A. mở đầu
Bước vào những năm đầu của thế kỷ 21, đất nước ta đang thay đổi từng ngày, từng giờ trên tất cả các lĩnh vực từ đời sống đến văn hoá, kinh tế, chính trị ...đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Đó là sự gia nhập các tổ chức ASEAN, APEC, ... và chuẩn bị cho việc gia nhập chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn khổ AFTA vào năm 2006 và gia nhập tổ chức thương mại Thế giới WTO trong một tương lai gần.
Việt Nam là một nước có chiều dài bờ biển là 3260 km, có 112
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 2003-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cửa sông với 2 vùng châu thổ sông Hồng và sông Mê Kông rất phong phú và đa dạng về các loại Thuỷ sản có giá trị cao, ...đó là ưu thế để phát triển việc sản xuất và khai thác Thuỷ sản nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Nhu cầu về thực phẩm Thuỷ sản đang trở thành xu hướng phổ biến trên Thế giới. Việc tìm hiểu và đưa ngành Thuỷ sản hoà nhập vào thị trường Thuỷ sản Thế giới càng trở lên cấp thiết, hơn nữa muốn thực hiện được chiến lược kinh tế vạch ra đến năm 2010 là chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, chúng ta phải bắt đầu từ những thế mạnh căn bản của mình mà Thuỷ sản lại được coi là mặt hàng chủ lực có tiềm năng nằm trong 3 chương trình kinh tế lớn của Việt Nam là lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Thuỷ sản là một loại thực phẩm thiết yếu trong đời sống kinh tế của con người. Việc phân tích, đánh giá tổng quan tình hình Thuỷ sản có vai trò quan trọng không chỉ đối với một mà của tất cả các quốc gia, có như vậy từng quốc gia mới có thể đảm bảo kết hợp hài hoà giữa việc sử dụng một cách có hiệu quả và bảo vệ nguồn lợi cho tương lai, đồng thời nắm rõ xu hướng phát triển, để có định hướng phù hợp với điều kiện của nước mình .
Sau một thời gian thực tập tại Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Thuỷ sản được sự gợi ý của cơ quan cũng như nhận thức thực tiễn được tầm quan trọng của xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam trong thời gian tới trong sự phát triển chung của ngành Thuỷ sản và nền kinh tế đất nước, em đã quyết định chọn đề tài:
“ Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 2003 –2010”
Mục đích nghiên cứu của đề tài này sẽ giúp em củng cố, bổ sung mở rộng kiến thức thực tế, vận dụng những lý thuyết đã học vào việc giải quyết một vấn đề thực tiễn trong đời sống kinh tế – xã hội. Khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này em đã phân tích, đánh giá tiềm năng phát triển của ngành Thuỷ sản, hoạt động xuất khẩu Thuỷ sản trong thời gian qua, qua đó chỉ ra được những thành tựu đạt được và những tồn tại cần khắc phục. Từ đó tìm ra những phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam trong thời gian tới
Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Vai trò của xuất khẩu Thuỷ sản đối với sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam.
Chương II: Phân tích thực trạng về xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 1990 –2002.
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 2003 – 2010.
Vì đây là một đề tài khó do tính biến động của mặt hàng Thuỷ sản, sản xuất phụ thuộc vào sự thay đổi của điều kiện tự nhiên, môi trường. Vì vậy bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót.
Em xin chân thành cảm ơn tới các cán bộ, chuyên viên công tác tại Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Thuỷ sản đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập và thầy giáo:PGS. TS Phạm Văn Vận đã tạo điều kiện và hướng dẫn tận tình để em hoàn thành luận văn của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
b. nội dung
chương I: vai trò của xuất khẩu thuỷ sản đối với sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam
I. vị trí ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân
Khái niệm về ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân
Ngành thuỷ sản là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù gồm nhiều hoạt
động: khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ trong thương mại,… được phát triển dựa trên lợi thế về nguồn lợi thuỷ sản đa dạng, phong phú, điều kiện khí hậu nhiệt đới thuận lợi
Để hiểu hơn về khái niệm ngành thuỷ sản ta có thể phân tích hai khía cạnh sau:
Ngành thuỷ sản là một ngành sản xuất vật chất độc lập
Ngành Thuỷ sản là một ngành sản xuất độc lập do ngành có đối tượng lao động, phương pháp lao động và lực lượng lao động riêng mang tính chuyên ngành. Sản xuất thuỷ sản còn là một nghề nghiệp truyền thống lâu đời ở các quốc gia có nhiều ao hồ và biển. Quá trình phát triển của loài người gắn liền với hoạt động sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, và khai thác nguồn lợi thuỷ sản. Lợi dụng khả năng tiềm tàng về sinh vật sống trong môi trường nước con người tiến hành khai thác, nuôi trồng và chế biến chúng phục vụ cho nhu cầu đời sống. Do đối tượng lao động là những sinh vật thuỷ sinh như vậy nên các hoạt động sản xuất của ngành thuỷ sản gắn liền với đất và nước, với sự phát triển nông thôn và mang nhiều nét giống với sản xuất nông nghiệp
Dưới tác động của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, các công cụ lao động của ngành thuỷ sản cũng được cải tiến và hoàn thiện, công nghệ mới được áp dụng trong công nghiệp khai thác, chế biến thuỷ sản, đồng thời công nghệ sinh học hiện đại cũng đã thúc đẩy phát triển nhanh chóng nghề nuôi trồng thuỷ sản với các giống loài mới có giá trị kinh tế cao. Tất cả những điều đó cùng với kỹ năng quản lý ngành ngày càng cao đã đưa ngành thuỷ sản trở thành ngành sản xuất vật chất độc lập trong nền kinh tế quốc dân. ở nước ta ngành thuỷ sản đã được khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong những hướng ưu tiên của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế (NQTW5 tháng 6 năm 1993 về đổi mới và phát triển kinh tế nông thôn) bởi tiềm năng to lớn và những đóng góp thực tế của nó vào nền kinh tế quốc dân nước ta hơn 10 năm qua.
Ngành thuỷ sản là ngành sản xuất vật chất hỗn hợp gồm nhiều ngành sản xuất chuyên môn hẹp.
Do phần lớn sản phẩm cuối cùng được sản xuất từ nguồn nguyên liệu động thuỷ vật thuỷ sinh và được đưa vào tiêu dùng sinh hoạt nên người ta coi thuỷ sản thuộc nhóm ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng (nhóm B). Trong thực tế, khi trình độ khoa học kỹ thuật phát triển đại bộ phận sản phẩm thuỷ sản không được đưa vào tiêu dùng trực tiếp mà trở thành sản phẩm trung gian, nguyên liệu cho quá trình sản xuất và chế biến
- Sản xuất thuỷ sản từ việc nuôi trồng, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi cho đến khai thác bị phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên vùng địa lý khí hậu, thuỷ văn, giống, loại thuỷ sản,…nên sản xuất mang nhiều tính nông nghiệp. Mặt khác các ngành chuyên môn hẹp lại có tính công nghệ rõ rệt: công nghiệp khai thác cá biển, cơ khí tàu thuyền, công nghiệp sản xuất thức ăn cho tôm, cá, công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản.
Cơ chế thị trường đòi hỏi ngành thuỷ sản phải có một hệ thống dịch vụ chuyên ngành thích hợp như: sửa chữa tàu thuyền, ngư cụ, vận chuyển con giống, mạng luới thương mại thuỷ sản đến tận gốc các cơ sở sản xuất… sản xuất chuyên môn hẹp ngày càng cao và phức tạp. Mặt khác kinh doanh thương mại tổng hợp cũng tạo ra những hướng phát triển mới như kết hợp với dịch vụ du lịch
Đặc điểm của sản xuất - kinh doanh thuỷ sản
Đối tượng của sản xuất – kinh doanh thuỷ sản là những cơ thể sống trong môi trường nước.
Như tên gọi của nó “ Thuỷ sản” là những cơ thể sống trong môi trường nước, có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng. Chúng là các loài động vật thuỷ sinh có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao: cá, nhuyễn thể, giáp xác và rong tảo trong các loại hình nước ngọt, lợ, mặn. Hoạt động sống của chúng dựa vào các chất dinh dưỡng lấy từ thuỷ vực, các khí oxy và cacbonic hoà tan trong nước. Đây là điểm hết sức khác biệt với sản xuất công nghiệp. Trong công nghiệp đối tượng sản xuất là những vật vô chi, vô giác, nếu hỏng cái này có thể thay bằng cái khác mà không phải phụ thuộc vào chu kỳ sống và sinh trưởng của chúng. Nó cũng khác với đối tượng sản xuất nông nghiệp là các cây và con giống sinh trưởng trên cạn, lấy nguồn lực thức ăn từ đất và sử dụng O2 và CO2 trực tiếp từ không khí. Khác biệt này đòi hỏi trong sản xuất thuỷ sản phải hết sức chú ý đến các vấn đề như:
- Nắm vững quy luật sinh trưởng và phát triển từng loài thuỷ sản để có biện pháp khai thác, nuôi trồng phù hợp.
- Tiến hành quản lý và chăm sóc môi trường nước sản xuất, kinh doanh thuỷ sản.
- Hoàn thiện, bổ sung chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường nước.
- Trong sản xuất kinh doanh thuỷ sản, thuỷ vực là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Thuỷ vực bao gồm các loại hình mặt nước sông, hồ, ao, biển… là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt của ngành thuỷ sản.
Đối với mặt nước tự nhiên, có hạn về diện tích, khối lượng nước,cố định về vị trí và gần như không hao mòn trong quá trình sử dụng xét theo thời gian dài với các mặt nước lớn dễ bị ô nhiễm bởi các hoạt động của con người. Theo tập quán của con người thường coi thuỷ vực là nơi thải rác sinh hoạt và các chất phế thải công nghiệp bởi thuỷ vực có khả năng tự phân giải song nếu quá mức nó không còn khả năng làm sạch nước và bị ô nhiễm. Đối với các ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác nước chỉ trong thuỷ vực chỉ là một yếu tố sản xuất, thậm chí còn ít có ý nghĩa kinh tế, song đối với sự phát triển của thế giới tự nhiên, đặc biệt là thuỷ sản thì nước là vấn đề sống còn cho sự tồn tại và phát triển.
Sản xuất thuỷ sản được tiến hành phân tán rộng khắp các vùng địa lý và mang tính khu vực rõ rệt:
Chúng ta đều biết ở đâu có ao, hồ, sông, ngòi, biển là ở đó có nghề Thuỷ sản khai thác và nuôi trồng.Thuỷ vực được phân bố khắp các vùng địa lý, ở mỗi quốc gia, phụ thuộc vào lịch sử hình thành các loại đất, quá trình sử dụng và khai thác vào các mục đích khác nhau. Vì vậy, mỗi thuỷ vực có chế độ thuỷ lý hoá, thuỷ văn khác nhau do đó các giống loài Thuỷ sản cũng khác nhau về nhiều mặt.
Sản xuất Thuỷ sản mang tính thời vụ cao
Dựa vào quy luật sinh trưởng và phát triển của động thực vật thuỷ sinh, con người tác động trực tiếp nhằm tạo ra sản phẩm cuối cùng có chất lượng và năng suất cao, song các động thực vật nuôi trồng và khai thác còn phải chụi tác động của tự nhiên. Vì vậy, mà thời gian lao động và thời gian của sản xuất không trùng nhau đã tạo ra tính thời vụ của sản xuất Thuỷ sản
Đặc điểm riêng của sản xuất kinh doanh Thuỷ sản Việt Nam
- Thuỷ sản nước ta thuộc vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, ở các tỉnh phía Bắc pha trộn ôn đới.
- Ngành Thuỷ sản Việt Nam đã đi lên từ một nền sản xuất manh mún, phân tán và rất lạc hậu tại các vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ và vùng ven biển. Qúa trình phát triển thăng trầm từ những năm sáu mươi tới nay, ngành Thuỷ sản đã trở thành một ngành sản xuất chính trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù vậy, hiện nay cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành còn nghèo nàn, lạc hậu khá xa so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là công nghiệp chế biến và khai thác xa bờ.
Vị trí của ngành Thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân
Vị trí quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm.
- Ngành Thuỷ sản giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân ở hầu hết các quốc gia đặc biệt ở những quốc gia có hải phận lớn và vùng nước nội địa phong phú.
- Dân số thế giới tăng lên, xã hội phát triển đặt ra vấn đề bảo đảm an ninh lương thực và thực phẩm. Ngành Thuỷ sản góp phần hết sức quan trọng vào vấn đề thực phẩm của con người. Về thiêu thụ sản phẩm Thuỷ sản, theo thống kê của FAO cho biết, mức tiêu thụ trung bình trên đầu người ở các nước phát triển là 25,9kg/năm, các nước đang phát triển là 9,3 kg/năm, ở Việt Nam là 13,5kg/năm (số liệu 1993) xu hướng sử dụng thực phẩm Thuỷ sản trên thế giới tăng lên vì vậy chỉ có thể phát triển ngành Thuỷ sản ở trình độ cao mới hy vọng giải quyết được nhu cầu thực phẩm thuỷ hải sản ngày càng cao của con người trong tương lai.
Tạo tiền đề quan trọng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
Sản xuất Thuỷ sản là nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho một số ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến thuỷ hải sản giá trị của ngành thuỷ hải sản chế biến gia tăng làm tăng kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản và đồng thời tăng thu nhập cho các doanh nghiệp và tăng tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế. Đối với những nước có lợi thế về mặt nước, thời tiết khí hậu như Việt Nam ngành Thuỷ sản càng giữ vị trí quan trọng,thu nhập từ ngành Thuỷ sản tạo tiền đề quan trọng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
Tạo công ăn việc làm:
Ngành Thuỷ sản phát triển đặc biệt ở những nước đang phát triển (như các nước khu vực Đông Nam á, Châu Phi, Mỹ La Tinh) còn tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, phần lớn ở các vùng nông thôn và ven biến. Nó còn thu hút nhập đảm bảo đời sống góp phần làm giảm đi làm giảm đi làm sóng di dân vào thành thị.
