Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH – HĐH : Công nghiệp hoá - hiện đại hoá DNVN : Doanh nghiệp Việt Nam DNXK : Doanh nghiệp xuất khẩu XNK : Xuất nhập khẩu KNXK : Kim ngạch xuất khẩu XK : Xuất khẩu NSNN : Ngân sách Nhà nước FAO : Tổ chức nông lương Liên hiệp Quốc TMQT : Thương mại Quốc tế MFN : Quy chế Tối huệ quốc WTO : Tổ chức Thương mại Quốc tế Công ty TNHH: Công ty Trách nhiệm hữu hạn VASEP : Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam KH – KT : Khoa học – Kĩ thuật FD

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A :Cục thực phẩm và dược phẩm Mỹ LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay trên thế giới đang có nhiều biến động, các cuộc khủng hoảng xảy ra trong khu vực tình trạng khủng bố ở nhiều quốc gia, các cuộc chiến tranh...Là một quốc gia đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, đứng trước bối cảnh kinh tế và chính trị phức tạp như vậy,Việt Nam cần phải có những đối sách thích hợp và kịp thời song vẫn không quên nhiệm vụ phát triển kinh tế. Giống như nhiều quốc gia đang phát triển khác, Việt nam rất coi trọng xuất khẩu, lấy xuất khẩu làm nền tảng, thu ngoại tệ nhằm phát triển nền kinh tế trong nước, kiến thiết và xây dựng cơ sở hạ tầng. Mặt khác, thị trường Mỹ là một trong những thị trường mang tính chất chiến lược đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tới. Đây là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới. Bên cạnh đó, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã chính thức đi vào thực tiễn từ ngày 17/10/2001. Việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này chẳng những tạo điều kiện thuận lợi để nền kinh tế Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập mà còn góp phần gia tăng sự phát triển và nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Với ưu thế là một quốc gia ven biển, giàu tiềm năng về thủy sản, có thể nói thủy sản là một mặt hàng xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế lớn, do đó từ lâu thủy sản đã giữ một vai trò quan trọng trong lĩnh vực xuất khẩu của nước ta , nhận thức được điều này, Nhà nước ta đã có những điều chỉnh và đầu tư thích hợp nhằm đẩy mạnh sự phát triển của ngành. Cho đến nay sau khi trải qua nhiều thăng trầm, ngành thủy sản nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể,với kim ngạch xuất khẩu tăng liên thục theo từng năm và luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao. Có thể nói ngành thủy sản đã trở thành một ngành kinh tế then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Theo số liệu của Bộ Thương mại Mỹ, trong năm 2009, kim ngạch xuất khẩu hàng thủy hải sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ là khoảng 677 triệu USD, đứng thứ tư về giá trị trong số những mặt hàng Việt Nam nhập vào Mỹ, sau hàng dệt may, đồ gỗ và giày dép. Việt Nam vẫn là một trong 10 nước có kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản lớn nhất sang Mỹ. Theo dự báo của Bộ Công thương năm 2010 nền kinh tế thế giới cũng như kinh tế Mỹ đang trên đà phục hồi nhanh chóng thì sản lượng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ sẽ tăng cao hơn nhiều so với những năm trước. Ngành thủy sản phấn đấu phát triển với mục tiêu năm 2015, sản lượng tăng 2,76% năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 6,0 tỷ USD; đến năm 2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,0 tỷ USD thì tiềm năng thị trường Mỹ là không thể bỏ qua. Điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu để tìm ra những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ. Xuất phát từ thực tế đó, trải qua một thời gian nghiên cứu và thực tập tại vụ Kế hoạch- Bộ Công thương, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ” Đây là một đề tài không phải là mới song vẫn mang tính thời sự của nó. Do điều kiện thời gian cũng như những hạn chế nhất định về kiến thức cũng như kinh nghiệm, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các anh chị tại địa điểm thực tập để hoàn thiên tốt hơn bài chuyên đề thực tập này. Nôi dung chuyên đề thực tập này được trình bày gồm 3 phần: Phần 1: Lời mở đầu Phần 2: Phần nội dung Chương I: Cơ sở lí luận về hoạt động xuất khẩu Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ Phần 3: Kết luận Đề tài này được hoàn thành là có sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của giáo viên hướng dẫn PGS.TS. Lê Thị Anh Vân và các anh chị trong Vụ Kế Hoạch - Bộ Công thương. Em xin chân thành cảm ơn. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU I. XUẤT KHẨU 1. Khái niệm Hoạt động xuất khẩu là hoạt động kinh doanh, buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và nâng cao mức sống của nhân dân. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực và vô cùng đa dạng. Từ xuất khẩu nguyên liệu đến những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao như phần mềm máy vi tính…Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên diện rộng cả về thời gian và không gian. Có hoạt động xuất khẩu diễn ra trong thời gian ngắn, phạm vi hẹp ngược lại có những hoạt động kéo dài đến hàng năm và hàng hoá phải vượt qua hàng ngàn cây số. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Như vậy, xuất khẩu là hoạt động kinh doanh có thể đem lại hiệu quả đột biến nhưng cũng có thể gây thiệt hại lớn vì phải đối đầu với một hoặc một số hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. 2. Các hình thức xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu có những hình thức chủ yếu sau: 2.1 Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu trong đó người bán (người sản xuất, người cung cấp) và người mua quan hệ trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thoả thuận về hàng hoá, giá cả và các điều kiện giao dịch khác. 2.2 Xuất khẩu gián tiếp Xuất khẩu gián tiếp là do việc nhà sản xuất thông qua dịch vụ độc lập của người trung gian thứ ba để tiến hành xuất khẩu các sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. Người trung gian phổ biến trong giao dịch quốc tế là đại lý và môi giới. 2.3 Buôn bán đối lưu Buôn bán đối lưu còn được gọi là hình thức xuất nhập khẩu liên kết, là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Mục đích của xuất khẩu không phải là thu ngoại tệ mà thu về một hàng hoá có giá trị tương đương. Hai hình thức buôn bán đối lưu chủ yếu là hàng đổi hàng và trao đổi bù trừ. 2.4 Gia công quốc tế Gia công quốc tế là hoạt động kinh doanh thương mại trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu bán bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Như vậy trong gia công quốc tế, hoạt động xuất khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất. 2.5 Tái xuất khẩu Tái xuất khẩu là hình thức thực hiện xuất khẩu trở lại sang các nước khác những hàng hoá đã mua ở nước ngoài nhưng chưa qua chế biến ở nước tái sản xuất. Có hai hình thức tái xuất khẩu: Kinh doanh chuyển khẩu: là mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) mà không làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá vào nước mình Tạm nhập, tái xuất: là việc mua bán hàng hoá của một nước để bán cho nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hoá ngoại thương có làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá nên làm thủ tục xuất khẩu mà không qua gia công chế biến 2.6 Xuất khẩu theo Nghị định thư Đây là hình thức mà doanh nghiệp tiến hành theo chỉ tiêu mà Nhà nước giao cho một hoặc một số mặt hàng nhất định cho Chính phủ nước ngoài trên cơ sở Nghị định thư đã kí kết giữa hai Chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng tránh được rủi ro trong thanh toán nhưng lại hạn chế về số lượng. Chỉ tiêu xuất khẩu được quyết định trước theo Nghị định thư giữa hai Chính phủ. 3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu Thúc đẩy xuất khẩu – nhân tố quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. Sự phát triển thương mại quốc tế giữa Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới là nhằm khai thác lợi thế so sánh của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Lợi thế so sánh bao gồm cả lợi thế tự nhiên và lợi thế đạt được nên sự phân công lao động trong tiến trình tăng trưởng trên cơ sở thúc đẩy xuất khẩu không ngừng thay đổi có lợi cho mỗi quốc gia. 3.1 Xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ. Trong các nguồn thu ngoại tệ cho Ngân sách quốc gia có một số nguồn thu chính: Xuất khẩu hàng hoá - dịch vụ, đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp, vay nợ của Chính phủ và tư nhân, kiều bào nước ngoài gửi về, các khoản thu viện trợ,...Tuy nhiên, chỉ có thu từ xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là tích cực nhất vì những lý do sau: không gây ra nợ nước ngoài như các khoản vay của Chính phủ và tư nhân; Chính phủ không bị phụ thuộc vào những ràng buộc và yêu sách của nước khác như các nguồn tài trợ từ bên ngoài; phần lớn ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu thuộc về các nhà sản xuất trong nước được tái đầu tư để phát triển sản xuất, không bị chuyển ra nước ngoài như nguồn đầu tư nước ngoài, qua đó cho phép nền kinh tế tăng trưởng chủ động, đỡ bị lệ thuộc vào bên ngoài. 3.2 Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước. Sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia đều đòi hỏi có các điều kiện về nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật. Song không phải bất cứ quốc gia nào cũng có đủ cả 4 điều kiện trên, trong thời gian hiện nay, các nước đang phát triển đều thiếu vốn, kỹ thuật, lại thừa lao động. Mặt khác, trong quá trình CNH - HĐH, để thực hiện tốt quá trình đòi hỏi nền kinh tế phải có cơ sở vật chất để tạo đà phát triển. Để khắc phục tình trạng này, các quốc gia phải nhập khẩu các thiết bị, máy móc, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Hoạt động xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ và các quốc gia có thể dùng nguồn thu này để nhập công nghệ phục vụ cho sản xuất. 3.3 Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Hoạt động xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ cho NSNN để đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu tư vốn, công nghệ cao cho những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn. Xuất khẩu tạo ra nguồn thu nhập cao cho người lao động, khi người lao động có thu nhập cao sẽ tạo ra nhu cầu cho các ngành sản xuất công nghiệp nhẹ, hàng điện tử, hàng cơ khí, làm nâng cao sản lượng của các ngành sản xuất hàng tiêu dùng. Tỷ trọng ngành công nghiệp ngày càng tăng kéo theo sự phát triển của ngành dịch vụ với tốc độ cao hơn.Thông qua các mối quan hệ trực tiếp, gián tiếp, hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hội nhập. Một nền kinh tế mà sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá thị trường thế giới đang có nhu cầu chứ không phải sản xuất và xuất khẩu những gì mà đất nước có. Điều này sẽ tạo cho sự dịch chuyển kinh tế của đất nước một cách hợp lý và phù hợp. 3.4 Xuất khẩu góp phần giải quyết việc làm cho xã hội và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế trong quan hệ thương mại quốc tế. Xuất khẩu tăng sẽ tạo điều kiện để tăng việc làm, đặc biệt trong ngành nông nghiệp, công nghiệp chế biến các sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp dệt may - là những ngành sử dụng nhiều lao động. Hoạt động xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp góp phần mở rộng sản xuất nông nghiệp, nâng cao giá trị nông sản, nâng cao thu nhập cho người nông dân, tạo ra nhu cầu về hàng công nghiệp tiêu dùng ở vùng nông thôn và hàng công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, cũng phải kể đến một hoạt động xuất khẩu góp phần giải quyết công ăn việc làm là xuất khẩu lao động và hoạt động sản xuất hàng gia công cho nước ngoài, đây là hoạt động rất phổ biến trong ngành may mặc ở nước ta và đã giải quyết được rất nhiều việc làm. 3.5 Xuất khẩu là cơ sở để thực hiện phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại của Đảng. Thông qua xuất khẩu, các quốc gia mới có điều kiện trao đổi hàng hoá - dịch vụ qua lại. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu là thiết thực góp phần thực hiện phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại của Việt Nam, thông qua: - Phát triển khối lượng hàng xuất khẩu ngày càng lớn ra thị trường các nước, nhất là những mặt hàng chủ lực, những sản phẩm mũi nhọn. - Mở rộng thị trường xuất khẩu sang những thị trường mới mà trước đây ta chưa xuất được nhiều. - Thông qua xuất khẩu nhằm khai thác hết tiềm năng của đối tác, tạo ra sức cạnh tranh nhiều mặt giữa các đối tác nước ngoài trong làm ăn, buôn bán với Việt Nam. Trong xu hướng hội nhập khu vực và thế giới, Việt Nam vừa phải học tập kinh nghiệm của các nước đã CNH trên thế giới và các nước khác trong khu vực có những thành công về vận dụng chiến lược thúc đẩy xuất khẩu có bảo hộ vừa phải tìm cách rút ngắn các bước đi, khai thác lợi thế về vốn, công nghệ đạt được thông qua FDI và thương mại quốc tế với các nước để nhanh chóng đuổi kịp các quốc gia khác. II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU 1. Luật pháp Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, pháp luật thực hiện vai trò của nó trên hai phương diện: Một là: Pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các doanh nghiệp nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ có thể làm tổn hại đến lợi ích của toàn xã hội. Hai là: Pháp luật là công cụ tạo ra môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bởi vì nhờ có pháp luật mà doanh nghiệp biết được cái gì được làm, cái gì không được làm, và đương nhiên cái gì được làm là được pháp luật bảo hộ quyền tự do. Trong nền kinh tế thị trường, quyền tự do kinh doanh là trung tâm, mục tiêu động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, tự do kinh doanh không có nghĩa là vô Chính phủ, là vô hạn mà nó được thực hiện trong sự tôn trọng lợi ích của xã hội, của nhân dân, của các chủ thể kinh doanh khác. Pháp luật không thể là những quy định hạn chế quyền tự do kinh doanh mà phải tạo tiền đề pháp lí cho sự ổn định của các quan hệ kinh doanh. Cơ chế thị trường lấy nguyên tắc “doanh nghiệp được làm những gì mà pháp luật không ngăn cấm” thay cho nguyên tắc “doanh nghiệp đựơc làm những gì mà pháp luật cho phép”. Pháp luật chỉ quy định những điều cấm và để tạo hành lang pháp lí cho doanh nghiệp hoạt động. 2. Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế sẽ giúp Nhà nước có thể điều khiển hoạt động của các doanh nghiệp. Có thể nói, mỗi chính sách kinh tế là một hành lang hướng dẫn hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt động một cách phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Chính sách thương mại là một trong những chính sách như vậy. Chính sách thương mại hướng tới sự phát triển của thị trường trong nước và quốc tế. Nhưng phần lớn các nhà hoạch định chính sách đều tập trung chủ yếu về thương mại quốc tế (TMQT). Chính sách TMQT có vai trò then chốt trong thương mại của quốc gia. Chính sách TMQT thường nhằm tới các mục tiêu chủ yếu sau: Thúc đẩy xuất khẩu Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ Định hướng tiêu dùng trong nước Nội dung chính của TMQT bao gồm: Chính sách thuế xuất nhập khẩu Hạn ngạch xuất nhập khẩu Chính sách tỉ giá hối đoái Bên cạnh chính sách thuế và hạn ngạch, Chính phủ còn thực hiện các biện pháp khác nhằm hỗ trợ giá xuất khẩu như phá gía đồng tiền, trợ giá xuất khẩu, ưu đãi tín dụng, trợ giúp các doanh nghiệp tăng cường khả năng tiếp cận với các thông tin TMQT, đào tạo kĩ năng xúc tiến thương mại cho cán bộ hoạt động xuất nhập khẩu. Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu Thuế quan là loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá XNK khi qua lĩnh vực thuế quan của một nước. Nhà nước sử dụng công cụ thuế quan nhằm mục tiêu: Một là, quản lý XNK, nâng cao hiệu quả hoạt động ngoaị thương, góp phần bảo vệ sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng; Hai là, tăng thu ngân sách. Tại Mĩ, thuế trong TMQT chiếm 1% tất cả các nguồn thu về thuế. Ở Việt Nam, thuế XNK chiếm khoảng 25% nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Hạn ngạch (Quota) Hạn ngạch được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng (hoặc giá trị) của một mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu sang hoặc nhập khẩu từ một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định, thông qua hình thức cấp giấy phép (quota xuất, nhập khẩu). Quota nhập khẩu là hình thức phổ biến hơn. Hạn ngạch thường là những quy định hạn chế về số lượng đối với những mặt hàng dễ đo đếm và có giá trị cao còn hạn chế trị giá đối với những mặt hàng khó đo đếm. Hàng rào phi thuế quan Đó là những quy định hành chính phân biệt đối xử nhằm chống lại hàng hoá nước ngoài và ủng hộ sản xuất nội địa. Như vậy chúng ta có thể khái quát hàng rào phi thuế quan là những khác biệt trong những quy định hoặc tập quán của các quốc gia làm cản trở sự lưu thông tự do của các hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất với các nước. Trợ cấp xuất khẩu Trợ cập xuất khẩu là những biện pháp của Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nhằm tăng nhanh số lượng hàng và trị giá kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Trợ cấp xuất khẩu là những biện pháp mà Chính phủ áp dụng như trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp hoặc là miễn thuế cho các nhà xuất khẩu trong nước (kể cả các nhà sản xuất và kinh doanh XNK). Mặt khác, Chính phủ có thể thực hiện một khoản cho vay ưu đãi đối với các bạn hàng nước ngoài để họ có điều kiện mua các sản phẩm do nước mình sản xuất ra và để xuất khẩu ra bên ngoài. Trong xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá, chính sách TMQT đã có những thay đổi căn bản về chất. Với việc thành lập các khu vực tự do thương mại thì phần lớn những hàng rào cản thông qua thuế nhập khẩu hoặc hạn ngạch bị dỡ bỏ, những biện pháp hỗ trợ xuất khẩu phải thực hiện hạn chế. 3. Công nghiệp Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia trên một ngành công nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sự hiện diện của các ngành công nghiệp liên quan và các ngành công nghiệp hỗ trợ. Có lợi thế thương mại tồn tại nếu các quốc gia khác nhau về khả năng công nghệ để sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ. Công nghiệp được định nghĩa là các kĩ thuật để biến đổi các tài nguyên thành các sản phẩm cần thiết. Lý do của thương mại trong lý thuyết lợi thế so sánh là sự khác biệt về mặt công nghệ giữa các nước. Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hoá như hiện nay thì cần đẩy mạnh việc áp dụng thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh XNK. Thương mại điện tử là sử dụng các phương pháp điện tử để làm thương mại.Thương mại điện tử (việc sử dụng Internet, Web…) sẽ giúp cho các doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về kinh tế - thương mại từ đó có thể xây dựng đựơc các chiến lược sản xuất và kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực và thị trường quốc tế…Thương mại quốc tế còn giúp các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, chi phí bán hàng và tiếp thị. Hiện nay, Việt Nam cũng như các nước đang phát triển, chính sách công nghệ và chính sách thương mại phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ và thống nhất với nhau trong chiến lược và kế hoạch phát triển. 4. Đặc điểm kinh tế - xã hội Theo lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia, mỗi một quốc gia có hệ thống bậc thang các yếu tố sản xuất. Các yếu tố sản xuất cơ bản (điều kiện khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý) và các yếu tố sản xuất mới (cơ sở hạ tầng, thị trường, trình độ lao động, khả năng nghiên cứu và phát triển, bí quyết công nghệ). Các yếu tố sản xuất mới là quan trọng hơn trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh. Không giống các yếu tố sản xuất cơ bản, các yếu tố sản xuất mới là kết quả đầu tư của Chính phủ, các công ty và cá nhân. Vì vậy, Chính phủ với các khoản đầu tư của mình vào các lĩnh vực cơ bản như giáo dục, nâng cao trình độ dân trí, khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển, nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo có thể cải thiện được thực trạng của các yếu tố sản xuất mới. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh nhấn mạnh rằng nhu cầu nội địa đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra động lực để nâng cao khả năng cạnh tranh. Vì vậy một nước xuất khẩu cần am hiểu thị trường nhập khẩu, am hiểu nhu cầu tiêu dùng của người dân điạ phương …để từ đó xây dựng kế hoạch tiếp cận thị trường có hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, việc xác định danh mục sản phẩm xuất khẩu chủ yếu đảm bảo phát huy được lợi thế so sánh của đất nước và hiệu quả kinh tế của xuất khẩu. Ở các nứơc đang phát triển, giá trị nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn, lao động trong nông nghiệp chiếm đại bộ phận, hoạt động dịch vụ nhỏ bé, lạc hậu. Do đó, hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam cần tập trung vào các ngành khai thác có lợi thế. Lợi thế về tài nguyên là các sản phẩm: dầu thô, thuỷ sản, gạo, cà phê…Trong đó nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản là nhóm hàng phải chịu nhiều hạn chế vì nhu cầu thế giới tăng chậm và giá cả không ổn định. Việc xem xét xuất khẩu sản phẩm gì là vấn đề quan trọng. Đối với một nước cần tạo ra sản phẩm chủ lực. Đấy là những sản phẩm có khả năng cạnh tranh, có lợi thế so sánh, có khả năng nâng cao năng suất và có tác dụng chuyển dịch cơ cấu ngành. 5. Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ sau khi Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kì có hiệu lực Với số dân trên 280 triệu người, mức tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản thực phẩm trung bình hàng năm trên 15 pounds/người và nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản hàng năm khoảng 11 tỷ USD. Mỹ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ 2 trên thế giới và cũng là thị trường tiêu thụ đa dạng về mặt hàng, giá trị và chất lượng. Hiện nay, khi Hiệp định thương mại song phương có hiệu lực, quy chế Tối huệ quốc (MFN) trong thương mại hàng hoá sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hàng thuỷ sản Việt Nam vào thị trường đầy hấp dẫn này với sự ưu đãi về mặt thuế suất thuế nhập khẩu MFN, chẳng hạn đối với thịt cua thuế suất MFN là 7,5%, phi MFN là 15%; ốc: thuế suất tương ứng là 5% và 20%; cá phi lê tươi và đông: 0% và 0-5.5 cent/kg; cá khô 4-7% và 25-30 %… Tuy nhiên, không phải tất cả các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam đều được hưởng lợi trực tiếp từ việc cắt giảm thuế nhập khẩu. Bởi vì, một số mặt hàng thuỷ sản không có sự chênh lệch về thuế khi được hưởng MFN và khi không được hưởng MFN, nhưng sẽ có lợi ích gián tiếp. Đó là khi Hiệp định có hiệu lực, số lượng khách hàng quan tâm đến hàng hoá Việt Nam chắc chắn sẽ tăng lên và các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng nói trên chắc chắn sẽ có nhiều lựa chọn cạnh tranh hơn so với trước đây. Tiếp đó, việc thực thi Hiệp định cũng sẽ khuyến khích việc tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại giữa hai nước như hội chợ, triểm lãm, trao đổi các phái đoàn và hội thảo thương mại tại lãnh thổ hai nước, cho phép các công dân và công ty hai nước quảng cáo sản phẩm dịch vụ bằng cách thoả thuận trực tiếp với các tổ chức thông tin quảng cáo… Mỗi bên cũng cho phép liên hệ và bán trực tiếp hàng hoá dịch vụ giữa các công dân và công ty của bên kia tới người sử dụng cuối cùng. Đây là cơ hội cho cả doanh nghiệp Việt Nam và Mỹ có điều