lời mở đầu
Việt Nam trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới đang ra sức đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm sản xuất trong nước có hiệu quả.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của công tác xuất khẩu và coi đó là 1 trong 3 chương trình kinh tế lớn phải tập trung thực hiện, có đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa ra thế giới
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy Xuất khẩu hàng nông sản ở Công ty XNK Tổng hợp 1 (GENERALEXIM), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bên ngoài Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân, bắt kịp nền kinh tế thế giới.
Với một nền kinh tế 70% dân số sống bằng nghề nông, Việt Nam xác định mặt hàng xuất khẩu chủ lực là các sản phẩm nông nghiệp, bất cứ nông sản nào cũng có thể xuất khẩu để đổi lấy ngoại tệ tạo vốn đầu tư nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà.
Tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I cũng góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà, đồng thời cũng tìm ra cho mình một lĩnh vực kinh doanh đầy hấp dẫn, đó là xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Thành tích đạt được của Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I là tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản hàng năm của Công ty đạt từ 6-7 triệu USD.
Hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty những năm qua có khá nhiều tiến bộ, song bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một vài khó khăn trong khâu tìm nguồn hàng, tìm thị trường xuất khẩu, dự trữ, bảo quản hàng hoá, ổn định tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản hàng năm...
Xuất phát từ thực tiễn trên tôi quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I ” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp cử nhân kinh tế.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung Luận văn được chia làm 3 chương :
chương I: Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu trong doanh nghiệp kinh doanh xnk.
chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I.
chương III: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I.
Dựa trên những lý luận và phân tích thực tế đã được học, tôi đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nói chung, xuất khẩu nông sản nói riêng nhằm mở rộng thị trường của Công ty trên toàn thế giới.
Được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn và tập thể cán bộ Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I tôi đã hoàn thành xong đề tài này. Do nhận thức còn hạn hẹp cũng như chưa trải qua thực tế nên trong đề tài còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các cán bộ công ty và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn.
Chương I
vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu ở doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
I-/ Vai trò của xuất khẩu trong nền Kinh tế quốc dân:
1-/ Sự ra đời của thương mại quốc tế:
Kinh doanh thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội , phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau.
Các quốc gia cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có thể có đầy đủ mọi thứ được. Buôn bán quốc tế có tính chất sống còn vì:
- Buôn bán quốc tế mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của 1 nước.
- Buôn bán quốc tế cho phép một nước tiêu dùng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của đường giới hạn khả năng sản xuất của nước đó, nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp thì không có quan hệ buôn bán.
Tiền đề của trao đổi hàng hoá là sự phân công lao động xã hội. Với tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm- dịch vụ để thoả mãn cho nhu cầu của con người ngày một tăng. Do đó mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước trên thế giới ngày một tăng, hay nói cách khác là chuyên môn hoá đã gắn chặt với thương mại.
Trước hết, thương mại xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các khu vực và các nước. Vì điều kiện sản xuát rất khác nhau giữa các nước nên mối quốc gia dựa vào điều kiện thuận lợi của mình chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng cụ thể và xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá đó để đổi lấy hàng hoá nhập khẩu từ các nước khác.
Sự khác nhau trình bày ở trên đã giải thích được việc buôn bán giữa các nước. Song như chúng ta đã biết, phần lớn số lượng những mặt hàng đưa vào buôn bán không xuất phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của sản xuất. Nước Mỹ sản xuất được ô tô, tại sao còn nhập xe từ Nhật Bản? Một nước có trình độ sản xuất thấp kém như nước ta tại sao lại có thể hy vọng buôn bán với các nước có nền công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Anh, Pháp, Mỹ,...
Lý thuyết "Lợi thế so sánh" của nhà kinh tế học người Anh-David Ricardo đã giải đáp câu hỏi hóc búa đó. Lý thuyết "Lợi thế so sánh" nói rằng: Buôn bán quốc tế là 2 bên đều có lợi ngay cả khi một trong 2 nước có thể sản xuất mọi thứ hàng hoá với giá cao hơn nước kia.
Nhà kinh tế học David Ricardo, năm 1917 đã đưa ra bằng chứng tốt đẹp là chuyên môn hoá quốc tế có lợi cho một quốc gia và gọi kết quả đó là "Qui lợi thế tương đối" hay"Lý thuyết lợi thế so sánh".
Để đơn giản hoá David Ricardo đưa ra giả thuyết trên thế giới chỉ có 2 quốc gia, 2 loại hàng hoá và tính mọi chi phí bằng số giờ lao động.
Lao động cần thiết cho 1 đơn vị sản phẩm (giờ lao động).
Sản phẩm Mỹ Châu Âu
Lương thực 1 3
Quần áo 2 4
Mỹ có chi phí lao động thấp hơn cả về lương thực và quần áo (quần áo ít hơn 2 lần, lương thực ít hơn 3 lần). Năng suất lao động của Mỹ gấp từ 2 đến 3 lần của Châu Âu, nghĩa là nước Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả 2 loại sản phẩm lương thực và quần áo. Tuy nhiên cả 2 bên đều có lợi khi tham gia buôn bán với nhau.