3.4.Phát triển sản xuất Thuỷ sản sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ rộng lớn.
Phát triển sản xuất Thuỷ sản sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp bao gồm cả thị trường tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Việc tăng cầu trong khu vực Thuỷ sản và nông thôn sẽ tác động trực tiếp đến khu vực phi nông nghiệp và Thuỷ sản, tạo điều kiện thuận lợi cho công nghiệp phát triển.
3.5.Có vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ môi trường
Ngành Thuỷ sản có vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững của các quốc gia trên thế giới. Bảo vệ môi trường nước, sự đa dạng sinh học của biển đồng nghĩa với việc bảo vệ sự sống trên hành tinh chúng ta.
Trên thế giới, ngành Thuỷ sản được coi là người đi tiên phong trong việc tìm kiếm các giải pháp duy trì sự phát triển bền vững của môi trường nước, đặc biệt là các sinh vật biển.
3.6.Phát triển Thuỷ sản gắn liền với việc xoá đói giảm nghèo, tăng cường an ninh quốc phòng trên đất liền và trên biển.
Phát triển Thuỷ sản gắn liền với việc xoá đói giảm nghèo, đặc biệt vùng cao, vùng sâu. Thực phẩm tại chỗ còn trực tiếp làm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, còi xương ở trẻ em vùng cao. Việc phát triển tập trung ở ven sông suối ao hồ còn giúp xoá bỏ tập quán du canh du cư, tăng cường an ninh biên giới trên đất liền. Ngoài ra, phát triển các hạm tàu khai thác biển cũng là góp phần tăng cường an ninh quốc phòng bảo vệ lãnh hải chủ quyền, biên giới, hải đảo.
II. vai trò của xuất khẩu Thuỷ sản đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam.
Ngày nay, Việt Nam đang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về xuất khẩu nhằm khai thác những lợi thế so sánh về tài nguyên, sức lao động, vị trí địa lý thuận lợi phục vụ cho công cuộc đổi mới bộ mặt đất nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu do xuất phát điểm về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý còn thấp nên chủ yếu Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu. Xuất khẩu Thuỷ sản cũng không nằm ngoài xu hướng ấy. Hiện nay, hàng xuất khẩu từ nông lâm hải sản chiếm hơn 50% kim ngạch xuất khẩu, riêng Thuỷ sản chiếm 17% (1998). Mặc dù xuất khẩu nguyên liệu thô chủ là biện pháp tình thế nhằm tạo vốn góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu Thuỷ sản có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta như sau:
Vai trò của xuất khẩu Thuỷ sản đối với phát triển kinh tế ngành
1.1. Tạo tích luỹ ban đầu quan trọng cho hiện đại hoá ngành Thuỷ sản
Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia hợp tác, đầu tư phát triển nuôi trồng Thuỷ sản, hiện đại hoá công nghiệp chế biến xuất khẩu tăng phần chế biến trong sản phẩm. Tăng kim ngạch xuất khẩu làm tăng ngoại tệ tạo điều kiện tích luỹ ban đầu quan trọng cho hiện đại hoá ngành Thuỷ sản.
1.2. Xuất khẩu có vai trò tích cực trong đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất của ngành.
Hoạt động xuất khẩu Thuỷ sản là hoạt động kinh doanh trên phạm vi thị trường thế giới, một thị trường mà sự cạnh tranh ngày càng diễn ra quyết liệt. Sự tồn tại và phát triển hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả, do đó phụ thuộc rất lớn vào công nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất trong nước phải luôn đổi mới, luôn cải tiến thiết bị, máy móc nhằm nâng cao chất lượng sản xuất. Mặt khác, xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao tay nghề, trình độ của người lao động. Xuất khẩu Thuỷ sản tạo điều kiện tiếp nhận thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng.
1.3. Xuất khẩu Thuỷ sản có vai trò quan trọng trong việc phát triển toàn diện ngành Thuỷ sản.
Xuất khẩu Thuỷ sản góp phần mở rộng thị trường, khai thác có hiệu quả các nguồn lợi về biển gần bờ và xa bờ và phát triển nuôi trồng Thuỷ sản. Đồng thời nâng cao trình độ đào tạo cán bộ quản lý trong kinh doanh. Xuất khẩu cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người lao động trong ngành Thuỷ sản và các ngành có liên quan, góp phần ổn định chính trị, xã hội.
2.Đối với phát triển nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu hàng hoá Thuỷ sản có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào kết quả hoạt động xuất khẩu. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu nhập cho ngân sách. Kích thích đổi mới công nghệ cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những yếu tố thiếu hụt như vốn, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu thực chất giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra `sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách với nước giàu.
Như vậy, đối với mọi quốc gia cũng như nước ta, xuất khẩu nói chung và xuất khẩu Thuỷ sản nói riêng thực sự có vai trò quan trọng, thể hiện:
2.1.Xuất khẩu tạo nguồn ngoài tệ (vốn) cho nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất, phục vụ công nghiệp hoá đất nước.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trước mắt chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc thiết bị hiện đại từ bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: đi vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và đầu tư nước ngoài có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, nguồn vốn quan trọng để nhập khẩu chính là xuất khẩu. Thực tế là nước nào gia tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu theo đó cũng tăng theo. Ngược lại nếu nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu làm cho thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế quốc dân.
2.2. Xất khẩu Thuỷ sản đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu nói riêng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung.
Để chứng minh cho góp của xuất khẩu Thuỷ sản làm chuyển dịch cơ cấu mặt hàng ta có thể thấy qua số liệu của các năm 1991 – 2002. Nếu như năm 1991 Việt Nam chỉ có 4 mặt hàng xuất khẩu giá trị trên 100 triệu USD (dầu thô, dệt may, Thuỷ sản và gạo) thì đến nay đã có thêm 11 mặt hàng nữa là: cà phê, cao su, lạc nhân, chè, hạt điều, hạt tiêu, Giầy Dép, than đá, hàng linh kiện điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ và hàng rau quả. Trong đó 4 mặt hàng có giá trị trên 1 tỷ USD là Thuỷ sản, dầu thô, hàng dệt may, và Giầy Dép. Năm 2000, ngành Thuỷ sản đã đạt thành tựu đáng kể kim ngạch xuất khẩu là 1,4786 tỷ USD (chỉ sau dầu thô 3,501 tỷ USD và dệt may là 1,892 tỷ USD).
Mặt hàng Thuỷ sản chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Năm 1999 là 10,5%, đến năm 2000 tăng lên 12,9 % và năm 2002 đã tăng lên là 14%. Mặt hàng xuất khẩu Thuỷ sản đã trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Từ vị trí xếp thứ 5 vào năm 1999 (sau: dầu thô, dệt may, Giầy Dép và gạo) thì đến năm 2001 nó đã vươn lên vị trí thứ 3 (chỉ sau: dầu thô và dệt may). Kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản tăng liên tục với tốc độ hàng năm đã thực sự đóng góp tăng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng và kim ngạch xuất khẩu của cả nước nói chung. Và chính sự tăng trưởng của xuất khẩu Thuỷ sản cũng dẫn đến thay đổi (chuyển dịch) cơ cấu kinh tế. Xuất khẩu Thuỷ sản nói riêng và xuất khẩu nói chung tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác phát triển thuận lợi. Sự phát triển ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu trong đó có Thuỷ sản, có thể nó kéo theo ngành công nghiệp chế tạo các thiết bị phục vụ nó. Xuất khẩu Thuỷ sản sẽ làm cho ngành Thuỷ sản tăng trưởng ngày càng cao và các ngành công nghệp liên quan cũng phát triển dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2.3. Xuất khẩu Thuỷ sản tác động tích cực đến giải quyết công ăn, việc làm và cải thiện đời sống nhân dân:
Tác động của xuất khẩu Thuỷ sản đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết thông qua hoạt động xuất khẩu hàng Thuỷ sản xuất khẩu với nhiều công đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp tăng giá trị ngày công lao động, tăng thu nhập quốc dân.
Xuất khẩu Thuỷ sản còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất cho người lao động trong ngành Thuỷ sản và các ngành có liên quan.
2.4 Xuất khẩu Thuỷ sản là một trong những cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác với các nước nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường quốc tế,... xuất khẩu Thuỷ sản và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói chung thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư , mở rộng vận tải quốc tế ... Mặt khác chính quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta kể trên lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu. Có thể nói xuất khẩu Thuỷ sản không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế ngành Thuỷ sản, phát triển nền kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như: K, L, R, nguồn tiêu thụ thị trường ... Đối với nước ta hướng mạnh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu Thuỷ sản nói riêng là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế đối ngoại, được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, qua đó tranh thủ đón bắt kịp thơi cơ ứng dụng khoa học công nghệ, hiện đại. Rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy bắt cứ một nước nào và trong một thời kỳ nào đẩy mạnh xuất khẩu thì nền kinh tế nước đó trong thời gian đó có tốc độ phát triển cao.
Tóm lại: Xuất khẩu Thuỷ sản có một vai trò rất quan trọng không chỉ riêng đối với sự phát triển của ngành Thuỷ sản mà nó còn có một vai trò to lớn đối với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Vì vậy chúng ta cần nghiên cứu và tìm ra giải pháp để phát triển hơn nữa ngành Thuỷ sản.
iii. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam
Xuất khẩu Thuỷ sản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam nói riêng và của các nước xuất khẩu Thuỷ sản nói chung, chính vì vậy mà chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu Thuỷ sản để có thể phát huy điểm mạnh, khắc phục các yếu điểm của các nhân tố đó để thúc đẩy xuất khẩu Thuỷ sản phát triển. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến xuất khẩu Thuỷ sản ta có thể nghiên cứu từ hai góc độ:
1.Các nhân tố ảnh hưởng đến cung Thuỷ sản xuất khẩu.
Muốn xuất khẩu Thuỷ sản phát triển trước tiên chúng ta phải đảm bảo có sản phẩm để xuất khẩu nghĩa là chúng ta phải đảm bảo cung Thuỷ sản cho xuất khẩu, muốn vậy chúng ta cần quan tâm đến các yếu tố đầu vào của sản phẩm như:
1.1.Khả năng cung cấp nguyên liệu Thuỷ sản
1.1.1. Năng lực khai thác hải sản.
Nằm ở khu vực biển Đông, biển Việt Nam có tính chất như là một vùng biển kín. Vịnh Bắc Bộ tương đối nông, mức sâu nhất không quá 90 m. Nhờ đặc điểm địa hình, biển nước ta thuộc loại giàu hải sản, với 2038 loài cá đã biết, trong đó có hơn 100 loài có giá trị kinh tế cao. Trữ lượng cá khoảng 3 triệu tấn/năm, sản lượng cho phép khai thác từ 1,2 – 1,3 triệu tấn/năm. Giáp xác có 1647 loài, trong đó tôm hơn 70 loài. Nhiều loài tôm hùm có giá trị kinh tế cao. Nhuyễn thể thân mền, khoảng 2500 loài khác nhau với những loài có giá trị kinh tế cao như mực, sò huyết hải sâm, bào ngư ... Ngoài ra có trên 600 loài rong biển, trong đó nhiều loài có thể làm thực phẩm hoặc nguyên liệu, chất phụ gia cho công nghiệp, bánh kẹo, dệt vải, ... Với hơn 3200 km bờ biển, hơn 1 triệu km2 vùng biển đặc quyền của ta là một nơi cho phép khai thác với số lượng lớn các sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng nội địa và chế biến xuất khẩu ra thị trường Thế giới
Bảng 1: Trữ lượng và khả năng khai thác hải sản của Việt Nam (đơn vị tính: tấn)
Loại hải sản
Trữ lượng (tấn)
Khả năng khai thác (tấn)
Tổng số
Gần bờ
Xa bờ
Tổng số
Gần bờ
Xa bờ
Tổng số
3.940.078
1.081.625
2.588.464
1.879.219
495.341
1.383.878
Cá biển
3.764.370
999.095
2.765.275
1.809.248
461.738
1.347.510
Mực ống
59.113
30.882
28.231
23.644
12.235
11.292
Mực nang
64.140
30.331
33.809
25.655
12.132
13.523
Tôm he
10.884
9.884
1.000
5.492
4.942
550
Tôm vỗ
41.582
11.433
30.149
15.180
4.177
11.003
Cơ cấu %
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
Cá biển
95.54
92.37
96.74
96.28
93.22
97.37
Mực ống
1.50
2.86
0.99
1.26
2.49
0.82
Mực nang
1.63
2.80
1.18
1.37
2.45
0.98
Tôm he
0.28
0.91
0.03
0.29
1.00
0.04
Tôm vỗ
1.06
1.06
1.05
0.81
0.84
0.80
Nguồn: Bộ Thuỷ sản
Như vậy, ngành khai thác hải sản của chúng ta mới khai thác được khoảng 31,47% trữ lượng hải sản và khoảng 66% khả năng khai thác cho phép. Ngoài ra, chúng ta có thể khai thác hàng trăm nghìn tấn nhuyễn thể vỏ cứng (như nghêu, sò điệp, ốc, ...), rong, tảo, các loại đặc sản quý hiếm khác. Bên cạnh đó thì công nghệ bảo quản sau thu hoạch đối với sản phẩm khai thác xa bờ còn rất yếu kém, thô sơ dẫn đến chất lượng đưa vào chế biến thấp. Cùng với chương trình đánh bắt xa bờ, nếu chú trọng làm tốt các khâu bảo quản ngay trên biển và tại bờ, giảm mạnh các thất thoát sau thu hoạch thì sẽ tạo ra một tiềm năng rất lớn về nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu Thuỷ sản, sẽ cải thiện được tình hình, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu
1.1.2. Năng lực nuôi trồng Thuỷ sản
Tháng 3 năm 2000 chúng ta đã hoàn thiện đề án: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội ngành Thuỷ sản đến năm 2010. Đó chính là cơ sở đầu tiên cho việc lập các dự án khả thi để đầu tư vào nuôi trồng của ngành Thuỷ sản. Theo hướng đó chúng ta có thể đầu tư các trang thiết bị cũng như công nghệ hiện đại vào việc nuôi trồng theo quy mô công nghiệp, có sản lượng hàng hoá đủ khả năng với chất lượng nguyên liệu cao, giá cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu cho xuất khẩu. Thực tế cho thấy rằng năng xuất nuôi trồng Thuỷ sản còn thấp, mới bằng 1/4 đến 1/10 năng suất hiện nay của các nước trong khu vực. Diện tích mặt nước nuôi Thuỷ sản còn có thể sử dụng với cường độ cao hơn, nhiều vùng bãi triều và vùng đất nhiễm mặn ven biển thuận lợi để đưa vào phát triển nuôi trồng Thuỷ hải sản, còn có thể sử dụng 300 –350 nghìn ha; các eo vịnh biển có thể đưa vào quy hoạch nuôi biển và xây dựng khu bảo tồn sinh vật biển, ít nhất cũng có tới trên 100 nghìn ha. Một số vùng đất hoang hoá ven biển cao triều như ở vùng Nam Trung Bộ có thể rất thích hợp để phát triển nuôi Thuỷ sản theo quy mô công nghiệp. Nếu đầu tư để chuyển đổi công nghệ, năng suất nuôi ở các thuỷ vực này sẽ tăng lên đáng kể, đặc biệt việc phát triển nuôi các đối tượng có giá trị xuất khẩu cao. Sản lượng Thuỷ sản nuôi trồng có khả năng gia tăng vượt 1.000.000 tấn vào năm 2005 hoặc còn cao hơn nữa.