kiện hiểu sâu về thị trường của nhau để mở rộng hoạt động buôn bán. Bên cạnh đó, đường lối của Đảng và Chính phủ thông thoáng tạo mọi cơ hội thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường thế giới và Nhà nước cũng đã dành nhiều sự quan tâm cho ngành thuỷ sản thông qua các trương trình như hỗ trợ đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng của ngành thuỷ sản, chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ để phát triển ngành thuỷ sản, trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản ra đời, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản đã xây dựng được những tiêu chuẩn quản trị quốc tế: HACCP, GMT, ISO 9000… cũng là những yếu tố quan trọng cho xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tăng nhanh. Mặc dù Hiệp định thương mại đem đến cho các doanh nghiệp Việt Nam những thuận lợi về chính sách, cơ chế xuất khẩu hàng hoá và thuế nhập khẩu, nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, đó là: - Việc được hưởng quy chế MFN chưa phải là điểm quyết định để làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam, vì Mỹ đã áp dụng quy chế Tối huệ quốc với 136 nước thành viên WTO. Ngoài ra, Mỹ còn có ưu đãi đặc biệt với các nước chậm và đang phát triển, nhưng Việt Nam chưa được hưởng chế độ này. - Sự cạnh tranh trên thị trường này sẽ ngày càng quyết liệt. Hiện nay, có hơn 100 nước xuất khẩu đủ loại hàng thuỷ sản vào Mỹ, trong số đó có rất nhiều nước truyền thống lâu đời trong buôn bán thuỷ sản với Mỹ như Thái Lan (tôm sú đông, đồ hộp thuỷ sản), Trung Quốc (tôm đông, cá rô phi philê), Canada (tôm hùm, cua)… - Trong hơn 100 mặt hàng thuỷ sản thực phẩm nhập khẩu, Mỹ có nhu cầu cao về các hàng cao cấp tinh chế (tôm luộc, tôm bao bột, tôm hùm, cá philê, hộp thuỷ sản…) nhưng hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng sơ chế, tỉ lệ sản phẩm giá trị gia tăng thấp ( chỉ chiếm khoảng 19,75% giá trị xuất khẩu của Việt Nam). Cụ thể, với mặt hàng cá ngừ hiện nay Việt Nam mới chỉ xuất khẩu phần lớn cá ngừ tươi hoặc đông vào Mỹ (95% giá trị xuất khẩu cá ngừ) trong khi cá ngừ đóng hộp là hàng thuỷ sản tiêu thụ nhiều ở Mỹ thì giá trị xuất của Việt Nam không đáng kể (5%). Mỹ coi trọng cả nhập khẩu thuỷ sản phi thực phẩm bao gồm các sản phẩm hoá học gốc thuỷ sản, ngọc trai, cá cảnh…(giá trị nhập khẩu năm 2000 đạt 9 tỷ USD, chỉ kém hàng thuỷ sản thực phẩm 1 tỷ USD) nhưng ta mới chỉ chú trọng đến xuất khẩu thuỷ sản thực phẩm. - Thị trường Mỹ là một thị trường thuỷ sản “khó tính” của thế giới. Hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Mỹ phải qua sự kiểm tra chặt chẽ của Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Mỹ (FDA) theo các tiêu chuẩn HACCP. Thị trường Mỹ lại quá rộng lớn, ở quá xa Việt Nam dẫn đến chi phí vận tải và bảo hiểm lớn, doanh nghiệp Việt Nam mới tiếp cận thị trường này. - Một khó khăn trong lĩnh vực tiếp thị là hầu như chưa có doanh nghiệp nào của ta mở được văn phòng đại diện tại nước Mỹ. Hệ thống luật của Mỹ khá phức tạp, chặt chẽ và mới lạ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. - Năng lực chế biến thuỷ sản của ta cũng như cơ sở vật chất phục vụ cho đánh bắt, bảo quản còn nhiều bất cập. Trình độ tay nghề của công nhân ngành thuỷ sản không cao, và tình trạng thiếu vốn kinh doanh cũng ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ. III. KINH NGHIỆM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 1. Trung Quốc Kinh nghiệm đầu tiên, Chính phủ Trung Quốc xác định tập trung mở cửa kinh tế để phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu. Trung Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp để tăng sức cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu. Bao gồm: Trung Quốc ưu tiên phát triển các đặc khu kinh tế, mở cửa các cửa khẩu, chú trọng đến việc phát triển hoạt động biên mậu. Để giúp các DNXK thoát khỏi tình trạng lệ thuộc và thiếu năng động, Trung Quốc đã từng bước thực hiện các chính sách trợ cấp xuất khẩu, các công cụ về thuế, hỗ trợ về tài chính, chính sách tỷ giá hối đoái, hỗ trợ xúc tiến thương mại và tìm cách vượt qua rào cản về hàng rào kĩ thuật của các nước nhập khẩu cũng là một kinh nghiệm thành công trong việc phát triển thị trường xuất khẩu Bên cạnh đó Chính phủ Trung Quốc tiến hành đổi mới bộ máy tổ chức ngoại thương cho ngày càng gọn nhẹ, giảm bớt sự rườm rà trong thủ tục hành chính, giúp cho hoạt động xuất khẩu thuận lợi. Kinh nghiệm quan trọng trong thúc đẩy thị trường hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc là việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Trung Quốc đề ra kế hoạch lấy khoa học kỹ thuật để phát triển mậu dịch. Mục tiêu của kế hoạch này là hình thành môi trường kĩ thuật cao, đẩy nhanh tốc độ sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm kĩ thuật cao. Hàn Quốc Đối với Hàn Quốc, xuất khẩu luôn chiếm một tỷ trọng cao trong tổng GDP là thành quả của các biện pháp: Hàn Quốc không đánh thuế đối với mặt hàng xuất khẩu. Hàn Quốc cho phép tự do hoá xuất khẩu hầu hết các mặt hàng. chỉ rất ít các mặt hàng chịu sự điều tiết của Nhà nước Về tín dụng, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện tín dụng xuất khẩu dưới ba hình thức: Vốn xuất khẩu dành cho nhà cung cấp trong nước, vốn trực tiếp dành cho người mua nước ngoài, vốn cho vay lại bằng cách EXIMBANK của Hàn Quốc cho ngân hàng nước ngoài vay tiền với lãi xuất thấp để ngân hàng này cho người mua vay lại để mua hàng hoá của Hàn Quốc Cục xúc tiến thương mại của Hàn Quốc, Phòng Thương mại và Công nghiệp cùng với các Viện nghiên cứu thực hiện cung cấp miễn phí một cách dễ dàng các thông tin cần thiết về thị trường, cơ hội làm ăn. Mạng lưới các trung tâm cung cấp thông tin này được đặt ở nhiều nơi trên thế giới nhằm mục đích thu thập thông tin thị trường, kinh tế, chính trị từ các nước một cách nhanh nhất và cập nhật nhất. Chính phủ Hàn Quốc cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay ngắn hạn với lãi suất phù hợp để tìm kiếm, thâm nhập thị trường mới và những doanh nghiệp sản xuất để xuất khẩu những mặt hàng mới. Nhà nước còn hỗ trợ một phần về tài chính để giúp các doanh nghiệp này có thể tham dự hội chợ hay triển lãm ở nước ngoài nhằm mục đích giới thiệu và quảng cáo mặt hàng của minh với nước ngoài. Tóm lại, thị trường Mỹ đang mở ra nhiều triển vọng đối với sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam. Tuy vậy, để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của thuỷ sản Việt Nam, tạo ra vị thế ngày càng vững chắc của hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần nỗ lực nghiên cứu thị trường Mỹ, đánh giá đúng khả năng sản xuất và mạnh dạn đầu tư đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ chế biến và áp dụng quy trình quản lý chất lượng chặt chẽ hàng thuỷ sản xuất khẩu; tăng cường hoạt động Marketing CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ I. ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN MỸ Nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường năng động có sức tiêu thụ rộng lớn và có tính cạnh tranh cao. Thị trường Mỹ vừa là nơi thuận lợi cho đầu tư nước ngoài lại vừa là nơi đầu tư ra nước ngoài hàng đầu thế giới. Mỹ là nước đi đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực như công nghệ máy tính và viễn thông, nghiên cứu hàng không vũ trụ, công nghệ gen và hoá sinh và một số lĩnh vực kỹ thuật cao khác. Mỹ cũng là nước nông nghiệp hàng đầu thế giới. Mỹ còn là nước đi đầu trong quá trình quốc tế hoá kinh tế toàn cầu và thúc đẩy tự do hoá thương mại phát triển. Nhưng Mỹ cũng là nước hay dùng tự do hoá thương mại để yêu cầu các quốc gia khác mở cửa thị trường của họ cho các công ty của mình nhưng lại tìm cách bảo vệ nền sản xuất trong nước thông qua hệ thống các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường... Đ._.ây là nước nhập khẩu lớn hàng đầu thế giới (mỗi năm nhập khẩu tới trên 1000 tỷ USD hàng hoá) với nhu cầu rất đa dạng, nắm những đỉnh cao về khoa học - công nghệ, công nghệ nguồn. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết và phê chuẩn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá của ta, đồng thời thúc đẩy các nước đầu tư vào VIệt Nam để xuất sang Hoa Kỳ. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào Hoa Kỳ sẽ là dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí - điện, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt tiêu, nhân điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị công nghệ cao, phần mềm, máy bay, phương tiện vận tải, hoá chất, tân dược, sản phẩm cao su, chất dẻo nguyên liệu, lúa mỳ và nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc. Các ngành hàng trên, nhất là chế biến gỗ, chế biến thực phẩm, sản xuất đồ nhựa cần bắt tay ngay vào việc nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ để thâm nhập và đẩy mạnh xuất khẩu. Riêng một số ngành như dệt may, giày dép, chế biến hải sản đã dành sự quan tâm khá thích đáng trong việc nghiên cứu thị trường Mỹ từ trước khi ký kết Hiệp định nên hầu như đã ở thế sẵn sàng để xuất phát. Mỹ là nước xuất khẩu hải sản lớn thứ hai trên thế giới và cũng là nước nhập khẩu hải sản lớn thứ hai thế giới, sau Nhật Bản. Hàng năm, trung bình Mỹ phải nhập khẩu một lượng hải sản giá trị khoảng 4 tỷ USD từ các nước châu Á và cho đến năm 2006, thì giá trị xuất khẩu của Việt Nam chiếm khoảng 2,28% giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Mỹ từ các nước châu Á và 0,84% giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Mỹ từ các nước trên thế giới. Nước Mỹ với trên 302 triệu dân được xem là một thị trường đầy tiềm năng đối với mặt hàng thủy sản. Người Mỹ sử dụng gần 8%/ tổng sản lượng thủy sản thế giới, trong đó hơn một nửa có nguồn gốc nhập khẩu. Hiện nay, Mỹ có khoảng trên 1.000 doanh nghiệp chế biến thủy sản phải phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Mỗi năm, Mỹ nhập khẩu khoảng 13 tỷ USD thủy sản (trên 100 mặt hàng), trong đó, tôm chiếm 33%, cá hồi 10%, tôm hùm 9%, cá đáy 9%, cá ngừ 9%, sò điệp 2% và 27% các loại hải sản khác. Biểu đồ 2.1 Cơ cấu các mặt hàng thuỷ sản được thị trường Mỹ nhập khẩu hàng năm 1. Thị trường tôm tại Mỹ Tôm là mặt hàng được người tiêu dùng Mỹ rất ưa thích. Vì thế mà mặt hàng nhập khẩu chính của thị trường Mỹ là tôm các loại trong khi đây cũng là mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam. Trung bình một người Mỹ tiêu thụ khoảng 4 pound tôm/người/năm (trong đó, có 3 loại tôm được nhập khẩu nhiều nhất là tôm bóc vỏ còn đuôi, tôm chế biến và tôm còn vỏ bỏ đầu). Mỗi năm, Mỹ nhập khoảng 4 tỷ USD tôm từ các nước, chiếm 88% lượng tôm tiêu thụ của người Mỹ (trong đó, Thái Lan đứng vị trí thứ nhất và Việt Nam đứng vị trí thứ hai). Tôm đông là mặt hàng nhập khẩu số một của Mỹ trong nhiều năm qua và và cả trong tương lai. Mỹ đứng đầu thế giới về nhập khẩu mặt hàng này. Sau 10 năm, nhập khẩu tôm đông của Mỹ tăng từ 1,79 tỷ USD năm 1991 lên 3,756 tỷ USD năm 2000, là mức tăng trưởng cao nhất thế giới và đứng đầu thế giới về giá trị cũng như sản lượng nhập khẩu. Giá trị nhập khẩu tôm đông của Mỹ năm 2000 chiếm 37% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản và tăng gần 20% so với năm 1999 (năm 1999 là 3,138 tỷ USD). Năm 2001, Mỹ nhập khẩu tôm đông với khối lượng là 398 nghìn tấn và giá trị là 3.617 triệu USD, trong 8 tháng đầu năm 2002, Mỹ nhập khẩu 254 nghìn tấn tôm đông , tăng 14% so với cùng kỳ năm 2001. Như vậy, thị trường nhập khẩu tôm của Mỹ vẫn tăng trưởng với tốc độ cao. 2. Thị trường cá da trơn tại Mỹ Bên cạnh mặt hàng tôm thì mặt hàng cá da trơn cũng là sản phẩm được thị trường Mỹ ưa chuộng và nhập khẩu với sản lượng tương đối lớn. Theo số liệu mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ, trong tháng 9/2009, sản lượng chế biến cá da trơn nuôi nội địa tại nước này đạt tổng cộng 36,4 triệu pao, giảm 7% so