.142 86,27 2.251 13,73 1. Xã Phương Đông 2.355 10.833 6.450 5.224 80,99 1.226 19,01 2. Xã Phương Nam 2.418 11.002 6.705 6.235 92,99 470 7,01 3. Xã Thượng Yên Công 1.083 5.090 3.238 2.683 82,86 555 17,14 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu phòng Thống kê Thị xã. Tính đến tháng 12/2004, dân số của thị xã là 97.032 người, mật độ trung bình 404 người/ km2. Tổng số hộ 22.051 hộ, trong đó số hộ nông nghiệp là 5.856 hộ, chiếm 26,56% số hộ toàn thị xã. Nhân khẩu trong nông thôn là 26.925 người, chiếm 27,75% nhân khẩu toàn thị xã. Lao động nông nghiệp là 23.193 người, chiếm 39% lao động toàn thị xã, bình quân nhân khẩu trên hộ là 4,4 khẩu, tỷ lệ lao động/nhân khẩu là 61,3% được thể hiện qua bảng 3. Cộng đồng các dân tộc sinh sống tại thị xã gồm các dân tộc Dao, Sán Chỉ, Hoa, Kinh trong đó dân tộc Kinh chiếm 90%. Bảng 4: Lao động trong các ngành kinh tế năm 2004 của thị xã Uông Bí. (ĐVT: người). Chỉ tiêu Năm 2004 Tỷ trọng % Lao động các ngành 49.358 100 1. Nông, lâm, thuỷ sản 19.546 39,6 Nông nghiệp 18.088 36,65 Lâm nghiệp 728 1,47 Thuỷ sản 730 1,48 2. Công nghiệp 20.039 40,6 Công nghiệp khai thác 11.608 23,52 Công nghiệp chế biến 6.050 12,26 Điện nước 2.381 4,82 3. Dịch vụ 9.773 19,8 Thương nghiệp 2.639 5,35 Khách sạn, nhà hàng 632 1,28 Vận tải 913 1,85 Tài chính, tín dụng 214 0,43 Quản lý Nhà nước 301 0,61 Giáo dục và đào tạo 2.135 4,33 Y tế 947 1,92 Các dịch vụ khác 1992 4,04 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu phòng Thống kê thị xã. Nguồn lao động: Năm 2004 tổng nguồn lao động là 59.468 người. Trong đó lao động trực tiếp làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân là 49.358 người, chiếm 83%, còn lại 17% lao động chưa có việc làm. Lao động đang làm việc trong ngành nông- lâm- thuỷ sản là 19.546 người, chiếm 39,6%, công nghiệp 20.039 người, chiếm 40,6% và dịch vụ là 9.773 người, chiếm 19,8%. Về cơ cấu lao động trong các năm qua đều có sự dịch chuyển đáng kể từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Lao động dư thừa là một vấn đề lớn. Trong tương lai, hàng năm lực lượng lao động sẽ gia tăng đáng kể khi số người bước vào tuổi lao động lớn hơn số người ra khỏi tuổi lao động (do cơ cấu dân số trẻ). Hơn nữa, trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh hướng tới việc nâng cao hiệu quả lao động. Do vậy, nếu không có đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất thì khả năng giải quyết việc làm cho người lao động rất khó khăn. Một vấn đề nữa cần quan tâm là tỷ lệ bán thất nghiệp chủ yếu là trong khu vực nông, lâm, thuỷ sản. Lao động trong khu vực này hiện thiếu việc làm từ 4-5 tháng trung bình năm. Mặt khác diện tích đất nông nghiệp thị ._. ngắn ngày và cây khác hoặc một phần diện tích chuyển sang trồng rau, đậu thực phẩm có giá trị kinh tế cao. Đối với cây màu lương thực: Diện tích trồng ngô vẫn giữ nguyên nhưng thay thế giống mới có năng suất cao, giảm diện tích trồng khoai và bỏ hẳn diện tích trồng sắn sang trồng cây khác có giá trị kinh tế cao hơn. Cây rau, quả thực phẩm tăng cả về diện tích và cơ cấu diện tích trong tổng diện tích gieo trồng hàng năm (tăng từ 12,49% năm 2004 lên 13,29% năm 2005 và 25,83% năm 2010). Diện tích trồng rau, đậu năm 2010 đạt 1.295ha, với cơ cấu 50% rau ăn lá (su hào, bắp cải, rau muống, rau cải các loại, rau xà lách...), 40% rau ăn thân quả (đậu đỗ, cà chua, dưa, bì...), 10% rau củ và lá khác (hành, tỏi, súp lơ, cà rốt...) đã hình thành vành đai trồng rau, đậu chạy dọc theo phía nam đường 18A. 2.1.2. Ngành công nghiệp. Khôi phục, củng cố và ổn định công nghiệp theo hướng tổ chức lại sản xuất, kêu gọi đầu tư, cải tiến công nghệ nhằm tăng hiệu quả trong sản xuất. Khuyến khích và kêu gọi đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, nhằm đa dạng hoá các sản phẩm công nghiệp, giải quyết việc làm tạo ra sự cân đối trong phát triển giữa công nghiệp lớn và công nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong các ngành khai thác tài nguyên tại chỗ nhằm phục vụ cho nhu cầu xây dựng trong và ngoài thị xã, tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động như công nghiệp may, da giày, khai thác và phát triển ngành nghề, thủ công phục vụ dân sinh, mỹ nghệ, phục vụ du lịch... Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ quy mô nhỏ phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng tại chỗ, nhu cầu cho nông, lâm, ngư nghiệp... tiến tới vươn ra thị trường bên ngoài thị xã. Trên cơ sở tiềm năng, điều kiện cụ thể của địa phương dự kiến đến năm 2010 ngành công nghiệp, xây dựng phát triển với cơ cấu như bảng 17. Qua bảng 17 cho thấy ngành khai thác, sản xuất vật liệu vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhưng giảm dần qua các năm (Năm 2004 tỷ trọng chiếm 54,14%, năm 2005 tỷ trọng chiếm 53,69%, năm 2010 tỷ trọng chiếm 49,18%). Ngành chế biến chiếm tỷ trọng đứng thứ 2 và tăng dần qua các năm (năm 2004 chiếm tỷ trọng 23,42%, năm 2005 chiếm tỷ trọng 25,04%, năm 2010 chiếm tỷ trọng 29,77%). Riêng ngành điện, nước tỷ trọng vẫn giữ ổn định từ 21,05- 22,27%. Bảng 17: Dự kiến cơ cấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp của thị xã Uông Bí đến năm 2010 (Theo giá cố định năm 1994) Danh mục TH 2004 2005 2010 Giá trị (tr.đ) Cơ cấu (%) Giá trị (tr.đ) Cơ cấu (%) Giá trị (tr.đ) Cơ cấu (%) Giá trị SX CN 1.202.329 100 1.317.518 100 2.650.005 100 Ngành khai thác 650.941 54,14 707.424 53,69 1.303.389 49,18 Ngành chế biến 281.585 23,42 329.825 25,04 788.996 29,77 Ngành điện, nước 269.803 22,44 280.269 21,27 557.620 21,05 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu phòng Thống kê thị xã. 2.1.3. Ngành dịch vụ. Khuyến khích các hoạt động dịch vụ theo hướng tạo nhiều công ăn việc làm cho nhân dân thị xã. Dịch vụ - thương mại cần được chú ý phát triển đảm bảo sự lưu thông hàng hoá giữa các xã, phường. Chú ý tới việc cung cấp các hàng hoá, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân, đồng thời khai thông luồng hàng hướng tới các thị trường trong và ngoài tỉnh đảm bảo tiêu thụ các hàng hoá và dịch vụ của thị xã. Từng bước hình thành trung tâm thương mại. Tổ chức và quản lý tốt hoạt động các chợ. Xuất nhập khẩu: bên cạnh nguồn xuất khẩu hiện tại, hướng tới cần đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, bằng cách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu, liên kết với các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu của tỉnh và Trung ương. Bảng 18: Dự kiến cơ cấu giá trị sản xuất ngành dịch vụ của thị xã Uông Bí đến năm 2010 (Theo giá cố định năm 1994). Năm Ngành TH 2004 2005 2010 G. trị (tr. đồng) Cơ cấu (%) G. trị (tr. đồng) Cơ cấu (%) G. trị (tr. đồng) Cơ cấu (%) Dịch vụ 401.565 100 448.333 100 941.652 100 - Dịch vụ sản xuất 124.485 31 156.917 35 470.826 50 - Dịch vụ đời sống 277.080 69 291.416 65 470.826 50 Nguồn: Từ số liệu phòng Thống kê thị xã. Phát triển các dịch vụ tài chính, ngân hàng nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thị xã có điều kiện tiếp cận nguồn vốn thuận lợi trong các hoạt động thanh toán. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng cũng cần phải chú ý tới việc tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân có thể dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn để có thể thực hiện tốt mục tiêu xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của dân cư. Với phương hướng như trên và từ các đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương dự kiến những năm tiếp theo ngành dịch vụ, thương mại phát triển với cơ cấu như sau: Trong đó dịch vụ sản xuất có cơ cấu tăng dần qua các năm (từ 31% năm 2004, lên 35% năm 2005, và đạt 50% năm 2010). Ngược lại ngành dịch vụ đời sống giảm dần (từ 69% năm 2004 xuống còn 50% năm 2010). 2.2. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Kinh tế Nhà nước vẫn tập trung đầu tư, phát triển trong những ngành, những lĩnh vực kinh tế trọng yếu của nền kinh tế quốc dân như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và kinh doanh thương mại, dịch vụ quan trọng... Thị xã có chính sách tạo điều kiện cho kinh tế Nhà nước thực sự trở thành đòn bẩy để đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội của thị xã, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Về mặt số lượng và tỷ lệ, khu vực kinh tế Nhà nước giảm song về chất lượng được đổi mới và nâng cao đáng kể. Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước sẽ được khuyến khích phát triển mạnh mẽ và dần dần chiếm tỷ trọng chủ yếu trong GTSX của nền kinh tế thị xã. Để cho kinh tế ngoài Nhà nước có thể tham gia hội nhập kinh tế, trong những năm tới, thị xã nên có chính sách hỗ trợ thoả đáng cho sự phát triển của hệ thống kinh tế này, đặc biệt có thể giúp họ có điều kiện mở rộng thêm qui mô, đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tăng cường năng lực quản lý. Chỉ có như vậy khu vực kinh tế này mới có khả năng sản xuất ra các loại sản phẩm có chất lượng tốt, có thể cạnh tranh được với các sản phẩm khác. 2.3. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ. Trong những năm tới, thị xã cần tiếp tục phát triển một số địa bàn kinh tế trọng điểm của địa phương làm cơ sở và động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của các khu vực khác trong toàn thị xã. Việc xác định các địa bàn trọng điểm này phải rất thận trọng, việc ưu tiên tập trung nguồn lực phát triển phải được dựa trên cơ sở qui hoạch và chiến lược phát triển vùng phải có căn cứ khoa học được phê duyệt. Cơ cấu ngành kinh tế nội bộ các địa bàn kinh tế trọng điểm phải tiếp cận được mục tiêu cơ cấu của nền kinh tế và trên thực tế phải là bộ phận tiên phong thực hiện chiến lược và chính sách cơ cấu của thị xã. Thị xã cũng coi trọng qui hoạch phát triển các vùng, địa bàn trong toàn thị xã để hướng tới phát triển một cách toàn diện. Theo đó cần xây dựng mới và hoàn thiện qui hoạch, chiến lược phát triển các vùng trên. Tuy không có vị trí là địa bàn kinh tế trọng điểm song các khu vực này vẫn có các lợi thế cần khai thác và vẫn có yêu cầu phát triển. Đối với từng khu vực kinh tế trọng điểm, từng vùng lãnh thổ của thị xã sẽ chú trọng phát triển các khu công nghiệp để làm hạt nhân phát triển và chuyển dịch CCKT vùng, địa phương. Nghiên cứu kinh nghiệm của các địa phương bạn để xây dựng các khu kinh tế mở thu hút đầu tư nước ngoài. III. Các giải pháp chủ yếu nhằm chuyển dịch CCKT ở thị xã Uông Bí. Xuất phát từ những hạn chế trong quá trình chuyển dịch CCKT của thị xã Uông Bí thời gian qua, đề tài đã đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện quá trình chuyển dịch những năm tới được thành công hơn. 1. Các giải pháp về quy hoạch và bố trí các cụm kinh tế. 1.1. Vùng thấp: Vùng phát triển đô thị bao gồm xã Phương Nam, Phương Đông, phường Yên Thanh, một phần của phường Quang Trung, Thanh Sơn, Trưng Vương, Nam Khê. Hướng bố trí CCKT vùng này là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Định hướng phát triển kinh tế là từng bước nâng cấp, phát triển các khu đô thị một cách toàn diện về kết cấu hạ tầng bao gồm đường giao thông nội thị, hệ thống cấp nước và thoát nước, các công trình dịch vụ công cộng, thương mại, giáo dục, y tế, văn hoá, hệ thống cây xanh... kết hợp với phát triển nông nghiệp, thuỷ sản, đây là vùng tập trung thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Về nông nghiệp cần tập trung cho phát triển thâm canh trồng lúa và rau, quả thực phẩm, trồng hoa, cây cảnh ven trục đường 18A, chăn nuôi lợn, gia cầm, phát triển vùng nuôi trồng thuỷ sản có hiệu quả kinh tế cao, phục vụ cho xuất khẩu. 1.2. Vùng cao: Là vùng đồi núi, chủ yếu thuộc địa bàn xã Thượng Yên Công, một phần của xã Phương Đông, phường Vàng Danh, Bắc Sơn, Thanh Sơn. Vùng này có diện tích rừng núi lớn, có vùng lúa ven đường 18B và diện tích có thể trồng màu, trồng cây ăn quả lớn, có rừng đặc dụng và khu du lịch Yên Tử. Hướng bố trí CCKT của vùng là lâm nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch. Tập trung sản xuất trồng màu, trồng rừng, trồng cây ăn quả, chăn nuôi lợn, gà, đại gia súc, theo hướng nông, lâm kết hợp. Phát triển du lịch và dịch vụ cùng với việc phát triển công nghiệp khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng và các ngành công nghiệp khác. 2. Giải pháp về đẩy mạnh phát triển kinh tế. 2.1. Phát triển ngành nông, lâm, thuỷ sản. Về sản xuất lương thực: Đưa giống lúa mới có năng suất cao vào sản xuất đại trà, cấy trên diện tích canh tác là 1776 ha với năng suất bình quân từ 41,2 tạ/ha (2004) lên 53 tạ/ha (2010). Xây dựng xã Phương Nam thành khu vực trồng lúa điển hình của Thị xã. Đồng thời tập trung phát triển 180 ha ngô Đông xuân, đưa năng suất bình quân từ 21 tạ/ha (2004) lên 30 tạ/ha (2010), giảm dần diện tích trồng khoai lang, đưa diện tích gieo trồng khoai lang từ 231 ha (2004) xuống còn 130ha (2010), bỏ hẳn diện tích trồng sắn để chuyển sang trồng cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn. Về trồng cây công nghiệp ngắn ngày: Cần đưa các giống cây có giá trị kinh tế cao như lạc, đậu tương... có khả năng phát triển và mở rộng trên những khu đất cao, lưng đồi và khu đất dốc ở khu vực xã Thượng Yên Công, Phương Đông, phường Vàng Danh, Bắc Sơn. Rau quả: Cần bố trí 400 ha diện tích canh tác của phường Quang Trung, Yên Thanh, Nam Khê chuyên trồng rau, quả và xây dựng khu vực này thành vùng chuyên canh tập trung gồm các chủng loại rau, quả sản xuất rau sạch, chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu về rau, quả đối với người dân thành thị và khu công nghiệp. Trong quá trình canh tác cần áp dụng KHKT như luân canh, xen canh, gối vụ, chăm bón và gieo trồng theo phương pháp khoa học để đảm bảo sản lượng rau sạch, cung cấp đủ cho thị trường nội thị và cung cấp cho thành phố Hạ Long và các vùng lân cận. Cây ăn quả: Cần nhân rộng và bố trí sản xuất tập trung các trang trại với hình thức canh tác vườn rừng, vườn đồi. Đồng thời chăm sóc trên 100ha cây ăn quả hiện có của các hộ gia đình, thay thế và cải tạo những vườn đồi có cây trồng đã cỗi hoặc giá trị kinh tế thấp bằng những loại giống cây mới có năng suất và giá trị kinh tế cao như: cam, quýt, xoài, vải, nhãn... Gắn kết với công nghiệp chế biến để tạo ra những sản phẩm đạt tiêu chuẩn cao, có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Về chăn nuôi: Phát triển ngành chăn nuôi toàn diện, chuyển chăn nuôi tận dụng sang chăn nuôi thâm canh, bán thâm canh. Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ chăn nuôi. Tận dụng tiềm năng về đồi rừng để chăn nuôi đàn trâu, bò và phát triển đàn dê, phát triển mạnh chăn nuôi lợn hướng nạc, chăn nuôi theo vùng tập trung, hình thức chăn nuôi hộ gia đình, trang trại có quy mô lớn. Chăn nuôi gia cầm theo hướng phát triển mạnh mẽ các trang trại, trồng cây ăn quả kết hợp với chăn nuôi trong chuồng và thả vườn. Phát triển chăn nuôi gà công nghiệp lấy thịt, trứng ở các hộ và các trang trại. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư hoặc xây dựng, liên doanh liên kết để có nhà máy chế biến sản phẩm chăn nuôi. Về nuôi trồng thuỷ sản: Hiện tại thị xã có trên 1000 ha diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Song không đáp ứng được nhu cầu của nhân dân ngày càng tăng về thuỷ sản. Do đó, cần chuyển một phần diện tích đất trũng, khó khăn trong việc cấy lúa sang diện tích 1 lúa 1 cá hoặc sang diện tích chuyên nuôi trồng thuỷ sản. Phấn đấu đến năm 2010 đạt 1.200 ha diện tích nuôi trồng thuỷ sản, sản lượng đánh bắt, nuôi trồng đạt 800 tấn tôm, cá các loại . Phát triển lâm nghiệp, tập trung chăm sóc, khoanh nuôi bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng kết hợp với kinh tế bảo vệ cảnh quan môi trường, kết hợp thăm quan, du lịch di tích lịch sử và sinh thái. 2.2. Phát triển ngành công nghiệp. Trên cơ sở thực trạng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã có, cần xây dựng thêm các khu công nghiệp mới. Trên cơ sở các chính sách ưu đãi của thị xã để thu hút vốn của các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đầu tư, liên doanh, liên kết sản xuất. Xây dựng các khu công nghiệp tập trung tại khu công nghiệp Chạp Khê (phường Nam Khê) và khu Dốc Đỏ (xã Phương Đông), khu Yên Thanh (phường Yên Thanh). Phát triển các làng nghề thủ công, ngành nghề mới, từng bước công nghiệp hoá, ứng dụng công nghệ tiên tiến đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng, xuất khẩu sản phẩm đặc biệt của các làng nghề truyền thống và các làng nghề làm vệ tinh cho các khu công nghiệp. Khôi phục và phát triển các ngành nghề phục vụ cho sản xuất nông, lâm, thuỷ sản của hộ gia đình như cơ khí nhỏ, sản xuất và sửa chữa công cụ, cải tiến một số công cụ cầm tay để tạo ra năng suất lao động cao hơn. Đưa cơ giới nhỏ vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, đặc biệt là khâu làm đất phù hợp với địa hình, đất đai như máy cày, máy bừa, máy tuốt lúa, máy chế biến nông, lâm sản, máy móc vận chuyển... có công suất nhỏ phù hợp thực tế và nguồn nguyên liệu tại chỗ, khai thác hợp lý các nguồn vật liệu xây dựng mà thị xã có ưu thế như: khai thác đá, sản xuất gạch, cát, sỏi, cung cấp