1.2. Môi trường kinh tế và khoa học công nghệ.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Đảng và Nhà Nước chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế và mở cửa ra bên ngoài, tự do buôn bán, kinh doanh xuất nhập khẩu theo khuôn khổ pháp luật cho phép doanh nghiệp tự quản giải quyết mọi vấn đề của mình còn Nhà Nước chỉ đóng vai trò quản lý, định hướng. Điều này tạo cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu Thuỷ sản nói riêng quyền chủ động sáng tạo nhiều hơn và kinh doanh có hiệu quả hơn. Một trong những nhân tố cũng tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm Thuỷ sản xuất khẩu là công nghệ chế biến Thuỷ sản xuất khẩu. Khoa học công nghệ tiên tiến tác động mạnh đến công nghiệp chế biến Thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam, chuyển sản phẩm xuất khẩu xuất khẩu từ sản phẩm chế biến thô, sơ chế là chủ yếu sang sang những sản phẩm được chế biến sâu, tinh chế, điều này giúp chúng ta cải tiến chất lượng, chủng loại sản phẩm thị hiếu người tiêu dùng và đây sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy hoặc kìm hãm xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam.
1.3.Môi trường chính trị và luật pháp
Đây cũng là một trong những nhân tố tác động hết sức mạnh mẽ đến việc mở rộng hay kìm hãm sự phát triển, cũng như việc khai thác các cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu Thuỷ sản tuân theo khuôn khổ pháp luật. Đây là một yếu tố tác động hết sức mạnh mẽ đến việc mở rộng hay kìm hãm sự phát triển xuất khẩu Thuỷ sản.
- Môi trường chính trị ổn định và chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu Thuỷ sản tìm kiếm, xâm nhập thị trường.
- Việc bổ sung, sửa đổi để ngày càng hoàn thiện bộ Luật Thương mại theo hướng hội nhập và tiếp tục xây dựng và hoàn thiện luật Thuỷ sản là hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp xuất khẩu Thuỷ sản có thể hoạt động một cách năng động.
Như vậy, để thúc đẩy xuất khẩu thì Nhà Nước có vai trò rất lớn trong việc ổn định chính trị, tạo sự ổn định cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu yên tâm sản xuất, thu hút đầu tư của nước ngoài nhằm nâng cao trình độ công nghệ trong nước, ban hành các văn bản pháp luật và dứơi luật nhằm giúp các doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật.
1.4. Cơ sở hậu cần nghề cá.
Nước ta có bờ biển dài và điều kiện khí hậu thuận lợi, vùng biển có khả năng tái tạo sinh học cao của vùng thái nhiệt đới, môi trường biển tương đối sạch, nguồn lợi ven biển có khả năng phục hồi nhanh, nguồn lợi khai thác xa bờ còn có thể khai thác thêm 300 – 400 nghìn tấn mỗi năm. Mặt khác, do mức độ công nghiệp còn chưa cao nên bờ biển Việt Nam còn chưa bị ô nhiễm. Vì vậy nguồn lợi Thuỷ sản, hải sản Việt Nam còn được đánh giá là hợp vệ sinh, tốt cho sức khoẻ, điều này tạo điều kiện cho v._.iệc khai thác và kinh doanh hải sản.
Khí hậu nhiệt đới, các loài động vật phong phú và đa dạng diện tích nuôi trồng ngày càng được mở rộng, công nghệ sản xuất giống và thức ăn ngày càng được cải thiện, các hình thức nuôi quảng canh, thâm canh, ....đã tạo thuận lợi cho việc nuôi trồng và khai thác Thuỷ sản. Tuy nhiên, chúng ta chưa có các vùng nuôi quy mô lớn, nuôi công nghiệp hay nuôi quảng canh cải tiến để tạo ra sản lượng Thuỷ sản lớn, ổn định.
Cơ sở vật chất, hậu cần nghề cá ngày càng được nâng cấp: đội tàu thuyền đánh bắt hải sản dần được nâng cấp, hoàn thiện và đưa vào sử dụng ... đã tạo điều kiện cho việc đánh bắt và khai thác hải sản.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu Thuỷ sản xuất khẩu.
2.1. Nhu cầu tiêu thụ Thuỷ sản của thị trường Thế giới
Một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và toàn diện đến xu hướng phát triển thị trường Thuỷ sản Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng là xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá. Việt Nam đã tham gia vào các tổ chức: ASEAN, AFTA, APEC,...điều này cho thấy Việt Nam đã bước đầu hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với nước ta. Trong thời gian qua ngành Thuỷ sản đạt được kim ngạch xuất khẩu là 2 tỷ UDS, một phần do có sự đóng góp của việc thúc đẩy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Việt Nam cũng gặp nhiều thách thức như: khi ra nhập AFTA để hưởng được ưu đãi thuế quan CEPT, Việt Nam cần phải tăng cường sản xuất hàng hoá xuất khẩu chế biến thay vì hàng xuất khẩu khô.
Các thị trường xuất khẩu của nước ta cũng dần tăng cường đặt ra các điều kiện về an toàn vệ sinh thực phẩm – HACCP (Harard Analysis Criticle Control Point). Thị trường Thuỷ sản Thế giới trong những năm gần đây có nhiều biến động, xu hướng hiện nay của người tiêu dùng là giảm tiêu thụ thịt tăng tiêu thụ Thuỷ sản và nhu cầu của Thế giới về Thuỷ sản lại tăng khá ổn định. Năm 1985 xuất khẩu Thuỷ sản Thế giới đạt 17.2 tỷ USD, tới năm 1997 đạt 107,6 tỷ USD tăng bình quân trên 13% vào năm 2002. Giá Thuỷ sản cũng tăng khá hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các nước xuất khẩu Thuỷ sản, giá tăng xấp xỉ 6% trong khi nhu cầu trên toàn Thế giới không giảm. Như vậy, từ diễn biến nhu cầu và gía Thuỷ sản trên Thế giới cho thấy có thể thuận lợi cho Việt Nam nói riêng và cho các nước xuất khẩu Thuỷ sản nói chung trong công cuộc xuất khẩu Thuỷ sản
Khu vực Châu á là thị trường có nhu cầu rất lớn về Thuỷ sản, đặc biệt là thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, và Hồng Kông. Đây là thị trường tiềm năng to lớn cho nước xuất khẩu Thuỷ sản. Nhật Bản là nước tiêu thụ Thuỷ sản lớn trên Thế giới, do đó là nước thống soái thị trường nhập khẩu Thuỷ sản Thế giới. Các nước Châu á, trong đó có Việt Nam, là những nước cung cấp chủ yếu cho thị trường này. Thị trường Mỹ và EU cũng là các thị trường tiêu thụ lớn Thuỷ sản nhưng đây là các thị trường đòi hỏi cao về chất lượng Thuỷ sản và an toàn vệ sinh thực phẩm. Mỹ là thị trường rộng lớn và khá thống nhất về thị hiếu tiêu dùng Thuỷ sản so với thị trường EU, nhưng hàng rào thuế quan lại khắt khe hơn. Đối với Việt Nam thị trường này đã có cải thiện đáng kể trong việc nhập khẩu tôm, cá ngừ, và nhuyễn thể 2 mảnh vỏ ... đặc biệt là khi EU công nhận Việt Nam được xuất khẩu Thuỷ sản và nhuyễn thể hai mảnh vỏ vào thị trường này.
2.2.Môi trường văn hoá xã hội của các nước nhập khẩu Thuỷ sản.
Môi trường văn hoá xã hội được coi là một tổ hợp phức tạp gồm nhiều kiến thức, tín ngưỡng, luật pháp, nghệ thuật, lý luận và tất cả những thói quen khác mà con người đã thu nhận được vì là thành viên của xã hội. Vùng ảnh hưởng của một nền văn hoá có thể trải qua nhiều nước hoặc nhiều vùng
Thị trường được xây dựng trước hết bởi khách hàng. Khách hàng và hành vi ửng xử của họ trên thị trường phụ thuộc rất lớn vào môi trường văn hoá xã hội (từ cách sống, cách chi tiêu, lựa chọn sản phẩm ... ), cũng như các đối thủ cạnh tranh và cách sử dụng của họ chụi ảnh hưởng của môi trường văn hoá mà họ hoạt động. Đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu Thuỷ sản, do khách hàng của họ là có quốc tịch khác nhau và do nền văn hoá có đặc trưng riêng, do vậy nhu cầu thị hiếu, thói quen, tập quán tiêu dùng ở các nước khác nhau. Vì vậy, Việt Nam muốn xuất khẩu Thuỷ sản vào thị trường nào phải nghiên cứu các tham số như: dân số, thu nhập, phân phối thu nhập, tình hình chính trị, chính sách...
iV. Kinh nghiệm một số quốc gia trên Thế giới về phát triển xuất khẩu Thuỷ sản.
1. Thái Lan
Trong hơn 10 năm qua ngành Thuỷ sản Thái Lan tăng trưởng mạnh mẽ, nhất là xuất khẩu Thuỷ sản. Tốc độ tăng trưởng của Thuỷ sản xuất khẩu Thái Lan trong giai đoạn qua trung bình là 9%. Riêng năm 1995, Thái Lan còn là nước xuất khẩu Thuỷ sản và sản xuất tôm sú nuôi lớn nhất Thế giới.
Có được những thành tựu như vậy trước hết phải kể đến những đặc điểm tự nhiên thuận lợi của nước này như bờ biến dài, tiếp giáp cả Thái Bình Dương và biển Andaman, khí hậu ôn hoà, ngư dân giàu kiến thức và kinh nghiệm sản xuất Thuỷ sản. Nhưng để đạt được những thành công đó, là sự hợp tác toàn diện giữa chính phủ và khu vực tư nhân trong ngành Thuỷ sản Thái Lan. Những kinh nghiệm xuất khẩu Thuỷ sản của Thái Lan được thể hiện qua những chính sách cơ bản sau:
1.1. Cục nghề cá Thái Lan đảm bảo tốt việc kiểm soát chất lượng và thanh tra Thuỷ sản
- Cục nghề cá được thành lập để thống nhất quản lý chất lượng Thuỷ sản và vấn đề cấp chứng chỉ cho tất cả các sản phẩm Thuỷ sản xuất khẩu. Cục nghề cá là đơn vị duy nhất đủ thẩm quyền cấp giấy phép xuất khẩu Thuỷ sản Thái Lan sang các nước EU, cam kết bảo đảm tất cả các cơ sở sản xuất Thuỷ sản và các sản phẩm theo đúng quy định của EU và các chỉ thị có liên quan khác.
- Vấn đề thực hiện chương trình kiểm soát chất lượng theo HACCP: Thái Lan là một trong số ít các nước trên Thế giới bắt buộc áp dụng HACCP trong các cơ sở chế biến Thuỷ sản xuất khẩu. Nhiều nhà máy chế biến hàng đầu không tuân thủ theo hệ thống HACCP mà còn phấn đấu đạt chứng nhận ISO 9000 nhằm cải thiện hình ảnh và vị trí của doanh nghiệp trong kinh doanh.
1.2. Chương trình hỗ trợ của chính phủ.
Để đảm bảo sản xuất, nuôi trồng có chất lượng cao, đảm boả tính an toàn và phát triển bền vững, cục nghề cá đã và đang thực hiện nhiều biện pháp kiểm soát và giám sát nghề nuôi, chú trọng đặc biệt đến phòng ngừa dư lượng thuốc và hoá chất cũng như khả năng nhiễm vi sinh, ngăn chặn ô nhiễm môi trường và duy trì chất lượng nước ở các vùng nuôi Thuỷ sản như đăng ký trại nuôi, thanh tra và giám sát trại, đăng ký nhà máy sản xuất thức ăn cho nuôi trồng Thuỷ sản, quản lý sử dụng hoá chất...
Tuy nhiên, Thái Lan hiện tại cũng đang phải giải quyết nhiều vấn đề trong phát triển ngành Thuỷ sản. Về khai thác, do chưa quản lý chặt chẽ và hướng dẫn cụ thể từ năm 1982 đến 1996, sản lượng khai thác giảm dần bắt đầu có hiện tượng lạm thác vì ngư dân chủ yếu khai thác bằng lưới kéo hoặc lưới rê khiến nhiều loại Thuỷ sản không phát triển được. Về sản xuất, do phát triển quá nhanh, vấn đề ô nhiễm môi trường, dịch bệnh và lạm dụng thuốc đã xảy ra nhiều nơi, khiến sản lượng nuôi trồng và diện tích nuôi trồng Thuỷ sản giảm mạnh.