với tháng 9/2008. Mức giá trung bình trả cho nhà sản xuất đạt 77,2 cent/pao, tuy có tăng 0,3 cent/pao so với tháng 8/2009 nhưng vẫn giảm 5,5 cent/pao so với cùng kỳ 2008. Như vậy, tình hình sản xuất của các nhà chế biến nội địa Mỹ vẫn chưa thể được cải thiện bất chấp nhiều nỗ lực của chính phủ nước này thời gian qua.Tuy nhiên cũng theo thống kê mới này, thị trường cá da trơn tại Mỹ đã có những tín hiệu tích cực rõ rệt. Riêng trong tháng 9/2009, mức tiêu thụ cá da trơn chế biến của người dân nước này đã đạt 18,9 triệu pound, tăng 2,1% so với tháng 8/2009 và 4,6% so với cùng kỳ 2008. Trong đó, chứng kiến xu hướng chuyển dịch từ tiêu thụ cá tươi sang cá đông lạnh của người tiêu dùng Mỹ. Cụ thể, trong khi lượng cá da trơn tươi bán ra chỉ đạt 6,4 triệu pound, giảm 2,8% so với tháng 8/2009 thì  tổng lượng cá đông lạnh bán ra trong tháng 9 đã lên tới 12,48 triệu pound, tăng 4,8% so với tháng 8/2009. Điều đáng chú ý là lượng cá da trơn đông lạnh bán ra vẫn tăng dù mức giá trung bình cho 1 pound cá loại này cao hơn 4 cent so với giá 1 pound cá tươi (2,53 USD/pao so với mức 2,49 USD/pao). Đặc biệt, lần đầu tiên trong nhiều tháng qua, lượng tồn kho cá da trơn tại thị trường này đã giảm, chỉ đạt 11,7 triệu pound, giảm 3,7% so với tháng 8/2009 và giảm 9,87% so với cùng kỳ 2008. Tuy nhiên, dường như các nước xuất khẩu mới là những đối tượng chính hưởng lợi từ sự phục hồi phần nào của thị trường cá da trơn taị Mỹ. Theo đó, lượng cá nước ngọt (bao gồm 2 loại chính là Ictalurus spp., và Pangasius spp.,) nhập khẩu vào nước này tính tới thời điểm tháng 8/2009 vẫn tiếp tục tăng mạnh, đạt 11,7 triệu pound, tăng 67% so với cùng kỳ 2008. Được coi là thị trường có nhiều thách thức đối với cá tra Việt Nam với những rào cản thuế quan và kỹ thuật, nhưng Mỹ vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng mạnh và ổn định về nhập khẩu mặt hàng này. Tháng 9/2009, Mỹ đã nhập khẩu trên 4 nghìn tấn cá tra Việt Nam, trị giá 13,48 triệu USD, tăng 77% về lượng và 75% về giá trị so với cùng kỳ. 9 tháng đầu năm, xuất khẩu cá tra sang thị trường này tăng gần 63% về giá trị đạt trên 95 triệu USD. Đây thực sự là cơ hội tốt cho các DNXK cá tra, basa Việt Nam nhằm chiếm lĩnh và củng cố vị thế tại thị trường quan trọng này. Tổ chức Nông Lương Liêp Hiệp quốc (FAO) dự báo tổng nhu cầu thuỷ sản và các sản phẩm thuỷ sản trên thế giới sẽ tăng gần 50 triệu tấn, từ 133 từ 133 triệu tấn năm 1999/2000 lên đạt 183 triệu tấn vào năm 2015 với tốc độ tăng trưởng bình quân 2,1%/năm, chậm lại chút ít so với tốc độ tăng 3,1% mỗi năm của 20 năm trước đó. Nhu cầu thuỷ sản dùng làm thực phẩm sẽ chiếm 137 triệu tấn. Tiêu thụ thuỷ sản tính theo đầu người trên toàn cầu sẽ tăng bình quân 0,8% trong giai đoạn đến năm 2015, giảm so với mức 1,5% đã đạt được trong 20 năm trước. Đến năm 2010, trung bình mỗi ngướiẽ tiêu thụ 18,4 kg thủy sản mỗi năm, và 19,1 kg vào năm 2015, so với 16,1 kg năm 1999/2000. Tiêu thụ cá và sản phẩm cá bình quân đầu người dự báo sẽ đạt 13,7 kg vào năm 2010 và 14,3 kg vào năm 2015, trong khi đó nhu cầu thuỷ sản có vỏ và các sản phẩm nuôi khác sẽ đạt mức tương ứng 4,7 và 4,8 kg/người. Hiện nay, Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới và chiếm 16,5% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản thế giới. Tuy rằng Mỹ là một trong những quốc gia chịu thiệt hại nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế hiện nay. Thương mại xuất nhập khẩu của Mỹ trong 7 tháng đầu năm giảm mạnh, tuy nhiên mặt hàng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Mỹ không hề suy giảm mà còn tăng đáng kể. Đây là một điểm sáng trong thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Vì thế đây là thị trường vô cùng rộng lớn và đầy triển vọng đối với ngành nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản Việt Nam. Sự năng động, khéo léo, thông minh của người Việt Nam cũng là yếu tố quan trọng để tăng vị thế của sản phẩm Việt Nam trên thị trường Mỹ. II. ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN VIỆT NAM 1. Tiềm năng thủy sản của Việt Nam Việt Nam là đất nước nằm trong bán đảo Trung Ấn, đựơc thiên nhiên phú cho nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nghành thuỷ sản. Với bờ biển dài hơn 3200 km trải dài suốt 13 vĩ độ Bắc Nam tạo nên sự khác nhau rõ rệt về các vùng khí hậu, thời tiết, chế độ thuỷ học ...Ven bờ có nhiều đảo, vùng vịnh và hàng vạn hécta đầm phá, ao hồ sông ngòi nội địa, thêm vào đó lại có ưu thế về vị trí nằm ở nơi giao lưu của các ngư trường chính, đây là khu vực được đánh giá là có trữ lượng hải sản lớn, phong phú về chủng loại và nhiều đặc sản quí. Việt Nam có thế mạnh về khai thác và nuôi trồng thuỷ sản trên cả 3 vùng nước mặn, ngọt, lợ. Nhờ có những nét đặc trưng như vậy mà nghề thuỷ sản Việt Nam gồm cả đánh bắt và nuôi trồng đã tồn tại và phát triển từ lâu đời,đến nay đã trải qua nhiều thăng trầm. Biển Việt Nam có trên 2.000 loài cá, trong đó khoảng 130 loài cá có giá trị kinh tế. Theo những đánh giá mới nhất, trữ lượng cá biển trong toàn vùng biển là 4,2 triệu tấn, trong đó sản lượng cho phép khai thác là 1,7 triệu tấn/năm, bao gồm 850 nghìn cá đáy, 700 nghìn tấn cá nổi nhỏ, 120 nghìn tấn cá nổi đại dương.Đến nay ngành thủy sản đã xác định được 544 loài cá thuộc 288 giống. Tiềm năng nguồn lợi thủy sản ước tính dao động trong khoảng 4,5-5 triệu tấn, sản lượng khai thác bền vững từ 1,8 đến 2 triệu tấn. Ngoài ra, nguồn lợi thủy sản nước ngọt cũng rất đa dạng như tôm càng xanh, cua đồng… sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt hằng năm đạt khoảng 200.000 tấn, tập trung chủ yếu ở khu vực Nam bộ. Nuôi trồng thủy sản có thể phát triển ở nhiều vùng sinh thái khác nhau. Tổng diện tích có thể phát triển nông - thủy sản là 2,2 triệu héc ta mặt nước. Từ năm 1985 đến 2008, ngành thủy sản tăng trưởng liên tục với tốc độ trung bình từ 6 - 10%/năm. Bên cạnh cá biển còn nhiều nguồn lợi tự nhiên như trên 1.600 loài giáp xác, sản lượng cho phép khai thác 50 - 60 nghìn tấn/năm, có giá trị cao là tôm biển, tôm hùm và tôm mũ ni, cua, ghẹ; khoảng 2.500 loài động vật thân mềm, trong đó có ý nghĩa kinh tế cao nhất là mực và bạch tuộc (cho phép khai thác 60 - 70 nghìn tấn/năm); hằng năm có thể khai thác từ 45 đến 50 nghìn tấn rong biển có giá trị kinh tế như rong câu, rong mơ v.v... Bên cạnh những thuận lợi về điều kiện tự nhiên,ngành thuỷ sản Việt Nam còn có lợi thế về tiềm năng lao động và giá cả sức lao động. Lao động nghề cá Việt Nam có số lượng dồi dào, thông minh ,khéo tay ,chăm chỉ ,có thể tiếp thu nhanh chóng và áp dụng sáng tạo công nghệ tiên tiến .... Ngoài ra nước ta còn có lợi thế của người đi sau: suất đầu tư và mức độ lệ thuộc vào công nghệ chưa cao nên có khả năng đầu tư những công nghệ hiện đại tiên tiến nhờ các tiến bộ nhanh chóng của cách mạng khoa học công nghệ ,đặc biệt trong công nghệ khai thác biển xa,công nghệ sinh học phục vụ nuôi thuỷ sản nhất là nuôi cá biển và nuôi giáp xác.... Từ những yếu tố trên chúng ta có thể thấy rằng Việt Nam rất có tiềm năng phát triển ngành thuỷ sản đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản. 2. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam Thủy sản là một trong những ngành kinh tế đem lại kim ngạch xuất khẩu cao cho Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng bình quân 18%/năm. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hàng thủy sản đã có mặt ở khoảng 160 thị trường trên thế giới. Sau khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mặt hàng thủy sản càng có điều kiện phát triển thuận lợi hơn. Tuy nhiên, ngành thủy sản cũng gặp phải không ít thách thức từ việc áp dụng các qui định của WTO... Việc xây dựng kế hoạch hành động quốc gia về phát triển và tăng trưởng bền vững cho ngành thủy sản là rất cần thiết và cấp bách. Năm 2008, xuất khẩu thủy sản đạt 4,5 tỉ USD với sản lượng trên 4,5 triệu tấn. Hiện nay, trong cả nước có khoảng 120.000 tàu thuyền nghề cá. Tổng diện tích sử dụng cho mục đích nuôi trồng thủy sản toàn quốc khoảng 1,1 triệu ha, với sản lượng (năm 2008) đạt 2,3 triệu tấn, trong đó cá tra, ba sa chiếm 1,3 triệu tấn, 450.000 tấn là tôm nước ngọt và lợ, còn lại là các mặt hàng thủy, hải sản khác. Trong các nước xuất khẩu thủy sản trên thế giới, Việt Nam được coi là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng thủy sản nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn1998-2008 đạt 18%/năm. Kể từ năm 2001, Việt Nam đã có tên trong nhóm 10 nước có xuất khẩu thuỷ sản mạnh nhất trên thế giới. Hiện nay, hàng thủy sản Việt Nam chiếm 3,7% thị phần trên thế giới và 0,3% tổng kim ngạch của toàn thế giới. Theo qui ước, nhóm sản phẩm nào có thị phần cao hơn chỉ số này được coi là “vượt mức” tức là có đủ năng lực cạnh tranh. Ba khối thị trường chính của xuất khẩu thủy sản của Việt Nam là Nhật Bản, Mỹ và EU với khoảng 60% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Ngoài ra, hàng thủy sản Việt Nam cũng đang bắt đầu thâm nhập vào thị trường mới phát triển như: Đông Âu, Trung Đông, châu Mỹ... Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, hiện hàng thuỷ sản Việt Nam đang có mặt ở 120 nước và vùng lãnh thổ. Trong 2 tháng đầu năm 2010, XK thuỷ sản tiếp tục tăng trưởng khá, với khối lượng trên 162 nghìn tấn, tương đương trên 540 triệu USD, tăng 21,9% về lượng và 18% về giá trị so với cùng kỳ năm 2009. EU tiếp tục là thị trường nhập khẩu lớn nhất thuỷ sản của VN, chiếm 23,7% kim ngạch; tiếp đến là Mỹ với 17,4% và Nhật Bản: 16,6%. Biểu đồ 2.2: Cơ cấu giá trị kim ngạch của các nước nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam đầu năm 2010 Năm 2009 xuất khẩu thuỷ sản của cả nước đạt 1,216 nghìn tấn, trị giá 4,25 tỷ USD, giảm 1,6% về lượng và 5,7% về giá trị so với năm 2008, lần đầu tiên giảm sau 13 năm. Góp phần đáng kể vào sự sụt giảm XK trong năm 2009 là thị trường EU – nhà nhập khẩu lớn nhất thuỷ sản Việt Nam, chiếm 25,8% kim ngạch XK. Xuất khẩu sang thị trường này giảm 4,2% về giá trị, đạt 1,096 tỷ USD, trong đó 5 thị trường đơn lẻ là Đức, Tây Ban Nha, Hà Lan, Italia và Bỉ chiếm 64% tổng nhập khẩu thuỷ sản từ Việt Nam vào khối này. XK sang Italia giảm mạnh nhất về giá trị (- 26,5%), sang Hà Lan giảm 16,9% và sang Tây Ban Nha giảm 2,7%. Sự vắng mặt của thị trường Nga 4 tháng đầu năm do lệnh cấm thuỷ sản Việt Nam từ cuối năm 2008 cũng là một yếu tố khiến XK thuỷ sản giảm, vì Nga vốn là thị trường đơn lẻ tiêu thụ nhiều nhất cá tra của Việt Nam trong năm 2008. Từ tháng 5 đến hết tháng 12/2009, Nga nhập khẩu 47,5 nghìn tấn thuỷ sản Việt Nam, trị giá 84,6 triệu USD, giảm lần lượt 62,1% và 61,2% so với cùng kỳ. Thị trường Nhật Bản vẫn đứng vị trí thứ 2 trong tốp các thị trường nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam với 758 triệu USD, giảm 8,5% so với năm 2009, tiếp đến là Mỹ với 713,3 triệu USD, giảm 4,2%. XK mực, bạch tuộc và cá ngừ, cá biển và các loại hải sản khác giảm đáng kể do sản lượng đánh bắt giảm do ảnh hưởng của các cơn bão lớn, Trung Quốc cấm biển và sự cạnh tranh giá thu mua nguyên liệu của giới thương gia Trung Quốc, dẫn đến tình trạng thiếu nguyên liệu trầm trọng trong các DN chế biến. Xuất khẩu cá ngừ giảm 4,1%, trong khi XK mực, bạch tuộc giảm 13,8%. XK các sản phẩm cá khác giảm 16%. Tuy nhiên, đây vẫn được coi là kết quả khả quan đối với các doanh nghiệp XK, trước những khó khăn về nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, những rào cản về kỹ thuật và thuế quan của các nước nhập khẩu...Về thị trường, đứng vị trí thứ 4, thứ 5 và thứ 6 trong tốp các thị trường chính của thuỷ sản Việt Nam, Hàn Quốc, ASEAN và Trung Quốc là những thị trường ổn định nhất đối với XK thuỷ sản của Việt Nam trong năm qua với mức tăng trưởng lần lượt là 2,3% và 6,9% và 38,4%. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đây là những thị trường thuận lợi về vị trí địa lý, yêu cầu kỹ thuật không khắt khe như những thị trường lớn khác. Năm 2009, Việt Nam XK 85 loại sản phẩm thuỷ sản sang 163 thị trường. Số lượng sản phẩm và thị trường XK đều tăng so với năm 2008, nhờ sự linh hoạt đa dạng hoá sản phẩm và thị trường của các doanh nghiệp XK. Trong đó, tôm đông lạnh là mặt hàng chiếm tỉ trọng cao nhất (39,4%), cá tra 31,6%, mực, bạch tuộc 6,45%, cá ngừ 4,26%, hàng khô 3,77%, cá biển và các loại hải sản khác chiếm 14,5%. Dưới đây là những nước nhập khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam với giá trị lớn năm 2009. Đứng đầu vẫn là Nhật Bản với 16.8% giá trị tổng kim ngạch xuất khẩu, sau đó là Hoa Kì chiếm 15.7% và cuối cùng vẫn là các nước EU… Bảng 2.1 Các nước nhập khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam có giá trị kim ngạch lớn nhất năm 2009 Tên nước Triệu USD Tỷ lệ Bỉ 108 2.4% Italia 115 2.5% Hà Lan 118 2.6% Trung Quốc 125 2.8% Ôtrâylia 129 2.9% Tây Ban Nha 154 3.4% Đức 211 4.7% Hàn Quốc 313 6.9% Hoa Kì 711 15.7% Nhật Bản 761 16.8% Các thị trường khác 1780 39.3% Tổng kim ngạch xuất khẩu 4525 100.0% (Nguồn Vụ Kế hoạch - Bộ Công thương) Hoa Kì là một trong những quốc gia chịu thiệt hại nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế hiện nay. Thương mại xuất nhập khẩu của Mỹ trong 7 tháng đầu năm giảm mạnh, tuy nhiên mặt hàng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Mỹ không hề suy giảm mà còn tăng đáng kể. Đây là một điểm sáng trong thị trường xuất khẩu của Việt Nam. 7 tháng đầu 2009, kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước đạt 2.17 tỷ USD, giảm 8.9% so với cùng kỳ năm trước. Mỹ là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ đứng sau Nhật Bản. Xuất khẩu thủy sản 7 tháng đầu năm của Việt Nam vào Mỹ đạt  380.83 triệu USD, tăng 11.36% và là một trong ít thị trường có kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng. Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng năm 2009 và so với cùng kỳ năm 2008  Biểu đồ 2.3 Xuất khẩu thuỷ sản 7 tháng đầu năm 2009 Nguồn: TCTK và Vietstock tổng hợp Quan sát biểu đồ trên cho thấy, 10 thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong 7 tháng đầu năm 2009 (chiếm 65.73% kim ngạch xuất khẩu thủy sản) có 5 thị trường tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2008. Trung Quốc tăng lớn nhất với gần 46%, tuy nhiên giá trị xuất khẩu vào thị trường này tương đối nhỏ (chỉ 52 triệu USD trong 7t/2009). Các thị trường khác như Hàn Quốc, Đức và Tây Ban Nha cũng đạt được tốc độ tăng trưởng khá. Từ biểu đồ trên ta cũng thấy được tầm quan trọng của Hoa Kỳ đối với mặt hàng thủy sản của Việt Nam. Bước sang năm 2010, đã có nhiều tín hiệu mới cho thấy, xuất khẩu thuỷ sản sẽ có kết quả khả quan hơn nhiều so với năm 2009. Kinh tế thế giới, nhất là các nước: Mỹ, EU, Nhật Bản, đang trên đà phục hồi là cơ hội tốt cho mặt hàng này. Vì vậy Việt Nam càng có nhiều thuận lợi để thúc đẩy thị trường xuất khâủ các mặt hàng thuỷ sản. III. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 1. Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ 1.1 Giá trị kim ngạch xuất khẩu Sau gần 8 năm thực thi Hiệp định Thương mại song phương, Hoa Kỳ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất và đang vươn lên trở thành nhà đầu tư lớn thứ 7 của Việt Nam. Năm 1995, Mỹ và Việt Nam chính thức bình thường hóa quan hệ. Năm 1998, hai nước ký kết biên bản hợp tác nghề cá. Tháng 12/2001, Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực. Kể từ đó, Việt Nam và Mỹ đã hình thành và phát triển quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực, trong đó, lĩnh vực thủy sản không ngừng phát triển và đưa Mỹ trở thành một trong những thị trường nhập khẩu thủy sản hàng đầu của Việt Nam. Cụ thể, năm 2001, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ khoảng 70.930 tấn thủy sản (trên 489 triệu USD), năm 2004 xuất trên 91.380 tấn (trên 602 triệu USD), năm 2008 xuất khoảng 1 triệu tấn (trên 850 triệu USD). Tuy không đứng đầu về sản lượng cũng như giá trị xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhưng thuỷ sản luôn là mặt hàng chủ lực của Việt Nam. Nó không chỉ đóng góp vào tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước mà còn là nguồn thu ngoại tệ lớn cho nước ta. Bảng 2.2 Giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ giai đoạn 2000 - 2009 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Giá trị (triệu USD) 298 489 656 782 593 634 690 729 739 711 Tốc độ tăng (%) 64 120 162 98.8 113 131 144 148 138 (Nguồn: Hiệp hội chế biến & xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam ) Nhìn vào bảng thể hiện giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ giai đoạn 2000-2009 ta thấy con số này tăng lên nhanh chóng từ năm 2000 giá trị đạt 298triệu USD nhưng đến năm 2003 con số này đã lên tới 782 triệu USD tăng 162% so với năm 2000. Năm 2004 do ảnh hưởng của vụ kiện tôm, sản lượng và doanh thu xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Mỹ giảm đáng kể chỉ còn 593 triệu USD giảm 24,2% so với năm 2003 đưa Mỹ từ vị trí thứ nhất xuống còn vị trí thứ hai sau Nhật Bản song nhìn chung so với cùng kì năm 2004 về khối lượng xuất khẩu năm 2005 đạt 91.674 tấn tương ứng đạt giá trị là 634 triệu USD; so với cùng kì năm 2004 tổng khối lượng thủy sản xuất khẩu tăng +2,1%, giá trị tuyệt đối tăng +6,9%.Theo số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản của cả nước đạt 3,7634 tỉ USD trong đó giá trị kim ngạch xuất sang thị trường Mỹ đạt 728,5 triệu USD tức là chiếm 19,35% tổng giá trị kim ngạch. Sang năm 2008, giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ đạt 738,89 triệu USD chiếm 16,38% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Nhìn vào bảng số liệu dưới đây ta thấy đầu trong 3 tháng đầu năm 2008 thi xuất khẩu sang thị trường này trong tháng 3 giảm khá mạnh cả về khối lượng (-13,5%) và giá trị (-15%), chỉ đạt gần 15.900 tấn, trị giá 112,6 triệu USD trong khi đó các thị trường khác như EU và Nhật Bản thì giá trị và số lượng đều tăng. Trong đó, EU là thị trường nhập khẩu lớn nhất, đạt trên 213 triệu USD, chiếm 26,7% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, có mức tăng trưởng 21,5%. Điểm đáng chú ý là mặt hàng tôm đã có tốc độ tăng trưởng khá mạnh tại thị trường này với trên 39%, trong đó thị trường Anh đạt mức tăng nhảy vọt trên 226%. Bảng 2.3 :Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Quý I năm 2008 phân theo nhóm thị trường KNXK Quý I/2008 phân theo nhóm thị trường Khối lượng (tấn) So với cùng kì năm 2007(%) Giá trị (triệu đô) So với cùng kì năm 2007(%) EU 20.790 14.25 213 14.56 Nhật Bản 16.890 12.6 138,6 12.4 Mỹ 15.900 -13.5 112,6 -15 Năm 2008 có biến động như vậy cũng dễ hiểu là do nền kinh tế Mỹ từ giữa năm 2007 đến thời điểm đó, nền kinh tế Mỹ có những diễn biến sa sút, có nguy cơ đứng bên bờ suy thoái. Do vậy, người dân Hoa Kỳ lo ngại trước các diễn biến xấu và hạn chế sức mua, trong khi đó hải sản, nhất là tôm, vốn được coi là những mặt hàng cao cấp càng bị ảnh hưởng rõ ràng hơn. Đến năm 2009, thì giá trị kim ngạch có giảm đôi chút do biến động của nền kinh tế Mỹ cũng như toàn thế giới con số này ở mức 711,145 triệu USD chiếm 15,7% tổng giá trị kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu. Như vậy trong vài năm gần đây tuy giá trị kim ngạch thuỷ sản xuất sang Mỹ giảm nhưng đây cũng là tình hình chung của các nước xuất khẩu thuỷ sản. Cuối năm 2008, đầu năm 2009 nền kinh tế Mỹ cũng như nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng trầm trọng, tỉ lệ lạm phát cao, nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm đáng kể do đó hầu hết các nước xuất khẩu thuỷ sản kể cả Trung Quốc - nước đứng đầu về xuất khẩu thuỷ sản cũng giảm về tỉ trọng cũng như về giá trị đáng kể. Sang năm 2010, nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế Mỹ đang trên đà phục hồi nhanh chóng hứa hẹn một năm xuất khẩu thành công cho các mặt hàng trong đó có cả mặt hàng thuỷ sản. Đặc biệt giai đoạn gần đây giá trị kim ngạch có lúc tăng lúc giảm nhưng vẫn chiếm tỉ trọng tương đối lớn trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Với tốc độ tăng trưởng bình quân 9,08% trong giai đoạn này cho thấy tiềm năng của mặt hàng thuỷ sản Việt Nam ở thị trường Mỹ. Trong những năm tiếp theo, khi mà nên kinh tế Mỹ phục hồi thì chắc chắn rằng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ sẽ còn tăng gấp nhiều lần. Với tốc độ tăng trưởng đó Mỹ trở thành một trong những quốc gia nhập khẩu thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các nước nhập khẩu thuỷ sản lớn của thuỷ sản Việt Nam trong các năm tiếp theo. Biểu đồ 2.4: Giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ giai đoạn 2000-2009 Dưới đây là biểu đồ đường thể hiện kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ giai đoạn 2000-2010 (dự báo đến hết năm 2010). Biểu đồ 2.5: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ giai đoạn 2000-2010 Theo số liệu của Bộ Thương mại Mỹ, trong năm 2009, kim ngạch xuất khẩu hàng thủy hải sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ là khoảng 677 triệu USD, đứng thứ tư về giá trị trong số những mặt hàng Việt Nam nhập vào Mỹ, sau hàng dệt may, đồ gỗ và giày dép. Việt Nam vẫn là một trong 10 nước có kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản lớn nhất sang Mỹ. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tháng 10/2009 Việt Nam xuất khẩu hàng hoá sang Hoa Kỳ đạt trên 1 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch 10 tháng đầu năm lên  9.287.108.598 USD (giảm 7,27% so cùng kỳ năm 2008). 10 tháng năm 2009, mặt hàng dệt may xuất sang thị trường này đạt kim ngạch cao nhất với 4,1 tỷ USD, chiếm 44,33% tổng kim ngach. Đứng thứ hai là mặt hàng gỗ và sản phẩm với kim ngạch đạt 874,1 triệu USD, chiếm 9,41%. Thứ ba là mặt hàng giày dép với kim ngạch 851,2 triệu USD, chiếm 9,17%. Đứng thứ tư là mặt hàng thuỷ sản với kim ngạch 595,3 triệu USD, chiếm 6,4%.Tham khảo một số mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt kim ngạch trên 10 triệu USD trong 10 tháng năm 2009. Bảng 2.4: Kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ Mặt hàng Lượng (tấn) Trị giá (USD) Hàng dệt may 4.117.353.674 Gỗ và sản phẩm gỗ 874.168.050 Giày dép các loại 851.259.404 Hàng thuỷ sản 595.326.609 Dầu thô 930.187 397.427.872 Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 358.769.636 Hạt điều 45.248 213.049.036 Túi xách, ví, va li, mũ ô dù 182.974.085 Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác 178.294.737 Cà phê 97.477 147.828.835 Phương tiện vận tải và phụ tùng 125.266.677 Sản phẩm từ chất dẻo 118.229.844 (Nguồn: Bộ Công thương) Tuy rằng giá trị kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng trong đó có cả mặt hàng thuỷ sản có giảm so với cùng kì năm 2008 song điều này cũng không đáng lo ngại do năm 2009 không chỉ nền kinh tế Mỹ mà toàn bộ nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính và kinh tế. Sang năm 2010, nền kinh tế thế giới cũng như kinh tế Mỹ đang trên đà phục hồi vì vậy theo dự báo của Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm nay sẽ đạt 4,7 tỉ USD trong đó thị trường Mỹ sẽ đạt 760,77 triệu USD tức là tăng khoảng 7,1% so với năm 2009. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 7 tháng đầu năm 2009 có 182 doanh nghiệp của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Công ty TNHH chế biến Thủy sản Minh Phát có kim ngạch lớn nhất và đạt 32 triệu USD, công ty đứng thứ 2 là Hùng Vương Vĩnh Long. Điều đáng chú ý là những công ty đứng đầu trong xuất khẩu thủy sản của Việt Nam như Hùng Vương, Vĩnh Hoàn, Nam Việt hay Minh Phú không phải là những công ty có kim ngạch xuất khẩu lớn vào Mỹ. Bảng 2.5 Danh sách các công ty có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất vào Mỹ Như vậy bất chấp kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ đều suy giảm mạnh nhưng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Mỹ vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng khá. Có thể nói đây là một điểm sáng đối với ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Nguyên nhân có thể do thủy sản được xem là một mặt hàng cơ bản, mặt dù thu nhập giảm sút nhưng sức mua của mặt hàng này giảm không nhiều, thậm chí một số loại còn tăng lên do người tiêu dùng chuyển sang sử dụng mặt hàng rẻ hơn. Theo nhận định của Bộ Công Thương xuất khẩu thủy sản vào những tháng cuối năm sẽ khả quan hơn khi kinh tế thế giới thoát khỏi tình trạng suy thoái. Thực tế trong những năm qua, những tháng cuối năm là thời điểm mà xuất khẩu thủy sản thường cao hơn đầu năm. Từ đó chúng ta có thể tin tưởng rằng, dù gặp một số rào cản và khó khăn nhất định nhưng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Mỹ tiếp tục tăng. 1.2 Cơ cấu xuất khẩu 1.2.1 Cơ cấu mặt hàng Với số lượng mặt hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ ngày càng được mở rộng, chủng loại càng phong phú hơn, kim ngạch cũng vì thế mà ngày càng tăng lên. Năm 2000, xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch toàn ngành theo mặt hàng cho thấy các mặt hàng là tôm đông lạnh, mực khô, cá đông lạnh, cá tra, cá basa. Tiếp theo là các mặt hàng như mực động lạnh, nghêu, ghẹ, ốc, cá ngừ, bạch tuộc đông lạnh. Hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ tập trung chủ yếu là tôm và cá. Cơ cấu hàng thuỷ sản xuất sang thị trường Mỹ phân theo mặt hàng, tôm vẫn là mặt hàng có giá trị lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ, kim ngạch 7 tháng năm 2009 đạt 185 triệu USD chỉ đứng sau thị trường Nhật Bản (242 triệu USD). Tôm xuất khẩu vào Mỹ chiếm 24.5% kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam. Điều này cho thấy Mỹ vẫn là một thị trường quan trọng đối với tôm xuất khẩu của Việt Nam. Sản phẩm từ cá tra và basa đứng thứ 2 trong số các mặt hàng thủy sản lớn nhất xuất khẩu vào Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm đạt 88 triệu USD, chiếm 9.64% giá trị xuất khẩu của mặt hàng này. Kể từ sau vụ kiện chống bán phá giá “Cat fish” ở Mỹ năm 2002 đến này, kim ngạch xuất khẩu loại cá này không ngừng tăng và thị trường cũng được mở rộng rất nhiều nước. Thị trường Mỹ mặc dù không tăng mạnh như các thị trường khác nhưng vẫn đạt tốc độ tăng khả quan. Đây vẫn là một thị trường lớn cho xuất khẩu cá tra và basa lớn của Việt Nam dù cho tháng 6/2009, Ủy ban thương mại quốc tế Mỹ (ITC) vẫn quyết định duy trì thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm cá tra của Việt Nam. Ngoài tôm, cá tra và basa, các sản phẩm khác như cá ngừ, trứng cá và cua đều đạt kim ngạch trên 10 triệu USD, các sản phẩm còn lại trị giá 53 triệu USD. Biểu đồ 2.6: Giá trị các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu vào Mỹ trong đầu năm 2009 Nguồn: Bộ công thương và Vietstock tổng hợp Từ biểu đồ trên ta có biểu đồ cơ cấu giá trị xuất khẩu các mặt hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ đầu năm 2009. Nhìn vào biểu đồ ta thấy mặt hàng tôm luôn chiếm phần lớn giá trị xuất khẩu thuỷ sản. Với 48,8% giá trị kim ngạch tôm là mặt hàng thế mạnh của thuỷ sản Việt Nam. Bên cạnh đó, người Mỹ rất ưa chuộng mặt hàng này lên trong những năm tới cần thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn nữa mặt hàng này. Tiếp theo tôm là các sản phẩm cá bao gồm cá tra, cá basa, cá ngừ… những sản phẩm này cũng đóng góp một giá trị rất lớn vào tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. Riêng cá ngừ chiếm tới 5,54% tổng giá trị kim ngạch thủy sản Việt Nam sang Mỹ; cá tra, cá basa chiếm tới 23,21% tổng giá trị kim ngạch. Có thể nói rằng hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ với hai mặt hàng thế mạnh là tôm và cá tra, cá basa. B._. đầu tư, cho phép các doanh nghiệp đa dạng hoá chủng loại sản phẩm cũng như việc áp dụng các công nghệ hiện đại trong việc sản xuất và xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về sản phẩm thuỷ sản trên thị trường Mỹ. Ngành thuỷ sản tích cực tham gia các hiệp hội thuỷ sản trong khu vực và trên thế giới tạo thêm thuận lợi trong việc xuất khẩu thuỷ sản, tránh tình trạng bị chèn ép một cách phi lý của một số thị trường lớn. Một kinh nghiệm cho thấy rằng, mỗi doanh nghiệp chỉ cố gắng tạo dựng một hình ảnh riêng cho mình thì chưa đủ, bởi vì nếu cứ mạnh ai người ấy chạy thì các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài sẽ tập trung tẩy chay hàng hoá của doanh nghiệp ra khỏi thị trường. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần liên kết với nhau, một mặt nhằm tăng cường hợp lực, mặt khác để gây ấn tượng, thu hút sự quan tâm của khách hàng Mỹ. 1.7 Đẩy mạnh phát triển mạng lưới phân phối rộng rãi trên thị trường Mỹ Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu hiện nay ở các doanh nghiệp Việt Nam cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu các điều kiện cần thiết để làm công tác xúc tiến thương mại. Đó là: thiếu thông tin thương mại và tình báo kinh doanh, thiếu nguồn nhân lực có kiến thức và kỹ năng xúc tiến thương mại, thiếu nguồn lực tài chính và vật chất, thiếu mạng lưới bán hàng và các quan hệ… Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều không có chiến lược Marketing xuất khẩu hoặc nếu có thì những chiến lược đó cũng không thực hiện được đầy đủ và chưa có hiệu quả cao. Vì vậy, trong thời gian tới các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một kế hoạch Marketing hoàn chỉnh và theo một vòng tròn khép kín từ nghiên cứu thị trường, xây dựng các chiến lược giá, phân phối, quảng cáo…đến khâu đánh giá, rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Một thực tế là trong hơn 100 doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu trực tiếp hàng thủy sản sang thị trường thì số lượng các doanh nghiệp có văn phòng đại diện tại Mỹ phần lớn là chưa có. Chính vì vậy, để đẩy mạnh khả năng thâm nhập vào thị trường Mỹ, nhất là sau Hiệp định thương mại Việt Nam – Mỹ đã có hiệu lực, các doanh nghiệp cần phải mở các đại lý đăng ký kinh doanh ở tiểu bang nơi có cửa khẩu nhập hàng. Có như vậy mới đảm bảo hàng hoá Việt Nam khi nhập khẩu vào Mỹ được thông quan nhanh, như thế với có thể đáp ứng được yêu cầu về giao hàng đúng thời hạn của các đối tác Mỹ. Một vấn đề quan trọng nữa, đó là: về lâu dài, các doanh nghiệp Việt Nam cần mở rộng mạng lưới tiêu thụ thuỷ sản tại thị trường Mỹ để tạo thế đứng vững chắc cho thuỷ sản Việt Nam, nhằm chống chọi với những mưu mẹo cạnh tranh phức tạp và tinh vi của các đại gia nước ngoài. Để có thể mở rộng mạng lưới tiêu thụ trên thị trường Mỹ, ta có thể tận dụng lực lượng Việt kiều tại Mỹ. Hiện nay, số lượng bà con Việt Nam đang sống và làm việc tại Mỹ khá đông đảo. Với trình độ khoa học cao do được tiếp xúc với nền khoa học hiện đại, cộng với sự am hiểu về luật pháp Mỹ thì đây sẽ là một nguồn lực đáng kể cho các doanh nghiệp Việt Nam chú ý thu hút và tận dụng trong việc hợp tác kinh doanh hoặc sử dụng làm môi giới, trung gian với các đối tác Mỹ. Đồng thời, với số lượng trên 2 triệu người, lực lượng Việt kiều cũng sẽ là một thị trường tiêu thụ đáng kể hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ và qua đó, gián tiếp quảng bá hàng thuỷ sản Việt Nam. Như vậy, lực lượng Việt kiều ở Mỹ đang và sẽ trở thành những đối tác quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam – những người muốn xuất khẩu hàng thuỷ sản sang Mỹ trong giai đoạn đầu mới xâm nhập thị trường. Do đó, để phát huy vài trò của lực lượng này, các doanh nghiệp cần chủ động trong việc tìm kiếm, hợp tác, đồng thời phải có đối sách phù hợp để ưu đãi, kêu gọi và tạo điều kiện cho họ hợp tác kinh doanh, quay về đóng góp phục vụ quê hương. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần xây dựng quan hệ với các nhà phân phối ở Mỹ vì đây là thị trường có phân cấp bán buôn, bán lẻ…rõ ràng. Do đó, nắm chắc được mạng lưới phân phối hàng và có quan hệ tốt với các nhà phân phối sẽ là ưu thế rất quan trọng. Điều này, có hiệu quả không kém so với việc thành lập văn phòng đại diện tại Mỹ. Vì nếu làm ăn tốt thì chính những bạn hàng, nhà phân phối Mỹ sẽ là chân rết tốt nhất cho các doanh nghiệp của ta thâm nhập vào thị trường rộng lớn này. 1.8 Các doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện phương thức xuất khẩu hàng thuỷ sản. Thực trạng cho thấy, gần như 100% các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu theo giá FOB sang thị trường Mỹ, cho nên toàn bộ việc giao hàng cho khách hàng là tại Việt Nam, toàn bộ hoạt động phân phối bán hàng ở thị trường Mỹ là do đối tác nắm giữ. Xuất khẩu thuần tuý như vậy về lâu dài khó duy trì và phát triển được một cách bền vững. Cần phải hoàn thiện phương thức xuất khẩu theo hướng từng bước tiến tới xuất khẩu trực tiếp, phân phối trực tiếp tại thị trường Mỹ. Để làm được điều này, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nghiên cứu và nắm vững hệ thống phân phối hàng thuỷ sản trên thị trường Mỹ, học tập kinh nghiệm của các nước xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, cần có sự tài trợ một phần của Nhà nước, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản xây dựng hoặc thuê mướn lâu dài kho bãi ở thị trường Mỹ để tổ chức tham gia bán buôn. Cần tận dụng đông đảo đội ngũ người Việt kiều, Hoa kiều để đưa hàng thuỷ sản của ta vào thị trường Mỹ. Một vấn đề nữa là, vừa qua Mỹ luôn viện những lý do không xác đáng để kiện các doanh nghiệp Việt Nam ( tiêu biểu là vụ cá tra, cá basa sắp tới là sản phẩm tôm). Nên chăng chúng ta cần áp dụng triệt để phương pháp hàng đổi hàng song song với xuất khẩu trực tiếp? Hoặc chúng ta mua công nghệ và con giống của Mỹ để chế biến thuỷ sản với điều kiện xuất sang Mỹ và cho Mỹ kiểm tra hàng trước khi niêm phong? Làm như thế chúng ta có thể hạn chế được sự kiện tụng vô cớ từ phía các doanh nghiệp Mỹ đưa ra. Vấn đề này cũng cần có sự hỗ trợ rất lớn từ phía Chính phủ. 1.9 Phát huy hơn nữa vai trò của Hiệp hội thuỷ sản Việt Nam Hiệp hội thuỷ sản Việt Nam, với tư cách là một tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp trong toàn ngành, cần phải tăng cường hoạt động góp phần từng bước khắc phục những yếu kém hiện nay của ngành thuỷ sản Việt Nam, nên cố gắng tạo lập thị trường nội bộ lành mạnh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cùng nhau phát triển, cùng liên kết hợp tác đối phó với các doanh nghiệp nước ngoài, hỗ trợ lẫn nhau trong kinh doanh, để tạo nên một sức mạnh tổng hợp, tránh tình trạng mạnh ai nấy lo, tranh giành thị phần lẫn nhau…Hiệp hội phải thể hiện được tiếng nói chung của các doanh nghiệp, phản ánh với Nhà nước tiến trình hoạt động, nguyện vọng, những kiến nghị và chính sách cần thiết để tăng khả năng xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Mặt khác, hiệp hội cần tích cực cùng các tổ chức quốc tế và khu vực tham gia các hoạt động có liên quan đến ngành thuỷ sản để trao đổi thông tin, tạo tiếng nói riêng và những ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế. 1.10 Luôn tiến hành công tác tổ chức nghiên cứu và nắm vững hệ thống luật pháp hiện hành của Mỹ Để thâm nhập thành công thị trường Mỹ, các doanh nghiệp không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng và đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về mọi mặt mà điều quan trọng không kém là phải thông thạo hệ thống luật pháp của Mỹ, nắm được hệ thống quản lý xuất nhập khẩu và hệ thống bảo hộ sản xuất trong nước của Mỹ. Sở dĩ như vậy là vì: hệ thống pháp luật của Mỹ vô cùng rắc rối, phức tạp và chặt chẽ. Mỗi bang có một hệ thống luật pháp riêng đặt trong hệ thống luật của liên bang, không thể tuỳ tiện áp dụng quy định của bang này ở một bang khác. Bên cạnh đó, Mỹ lại có những quy định về bảo hộ sản xuất trong nước hết sức khắt khe