cho nhu cầu xây dựng ngày càng tăng. Quy hoạch và cấp giấy phép đối với các cơ sở sản xuất vật liệu tại chỗ như: khai thác đá, sản xuất gạch, ngói, cát, sỏi... có chính sách ưu đãi như: giảm hoặc miễn thuế tài nguyên hoặc một số loại phí, lệ phí... 2.3. Phát triển ngành dịch vụ. 2.3.1. Về dịch vụ thương mại: Cần xây dựng chợ đầu mối tại trung tâm thương mại, dịch vụ Cầu Sến (điểm giao lưu giữa đường 10 và đường 18A), củng cố, nâng cấp chợ Trung tâm thị xã và xây dựng mới 3 chợ xã, phường là: Thượng Yên Công, xã Phương Đông và xã Phương Nam. Dịch vụ, thương mại cần được chú ý phát triển đảm bảo sự lưu thông hàng hoá giữa các xã, phường và khai thông luồng hàng hướng tới thị trường trong tỉnh và ngoài tỉnh, đảm bảo tiêu thụ các hàng hoá và dịch vụ của thị xã. Khuyến khích các nhà buôn chuyên về một số mặt hàng nhất định, tạo điều kiện cho họ tổ chức thu gom nông sản như: rau quả, sản phẩm gia súc thông qua kí kết hợp đồng với hộ hoặc nhóm hộ nông dân để tiêu thụ sản phẩm giải quyết dịch vụ đầu ra cho sản xuất. Hệ thống dịch vụ sản xuất cần được giữ vững và củng cố như mạng lưới vật tư nông nghiệp để cung cấp phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc thú y, giống cây trồng, vật nuôi... Cần phát triển mạnh hệ thống khuyến nông cơ sở để phổ biến kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi cho người dân, đồng thời xây dựng các mô hình trình diễn ứng dụng vừa dễ làm, dễ hiểu và đạt hiệu quả cao. 2.3.2. Về dịch vụ du lịch: Đây là một ngành đang được thị xã quan tâm đầu tư phát triển. Trên cơ sở các tiềm năng du lịch sẵn có cần có hướng tăng cường hợp tác với các cơ quan, đơn vị kinh doanh dịch vụ, du lịch trong và ngoài tỉnh tạo điều kiện đầu tư, bảo tồn, tôn tạo hệ thống các di tích, danh thắng, khôi phục các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể các điểm du lịch tạo thành các tuyến du lịch chung của tỉnh và tỉnh ngoài từ đó khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch đảm bảo tăng nguồn thu cho ngân sách thị xã. 3. Giải pháp về tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng. 3.1. Về giao thông: Phối hợp với các cơ sở kinh tế Trung ương và Tỉnh đầu tư nâng cấp các tuyến đường trục đi cảng Điền Công, cảng Bạch Thái Bưởi, đường vào khu du lịch Lựng Xanh, đường từ cầu Hai Thanh vào khu dân cư Bắc Sơn, mở rộng và bê tông hoá các tuyến đường liên xã, phường, đường nội bộ xã, phường, trung tâm thương mại để lưu thông hàng hoá trong nội thị xã và các vùng phụ cận khác. Xây dựng thêm một số cầu qua kênh, suối như: cầu qua sông Vàng Danh, cầu Phong Thái qua kênh Phương Nam. Đầu tư nâng cấp hệ thống cảng sông phục vụ cho nhu cầu vận chuyển than, vận chuyển hàng hoá ngoại thị xã: cảng Điền Công, cảng bạch Thái Bưởi, cảng Bến Dừa, tạo điều kiện phát triển ngành nghề vận chuyển đường sông, giải quyết đầu ra cho các hoạt động sản xuất khác. 3.2. Hệ thống cấp điện. Cần nâng cấp và xây dựng mới 50 km lưới điện hạ thế đã xuống cấp, lắp thêm 15 trạm biến thế mới để đáp ứng nhu cầu điện cho sản xuất và sinh hoạt phục vụ đời sống nhân dân. 3.3. Hệ thống cấp nước sinh hoạt. Cần thực hiện xây dựng hoàn chỉnh nhà máy nước pôlivôn với công suất 3000m3/ngày đêm đã được UBND tỉnh phê duyệt. Lắp đặt thêm hệ thống ống dẫn nước sinh hoạt tới các vùng tập trung dân cư, nhất là khu dân cư vùng ven bãi triều phường Yên Thanh, xã Phương Nam, Phương Đông để cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư khu vực này, đến năm 2010 cung cấp đảm bảo 95% nước sạch cho nhân dân thị xã. 3.4. Y tế, giáo dục. Cần nâng cấp và sửa chữa 4 trạm y tế, tăng cường cơ sở vật chất cho 10 trạm y tế để đảm bảo khám và chữa bệnh cho nhân dân. Cần được nâng cấp và cao tầng hoá 8 trường tiểu học và 4 trường trung học cơ sở. 4. Giải pháp về phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ. Cần có sự phối hợp và tạo điều kiện cho các hoat động nghiên cứu khoa học - công nghệ và ứng dụng của các cơ sở nghiên cứu thuộc hệ thống các trường đào tạo của Trung ương và của tỉnh cũng như của các doanh nghiệp trên địa bàn nhằm thực hiện chuyển giao công nghệ, xúc tiến việc ứng dụng công nghệ mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Chú trọng việc ứng dụng công nghệ sinh học trong phát triển nông, lâm, thuỷ sản. Đặc biệt chú trọng đến những ứng dụng công nghệ mới trong phát triển nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp là dịch vụ tại chỗ và cho các thành phố lớn như: Hải Phòng, Hạ Long nhằm cung cấp thực phẩm và rau quả sạch, tiến tới thâm nhập và chiếm lĩnh các thị trường này. Khuyến khích và tạo điều kiện ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao trong các hoạt động công nghiệp chế tác, nhất là đối với khu công nghiệp mới: Chạp Khê, Yên Thanh. ứng dụng trang bị những công nghệ hiện đại và phù hợp trong hoạt động kinh doanh dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ du lịch khu di tích lịch sử Yên Tử, Hồ Yên Trung, Lựng Xanh... 5. Giải pháp về một số cơ chế quản lý và chính sách. 5.1. Về chính sách huy động vốn sản xuất. Tranh thủ triệt để các nguồn vốn viện trợ của nước ngoài thông qua các chương trình và dự án nhà nước về xoá đói, giảm nghèo, y tế, giáo dục, nước sạch, vệ sinh môi trường... đảm bảo có hiệu quả các chương trình của dự án đó. Tăng cường quản lí đất đai, đặc biệt là đất đô thị, phối hợp với tỉnh tạo điều kiện có thể huy động được vốn đầu tư phát triển trên cơ sở thu tiền sử dụng đất để đầu tư xây dựng. Khuyến khích phát triển các dịch vụ tài chính, ngân hàng nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động thanh toán, quỹ tín dụng nhân dân ở các xã, phường huy động nguồn vốn ở các tổ chức đoàn thể xã hội... xoá bỏ tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn. Cải cách hệ thống hành chính một cách mạnh mẽ và tích cực hơn nữa nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Cần phải có các chính sách ưu đãi hấp dẫn để các nhà đầu tư tham gia và yên tâm đầu tư trên địa bàn, khuyến khích họ đầu tư vào các lĩnh vực địa phương có thế mạnh. Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng các hình thức bán trả góp các máy móc, vật tư, thiết bị nông nghiệp cho nông dân, ứng vốn cho dân vay sản xuất nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến và ngành nghề ở nông thôn. 5.2. Chính sách về đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Xây dựng hệ thống chính sách và cơ chế sử dụng nhân tài, nhân lực được đào tạo. Cần có quy chế về sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo để giảm lãng phí “chất xám”. Trả lương, tiền công theo kết quả công việc, trả thù lao thích đáng cho những sáng kiến có giá trị kinh tế - xã hội. Mở rộng quy mô giáo dục - đào tạo đối với nguồn nhân lực chưa qua đào tạo. Cần có sự phối hợp với các trường dạy nghề trên địa bàn thị xã để đào tạo nghề cho lực lượng lao động. Có thể đào tạo qua các trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm của nhà nước, của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, các tổ chức xã hội hay đào tạo nghề tư nhân dưới hình thức dân gian như: thợ cả, thợ phụ kèm người học nghề, cha chú anh em họ hàng truyền nghề cho nhau... Mở các lớp ngắn ngày chuyển giao KHKT về vật nuôi, cây trồng cho dân cư, các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho cán bộ xã, phường, thôn, khu... 5.3. Về chính sách ruộng đất. Giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân về đất đai với quyền sử dụng đất của tập thể và cá nhân. Để giải quyết vấn đề này cần phải giao đất đai cho người trực tiếp sản xuất để họ có quyền sử dụng, chuyển đổi, cho thuê, thừa kế, thế chấp hoặc góp vốn liên doanh. Đẩy nhanh việc tích tụ, tập trung ruộng đất trong nông nghiệp, nông thôn của thị xã kèm theo việc chống tình trạng bần cùng hoá một bộ phận nông dân do mất ruộng đất gây ra. Tích tụ, tập trung ruộng đất sẽ dẫn đến một bộ phận nông dân sẽ bị bần cùng hoá. Đây là mặt trái của quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất, để giải quyết vấn đề này cần tăng cường đầu tư phát triển ngành nghề và dịch vụ sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn, nhằm tạo ra sự chuyển dịch tích cực của quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp, nông thôn, để giải quyết tận gốc tình trạng bần cùng hoá do quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất gây ra. 5.4. Chính sách về thị trường. Mở rộng thị trường là điều kiện đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Bởi vì có mở rộng ra bên ngoài thị trường mới tiêu thụ được sản phẩm, để tiêu thụ được sản phẩm phải nghiên cứu dự báo nhu cầu thị trường, về dung lượng thị trường, giá cả và thói quen của người tiêu dùng. Đồng thời phát triển rộng rãi các hoạt động tiếp thị, thúc đẩy phát triển các quan hệ kinh tế thị trường. Chủ yếu là thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường đất đai và các yếu tố sản xuất khác. Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp. Ngành công nghiệp của thị xã phát triển, nhất là công nghiệp chế biến, nên cần phải tìm đầu ra cho các sản phẩm ngành công nghiệp này. Do vậy không những mở rộng thị trường trong nước mà còn phải mở rộng thị trường quốc tế. Để mở rộng ra thị trường quốc tế cần phải tạo điều kiện cho các công ty nước ngoài đầu tư vào vùng cần được khuyến khích để sản xuất hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ nhận gia công hàng cho nước ngoài tiến tới nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Trong khi mở rộng thị trường quốc tế cũng cần phải sản xuất hàng công nghiệp chế biến đa dạng về chất lượng, mẫu mã chủng loại để đáp ứng nhu cầu thị trường trong khu vực bằng uy tín, chất lượng, giá cả. 5.5. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Thời gian tới, thị xã nên có những cơ chế tăng khả năng tiếp nhận thông tin của các thành phần, có thêm nhiều cải cách hành chính mạnh dạn hơn để các thành phần có khả năng phát triển sản xuất kinh doanh và tự mở rộng qui mô của mình. Điều quan trọng là thị xã cần phải có những qui hoạch tổng thể cũng như chi tiết nhằm định hướng cho các thành phần phát triển một cách thuận lợi và hiệu quả nhất trong bối cảnh thực tế của địa phương. Trên đây chỉ là các nhóm giải pháp được đề ra cho những bước đi ban đầu của quá trình chuyển dịch CCKT ở thị xã Uông Bí. Trong các giải pháp đã nêu thì có thể coi nhóm giải pháp về cơ chế chính sách và qui hoạch có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch CCKT những năm tới của thị xã. Những bước tiếp theo của quá trình trên, chắc chắn sẽ cần phải bổ sung các giải pháp khác để tiếp tục thúc đẩy tiến trình chuyển dịch CCKT phức tạp này. Lời kết. Để tránh được nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước trên thế giới, để có thể thực hiện hội nhập kinh tế trong điều kiện mới thành công và chủ động hơn, Đảng và nhà nước ta đã xác định con đường ngắn nhất, thích hợp nhất là thực hiện quá trình CNH- HĐH toàn diện. Một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của CNH- HĐH đã được thực hiện phổ biến trong thời gian qua và sẽ được tiếp tục thực hiện trong thời gian tới ở nước ta là tiến hành xây dựng một CCKT hợp lý, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực. Cùng với xu thế chung của cả nước, thực hiện chủ trương, đường lối chính sách của TW, của tỉnh, Đảng bộ và nhân dân thị xã Uông Bí thời gian qua đã tích cực thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch CCKT, coi nhiệm vụ này là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm phát triển kinh tế thị xã. Qua quá trình nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp thực hiện chuyển dịch CCKT tại thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2005- 2010” , luận văn đã rút ra được một số kết luận mang tính tổng kết như sau: Thứ nhất, luận văn đã xác lập cơ sở lý luận nghiên cứu về quá trình chuyển dịch CCKT thông qua việc làm rõ quá trình chuyển dịch CCKT ở thị xã Uông Bí tỉnh Quảng Ninh và khẳng định đây là hiện tượng kinh tế khách quan, phản ánh sự phát triển về lượng cũng như về chất của các ngành kinh tế. Luận văn cũng nhấn mạnh sự chuyển dịch CCKT không diễn ra một cách nhanh chóng mà phát triển dần dần từ thấp đến cao và vận động theo các quy luật riêng của nó. Để các ngành kinh tế phát triển nhanh cần phải đẩy mạnh quá trình chuyển dịch CCKT, đây là một yêu cầu đòi hỏi rất bức thiết trong tình hình đổi mới kinh tế hiện nay. Thứ hai, luận văn đã phân tích được tình hình chuyển dịch CCKT ở thị xã trong thời gian qua và đưa ra nhận định: các ngành kinh tế của thị xã đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, trong nội bộ ngành, sự chuyển dịch cơ cấu cũng diễn ra theo chiều hướng tích cực. Cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ cũng chuyển dịch khá hợp lý, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã được khuyến khích phát triển bình đẳng, các vùng lãnh thổ phát triển toàn diện và bước đầu đã khai thác được hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Thứ ba, luận văn cũng đã làm rõ: những thành tích và kết quả đạt được nói trên mới chỉ là khởi đầu, nếu so với yêu cầu đặt ra của sự phát triển kinh tế ở thị xã Uông Bí thì những kết quả đó còn thấp và chưa đạt được yêu cầu đặt ra. Điều này được thể hiện một bộ phận dân cư vẫn chưa thoát khỏi tình trạng thuần nông thu nhập thấp. Bằng các số liệu có căn cứ, luận văn cũng đã chỉ rõ trong nội bộ ngành nông nghiệp tỷ lệ cơ cấu ngành trồng trọt vẫn cao so với ngành chăn nuôi, cơ cấu tỷ lệ trồng cây lúa cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ cơ cấu trồng màu, rau, quả, thực phẩm, cây công nghiệp và cây ăn quả... Số liệu cũng đã chỉ rõ quá trình chuyển dịch CCKT ở thị xã là đúng hướng nhưng diễn ra còn chậm. Thứ tư, định hướng chuyển dịch CCKT của thị xã thể hiện rõ sự chuyển dịch CCKT theo hướng đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế trên cơ sở khai thác có hiệu quả các tiềm năng của các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế. Đến năm 2005, CCKT của các ngành ở thị xã Uông Bí sẽ đạt theo thứ tự ngành nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ như sau 4,74% : 71,07% : 24,19% và tương tự cho năm 2010 2,92% : 71,63% : 25,45% (gắn với từng ngành). Cuối cùng, luận văn cũng đưa ra được một số giải pháp chủ yếu để chuyển dịch CCKT của thị xã Uông Bí như: quy hoạch và bố trí các cụm kinh tế; đẩy mạnh phát triển kinh tế; tăng cường cơ sở hạ tầng; áp dụng tiến bộ KHKT; cơ chế quản lý và chính sách. Tập hợp các giải pháp mà chuyên đề đã đưa ra để tạo điều kiện và hành lang pháp lý thuận lợi cho việc khai thác các tiềm năng nội sinh lẫn ngoại sinh nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT của thị xã. Chắc chắn trong quá trình chuyển dịch sẽ nảy sinh những vấn đề mới cần giải quyết, khi đó cần phải bổ sung thêm các giải pháp mới để có thể tiếp tục đưa kinh tế của thị xã Uông Bí phát triển. Danh mục các chữ viết tắt. TT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa 1 CCKT Cơ cấu kinh tế 2 CNH- HĐH Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá 3 CN- TTCN Công nghiệp- Tiểu thủ công nghiệp 4 ĐVT Đơn vị tính 5 GTGT Giá trị gia tăng 6 GTSX Giá trị sản xuất 7 GTSL Giá trị sản lượng 8 KHKT Khoa học kỹ thuật Mục lục. Lời mở đầu 1 Chương 1: Sự cần thiết phải đẩy mạnh chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh 3 I. Những vấn đề lý luận về CCKT và chuyển dịch CCKT 3 II. Một số lý thuyết về chuyển dịch CCKT 13 III. Sự cần thiết phải thực hiện chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã Uông Bí 17 IV. Kinh nghiệm chuyển dịch CCKT của thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh 19 1. Những thành công trong quá trình chuyển dịch CCKT tại thị xã Cẩm Phả 19 2. Các biện pháp chuyển dịch CCKT đã được thực hiện tại thị xã Cẩm Phả 21 3. Bài học kinh nghiệm từ thực tế của thị xã Cẩm Phả 22 Chương 2: Thực trạng chuyển dịch CCKT ở thị xã Uông Bí 23 I. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của thị xã Uông Bí, Quảng Ninh 23 II. Khái quát về tình hình phát triển kinh tế xã hội của thị xã Uông Bí giai đoạn 2001- 2004 30 III. Đánh giá thực trạng chuyển dịch CCKT tại thị xã Uông Bí, Quảng Ninh 33 1. Chuyển dịch CCKT chung 33 2. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế ở thị xã Uông Bí 39 3. Đánh giá tác động của chuyển dịch CCKT đến sự phát triển kinh tế xã hội của thị xã Uông Bí 48 IV. Các biện pháp chuyển dịch CCKT đã được thực hiện trong thời gian qua ở thị xã Uông Bí 52 V. Những kết luận rút ra từ thực trạng chuyển dịch CCKT ở thị xã Uông Bí giai đoạn 2001- 2004 55 Chương 3: Phương hướng, giải pháp chuyển dịch CCKT tại thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh từ 2005 – 2010 58 I. Một số căn cứ để lựa chọn phương hướng, giải pháp 58 II. Quan điểm, phương hướng, mục tiêu chuyển dịch CCKT ở thị xã Uông Bí đến 2010 65 III. Các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện chuyển dịch CCKT ở thị xã Uông Bí giai đoạn 2005- 2010 71 Lời kết 79 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28154.doc
Tài liệu liên quan