2. ấn Độ
ấn Độ là một nước đứng thứ 7 trên Thế giới về sản lượng Thuỷ sản và là một trong những nước xuất khẩu chính hàng Thuỷ sản Thế giới. Ngành Thuỷ sản chiếm khoảng 3,2% tổng kim ngạch xuất khẩu là ngành lớn thứ 4 về đóng góp ngoại tệ cho đất nước tạo việc làm trực tiếp cho khoảng 6 triệu ngư dân và hàng triệu người trong ngành công nghiệp thực phẩm Thuỷ sản và các ngành truyền thống khác. Thành công đó của ngành Thuỷ sản phải kể đến sự tham gia của cơ quan quản lý phát triển xuất khẩu Thuỷ sản (MPEDA) được chính phủ thành lập từ năm 1972 nhằm quản lý và giám sát cả lĩnh vực trong ngành Thuỷ sản, các tiêu chuẩn xuất khẩu, chế biến, mở rộng thị trường và đào tạo
2.1. Trước hết, về khâu quản lý chất lượng sản phẩm
Chính phủ ấn Độ đã ban hành một số văn bản pháp lý để đảm bảo quản lý chất lượng và đưa ra tiêu chuẩn bắt buộc đối với một số loại sản phẩm Thuỷ sản, quản lý kế hoạch kiểm tra trước khi giao hàng, thành lập hội đồng thanh tra xuất khẩu từ những năm 1963. Hơn nữa các công ty ngay từ đầu cũng tự xác định và đề ra chính sách chất lượng cho mình.
2.2.Thành lập MPEDA.
MPEDA từ khi thành lập đã giúp cho ngành Thuỷ sản tìm hiểu thị trường, xúc tiến thương mại (xuất khẩu), tìm hiểu các yêu cầu về buôn bán và nhập các mặt hàng thiết yếu của nước ngoài: ở Tokyo năm 1978 và ở NewYork năm 1983. Các văn phòng liên lạc chặt chẽ với các quan chức sứ quán ấn Độ, duy trì các mối quan hệ cộng đồng ở các nước sở tại để cải thiện hình ảnh Thuỷ sản ấn Độ. Ngoài ra MPEDA còn tiến hành một số chương trình hỗ trợ tài chính, khuyến khích hỗ trợ các nhà chế biến và xuất khẩu các mặt hàng theo định hướng xuất khẩu, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, phục vụ thị trường quốc tế, đưa ra các chương trình đào tạo về nuôi, chế biến, bảo quản Thuỷ sản một cách vệ sinh và nhiều vấn đề quan trọng khác.
Tuy nhiên, xuất khẩu Thuỷ sản ấn Độ cũng có một số yếu điểm sau:
- Thứ nhất: sản lượng Thuỷ sản chủ yếu dựa vào nghề đánh bắt. Nguồn lợi ven bờ bị khai thác quá mức trong khi nguồn lực xa bờ đang chờ để khai thác. Vì vậy, mục tiêu chính trong kế hoạch 5 năm lần thứ 8 nhằm vào phát triển khai thác đại dương và nuôi trồng ven bờ.
- Thứ hai: do thiếu kinh nghiệm phân tích các mối nguy cơ và thiếu các dữ liệu về dịch tễ học, thông tin về kỹ thuật chế biến thực phẩm trong việc áp dụng HACCP. Việc áp dụng HACCP còn thiếu hiệu quả. Năm 1997, nhiều nước thành viên EU phát hiện trong sản phẩm Thuỷ sản ấn Độ xuất khẩu có salmonella và vibrio. Trong tháng 6 năm đó thanh tra EU đã đi thăm ấn Độ và tháng 7/1997 EU đã đưa ra quyết định cấm nhập khẩu hàng Thuỷ sản ấn Độ. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực của mình đặc biệt là của MPEDA, tháng 12/1997 đã bỏ lệnh cấm với hàng Thuỷ sản ấn Độ.
Những bài học kinh nghiệm đó không chỉ là bài học riêng cho ấn Độ mà còn là bài học cho tất cả các nước đang phát triển xuất khẩu Thuỷ sản như Việt Nam.
3. Trung Quốc
Từ đầu năm 1990 trở lại đây, Trung Quốc đã trở thành một trong các nước xuất khẩu lớn nhất Thế giới với giá trị khoảng 3 tỷ USD và sản lượng Thuỷ sản vào loại cao nhất Thế giới khoảng 25 – 30 triệu tấn mỗi năm. Trung Quốc có nhiều đặc điểm thuận lợi xuất khẩu Thuỷ sản như: bờ biển dài và rộng, khí hậu khá thuận lợi, nhân công Trung Quốc cần cù chăm chỉ và giá cả rẻ - ưu điểm chính của Trung Quốc so với các nước khác trên Thế giới nhưng kinh nghiệm xuất khẩu Thuỷ sản lại ở điểm:
3.1. Trên hết, ngành Thuỷ sản phát triển là nhờ chính phủ Trung Quốc đã có những quy định luật pháp rất chặt chẽ, hợp lý về nuôi trồng Thuỷ sản.
Về nuôi trồng phát triển theo định hướng và quy hoạch tổng thể, không phát triển tự phát. Phát triển Thuỷ sản đi đôi với việc bảo vệ sinh thái – chính phủ Trung Quốc quy định rõ chỉ có chính quyền từ cấp huyện mới được cấp giấy sử dụng mặt nước, nhưng hiện chính quyền đang uỷ quyền cho Cục Thuỷ sản các tỉnh, thành phố kiểm tra và cấp giấy phép sử dụng (riêng mặt nước biển, sông hồ lớn do Nhà Nước quản lý, còn lại do tập thể quy định). Chính phủ còn miễn 1 – 13 năm cho các mặt nước nuôi trồng Thuỷ sản, người dân chỉ phải nộp phí sử dụng mặt nước tuỳ theo vùng nước và đối tượng nuôi.
3.2. Về khai thác hải sản, Nhà Nước khuyến khích khích và giúp đỡ phát triển khai thác xa bờ và viễn dương, sắp xếp hợp lý khai thác nội quỷ và biển gần.
Khai thác Thuỷ sản nội quỷ, biển gần phải xin giấy chứng nhận của cơ quan chủ quản nghề cá từ cấp huyện trở lên, còn làm nghề khai thác hải sản xa bờ phải được sự cho phép của cơ chủ quản hành chính nghề cá quốc vụ viện. Việc giấy phép không được vượt quá chỉ tiêu khống chế về tàu thuyền lưới công cụ, vạch ranh giới cấm nghề lưới kéo dày, không tăng về số lượng tàu cấm sử dụng chất nổ, hoá chất đánh cá quy định thời gian được phép khai thác trên các vùng biển, không sử dụng ngư cụ có kích thước mắt lưới nhỏ hơn quy định, không khai thác con giống có giá trị kinh tế quan trọng để bảo vệ nguồn lợi Thuỷ sản. Riêng vùng biển Nam Bộ sâu 20m trở vào, mọi hoạt động khai thác hoàn toàn bị cấm để bảo vệ nơi sinh trưởng cho cá con, cá sinh sản từ nhuyễn thể có thể khai thác. Xử lý thật nặng các trường hợp gây ô nhiễm môi trường.
4. Malaysia
Bờ biển dài 5000 km, nguồn lợi hải sản khá phong phú. Từ năm 1970 trở lại đây, do nhận thấy sản lượng đánh bắt hải sản nhanh và với số lượng tàu thuyền nghề cá hiện có, nguồn lợi Thuỷ sản rất dễ bị cạn kệt. Kinh nghiệm của Malaysia để thoát ra khỏi tình trạng này là:
4.1.Chính phủ đã chuyển đổi theo ngư trường mô hình quản lý tàu thuyền
Mô hình quản lý với nội dung là chia ngư trường thành 4 vùng để đánh bắt hải sản:
+ Vùng A (trong vòng 5 hải lý kể từ bờ): ngư trường đánh bắt của các nghề cá truyền thống. Loại tàu được phép khai thác có tổng dung tích từ 0 – 19,9 TDK (TDK = 2,83 m3).
+ Vùng B (từ 5 hải lý đến 12 hải lý) loại tàu được phép khai thác có tổng dung tích 20 – 39,9 TDK nghề lưới vây kéo, lưới vây rút chì.
+Vùng C1 (12 –30 hải lý) loại tàu được phép khai thác có tổng dung tích từ 40 –69,9 TDK nghề lưới vây kéo, lưới vây rút chì.
+ Vùng C2 (30 hải lý trở lên) loại tàu được phép khai thác có tổng dung tích 70 TDK trở lên, nghề lưới kéo, lưới vây rút chì.
Trong vùng A và B người điều khiển phương tiện bắt buộc phải là chủ tàu, nghĩa là trong vùng này một chủ tàu chỉ được phép sở hữu một con tàu duy nhất để đánh bắt hải sản trong vùng. Còn trong vùng C1 và C2 chủ tàu được phép sở hữu một lúc nhiều con tàu. Kết quả trong một thời gian ngắn, Malaysia đã hạn chế mức thấp nhất số phương tiện tàu nhỏ đánh bắt gần bờ và phát triển được nghề cá xa bờ
4.2.Về quản lý tàu thuyền
Theo dữ liệu tàu thuyền sản lượng đánh bắt Malaysia cũng làm chặt chẽ. Mọi dữ liệu tàu thuyền, sản lượng đánh bắt được cập nhật thường xuyên qua đội ngũ nhân viên thống kê ở các ban trong toàn quốc. Chỉ tiêu cấp giấy phép theo vùng nước trên cơ sở dữ liệu tàu thuyền, số lượng đánh bắt sao cho mục đích cuối cùng đặt hiệu quả cao mà vẫn bảo vệ được nguồn lợi Thuỷ sản. Ví dụ tại một thời điểm nào đó sản lượng đánh bắt của tàu thuyền vượt quá giới hạn cho phép thì chỉ tiêu cấp phép sẽ giảm để nguồn lợi không bị khai thác quá mức.
Đây là bài học cho Việt Nam trong xây dựng và phát triển đội tàu lớn đánh bắt xa bờ, hạn chế tàu nhỏ đánh bắt ven bờ, bảo vệ được nguồn lợi Thuỷ sản đang cạn kiệt ở Việt Nam.
Chương II: Phân tích thực trạng về xuất khẩu
Thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 1990-2003.
I. Thực trạng về xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam
1. Các vấn đề về sản xuất Thuỷ sản xuất khẩu.
Về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ hải sản
Trước thực trạng nguồn lợi Thuỷ sản ven bờ có dấu hiệu suy giảm nghiêm trọng, bước vào kế hoạch 10 năm 1991 –2000 ngành đã tập trung mọi nỗ lực nâng cao năng lực đánh bắt hải sản xa bờ
1.1.1. Tàu thuyền và các ngư cụ.
Tàu thuyền đánh cá chủ yếu là vỏ gỗ, các loại tàu có thép, xi măng lớp thép, composite chiếm tỷ trọng không đáng kể. Trong giai đoạn 1990 – 2002, số lượng tàu công suất lớn tăng nhanh. Năm 1998 số lượng thuyền máy là 71.767 chiếc chiếm 82,4% tàu thuyền, tăng 60% so với 1990; tàu thủ công là 15.338 chiếc, giảm đi 50% so với năm 1990. Đến năm 2000 số lượng tàu thuyền tăng lên 73.000 so với năm 1990. Tổng công suất tàu thuyền máy tăng nhanh hơn số lượng tàu. Năm 1998 tổng công suất đạt 2,43 triệu CV tăng gấp 3 lần so với năm 1991, đến năm 2001 tổng công suất đã tăng lên 3,21 triệu CV. Đến hết tháng 7/2002 có 79.023 tàu với tổng công suất bằng 3.729.327 CV trong đó có 6050 tàu khai thác xa bờ.
Bảng 2: Số lượng tàu thuyền và tổng công suất tàu qua một số năm giai đoạn 1990–2002
Năm
1990
1995
2000
Hết tháng7/2002
Số lượng tàu thuyền (chiếc)
44.854
68.000
73.600
79.023
Tổng công suất (CV)
1.020.000
1.500.000
2.753.000
3.729.327
Nguồn: Bộ Thuỷ sản
Chủng loại tàu thuyền máy thay đổi theo xu hướng giảm tỷ lệ tàu nhỏ tăng tỷ lệ tàu lớn khai thác xa bờ. Số tàu được cải hoán và đóng mới trong năm lần lượt là 322 và 14, vốn giải ngân đạt 335.9 tỷ đồng đạt 84,2% vốn kế hoạch. Năm 1998 Nhà Nước tiếp tục đầu tư 500 tỷ đồng để đóng mới 430 tàu và đã có 103 tàu đi vào sản xuất.
Ngư cụ nghề cá nước ta rất phong phú về chủng loại như: lưới lê, lưới kéo, mành vó ... các loại ngư cụ là cơ sở xác định loại nghề cá ở Việt Nam. Theo thống kê chưa đầy đủ Việt Nam có hơn 20 loại nghề khác nhau, xếp theo các họ nghề chủ yếu sau: Họ lưới rê chiếm 34,4%, họ lưới kéo chiếm 26,2%, họ câu chiếm 13,4%, họ ngư cụ cố định (chủ yếu là nghề lưới đáy, thường ở các cửa sông) chiếm 7,1%, họ mành vó chiếm 5,6%, họ lưới vây chiếm 4,3%, các nghề khác chiếm 9%. Họ lưới kéo chiếm tỷ trọng cao nhất ở các tỉnh Nam Bộ (38,1%) trong đó Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng chiếm tỷ trọng cao nhất là 47%, Kiên Giang chiếm 41,5%, Bà Rịa – Vũng Tàu chiếm 38,5%. Điều này phù hợp với nguồn lợi của vùng biển Nam Bộ vì trữ lượng cá đáy chiếm tỷ trọng cao, khoảng 65% tổng trữ lượng của vùng. Họ lưới lê chiếm một tỷ trọng cao ở các tỉnh Bắc Bộ chiếm 60%, Bắc Trung bộ 42% phù hợp với nguồn lợi ở Vịnh Bắc Bộ cá nổi chiêm 61,3% trữ lượng của vùng. Tuy nhiên, tỷ lệ lưới đáy cao ở một số tỉnh là chưa phù hợp, gây tác động xấu đến bảo vệ nguồn lợi vì đánh bắt không có chọn lọc, bắt cả đàn cá chưa trưởng thành, thường vào vùng cửa sông kiếm ăn. Để bảo vệ và tái tạo nguồn lợi Thuỷ sản Bộ Thuỷ sản chủ trương trước mắt không khuyến khích đầu tư thêm tàu thuyền nhỏ đánh bắt cá ven bờ, trình chính phủ tổ chức triển khai chương trình đánh cá xa bờ mà hoạt động đầu tiên là triển khai các giải pháp ưu đãi đóng tàu lớn ra khơi (tàu thuyền có công suất 90 CV trở lên sản xuất xa bờ). Tại ngư trường đánh bắt hải sản xa bờ như khu vực đảo Bạch Long Vĩ, khu vực đảo Hòn Mê, quần đảo trường sa, khu vực DKI và vịnh Thái Lan, đến nay đã có nhiều tàu thuyền đánh bắt thường xuyên hoạt động hơn trước.