và rắc rối. Vì những nguyên nhân đó, mà các cán bộ trực tiếp điều hành hoạt động xuất khẩu cần phải tìm hiểu rõ và đầy đủ hệ thống pháp luật của Mỹ liên quan đến hoạt động xuất khẩu của mình như các thủ tục Hải quan, biểu thuế quan nhập khẩu, luật trách nhiệm sản phẩm, luật chống phá giá, vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ, vấn đề ghi xuất xứ hàng hoá hay lập hoá đơn thương mại…Tất cả đều có những quy định riêng rất nghiêm ngặt và buộc phải tuân thủ chặt chẽ. Doanh nghiệp có thể tiếp cận với các nguồn thông tin khác nhau để cập nhật các quy định luật pháp của Mỹ chi phối các hoạt động xuất khẩu của mình. Chẳng hạn như thông qua các đối tác Mỹ: yêu cầu họ cung cấp các quy định về đóng gói, về quy cách phẩm chất đối với sản phẩm…Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể tìm hiểu thông qua các tổ chức như Bộ thuỷ sản, Bộ thương mại, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP), các nhà môi giới Hải quan Mỹ, cơ quan thương mại Mỹ tại Việt Nam… Các doanh nghiệp thuỷ sản nếu đã có quan hệ làm ăn lâu dài và ổn định trên thị trường Mỹ, thì doanh nghiệp nên lập văn phòng đại diện tại Mỹ để cập nhật các thông tin về những biến đổi, điều chỉnh trong quy định Hải quan, biểu thuế, hạn ngạch, chế độ ưu đãi, các mặt hàng cấm và miễn thuế… Tuy nhiên, khi lập một văn phòng đại diện như vậy thì doanh nghiệp phải hết sức chú ý tới vấn đề “Luật trách nhiệm sản phẩm”. Bởi vì, theo quy định của Mỹ thì một nhà sản xuất hay xuất khẩu nước ngoài chỉ phải ra hầu toà nếu có “mối liên hệ tối thiểu” nào đó đối với tiểu bang nơi vụ kiện bị khởi tố. Nếu một công ty nước ngoài không có mối liên hệ đầy đủ với tiểu bang thì Toà án tiểu bang không có quyền bắt họ ra hầu toà về các vụ kiện có liên quan tới trách nhiệm sản phẩm. Chính vì vậy, theo kinh nghiệm của các nhà xuất khẩu vào Mỹ thì tốt nhất là doanh nghiệp sử dụng luật sư và các dịch vụ tư vấn về pháp luật. Việc sử dụng các dịch vụ tư vấn về pháp luật lại càng có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam bởi vì chúng ta mới thâm nhập vào thị trường Mỹ. Các văn phòng tư vấn sẽ đưa ra cho ta những lời khuyên, những hướng dẫn bổ ích giúp ta có được các cân nhắc và quyết định đúng đắn không những tránh được các rủi ro về pháp luật mà còn có thể lợi dụng được những ưu đãi trong luật pháp Mỹ. 1.11 Các doanh nghiệp chú trọng công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng cách đào tạo và đào tạo lại Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực cho thấy, công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành công đối với sự phát triển của một đất nước nói chung và một doanh nghiệp nói riêng. Ngày nay, nhân tố này lại càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng trong tư duy quản lý, tư duy kinh tế và phương thức quản lý kinh doanh. Con người là chủ thể của mọi hành động cho nên nó có tính quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải chú trọng công tác đào tạo và đạo tạo lại nguồn nhân lực, coi đây là một nhiệm vụ mang tính chất chiến lược cả về trước mắt cũng như lâu dài. Nhất là hiện nay, tại thị trường Mỹ, các phương thức kinh doanh hiện đại qua mạng Internet như thương mại điện tử đang rất phổ biến, các hình thức kinh doanh rất đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng, quy mô lớn thì việc nắm bắt kịp thời các công cụ, phương tiện, thành tựu của công nghệ hiện đại, các kiến thức chuyên môn mới…là vô cùng quan trọng. Có thể nói, tư duy kinh doanh, trình độ nghiệp vụ kinh doanh và phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung còn ở trình độ thấp, có khoảng cách khá xa so với trình độ thế giới. Vì vậy, cần phải đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao năng lực của các cán bộ quản lý và của các cán bộ kinh doanh cũng như của tầng lớp công nhân sao cho đáp ứng được các đòi hỏi của việc kinh doanh quốc tế: về trình độ chuyên môn, về ngoại ngữ, về sự am hiểu pháp luật trong nước và quốc tế… Doanh nghiệp nên đầu tư và xây dựng một phòng nghiên cứu và triển khai để góp phần nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Gửi nhân viên đi học tại các trung tâm, cơ sở đào tạo trong nước và quốc tế để cập nhật kiến thức mới. Có chế độ khuyến khích, động viên nâng cao tinh thần học tập của nhân viên… 2. Một số kiến nghị với các cơ quan Nhà nước 2.1 Tăng cường đầu tư và quản lý tốt việc đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Nguồn nguyên liệu dồi dào, ổn định, chất lượng cao là mục tiêu quan trọng đầu tiên của ngành chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Nếu không giải quyết được vấn đề nguyên liệu thì sẽ không thể hạ giá thành để nâng cao hiệu quả sản xuất và nuôi trồng. Đối với nuôi trồng thuỷ sản: - Xây dựng chiến lược giống ở tầm quốc gia: Đầu tư xây dựng các trung tâm giống, quy hoạch hệ thống trại sản xuất giống, nhanh chóng xây dựng quy trình sản xuất giống. Lập bản đồ quy hoạch vùng nuôi trồng. Bên cạnh đó, là xây dựng chiến lược nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản từ nước ngoài để chế biến hàng xuất khẩu, thể chế hoá quy định nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản cũng như tiêu chuẩn hoá những quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, xây dựng quy chế kiểm soát… - Nhà nước cần nhanh chóng quy hoạch và đầu tư, hỗ trợ vốn và kỹ thuật các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung, quy mô lớn, công nghệ tiên tiến theo mô hình sinh thái bền vững, tăng cường năng lực con người và thiết bị cho các cơ quan kiểm tra chất lượng môi trường các vùng nước nuôi trồng thuỷ sản, thường xuyên theo dõi và dự báo về chất lượng và dịch bệnh. - Rà soát quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản, quy hoạch lại theo tình thần Nghị quyết 09/2000/ NQ-CP chuyển đổi mục đích nông nghiệp không có hiệu quả cao sang nuôi trồng thuỷ sản. Quy hoạch thuỷ lợi cho nuôi trồng thuỷ sản, sử dụng đất và mặt nước còn hoang hoá, đất cát ven biển miền Trung vào nuôi trồng thuỷ sản, bảo vệ môi trường sinh thái, tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, phòng chống dịch bệnh. - Tận dụng diện tích, mở rộng phát triển nuôi tôm công nghiệp, nuôi bán thâm canh và nuôi sinh thái các đối tượng có thị trường như: tôm sú, tôm rảo, tôm he…Nuôi lồng, bè trên sông, trên biển, tập trung vào những đối tượng có giá trị xuất khẩu cao như cá basa, cá mú, cá hồng, tôm hùm, cá vược, cá cam, nghiêu, ngọc trai… - Đầu tư các công trình nghiên cứu, các dự án sản xuất giống nhân tạo thay thế cho nhập khẩu và bảo vệ nguồn lợi giống tự nhiên các loại sò huyết, nghêu, ngao, điệp…đưa ra những quy định bảo vệ hợp lý các bãi giống tự nhiên, nghiêm cấm mọi hình thức khai thác cạn kiệt không thể tái tạo lại. - Tăng cường hợp tác nghiên cứu với các nước có công nghệ cao trong khu vực nhất là công nghệ di truyền, chọn giống, công nghệ sinh học, công nghệ xử lý môi trường, công nghệ chuẩn đoán và phòng trừ dịch bệnh. - Có những biện pháp giáo dục, phổ biến cách thức nuôi trồng thuỷ sản cho người dân, các biện pháp kỹ thuật trong nuôi trồng để người dân nuôi trồng thuỷ sản có hiệu quả, có chất lượng. Đối với khai thác Hải sản. - Trong năm 2003, tất cả các tỉnh và thành phố ven biển và toàn ngành thuỷ sản cần tiến hành đánh giá lại một cách đầy đủ, toàn diện thực trạng khai thác hải sản, sự biến động, chuyển đổi ở vùng gần bờ và kết quả cũng như những vấn đề đang đặt ra trong thực hiện chủ trương khai thác hải sản xa bờ. - Phát triển năng lực và tổ chức khai thác xa bờ ở vùng Vịnh Bắc Bộ, Biển Trung Bộ và Tây Nam Bộ, phấn đấu đưa sản lượng khai thác xa bờ năm 2010 lên 300-400 nghìn tấn, chủ yếu là cá nổi giá trị cao. - Ưu tiên cho ngư dân được hưởng các khoản tín dụng ưu đãi trung và dài hạn, hỗ trợ ngư dân đóng tàu thuyền lớn. - Chọn lọc và ứng dụng công nghệ khai thác, nuôi trồng, chế biến tiên tiến phù hợp với điều kiện trong nước; chú trọng phát triển công nghệ sản xuất giống chất lượng tốt và những loài cá giá trị kinh tế cao; phát triển công nghệ khai thác xa bờ, vùng san hô, vùng đá ngầm. - Xây dựng các vùng đóng tàu đánh cá quốc doanh lớn, làm nhiệm vụ hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ các dịch vụ hậu cần, đưa vào hoạt động có hiệu quả một số tàu hậu cần cho đội tàu xa bờ. Triển khai thực hiện dự án đội tàu công ích làm dịch vụ cho đánh bắt hải sản xa bờ. - Mở rộng hợp tác với các nước có nghề cá phát triển, tận dụng mọi khả năng về vốn, công nghệ để liên doanh hợp tác khai thác xa bờ. - Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cho việc đánh bắt, nuôi trồng như: bến cảng, công trình điện –nước, cung ứng nhiên liệu, nước đá, tổ chức lại và nâng cấp các cơ sở cơ khí đóng, sửa chữa tàu thuyền khai thác hải sản; xây dựng các cảng và hệ thống dịch vụ cho xuất khẩu ở một số vùng trọng điểm. 2.2 Hoàn thiện cơ chế chính sách xuất khẩu cũng như thủ tục hành chính Để tạo điều kiện cho việc thực hiên thành công những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian từ nay đến năm 2010, Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách xuất nhập khẩu theo hướng: - Rà soát lại hệ thống pháp luật để điều chỉnh các quy định không còn phù hợp, hoặc chưa được rõ. Trước hết là Luật thương mại, Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Về Luật thương mại, cần mở rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của WTO. Về Luật đầu tư nước ngoài, cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu tư có liên quan đến thương mại, dịch vụ. Về Luật khuyến khích đầu tư trong nước, cần quy định rõ hơn về nghề nghiệp khuyến khích đầu tư. - Ban hành các văn bản luật mới để điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới phát sinh trên phương diện quốc tế và quốc gia như văn bản pháp luật về Tối huệ quốc (MFN ) và Đối xử quốc gia (NTR), Luật cạnh tranh và chống độc quyền, Luật chống bán phá giá và chống trợ cấp, Luật phòng vệ khẩn cấp. Vì điều này rất quan trọng cho việc thu hút có hiệu quả vồn đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia vào nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành thuỷ sản nói riêng. - Công khai hoá và luật pháp hoá là việc đầu tiên cần làm trong tiến trình đổi mới công tác quản lý. Hiện nay, các doanh nghiệp rất thiếu các thông tin về các quy định của Nhà nước có liên quan đến việc kinh doanh cuả họ. Vì vậy, cần phải thông báo rộng rãi các văn bản pháp luật của Nhà nước trên các phương tiện thông tin đại chúng và cần phải có một khoảng thời gian hợp lý để các doanh nghiệp áp dụng mà không bị bất ngờ, bối rối. - Cần thúc đẩy sắp xếp, đổi mới cổ phần hoá doanh nghiệp, phát triển kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân: Năm 2003, Bộ thuỷ sản cần tập trung chỉ đạo đẩy nhanh sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ theo Nghị quyết Trung ương III khoá IX; triển khai Đề án thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá IX về kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân. - Nhanh chóng phê chuẩn Luật thuỷ sản: Quốc hội cần nhanh chóng thông qua luật thuỷ sản nhằm ổn định môi trường kinh doanh thuỷ sản. - Tăng cường công tác kiểm soát và quản lý chất lượng sản phẩm. Bộ Thuỷ sản và các cơ quan chức năng có liên quan như Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng cần bổ xung những quy định cụ thể về tiêu chuẩn chất lượng và biện pháp kiểm tra, giám định sản phẩm đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng thuỷ sản dựa trên các tiêu chuẩn HACCP, GMP. Đồng thời, hoàn thiện năng lực hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền về kiểm tra và chứng nhận vệ sinh thuỷ sản (Hiện nay là trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản Việt Nam). Hoạt động của cơ quan này cần phải thường xuyên và toàn diện. Thêm vào đó, cũng cần phải thường xuyên tuyên truyền để