1.1.2. Sản lượng đánh bắt.
Cùng với việc tăng nhanh tàu thuyền là sự gia tăng về sản lượng khai thác, ta có thể nhận thấy điều này thông qua bảng số liệu dưới đây:
Bảng 3: Sản lượng đánh bắt qua một số năm trong giai đoạn 1990 – 2002
Năm
1995
2000
2002
Sản lượng đánh bắt
928.680
1.241.960
1.258.930
Nguồn: Bộ Thuỷ sản
Năm 1995 đạt 928,860 tấn, tới năm 2000 đạt 1.241.960 tấn. Tỷ trọng hàng Thuỷ sản xa bờ cũng thay đổi, năm 1997 chỉ chiếm khoảng 14% sản lượng khai thác, đến năm 200 đạt gần 30%.
- Thực hiện Quyết định số 393/TTg ngày 9/6/1997 và quyết định 159/1998/QĐ - TTg ngày 3/9/1998 của Thủ tướng Chính Phủ về sử dụng vốn tín dụng đầu tư của Nhà Nước đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt hải sản và dịch vụ hậu cần đánh bắt hải sản xa bờ, đến tháng 6/2000 toàn ngành đã đóng mới và cải hoán 1345 chiếc. Tổng số vốn vay đã kí hợp đồng tín dụng là 1.181.093 triệu đồng, đã giải ngân 1.070.221 triệu đồng. đến hết tháng 6/2000 sản lượng khai thác từ đội tàu xa bờ đạt 241.000 tấn trong đó xuất khẩu 36.384 tấn trị gía 72 triệu USD. Một số tỉnh như bến tre lãi 5.701 triệu đồng. Đặc biệt cơn bão số 5 cuối năm 1997 đã gây tổn thương nặng nề cho ngành cá, chính phủ dành ra 1 khoản tín dụng ưu đãi đặc biệt đã cho vay trên 1.300 tỷ đồng để nhanh chóng khôi phục lại năng lực khai thác hải sản cho 14 tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Việc đóng mới tàu thuyền sử dụng khoản tín dụng này chủ yếu là đóng mới các tàu từ 90 CV trở lên đi khai thác xa bờ.
1.2.Về nuôi trồng Thuỷ sản.
Trong các năm gần đây nuôi trồng Thuỷ sản đã cơ bản chuyển hướng sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường chú trọng đúng định hướng tăng cường phát triển nuôi các loài Thuỷ sản có giá trị xuất khẩu
1.2.1. Diện tích nuôi
Bảng 4: Diện tích nuôi trồng Thuỷ sản giai đoạn 1991 – 2002
Năm
1991
1995
1999
2000
2001
2002
Diện tích nuôi trồng (ha)
489.833
576.000
630.000
640.000
675.000
955.000
Nguồn: Vụ Kế hoạch & Đầu tư - Bộ Thuỷ sản
Nghề nuôi trồng Thuỷ sản đã giải quyết việc làm cho người lao động ở vùng nông thôn ven biển nơi ít có cơ hội việc làm. Năm 1995, nghề nuôi trồng Thuỷ sản mới chỉ tạo việc làm cho 422.500 người, diện tích nuôi trồng là 576.000 ha thì năm 2000 đã có: 560.000 người có việc làm, diện tích nuôi trồng Thuỷ sản tăng 11%.
1.2.2. Sản lượng nuôi.
Bảng 5: Sản lượng nuôi trồng Thuỷ sản giai đoạn 1991 – 2002.
(Đơn vị tính: tấn)
Năm
1991
1995
1999
2000
2001
2002
Sản lượng
347.910
415.280
614.510
726.740
879.100
976.100
Nguồn: Cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản – Bộ Thuỷ sản
Sản lượng nuôi trồng tăng liên tục qua các năm và tốc độ tăng ngày càng cao. Năm 2000 tăng 75% so với 1995. Tham gia vào hoạt động nuôi trồng Thuỷ sản chủ yếu là các hộ gia đình, công ty TNHH, doanh nghiệp Nhà Nước và một số công ty liên doanh với nước ngoài. đến hết năm 2000 ddax có 215.928 hộ gia đình nuôi dưới 5 ha, 9.701 tiểu chủ nuôi trên 5 ha, 33 cônh ty TNHH nuôi trồng Thuỷ sản. Nhà Nước đã hướng vào cung cấp dịch vụ, quản lý giống Thuỷ sản, phòng chống dịch bệnh cho nuôi trồng Thuỷ sản. các hình thức nuôi phổ biến như: nuôi tôm thâm canh, nuôi lồng bè, nuôi các– lúa, tôm – lúa... được thực hiện rộng rãi. đối tượng nuôi đa dạng, nuôi các loại có giá trị kinh tế cao ngày càng mở rộng. Trong những năm từ 1998 đến nay, cá ba sa, cá tra được nuôi nhiều ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, tổng số bè ở khu vực này chiếm trên 30% tổng số lồng bè nuôi toàn quốc.
Phương thức nuôi chuyển mạnh từ nuôi quảng canh cải tiến sang bán thâm canh và nuôi công nghiệp. Từ 1997 đến nay năng suất nuôi tăng lên rõ rệt: cá ao hồ nhỏ đạt 2,5 – 4 tấn/ha/năm, cá ruộng 250 – 400 kg/ha/năm, nuôi lồng bè mặt nước lớn, hồ chứa năng suất từ 600 – 700 kg/lồng/năm.
Diện tích nuôi tôm vùng mặn lợ năm 2000 là 330.000 ha tăng 7,2% so với năm1995. Từ năm 2000 đã bắt đầu chú trọng xây dựng dự án đầu tư vào phương thức nuôi tôm công nghiệp vùng cao triều với năng suất bình quân từ 2500 – 6000 kg/ha/năm. một số tỉnh đã có mô hình nuôi tôm công nghiệp năng suất cao đạt 2,5 tấn/ha như: Ninh Thuận, Bình Thuận, Trà Vinh. Sóc Trăng có tỉnh đạt tới 6 tấn/ha như ở Khánh Hoà (Cam Ranh), Ninh Thuận, thận chí có nơi lên 9,2 tấn/ha/vụ như ở xã Thạch Phước huyện Bình Đại tỉnh Bến Tre.
1.2.3. Con giống.
Hệ thống sản xuất tôm giống và cá giống đã phát triển trong vài năm gần đây. Năm1995 toàn ngành có 840 cơ sở sản xuất giống (năm 1990 có 300 cơ sở), trong đó có 559 cơ sở sản xuất tôm giống mỗi năm sản xuất 1 tỷ giống tôm sú, thẻ, tôm càng xanh và 281 cơ sở sản xuất cá giống, mỗi năm sản xuất khoảng 5 tỷ cá bột. Đến cuối năm 2000 đã có 2860 cơ sở sản xuất giống trong đó có 2520 cơ sở sản xuất tôm giống mỗi năm, sản xuất khoảng 6 tỷ tôm giống và 350 trại cá giống sản xuất khoảng 6 tỷ cá bột đáp ứng yêu cầu sản xuất của dân, giải quyết được phần nào vấn đề vớt giống tự nhiên.
- Quyết định số 103/2000/QĐ - TTg ngày 9/9/2000 của Thủ Tướng Chính Phủ tạo điều kiện cho các tổ chức, gia đình, mọi thành phần kinh tế thực hiện đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ và phát triển giồng thuỷ sản, các khoản vay dưới 50 triệu đồng cho phát triển nuôi trồng Thuỷ sản không phải thế chấp tài sản.
- Triển khai chương trình 773 về sử dụng đất hoang hoá, bài bồi ven sông, ven biển tới năm 2000. Nhà Nước đã đầu tư 322,570 tỷ đồng để tiến hành cơ sở hạ tầng đã sử dụng 11.000 ha vào nuôi tôm, giải quyết việc làm cho trên 50.000 lao động.
- Ngày 8/12/1999 Chính Phủ đã ban hành quyết định số 224/1999/QĐ - TTg về phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồngThuỷ sản giai đoạn 1999 – 2010. Bộ Thuỷ sản đang triển khai các công việc sau đây:
+ Xây dựng quy hoạch cho phát triển nuôi trồng Thuỷ sản, quy hoạch chuyển đổi lúa sang nuôi tôm.
+ Xây dựng 22 dự án nuôi tôm công nghiệp.
+ Chuẩn bị 7 dự án nuôi tôm công nghiệp.
+ Xây dựng các cơ chế chính sách về đất đai, vốn....
1.3 Về chế biến, tiêu thụ sản phẩm Thuỷ sản.
Bảng 6: Cơ sở chế biến của ngành qua các năm
Năm
1991
1995
1999
2000
2001
2002
Cơ sở chế biến
136
168
198
260
300
320
Nguồn: Vụ khoa học và công nghệ - Bộ Thuỷ sản
Trong 7 năm 1995 – 2002 đã phát triển mạnh mẽ về số lượng và công suất chế biến, nếu như năm 1995 chỉ có 168 cơ sở với 800 tấn/ngày thì năm 2000 có 260 cơ sở chế biến thuỷ sản trong đó có 200 cơ sở chế biến đông lạnh với công suất 1000 0tấn/ ngày, năm 2001 có 300 cơ sở chế biến Thuỷ sản, năm 2002 có 320 cơ sở. Trong đó một số đơn vị đã đầu tư nâng cấp đổi mới điều kiện sản xuất các mặt hàng, đa dạng hoá sản phẩm, chuyển sang sản xuất các mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao, thực hiện quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm. Tính đến hết năm 2002 có 128 đơn vị áp dụng HACCP để xuất hàng vào Mỹ và 68 cơ sở có CODE xuất hàng vào EU, có 2 doanh nghiệp được cơ quan của Hoa Kỳ cấp chứng chỉ HACCP.
Sự đa dạng hoá mặt hàng, hình thức phục vụ đa dạng, phạm vi tiêu thụ rộng, mẫu mã đẹp đã thúc đẩy thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước phát triển.
2. Xuất khẩu Thuỷ sản giai đoạn 1990 – 2002.
2.1. Kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản.
Sản lượng Thuỷ sản xuất khẩu hay chính là tổng kim ngạch xuất khẩu của Thuỷ sản Việt Nam tăng dần qua các năm:
Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản giai đoạn 1990 – 2002.
Năm
Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
Tốc độ tăng trưởng hàng năm (%)
1990
205
1991
262
28
1992
305
16
1993
368
81
1994
458
24
1995
550
20
1996
696,5
27
1997
782
12
1998
858
10
1999
985,73
15
2000
1478,6
50
2001
1777,486
20
2002
2022,821
14
Nguồn: Hiệp hội chế biến và xuất khẩu – Bộ Thuỷ sản.
Năm 2000 đạt 1478 triệu USD, chiếm hơn 10% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam hay khoảng 2% kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản Thế giới, tăng hơn 7 lần so với 1990, năm 2001 kim ngạch xuất khẩu là 1777,486 triệu USD tưng 20,2% so với năm 2000 (về giá trị) tăng 30,0% (về số lượng). Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản là 2022,821 triệu USD tăng 13,8%so với năm 2001 (về giá trị) và tăng 23,7% (về sản lượng). Năm 2000 tổ chức lương thực Thế giới đã xếp Việt Nam vào vị trí thứ 25 trên Thế giới và thứ 3 trong các nước ASEAN về xuất khẩu Thuỷ sản. Hiện nay Thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam thuộc nhóm 10 quốc gia xuất khẩu Thuỷ sản lớn nhất Thế giới (theo phát biểu của thứ trưởng Bộ Thuỷ sản – bà Nguyễn Thị Hồng Minh trong lễ mừng ngành Thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu đạt 2 tỷ USD ngày 10/1/2003.
2.2. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu.
Sản phẩm Thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu được đề cập đến 4 nhóm sản phẩm sau: tôm đông lạnh, mực đông lạnh, cá đông lạnh, mực khô. Cho dù ngành Thuỷ sản Việt Nam đã cố gắng đa dạng hóa các sản phẩm Thuỷ sản xuất khẩu nhưng sản phẩm Thuỷ sản xuất khẩu của nước ta vẫn chủ yếu là dạng sơ chế, tỷ trọng sản phẩm có giá trị gia tăng thấp (chiếm 14 – 15% lượng hàng xuất khẩu). Tuy nhiên, những năm gần đây do có sự đầu tư ngày càng tăng nên tỷ trọng các sản phẩm giá trị gia tăng ngày càng cao.
Bảng 8: Sản lượng các mặt hàng Thuỷ sản xuất khẩu giai đoạn 1996 –2001
(Đơn vị tính: 1000 tấn)
Năm
Cá đông
lạnh
Mực đông lạnh
Tôm đông lạnh
Mực khô
Thuỷ sản khác
1996
29.7
20.2
51.1
5.9
15.2
1997
81.0
40.0
68.2
6.4
41.4
1998
69.7
60.8
431.7
9.4
59.8
1999
89.9
73.9
225.6
11.6
83.6
2001
127.85
89.7
301.5
19.8
117.4
Nguồn: Vụ Kế Hoạch & Đầu Tư - Bộ Thuỷ sản
Năm 1999 tỷ trọng của sản phẩm có giá trị gia tăng chỉ đạt 19,7% tổng giá trị sản phẩm xuất khẩu thì năm 2000 tăng lên 35%, năm 2002 xấp xỉ 40% dần dần hạn chế xuất khẩu sản phẩm Thuỷ sản dưới dạng nguyên liệu thô. Xét về chủng loại mặt hàng, cơ cấu sản phẩm Thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam là mất cân đối. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là tôm. Ta có thể thấy rõ qua biểu cơ cấu mặt hàng Thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là:
Bảng 9: Cơ cấu sản phẩm Thuỷ sản xuất khẩu giai đoạn 1996 – 2001
(Đơn vị tính: %)
Năm
Cá đông lạnh
Mực đông lạnh
Tôm đông lạnh
Mực khô
Thuỷ sản khác
1996
24.32
16.54
41.05
4.83
12.46
1997
34.18
16.88
28.78
4.70
17.46
1998
11.04
9.63
68.37
1.49
9.47
1999
18.55
15.25
46.55
2.39
17.26
2001
19.48
13.67
45.94
3.02
17.89
Nguồn: Vụ Kế Hoạch & Đầu Tư - Bộ Thuỷ sản
- Tôm đông lạnh: Theo số liệu đến hết tháng 7/2002 của Bộ Thuỷ sản mặt hàng tôm đã chiếm 60% tổng kim ngạch xuất khẩu (trong khi đó năm 1999 tôm mới chỉ chiếm 52,8%). Trong đó tôm đông lạnh1995 chiếm 52,08%so với tổng sản lượng Thuỷ sản xuất khẩu nhưng đến năm 1999 tỷ trọng này chỉ còn 22,84%; mức giảm thấp nhất nhưng kim ngạch xuất khẩu tôm đông lạnh lại tăng lên 318,2 triệu USD so với năm 1995. Như vậy giá trị gia tăng của mặt hàng này càng tăng.
- Cá đông lạnh là mặt hàng xuất khẩu quan trọng xếp thứ hai của Việt Nam sau tôm đông lạnh. Tỷ trọng của mặt hàng này ngày càng tăng trong cơ cấu mặt hàng Thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam. Năm 1995 cá đông lạnh chỉ chiếm tỷ trọng 24,59% nhưng đến năm 1999 mặt hàng này chiếm 52,28%. Nhưng đến năm 2000 tỷ trọng này giảm chỉ còn 19,2%. Tỷ trọng tuy có giảm nhưng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này ngày càng tăng, tăng từ 94 triệu USD năm 1995 đến 165,79 triệu USD năm 2000.
- Mực đông lạnh thường chiếm tỷ trọng tương đối thấp trong tổng sản lượng Thuỷ sản xuất khẩu, năm 1995 đến 1997 từ 8,85% đến 10%, sau đó giảm xuống 7,27% năm 2000.
- Mực khô chiếm tỷ trọng tương đối thấp trong tổng số sản lượng Thuỷ sản xuất khẩu, năm 1995 mặt hàng này chỉ chiếm 3,13% nhưng năm 1998 tăng lên 3,67%; năm 1999 là 3,66% và tăng lên 9,05% vào năm 2000. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này cũng tăng nhanh những năm gần đây. Năm 1995 chỉ đạt 30 triệu USD, thì đến năm 2000 đạt 211,32 triệu USD. Bên cạnh đó, các nhóm hàng sản phẩm khác cũng góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản trong thời gian qua như: các mặt hàng sản phẩm chế biến, nhuyễn thể hai mảnh vỏ, cua ghẹ, đặc sản biển. Các nhóm hàng này cũng phát triển mạnh, chiếm 16,2 % kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản. Đây cũng là cơ hội của việc đa dạng hoá sản phẩm Thuỷ sản xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu Thuỷ sản
2.3. Chất lượng sản phẩm và công tác quản lý chất lượng Thuỷ sản xuất khẩu
2.3.1. Chất lượng sản phẩm Thuỷ sản xuất khẩu.
Vấn đề chất lượng luôn là vấn đề gay cấn nhất hiện nay đối với các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng Thuỷ sản của Việt Nam. Mặc dù đã có Naticogen là cơ quan kiểm tra các tiêu chuẩn của các nhà máy chế biến và là cơ quan giám sát các sản phẩm sản xuất nhưng trong thực tế Naticogen chỉ kiểm tra các tiêu chuẩn vệ sinh mà không kiểm tra ._. và tận dụng xuất khẩu tối đa. Cần cân đối lại nguyên liệu và giống đến năm 2010 cần khoảng 350 – 400 nghìn tấn tôm, trong đó tôm biển sẽ giảm dưới 20% còn lại là tôm nuôi. Cần khoảng 400.000 tấn cá, trong đó cá biến cần tăng tỷ trọng trong các loại cá có chất lượng tốt để xuất khẩu được hơn 20% cá biến nuôi cần 20.000 tấn để phục vụ xuất khẩu sống, cá nước ngọt cũng cần đạt hơn 150.000 tấn.
II. Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 2003 -2010
1. Giải pháp thị trường:
Đây là giải pháp mang tính chất trực tiếp và cực kỳ quan trọng đến việc nâng cao hình ảnh, uy tín sản phẩm, mở rộng đối tác và phạm vi thị trường xuất khẩu. Hiện chúng ta đang đặt mục tiêu giữ vững thị trường truyền thống, tăng nhanh tỷ trọng các thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ, và coi trọng các thị trường thu nhập cao khác trên Thế giới tạo thế cân bằng với thị trường truyền thống, vươn ra làm chủ Thế giới ở một số các mặt hàng, giảm tối đa việc xuất khẩu các sản phẩm thô và việc xuất khẩu qua thị trường trung gian và tăng xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường trên Thế giới. Để thực hiện được giải pháp này cụ thể chúng ta phải giải quyết các công việc sau:
- Tăng cường công tác thông tin về thị trường Thế giới và các cơ chế chính sách thương mại của các nước. Phát huy vai trò của hiệp hội, các câu lạc bộ nhóm sản phẩm trong việc cung cấp thông tin thị trường, dự báo nhu cầu và diễn biến thị trường cho doanh nghiệp và cho người sản xuất, phát triển công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô, phối hợp chặt chẽ giữa Nhà Nước và doanh nghiệp.
- Tiếp tục giữ vững thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU đồng thời tăng cường xuất hàng vào Trung Quốc, Hồng Kông, mở các thị trường mới ở các nước thuộc SNG, Trung Đông, Mehico và Ecuado trong đó đặc biệt chú trọng thị trường Trung Quốc bằng việc xây dựng các kho lạnh tại Lào Cai, Móng Cái để trữ hàng.
- Đẩy mạnh công tác quảng cáo tiếp thị hướng dẫn tiêu dùng, tham gia các hội chợ trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm và tìm đối tác kinh doanh. Chú trọng thị trường có sức mua lớn đi đôi với mở rộng khảo sát thăm dò mở rộng thêm thị trường mới chủ động phòng ngừa những đột biến của thị trường truyền thống.
- Có cơ quan đầu mối thực hiện chức năng quản lý Nhà Nước về xúc tiến thương mại. Thành lập văn phòng đại diện thương mại Thuỷ sản Việt Nam tại một số thị trường lớn: Mỹ, Nhật, EU, Trung Quốc. Trước mắt năm 2002 đã thành lập được tại Mỹ và Trung Quốc để rút kinh nghiệm tổ chức cho các thị trường khác.
- Đưa Quỹ phát triển thị trường xuất khẩu Thuỷ sản trên cơ sở hỗ trợ ban đầu của Nhà Nước và nguồn thu chủ yếu từ các doanh nghiệp, dựa vào sản lượng xuất khẩu từng loài nhóm sản phẩm nhằm nâng cao năng lực của sản phẩm cũng như doanh nghiệp để chủ động thực hiện công tác xúc tiến thương mại xử lý tranh chấp thương mại khi xảy ra.
2. Giải pháp về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm.
Chất lượng sản phẩm và ATVS thực phẩm là yếu tố quyết định đến giá trị của sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp quan trọng hàng đầu hiện nay để nâng cao khả năng cạnh tranh, thâm nhập vào thị trường các nước phát triển đang có nhu cầu cao hiện nay và hạn chế sự lãng phí tài nguyên.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm và ATVS thực phẩm trước hết phải nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu, nâng cao chế biến và có quy đinh chung về chất lượng.
2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu.
Chất lượng nguồn nguyên liệu ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm. Đó là việc đảm bảo kích cỡ, độ tươi sống, chủng loại nguyên liệu.
- Quy hoạch và đầu tư xây dựng hệ thống kho lạnh và phát triển dịch vụ kho lạnh trong cả nước với công nghệ và thiết bị tiên tiến.
- Tăng cường các hình thức liên kết ngang và dọc tạo sự phân công hợp tác giữa các nhà chế biến và mối gắn kết với sản xuất nguyên liệu thông qua việc hình thành các câu lạc bộ sản phẩm, để thống nhất từ sản lượng đến các yêu cầu về chất lượng, kích cỡ từng loại nguyên liệu phù hợp với yêu cầu thị trường.
Thực hiện kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm vùng thu hoạch nhiễm thể 2 mảnh vỏ, kiểm soát dư lượng kháng sinh, độc tố trong sản phẩm Thuỷ sản và kiểm soát điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm tàu cá, chợ cá, cơ sở nuôi, cơ sở thu mua bảo quản.
* Theo quan điểm của Bộ Thuỷ sản, để làm được các vấn đề trên cần có sự phối hợp tích cực chặt chẽ, tích cực giữa các bộ, ngành và UBND các tỉnh để ngăn chặn tận gốc, quản lý chặt việc nhập khẩu sản xuất, không cho lưu thông, buôn bán sử dụng tất cả các khâu của quá trình sản xuất, đồng thời tổ chức tập huấn rộng rãi cho người sản xuất...
2.2. Nâng cao chất lượng trong chế biến
Để nâng cao chất lượng chế biến ta đi vào các giải pháp cụ thể sau:
- Ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ hiện đại, bí quyết công nghệ, thuê chuyên gia giỏi nước ngoài, đầu tư nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới, phát triển các mặt hàng mới.
- Hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp chế biến Thuỷ sản đầu tư nâng cấp điều kiện sản xuất đáp ứng yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước, nhất là Mỹ và EU.
- Xây dựng, ban hành và triển khai áp dụng các tiêu chuẩn Nhà Nước (TCVN) và tiêu chuẩn ngành (TCN) về điều kiện sản xuất, an toàn vệ sinh tối thiểu đối với các chợ, các cảng cá, các cơ sở chế biến Thuỷ sản tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
- Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất và năng lực nghiên cứu và triển khai của Trung tâm Công nghệ Sinh học và Công nghệ Chế biến thuộc Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản II (Bộ Thuỷ sản), tạo điều kiện cho Trung tâm nghiên cứu phát triển sản phẩm và tư vấn cho doanh nghiệp phát triển đa dạng hoá mặt hàng.
- Thành lập tổ chức tư vấn, giúp các doanh nghiệp đầu tư mới, sửa chữa, cải tạo và nâng cấp nhà xưởng chế biến, xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng.
2.3. Đảm bảo ATVS thực phẩm
- Tiếp tục đổi mới công tác an toàn vệ sinh phù hợp yêu cầu mới trên hai mặt, hệ thống tổ chức và hệ thống văn bản pháp quy kỹ thuật, nhằm nâng cao độ tin cậy của hệ thống kiểm soát đối với sản phẩm Thuỷ sản Việt Nam. Việc quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm phải trở thành hệ thống xuyên suốt trong các khâu từ sản xuất nguyên liệu, đến thu gom, vận chuyển, chế biến, tiêu thụ. Lấy các tiêu chuẩn của thị trường làm thước đo cho mức độ đáp ứng.
- Trước hết, về phía Bộ Thuỷ sản đã có chỉ thị kiểm tra 100% các lô hàng xuất đi EU, đình chỉ xuất khẩu vào EU đối với những doanh nghiệp có lô hàng bị phát hiện có dư lượng, đẩy nhanh tiến trình ban hành các tiêu chuẩn quy chế còn thiếu và xây dựng các tổ chức hệ thống quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm ở cấp huyện và tỉnh.
- Trong báo cáo đầu tháng 4/ 2002 trình thủ tướng chính phủ Bộ Thuỷ sản đề nghị Thủ Tướng chỉ đạo Bộ NNN &PTNT và Bộ Y Tế rà soát sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật để làm căn cứ kiểm tra và xử lý vi phạm.
3. Giải pháp về cung cấp nguyên liệu chế biến Thuỷ sản xuất khẩu.
3.1.Nuôi trồng Thuỷ sản.
Trong nuôi trồng để có nguyên liệu đủ về sản lượng, đảm bảo về chất lượng, phù hợp với yêu cầu của thị trường chúng ta phải đảm bảo về mặt.
3.1.1.Con giống.
- Chủ động trong việc sản xuất và kiểm soát chất lượng con giống. Tăng cường công tác khuyến ngư hướng dẫn quy trình công nghệ và kỹ thuật nuôi cho dân để nâng cao năng suất, hạn chế rủi ro và thực hiện được yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm đối với nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu.
- Bộ nên tổ chức thí điểm một số mô hình quản lý cộng đồng đối với nuôi sạch để liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu ổn định nguồn con giống, nguyên liệu sạch bệnh.
3.1.2.Kỹ thuật nuôi trồng.
- Phát triển nuôi tôm với các phương thức công nghiệp, bán thâm canh, nuôi sinh thái quảng canh cải tiến và các hình nuôi kết hợp tôm – lúa, tôm – rừng phù hợp với điều kiện sinh thái và môi trường, nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng cao giá thành cạnh tranh. Đồng thời phát triển mạnh các vùng nuôi có sản lượng lớn đối với các đối tượng xuất khẩu khác, như tôm càng xanh, cá ba sa, cá tra, nhuyễn thể, rô phi, song, hồng...
- Phát triển sản xuất thức ăn, chất xử lý môi trường và thuốc phòng bị bệnh cho nuôi với chất lượng cao, giá thành hạ để giảm giá thành sản phẩm nuôi, nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng hiệu quả cho người nuôi trồng Thuỷ sản.
3.2. Khai thác hải sản:
- Tổ chức các đội tàu khai thác hải sản xa bờ, gắn với cải tiến công nghệ khai thác và bảo quản sản phẩm trên tàu với sử dụng tầu hậu cần dịch vụ nhằm giảm giá thành sản phẩm khai thác và nâng cao chất lượng sản phẩm và đảm bảo an toàn vệ sinh, nâng cao tỷ lệ sản phẩm đưa vào chế biến xuất khẩu.
- Phát triển mạnh các nghề khai thác đối tượng có giá trị xuất khẩu cao như nghề câu cá ngừ đại dương vây rút chỉ kết hợp chà rạo, lồng bẫy...
3.3. Nhập khẩu nguyên liệu Thuỷ sản để chế biến tái xuất:
- Tổ chức tìm kiếm các nguồn nguyên liệu từ các khu vực kém năng lực chế biến hoặc có chi phí chế biến cao để nhập khẩu làm tăng thêm nguồn nguyên liệu và cơ cấu nguyên liệu thích hợp và chủ động hơn cho chế biến tái xuất sang các thị trường có thu nhập cao.
4. Giải pháp quy hoạch
Bộ Thuỷ sản nhanh chóng điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế Thuỷ sản đến 2005 và 2010 trình Chính Phủ quyết định.
Yêu cầu lớn nhất đối với quy hoạch ngành Thuỷ sản để phát triển xuất khẩu Thuỷ sản là cần đảm bảo tốt quy hoạch phát triển sản xuất nguyên liệu cho xuất khẩu. Chúng ta xem xét ảnh hưởng chủ yếu ở những khía cạnh sau:
4.1.Quy hoạch nuôi trồng Thuỷ sản.
- Nhanh chóng quy hoạch và đầu tư các vùng nuôi trồng Thuỷ sản tập trung, quy mô lớn, công nghệ tiên tiến theo mô hình sinh thái bền vững,tăng cường năng lực con người và thiết bị cho các cơ quan kiểm soát chất lượng môi trường các vùng nước nuôi Thuỷ sản cấp trung ương và địa phương; thường xuyên theo dõi và dự báo về chất lượng nước và dịch bệnh.
- Các địa phương khẩn trương điều chỉnh lại quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của địa phương mình theo tinh thần nghị quyết 09/2000/ NQ – CP về chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp nông thôn, trong đó có chuyển đất hoang hoá, đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng Thuỷ sản, trên cơ sở đó xây dựng qui hoạch cụ thể phát triển Thuỷ sản trên từng địa bàn.
- Mở rộng và củng cố hình thức trang trại phát triển nuôi trồng Thuỷ sản.
- Tận dụng diện tích, mở rộng phát triển nuôi tôm công nghiệp, nuôi bán thâm canh và nuôi sinh thái các đối tượng có thị trường như: tôm sú, tôm rảo, tôm he...
- Xây dựng và triển khai các dự án phát triển các vùng nuôi cá tập trung ở quy mô công nghiệp.
- Tăng cường năng lực con người, thiết bị cho các cơ quan kiểm soát chất lượng các vùng nước nuôi trồng Thuỷ sản cấp Trung ương và địa phương, thường xuyên theo dõi và dự báo về chất lượng nước và dịch bệnh.
- Tăng cường sản xuất giống Thuỷ sản, tập trung nâng cấp và đầu tư mới các cơ sở sản xuất thức ăn với công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng thức ăn.
- Nhập công nghệ sản xuất giống và nuôi nhuyễn thẻ có giá trị xuất khẩu cao như nghêu, ngao, sò lông, điệp, ốc hương, bào ngư, trai ngọc, hầu...theo phương thức quảng canh kết hợp, bán thâm canh tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận, Bà Rịa Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Kiên Giang, Cà Mau.
- Đầu tư các công trình nghiên cứu, các dự án sản xuất giống nhân tạo thay thế cho nhập ngoại và bảo vệ nguồn giống tự nhiên các loại sò huyết, Thuỷ sản.
- Tăng cường hợp tác nghiên cứu với các nước có công nghệ cao trong khu vực nhất là công nghệ di truyền, chọn giống, công nghệ sinh học, công nghệ xử lý môi trường, công nghệ chuẩn đoán và phòng trừ dịch bệnh.
4.2.Quy hoạch khai thác hải sản.
- Phát triển mạnh năng lực sản xuất và tổ chức khai thác xa bờ ở vùng Vịnh Bắc Bộ, biển Trung Bộ và Tây Nam Bộ, phấn đấu đưa sản lượng khai thác xa bờ năm 2010 lên 300 – 400 nghìn tấn, chủ yếu là cá nổi gía trị cao.
- Ưu tiên cho ngư dân được hưởng các khoản tín dụng trung và dài hạn, lãi suất ưu đãi, hỗ trợ ngư dân đóng tàu thuyền lớn.
- Khai thác, chọn lọc và ứng dụng công nghệ khai thác, nuôi trồng, chế biến tiên tiến, phù hợp với điều kiện trong nước, chú trọng phát triển công nghệ sản xuất giống chất lượng tốt những loài có giá trị kinh tế cao, phát triển công nghệ khai thác xa bờ, vùng san hô, vùng đá ngầm.
- Xây dựng các đội tàu đánh cá quốc doanh lớn, làm nhiệm vụ hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ các dịch vụ hậu cần, đưa ngư dân ra khai thác xa bờ.
Bên cạnh đó, đưa vào hoạt động có hiệu quả một số tàu hậu cần cho đội tàu xa bờ. Triển khai thực hiện dự án tàu công ích làm dịch vụ cho đánh bắt hải sản xa bờ.
- Mở rộng hợp tác với các nước có nghề cá phát triển, tân dụng mọi khả năng về vốn, công nghệ để liên doanh hợp tác xa bờ, từng bước tiến đến đánh cá đại dương.
- Xây dựng hệ thống các cơ sở dịch vụ hậu cần: bến cảng, công trình điện – nước, cung ứng nhiên liệu, nước đá, tổ chức lại và nâng cấp các cơ sở cơ khí đóng, sửa chữa thuyền hải sản; xây dựng các cảng và hệ thống dịch vụ cho xuất khẩu ở một số đảo, vùng biển có nghề cá trọng điểm.
- Xây dựng chính sách thuê thật sự khuyến khích phát triển đánh bắt cá xa bờ. Trước mắt, nên miễn giảm các loại thuế trước bạ, thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu.
5. Giải pháp quản lý thương mại nguyên liệu Thuỷ sản.
Kết hợp củng cố vị trí cho các tập đoàn xuất khẩu lớn với việc giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong xuất khẩu hàng Thuỷ sản nhằm phát huy lợi thế của các doanh nghiệp trong sản xuất chế biến hàng Thuỷ sản xuất khẩu bởi nếu chỉ tập trung hỗ trợ các tập đoàn lớn, tuy điều kiện đầu tư, đổi mới trang thiết bị sẽ tốt hơn, đào tạo tập trung hơn, đưa các tập đoàn lớn trở thành đầu tàu đẩy mạnh xuất khẩu Thuỷ sản nhưng các tập đoàn lớn thường khó thích nghi trước những biến đổi thất thường và các yêu cầu đa dạng, phong phú của thị trường cá biệt trong khi các doanh nghiệp nhỏ có tính linh hoạt và dễ thích ứng hơn. Hơn nữa, đặc điểm của Việt Nam là kinh tế hộ gia đình, các xí nghiệp vừa và nhỏ là điều cần thiết.
- Vận dụng linh hoạt các phương thức mua bán quốc tế sẽ mở thêm cho ta những cơ hội xuất khẩu mới. Ngoài việc ký kết các hợp đồng trực tiếp, có thể ký gửi bán hàng Thuỷ sản ở nước ngoài hay sử dụng mạng lưới phân phối hàng Thuỷ sản ở nước ngoài như đại lý, môi giới bán hàng ...
Xây dựng hệ thống chợ Thuỷ sản bán buôn tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các chợ đấu gía Thuỷ sản khu vực tại Bạc Liêu, Cà Mau, Khánh Hoà và các chợ cá đầu mối tại các địa phương, trong đó Nhà Nước đầu tư phần cơ sở hạ tầng của các chợ. Đầu năm 2003 này sẽ đưa vào sử dụng 2 chợ cá khu vực, thực hiện mua bán theo phương thức đấu gía giản đơn để rút kinh nghiệm nhân rộng ra các chợ Thuỷ sản địa phương.
6. Về khoa học công nghệ và đào tạo.
- Tiếp tục xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn, quy định và hướng dẫn đánh gía điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm đối với các loại hình cơ sở sản xuất kinh doanh tư khâu sản xuất nguyên liệu đến chế biến tiêu thụ sản phẩm Thuỷ sản.
- Nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sản xuất trên quy mô lớn các đối tượng Thuỷ sản có gía trị kinh tế, phục vụ xuất khẩu, đồng thời gắn với các đơn vị chế biến để nghiên cứu sản xuất những mặt hàng mới có hàm lượng công nghệ cao, tận dụng nguyên liệu trong nước đáp ứng thị hiếu của thị trường Thế giới.
- Tập trung chỉ đạo điều đổi mới bảo quản sau thu hoạch và khâu vận chuyển nhằm tăng chất lượng nguyên liệu, giảm thất thoát sau thu hoạch và tăng giá trị sản phẩm.
- Tăng cường và mở rộng hình thức đào tạo trong và ngoài nước cho cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu và cán bộ Marketing. Đặc biệt chú ý tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn, các lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ quản lý và các doanh nghiệp am hiểu về luật lệ và các chính sách kinh tế, thương mại của các nước và quốc tế.
- Hoàn thiện hệ thống khuyến ngư để tham gia chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các khâu nuôi trồng, khai thác, sơ chế, bảo quản nguyên liệu Thuỷ sản.
7. Về công tác quản lý và chỉ đạo
- Tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới thật sự tổ chức bộ máy và đổi mới phương thức quản lý Nhà Nước đối với sản xuất kinh doanh.
- Xây dựng cơ chế phối hợp về quản lý và chỉ đạo thống nhất giữa Bộ Thuỷ sản và các địa phương trong việc thực hiện nuôi trồng Thuỷ sản theo đúng quy hoạch và các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình phát triển xuất khẩu Thuỷ sản với chương trình phát triển nuôi trồng Thuỷ sản, chương trình khai thác hải sản xa bờ, giữa các chương trình với các hoạt động khác của ngành có tầm quan trọng trong kinh tế xã hội và quản lý môi trường nguồn lợi.
- Tăng cường công tác quản lý kiểm tra, giám sát việc thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm nhằm đáp ứng các yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm tránh dư lượng kháng sinh và đồng đều về chất lượng ngay từ khâu sản xuất nguyên liệu đến thu mua bảo quản và chế biến xuất khẩu. Tổ chức lại hệ thống cơ quan quản lý an toàn vệ sinh và thú y Thuỷ sản từ Trung ương đến địa phương.
- Phát huy năng lực các tổ chức xã hội nghề nghiệp (hiệp hội chế biến và xuất khẩu Thuỷ sản, hội nghề cá Việt Nam, tham gia thực hiện chương trình, đề án phát triển sản xuất và xuất khẩu Thuỷ sản. Quy định các quy chế phối hợp giữa Bộ và các tổ chức này nhằm phát huy cao nhất vai trò của hội và hiệp hội trong quản lý và phát triển ngành phù hợp yêu cầu đổi mới về hội nhập. Xây dựng một cơ cấu quản lý thích hợp với khả năng thị trường tránh tình trạng nguyên liệu thiếu gây nâng giá giả tạo hoặc ứ đọng gây khó khăn cho người sản xuất nguyên liệu.
8. Về đổi mới và phát triển doanh nghiệp.
- Đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà Nước, phấn đấu đến năm 2005 chuyển toàn bộ doanh nghiệp Nhà Nước trong lĩnh vực chế biến và xuất khẩu Thuỷ sản thành các công ty cổ phần, công ty TNHH một thành viên và các hình thức sở hữu khác.
- Huy động các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tư sản xuất Thuỷ sản xuất khẩu theo quy hoạch.
III. Kiến nghị:
1.Đề nghị 1:
Do ngành Thuỷ sản là ngành sản xuất mang tính thời vụ rất cao. Nhưng qua nghiên cứu em nhận thấy về xuất khẩu nói riêng và toàn ngành Thuỷ sản nói chung có một tiềm năng to lớn vì vậy mà đề nghị chính phủ tiếp tục nghiên cứu và ban hành cơ chế bảo hiểm cho sản xuất và xuất khẩu Thuỷ sản. Bởi nó sẽ khuyến khích người tiêu dùng, doanh nghiệp sản xuất yên tâm khi ra nhập ngành.
2.Đề nghị 2:
Ngành Thuỷ sản có các lao động trong ngành chủ yếu là ngư dân, nên muốn phát triển nuôi trồng, khai thác cũng rất khó khăn do họ hầu như là không có vốn. Vì vậy, em có đề nghị ngân hàng và quỹ hỗ trợ phát triển điều chỉnh cơ chế hợp với đặc điểm của sản xuất Thuỷ sản, nhất là về thế chấp Thuỷ sản. Đối với sản xuất nguyên liệu, từ nuôi trồng Thuỷ sản, đề nghị có cơ chế ưu đãi hơn các doanh nghiệp chế biến vay được vốn xây dựng, nâng cấp, đổi mới trang thiết bị chế biến Thuỷ sản, đặc biệt khuyến khích đối với đầu tư chế biến các mặt hàng giá trị gia tăng. Cho phép áp dụng quỹ thưởng xuất khẩu đối với mặt hàng Thuỷ sản như các mặt hàng nông sản khác.