các doanh nghiệp hiểu rõ tầm quan trọng của việc đảm bảo chất lượng sản phẩm thuỷ sản khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. - Quy hoạch và quản lý thống nhất hệ thống công nghiệp chế biến thuỷ sản: giao việc cấp giấy phép đầu tư xây dựng mới và nâng cấp nhà máy chế biến thuỷ sản cho một đầu mối duy nhất là Bộ thuỷ sản, chuyển việc đầu tư luồng vốn theo lĩnh vực kỹ thuật là chính sang đầu tư toàn diện theo bốn chương trình mục tiêu đã xây dựng trong chiến lược xuất khẩu thuỷ sản: nuôi trồng, đánh bắt, sản xuất và xuất khẩu. - Có quy định cụ thể về những ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh thuỷ sản mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường kinh doanh như: ưu đãi cho vay vốn hoặc cho giữ lại vốn khấu hao để các doanh nghiệp tái đầu tư, cho trích lại một phần thuế xuất khẩu để trợ giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất, cho phép ngành thuỷ sản được trích lại 2-3% thuế xuất nhập khẩu để thành lập quỹ hỗ trợ xuất nhập khẩu của ngành. - Áp dụng một số giải pháp tài chính, tín dụng khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thuỷ sản như: miễn hoặc giảm các loại thuế sản xuất và xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu như: tài trợ trước khi giao hàng, tài trợ trong khi giao hàng và tín dụng sau giao hàng. Lập quỹ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu bởi vì những lý do như: hàng thuỷ sản thuộc nhóm hàng mà nguồn cung phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thiên nhiên, có tính chất thời vụ , rủi ro rất lớn và giá cả biến động thất thường. Điều hành lãi suất, tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt để vừa đảm bảo sự ổn định kinh tế-xã hội trong nước, vừa có lợi cho xuất khẩu. - Phát hành, phổ biến rộng rãi những văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động thương mại của Mỹ, những thông lệ buôn bán của người Mỹ. Hướng dẫn các doanh nghiệp tìm hiểu cặn kẽ luật pháp của Mỹ. 2.3 Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại hàng thuỷ sản trên thị trường Mỹ. Trong điều kiện xu thế hội nhập đang phát triển mạnh mẽ, nhiều tổ chức thương mại được hình thành và đang hoạt động khá rộng rãi như: tổ chức thương mại thế giới WTO, Liên minh kinh tế EU, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)…thị trường trở thành vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Hiện nay, các nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam chưa có điều kiện để tìm kiếm, tiếp xúc và thâm nhập thị trường Mỹ khổng lồ. Vì vậy, việc thành lập văn phòng đại diện thương mại thuỷ sản tại thị trường Mỹ để quản lý và định hướng cho hoạt động xuất khẩu có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhà nước cần thiết kế mạng lưới các cơ quan đại diện ngoại giao trên nước Mỹ, nhất là Tham tán thương mại phục vụ thiết thực cho việc mở rộng quan hệ kinh tế và thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường trách nhiệm của các bộ phận đó đối với việc cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng. Bộ phận xúc tiến thương mại chịu trách nhiệm đảm bảo cung cấp cho các nhà xuất khẩu những thông tin về thị trường và điều kiện pháp lý khi xâm nhập thị trường Mỹ. Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về thị trường thuỷ sản Mỹ nhằm nâng cao trình độ hiểu biết và kinh nghiệm của nhà xuất khẩu Việt Nam khi tiếp cận thị trường này. Trước mắt, cần hoàn thành tốt các nhiệm vụ sau: Đảm bảo cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước những kết quả phân tích có chất lượng về điều kiện pháp lý và doanh nghiệp cuả thị trường Mỹ. Ghép nối các doanh nghiệp tiềm năng giữa hai nước. Trợ giúp kỹ thuật, nghiệp vụ cụ thể cho các thương vụ như: tiếp xúc, đàm phán, ký kết hợp đồng, thuê tàu, xin giấy phép mua bảo hiểm… Nhà nước cần hình thành và phát triển Cục xúc tiến thương mại, cơ quan chịu trách nhiệm quản lý của Nhà nước trong việc điều hoà, phối hợp công tác xúc tiến thương mại trong cả nước. Nghiên cứu thành lập quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để tiến hành giúp đỡ các doanh nghiệp trong các hoạt động hội trợ, trưng bày, triển lãm… Có chế độ khuyến khích thoả đáng đối với các tổ chức và cá nhân, bao gồm cả cơ quan đại diện ngoại giao, ngoại thương của ta ở nước ngoài tham gia vào hoạt động môi giới, trợ giúp tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế. Bộ thuỷ sản cần xây dựng trang Web giới thiệu về ngành thuỷ sản Việt Nam, phối hợp Tổng cục du lịch và Bộ văn hoá thông tin, Tổng cục hàng không để giới thiệu văn hoá ẩm thực của Việt Nam, phối hợp với Bộ ngoại giao để các sứ quán của Việt Nam đóng ở Mỹ tham gia cung cấp thông tin về thị trường Mỹ và tìm kiếm đối tác, tổ chức các cuộc hội thảo khoa học quốc tế về giống, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản nhiệt đới, tìm kiếm các cơ hội để thu hút các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào nuôi trồng, chế biến thủy sản của chúng ta. 2.4 Xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển hệ thống dịch vụ để tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy phát triển thương mại Để tăng lực nội sinh nền kinh tế trong những năm tới, trong điều kiện Việt Nam còn thiếu vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý, không thể không kể đến vai trò của đầu tư nước ngoài. Việt Nam cần tạo ra những điều kiện ưu đãi hơn so với nước khác ở những lĩnh vực mà Việt Nam cần ưu tiên phát triển. Các ưu đãi thể hiện trong việc miễn giảm các loại thuế, thời hạn liên doanh, mức thuế đất, thủ tục cấp phép, cải thiện cơ sở hạ tầng (điện nước, đường xá, thông tin liên lạc…), hoàn thiện hệ thống tài chính - ngân hàng, mở ra khả năng chuyển nhượng vốn thông qua thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư. Cần tiếp tục có những chính sách tự mình hoặc thu hút đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật như: đường xá, hệ thống sân bay, cảng biển, công nghệ viễn thông, hệ thống khách sạn và khu du lịch đủ tiêu quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung và thuỷ sản nói riêng. Đồng thời, chú trọng công tác đào tạo để có được một đội ngũ những người lao động trẻ thích nghi với trình độ sản xuất kinh doanh ở quy mô lớn, hiện đại, tiên tiến. 2.5 Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, Nhà nước vẫn kiên trì chính sách nhiều thành phần kinh tế cung tham gia, trong đó kinh tế quốc doanh đống vai trò chủ đạo. Hạn chế dần, tiến tới xoá bỏ độc quyền, mở rộng đầu mối kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản, khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh tham gia xuất khẩu thuỷ sản, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo đảm sự bình đẳng trong việc tiếp nhận các nhân tố đầu vào. Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, cần thiết phải tiến hành cải cách theo hướng hiện đại hoá, chẳng hạn thông qua cổ phần hoá một cách phù hợp, có thể áp dụng một số biện pháp hỗ trợ về vốn, tín dung nhà nước. Tuy nhiên, cần khẳng định rõ đầu tư của nhà nước chỉ tập trung vào những xí nghiệp có thể tồn tại được sau khi không có hàng ào bảo hộ. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, có thể áp dụng một số hình thức hỗ trợ như cấp tín dụng ưu đãi, khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực phù hợp với quy mô nhỏ và dễ phát huy lợi thế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nhất là công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu. KẾT LUẬN Thị trường thuỷ sản Mỹ là một trong những thị trường thuỷ sản lớn nhất thế giới, không những là thị trường có dung lượng lớn mà còn rất đa dạng và phong phú. Việt Nam coi thị trường này là một thị trường mang ý nghĩa chiến lược cho xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, có một tầm quan trọng nhất định đối với sự phát triển của thuỷ sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã đi vào thực tiễn, mở ra không ít cơ hội cho xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và những cơ hội cũng còn không ít khó khăn và thách thức. Việc tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất để tận dụng những cơ hội và hạn chế những khó khăn, thách thức là hết sức cần thiết để thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. Nhìn lại kim ngạch xuất khẩu của thủy sản Việt Nam trong giai đoạn vừa qua có thể thấy tốc độ tăng trưởng kim ngạch rất cao ,song trong thời gian tới để tiếp tục giữ vững nhịp độ tăng trưởng cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh ,ngành thủy sản cần phải có những điều chỉnh thích hợp hơn nữa trong công tác chế biến ,qui hoạch nuôi trồng nguồn nguyên liệu sạch cũng như trong công tác tiếp cận mở rộng thị trường tiêu thụ ,không ngừng tìm kiếm các bạn hàng mới , khẳng định nhãn hiệu thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới .... Trên đây là một số giải pháp mà em đưa ra trong đề tài nghiên cứu của mình nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ. Cần lưu ý rằng, phải thực hiện song song và có sự kết hợp chặt chẽ những giải pháp trên ở cả tầm vi mô và vĩ mô thì mới thu được kết qủa tốt nhất. Những phân tích đánh giá và đề xuất phương hướng giải pháp của đề tài hy vọng sẽ góp phần nào đó vào nỗ lực của ngành thủy sản trong việc tiếp tục duy trì, ổn định về tốc độ phát triển và giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ của Việt Nam trong giai đoạn tới Vì điều kiện thời gian cũng như những hạn chế về kinh nghiệm, kiến thức bài viết này không tránh khỏi những sai sót nhất định. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, các anh chị trong Vụ kế hoạch - Bộ Công thương. Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn PGS.TS. Lê Thị Anh Vân. Em vô cùng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của chuyên viên Vũ Trí Bình cùng các anh chị trong Vụ kế hoạch, Vụ Tổ chức cán bộ - Bộ Công Thương đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành bài chuyên đề thực tập này. Hà Nội, ngày 06 tháng 05 năm 2010 Sinh viên thực tập Phạm Minh Huế DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Khoa Khoa học quản lý - Giáo trình Khoa học quản lý - tập 1,2. Chủ biên:TS. Đoàn Thị Thu Hà – TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền. Nhà xuất bản Khoa học và Kĩ Thuật. Năm 2001 – Hà Nội; Khoa Khoa học quản lý – Giáo trình Quản lý kinh tế - tập 1,2. Chủ biên: GS. TS. Đỗ Hoàng Toàn – TS. Mai Văn Bưu. Nhà xuất bản Khoa học và Kĩ Thuật. Năm 2001 – Hà Nội; Khoa Khoa học quản lý – Giáo trình Chính sách kinh tế - xã hôi. Chủ biên: TS. Đoàn Thị Thu Hà – TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền. Nhà xuất bản Khoa học và Kĩ Thuật. Năm 2000 – Hà Nội; Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Giáo trình Thương mại quốc tế và phát triển thị trường xuất khẩu. Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Duy Bột. Nhà xuất bản Thống kê. Năm 2003 – Hà Nội; Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập. Chủ biên: PGS. TS. Hoàng Đức Thìn. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Năm 2001 – Hà Nội TS. Hồ Sĩ Hưng - Nguyễn Việt Hưng – Cẩm nang về xâm nhập thị trường Mỹ. Nhà xuất bản Thống kê. Năm 2003 – Hà Nội; TS. Nguyễn Hữu Khải – Phát triển thuỷ sản trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - Trường Đại học Ngoại thương; Báo Kinh tế Hợp tác Việt Nam, ngày 09 tháng 07 - Xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ: Cửa mở rộng nhưng vào không dễ, Ths. Lê Minh Tâm Trường Đại học Ngoại thương - Tổ chức quản lý nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu - Vũ Hữu Tửu. Nhà xuất bản Giáo dục.Hà Nội – 2000 Tạp chí Thương mại, số11/2003 - Một số suy nghĩ về thực hiện chiến lược xuất nhập khẩu, Nguyễn Văn Long; Tổng cục thống kê Việt Nam ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31606.doc
Tài liệu liên quan