3.Đề nghị 3:
Bên cạnh những khó khăn về tính thời vụ, vốn đầu tư thì vấn đề xuất phát từ chính đặc điểm của sản phẩm Thuỷ sản cũng là vấn đề cần chú ý. Do đặc điểm của sản phẩm Thuỷ sản là nhanh chóng bị ôi thui vì vậy đề nghị chính phủ tạo điều kiện thuận lợi trong việc làm thủ tục xuất hàng Thuỷ sản trực tiếp từ ngư trường khai thác đi các nước lân cận, để tiết kiệm chi phí do phải vòng về cảng làm thủ tục xuất nhập cảng, bằng cách cho phép doanh nghiệp được làm thủ tục kê khai hải quan theo lô hàng hoặc theo từng hợp đồng lớn chứ không phải kê khai theo từng chuyến hàng xuất khẩu như hiện nay.
c. kết luận
Qua nghiên cứu, phân tích thực trạng khai thác, XK mặt hàng TS của Việt Nam hiện chúng ta có thể thấy XKTS Việt Nam hiện nay còn gặp nhiều khó khăn cả về nguồn cung cấp nguyên liệu phục vụ cho công tác sản xuất chế biến cũng như sự tin cậy của khách hàng. Hàng hoá chất lượng còn thấp, mẫu mã không hấp dẫn, giá cả bị chèn ép, công tác tiếp thị còn kém hiệu quả, thị trường còn không thực sự ổn định. Tuy vậy nhu cầu về mặt hàng này hiện nay trên thị trường Thế giới không hề nhỏ và chúng ta cũng có rất nhiều lợi thế để phát triển sản xuất và XK mặt hàng này. Do vậy đẩy mạnh XK mặt hàng TS của Việt Nam là một đòi hỏi cấp bách trong tình hình hiện nay. Trước những khó khăn và thuận lợi đối với ngành TS đòi hỏi các nhà sản xuất, kinh doanh mặt hàng thực phẩm TS cũng như các cơ quan Bộ ngành chủ quản có liên quan phải biết phát huy thế mạnh và đẩy lùi dần các yếu điểm, hạn chế. Đồng thời Nhà Nước phải có những chính sách phù hợp hỗ trợ khuyến khích cũng như các biện pháp cụ thể nỗ lực hơn nữa để đẩy mạnh XK mặt hàng này.
Nếu những giải pháp này được thực hiện triệt để đồng bộ thì em tin rằng: trong tương lai không xa XKTS Việt Nam sẽ khẳng định được vị trí của mình trên thị trường quốc tế và sẽ đóng góp một phần không nhỏ trong công cuộc CNH – HĐH đất nước, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam đi lên ngang tầm với các nước trong khu vực và trên Thế giới. Mặc dù em đã rất cố gắng trong quá trình thực tập cũng như viết bài nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn vì vậy luận văn không thể tránh được những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các cán bộ, chuyên viên Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Thuỷ sản; các thầy cô giáo khoa Kế hoạch & Phát triển cũng như ý kiến đóng góp của các bạn sinh viên có quan tâm đến đề tài này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Phụ lục tính toán của mục I 4 chương III
Ta có số liệu qua các năm như sau:
Bảng 1: kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản giai đoạn 1990 -2000
Năm
Kim ngạch xuất khẩu (tr USD)
% Tốc độ tăng trưởng
1990
205
101
1991
262
28
1992
305
16
1993
368
20
1994
458
24
1995
550
20
1996
696,5
21
1997
782
15
1998
858,0
10
1999
985,73
14
2000
1478,6
50
Ta gọi kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản năm trước là xt
Do kim ngạch xuất khẩu Thủy sản tuân theo quá trình tự tương quan bậc nhất nên mô hình dự báo kim ngạch xuất khẩu có dạng.
xt = a + b * xt - 1
Ta có số liệu tính toán như bảng 3
Bằng phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất ta có hệ sau:
na + bSxt-1 = S xt
aSxt - 1 + b Sxt2- 1 = S xt * xt - 1.
Thay số liệu vào ta có:
a * 11 + b * 6948,83 = 8748,83 (1)
a * 6948,83 + b * 5842103, 8429 = 7.229.734,718 (2)
Nhân 2 vế của (1) với 6948,83/11 ta được:
6948,83 * a + 4.389.658,03353 = 5526739,30626 (3)
Trừ 2 vế của (2) cho (3) ta được:
1452445,809 * b = 1702995,41
ị b = 1,1725
ị a = 54,666
Vậy mô hình dự báo kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản có dạng:
xt = 54,666 + 1,175 * xt - 1.
Như vậy ta có thể dự báo kim ngạch xuất khẩu Thủy sản cho năm 2002 - 2005 như sau:
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản dự báo thời kỳ 2002-2005
Năm
Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản (tr USD)
2002
2165,166
2003
2593,323
2004
3095,337
2005
3683,949
Bảng 3: Bảng tính toán các số liệu dự báo
Năm
t
t’
xt (tr USD)
xt - 1
xt * xt - 1
xt2- 1
1990
1
0
205
-
-
-
1991
2
1
262
205
53710
42025
1992
3
2
305
262
79910
68644
1993
4
3
368
305
112.240
93025
1994
5
4
458
368
168544
135424
1995
6
5
550
458
254900
209.764
1996
7
6
696,5
550
383075
302500
1997
8
7
782
696,5
544663
485.112,25
1998
9
8
858
782
670956
611524
1999
10
9
985,73
858
845756,34
736164
2000
11
10
1478,6
985,73
1.457.500,378
971.663,6329
2001
12
11
1800,0
1478,6
2.661.480
2186257,96
Tổng
66
8748,83
6948,83
7.229.734,718
5842103,8429
Vậy từ tính toán trên ta thấy dự báo thủy sản xuất khẩu 2003 khoảng 2,5 tỷ, năm 2005 khoảng 3,5 tỷ do sản lượng của năm 2000 tăng đột biến vì vậy mà khi dự báo ta có thể cho số liệu nhỏ đi 1 cách tương đối. Và cũng từ kết quả dự báo về số liệu kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản trong giai đoạn 2002-2005 thì ta thấy nó tương ứng với tốc độ tăng sản lượng 9-9,5% (nguồn Bộ Thuỷ sản). Vậy để dự báo trong dài hạn (2005-2010), do có nhiều biến động nên để cho tăng độ chính xác ta chỉ dự báo cho năm 2010 chứ không dự báo cho từng năm
x2010 = x2005 (1+ gx)5
ị x2010 = 3,5 (1+ 0,09)5 ằ 5,3852 (tỷ USD)
Danh mục tài liệu tham khảo
Tạp chí Thuỷ sản.
Giáo trình kinh tế và dự báo – Khoa kế hoạch & phát triển.
Giáo trình kinh tế phát triển – Khoa kế hoạch & phát triển.
Giáo trình kinh tế Thuỷ sản – Khoa kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Tạp chí Thuỷ sản các năm 1998 đến 2002.
Tạp chí xuất nhập khẩu Thuỷ sản.
Tạp chí thương mại Thuỷ sản.
Tạp chí kinh tế phát triển.
Tạp chí kinh tế và dự báo.
Báo cáo định hướng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2001- 2010 và kế hoạch năm 2001 của ngành Thuỷ sản.
Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện chương trình phát triển xuất khẩu Thuỷ sản.
Báo cáo định hướng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2003 của ngành Thuỷ sản.
Dự án quy hoạch tổng thể ngành đến năm 2010.
Định hướng phát triển các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu Thuỷ sản miền Trung.
Báo cáo công tác tham gia hội nhập ASEAN – APEC của Bộ Thuỷ sản và tổng kết dự án ODA 7 năm.
Tạp chí thị trường gía cả số 3/2002, 1/1999.
Cẩm nang nghiệp vụ xuất nhập khẩu.
Một số tin lấy trên mạng.
Và một số tài liệu khác.
Mục lục
A. Mở đầu 1
b. nội dung 4
chương I: Vai trò của xuất khẩu Thuỷ sản đối với sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam 4
I. Vị trí ngành Thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân 4
1. Khái niệm về ngành Thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân 4
1.1. Ngành Thuỷ sản là một ngành sản xuất vật chất độc lập 4
1.2. Ngành Thuỷ sản là ngành sản xuất vật chất hỗn hợp gồm nhiều ngành sản xuất chuyên môn hẹp. 5
2. Đặc điểm của sản xuất kinh doanh Thuỷ sản 5
2.1. Đối tượng của sản xuất – kinh doanh Thuỷ sản là những cơ thể sống trong môi trường nước. 6
2.2. Sản xuất Thuỷ sản được tiến hành phân tán rộng khắp các vùng địa lý và mang tính khu vực rõ rệt. 7
2.3. Sản xuất Thuỷ sản mang tính thời vụ cao 7
2.4. Đặc điểm riêng của sản xuất kinh doanh Thuỷ sản Việt Nam 7
3. Vị trí của ngành Thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân 8
3.1. Vị trí quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm 8
3.2. Sản xuất Thuỷ sản là nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng 8
3.3. Tạo tiền đề quan trọng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế 8
3.4. Tạo công ăn việc làm 8
3.5. Phát triển sản xuất Thuỷ sản sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ rộng lớn 8
3.6. Có vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ môi trường 9
3.7. Phát triển Thuỷ sản gắn liền với việc xoá đói giảm nghèo, tăng cường an ninh quốc phòng trên đất liền và trên biển 9
II. xuất khẩu Thuỷ sản và vai trò của nó 10
1. Sơ lược về xuất khẩu Thuỷ sản 10
2. Vai trò của xuất khẩu Thuỷ sản 10
2.1. Đối với phát triển kinh tế ngành 10
2.2. Đối với phát triển nền kinh tế quốc dân 11
III. tiềm năng xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam 14
1. Vị trí địa lý 14
2. Sự phát triển khoa học-công nghệ 15
3. Lợi thế về tiềm năng và giá cả sức lao động 15
4. Lợi thế về xu hướng tiêu dùng lương thực, thực phẩm 16
IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam 16
1. Các nhân tố từ phía trong nước 16
1.1. Khả năng cung cấp nguyên liệu Thuỷ sản 16
1.2. Môi trường kinh tế và khoa học công nghệ 20
1.3. Môi trường chính trị và luật pháp 21
1.4. Môi trường địa lý và cơ sở hậu cần nghề cá 22
2. Các nhân tố từ phía môi trường trong quốc tế 22
2.1. Nhu cầu tiêu thụ Thuỷ sản của thị trường Thế giới 23
2.2. Môi trường văn hóa xã hội của các nước nhập khẩu Thuỷ sản 24
V. Kinh nghiệm xuất khẩu Thuỷ sản của một số quốc gia trên Thế giới 24
1. Thái Lan 24
2. ấn Độ 26
3. Trung Quốc 28
4. Malaysia 29
chươngII: phân tích thực trạng về xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 1990-2003 31
I. thực trạng về xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam 31
1. Các vấn đề về sản xuất Thuỷ sản xuất khẩu 31
1.1. Về khai thác và bảo về nguồn lợi hải sản 31
1.2. Về nuôi trồng Thuỷ sản 33
1.3. Về chế biến, tiêu thụ sản phẩm Thuỷ sản 36
2. Xuất khẩu Thuỷ sản giai đoạn 1990-2002 37
2.1. Kim ngạch xuất khẩu Thuỷ sản 37
2.2. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu 38
2.3. Chất lượng sản phẩm và công tác quản lý chất lượng Thuỷ sản xuất khẩu 40
3. Thị trường và giá cả sản phẩm Thuỷ sản xuất khẩu 41
3.1. Cơ cấu thị trường xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam 41
3.2. Diễn biến giá cả Thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 1990-2002 50
II. đánh gía thực trạng xuất khẩu Thuỷ sản giai đoạn 1990-2002 52
1. Một số kết quả từ hoạt động xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam 52
1.1. Về giá trị và tốc độ tăng lên của kim ngạch xuất khẩu 52
1.2. Về sản phẩm xuất khẩu 53
1.3. Thị trường xuất khẩu 55
1.4. Gía cả và chất lượng Thuỷ sản xuất khẩu 55
2. Những mặt còn tồn tại trong xuất khẩu Thuỷ sản 56
2.1. Cung cấp nguồn nguyên liệu chưa đảm bảo số lượng và chất lượng 56
2.2. Công nghệ chế biến Thuỷ sản xuất khẩu 57
2.3. Về giá cả 57
2.4. Công tác nghiên cứu thị trường 58
2.5. Về cơ cấu thị trường và quan hệ với khách hàng 58
2.6. Thiếu sự hỗ trợ về tài chính từ phía Nhà Nước 59
2.7. Tổ chức quản lý và điều hành 59
3. Bài học kinh nghiệm 60
chương III: một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 2003-2010 61
I. định hướng phát triển xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 2003-2010 51
1. Quan điểm về xuất khẩu Thuỷ sản 61
2. Phương hướng xuất khẩu Thuỷ sản trong thời gian tới 62
3. Mục tiêu 64
3.1. Mục tiêu chiến lược xuất khẩu Thuỷ sản giai đoạn 2003-2010 64
3.2. Các mục tiêu cụ thể 65
4. Phân tích và dự báo khả năng phát triển xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam 68
4.1. Phân tích định tính 68
4.2. Phân tích và dự báo về mặt định lượng 70
II. CáC giải pháp thúc đẩy xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 2003-2010 71
1. Giải pháp thị trường 71
2. Giải pháp về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm 73
3. Giải pháp về chế biến Thuỷ sản 74
4. Giải pháp về nguyên liệu 74
4.1. Nuôi trồng Thuỷ sản 74
4.2. Khai thác hải sản 75
4.3. Nhập khẩu nguyên liệu Thuỷ sản để chế biến tái xuất 75
5. Giải pháp quy hoạch 76
6. Giải pháp quản lý thương mại nguyên liệu Thuỷ sản 76
7. Về khoa học công nghệ và đào tạo 77
8. Về công tác quản lý và chỉ đạo 77
9. Về đổi mới và phát triển doanh nghiệp 78
III. kiến nghị 79
C. kết luận 81
Phụ lục tính toán của mục I4chương III 82
DANH mục tài liệu tham khảo 85
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29686.doc