ở bảng trên, ta thấy Mỹ có chi phí cho một đơn vị lương thực là 1 giờ công lao động và một đơn vị quần áo là 2 giờ lao động, còn ở Châu Âu chi phí cho một đơn vị lương thực là 3 giờ lao động và một đơn vị quần áo là 4 giờ lao động. Ricardo đã chứng minh một cách chắc chắn là cả Mỹ và Châu Âu đều có lợi nếu Mỹ chuyên môn hoá về lương thực và Châu Âu chuyên môn hoá quần áo. Mỹ xuất khẩu lương thực để trả tiền nhập khẩu quần áo từ Châu Âu và ngược lại Châu Âu xuất khẩu quần áo để trả tiền nhập khẩu lương thực từ Mỹ. Nếu đem quy đổi số quần áo Mỹ nhập khẩu từ Châu Âu ra số giờ lao động ta sẽ thấy thấp hơn nhiều nếu Mỹ tự sản xuất và ở Châu Âu cũng tương tự như Mỹ, số lương thực thu về sẽ lớn hơn tự sản xuất.
Kết quả của mở rộng thương mại giữa 2 khu vực: Mỹ nói chung là có lợi vì mua quần áo qua đường thương mại rẻ hơn quần áo sản xuất trong nước, Châu Âu được lợi qua việc chuyên môn hoá sản xuất quần áo và mua lương thực rẻ hơn qua đường thương mại so với sản xuất trong nước. Từ đó ta thấy, tiền lương thực tế sau khi có thương mại cao hơn trước khi có thương mại ở cả Mỹ và Châu Âu. Do chuyên môn hoá sản xuất và thương mại làm cho mức sản xuất mở rộng trên thế giới cả về lương thực và quần áo, từ đó tạo cho mọi người có cuộc sống khá hơn.
Dựa trên cơ sở nguyên tắc lợi thế so sánh nói trên chúng ta khẳng định: Nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh (hay có hiệu quả sản xuất cao nhất) thì thương mại sẽ có lợi cho cả 2 bên. Tiền lương và thu nhập thực tế sẽ tăng lên ở cả 2 nước dù 1 trong 2 nước có hiệu quả tuyệt đối thấp hơn nước kia.
Ngoài ra, sự khác nhau về sở thích và nhu cầu cũng là nguyên nhân để có thương mại quốc tế, ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối trong hai nơi giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau về sở thích.
Từ những lý luận trên ta thấy lý thuyết lợi thế so sánh có thể vận dụng đối với bất cứ mặt hàng nào, quốc gia nào chứ không phải chỉ riêng với Mỹ và Châu Âu.
2-/ Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân:
Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động cơ bản của hoạt động thương mại quốc tế, là phương tiện thúc đẩy cho phát triển kinh tế, mở rộng xuất khẩu tăng thu ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển cơ sở hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò của xuất khẩu thể hiện trên các mặt sau đây:
Một là, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước và xuất khẩu cũng tạo nguồn vốn ngoại tệ góp phần cải thiện cán cân thương mại. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn rất lớn nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ du, lịch dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu sức lao động,... Các nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ,... tuy quan trọng nhưng vẫn phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước vẫn phải là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định tốc độ, quy mô tăng của nhập khẩu.
Hai là, xuất khẩu phát huy lợi thế so sánh của nước ta với các nước trên thế giới. Nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước khi nói về tiềm năng kinh tế của Việt Nam đã nhấn mạnh về nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú, lực lượng lao động đông đảo, có trình độ đào tạo khá cao như một lợi thế so sánh quan trọng. Hơn nữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh của Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, rất dễ thay đổi mô hình kinh doanh và nhanh chóng tiếp thu kiến thức và kỹ năng quản lý cũng như nghiệp vụ Marketing của nước ngoài, nhất là từ các nước láng giềng Châu á. Ngoài những lợi thế này, từ 1986 với chính sách đổi mới và mở cửa của nền kinh tế, chấp nhận quyền sở hữu tư nhân và đảm bảo các điều kiện cần thiết cho kinh doanh tư nhân, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể: tăng trưởng cao, lạm phát thấp, cán cân thanh toán hợp lý. Những thành tựu này cũng là những lợi thế giúp cho hoạt động thương mại quốc tế phát triển tốt. Với hơn 75 triệu dân, Việt Nam được coi là bạn hàng tiềm năng quan trọng không chỉ trong khối ASEAN mà còn đối với cả thế giới. Với những lợi thế so sánh, Việt Nam còn có điều kiện lựa chọn chiến lược xuất khẩu, Việt Nam sẽ tiến tới sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm công nghệ cao, cần nhiều vốn.
Ba là, xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiện nay cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có 2 cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đó là:
- Xuất khẩu là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự dư thừa của sản xuất thì xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp.
- Thị trường thế giới là mục tiêu hướng tới của tổ chức sản xuất. Xuất phát từ nhu cầu của thế giới mà ta tổ chức sản xuất, điều này có tác động mạnh mẽ tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động đối với sản xuất thể hiện ở:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển. Chẳng hạn, khi phát triển sản xuất hàng may mặc xuất khẩu sẽ tạo cơ hội mở rộng các ngành có liên quan như: bông, vải, sợi, thuốc nhuộm,...
+ Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần phát triển và ổn định sản xuất.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia.
Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường thế giới. Các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn, việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm nhiều mặt, trước hết sản xuất hàng hoá xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động vào làm việc, cải thiện thu nhâp. Xuất khẩu tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể hoạt động xuất khẩu xảy ra sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ đối ngoại phát triển. Chẳng hạn như xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của tín dụng quốc tế, đầu tư quốc tế, vận tải quốc tế,...
Mặt khác chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu. Sự phát triển của các hoạt động kinh tế, đối ngoại như dịch vụ thương mại quốc tế, bảo hiểm quốc tế,... góp phần làm tăng GNP của nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra, xuất khẩu còn là tiền đề cho sự hợp tác và chuyên môn hoá quốc tế.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước.
3-/ Mục tiêu nhiệm vụ của xuất khẩu:
Mục tiêu của xuất khẩu mà chúng ta muốn nói ở đây là mục tiêu nói chung của hoạt động xuất khẩu. Mục tiêu này có thể không hoàn toàn giống với một mục tiêu của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp xuất khẩu là để hưởng lợi nhuận từ việc bán hàng hoá với giá cao hơn trong nước hay để được một khoản lợi nhuận từ việc chênh lệch tỷ giá khi chuyển đổi qua lại giữa các đồng tiền.
Còn đối với một quốc gia, xuất khẩu được dùng để trả nợ, để chi cho các hoạt động ngoại giao,... nhưng mục tiêu quan trọng nhất của xuất khẩu là để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Nhu cầu của nền kinh tế rất đa dạng: phục vụ cho công nghiệp hoá đất nước, cho tiêu dùng, tạo việc làm cho người lao động. Xuất khẩu là để nhập khẩu, do đó thị trường xuất khẩu phải gắn với thị trường nhập khẩu, phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường nhập khẩu để xác định phương hướng và tổ chức nguồn hàng thích hợp.
Để thực hiện tốt mục tiêu trên hoạt động xuất khẩu cần hướng vào thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một: khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước (đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất,...).
Hai: nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Ba: tạo ra những nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về số lượng, chất lượng, sản phẩm hàng hoá phải có sức hấp dẫn, năng lực cạnh tranh cao.
Bốn: không ngừng phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng mối quan hệ của Việt Nam với các nước trên thế giới.
II-/ Nội dung hoạt động xuất khẩu ở doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu:
Hoạt động xuất khẩu ra thị trường nước ngoài diễn ra khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều so với việc bán hàng ở trong nước. Hoạt động xuất khẩu có liên quan tới những vấn đề như: ngôn ngữ, bản sắc văn hoá dân tộc, sự vận động của thị trường, đồng tiền thanh toán, vận chuyển hàng hoá, pháp luật, chính trị, tập quán, thông lệ quốc tế,...
Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, lập phương án kinh doanh, đàm phán ký kết hợp đồng, điều kiện, phương thức thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ phải được nghiên cứu thực hiện đầy đủ theo đúng bước, đúng thủ tục, phải tranh thủ nắm bắt những lợi thế đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu đạt kết quả cao nhất.
Một số nghiệp vụ của hoạt động xuất khẩu:
1-/ Nghiên cứu tiếp cận thị trường:
Nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết đầu tiên với bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền sản xuất và lưu thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá ở đó có thị trường. Thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hoá - tiền tệ. Nói cách khác thị trường là tổng lượng cầu có khả năng thanh toán và cung có khả năng đáp ứng. Thị trường bao gồm người mua và người bán, các quan hệ mua bán, dung lượng thị trường.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới còn bao gồm cả việc nghiên cứu toàn bộ quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng hoá, tức là việc nghiên cứu không chỉ giới hạn ở lĩnh vực lưu thông mà cả lĩnh vực sản xuất hàng hoá, phân phối hàng hoá. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, nghiên cứu thị trường thế giới phải trả lời được câu hỏi:
Xuất khẩu cái gì? dung lượng thị trường đó là bao nhiêu? thương nhân trong giao dịch là ai? sử dụng phương thức nào? và chiến lược kinh doanh trong từng giai đoạn?
1.1 Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu:
Để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu trước tiên cần dựa vào nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng về quy cách, chất lượng, chủng loại, giá cả, thời vụ và thị hiếu cũng như tập quán của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh của hàng hoá thế giới. Về khía cạnh thương phẩm phải hiểu rõ giá trị, công dụng đặc tính, quy cách, phẩm chất, mẫu mã... Nắm bắt đầy đủ giá cả hàng hoá ứng với từng điều kiện cơ sở giao hàng(CIF,CFR,FOB...) và phẩm chất hàng hoá, khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty cạnh tranh, hoạt động dịch vụ bảo hành bảo dưỡng, hướng dẫn sử dụng,... Để lựa chọn được mặt hàng kinh doanh cũng cần phải nắm vững tỷ suất ngoại tệ các mặt hàng. Trong xuất khẩu, tỷ suất ngoại tệ là số lượng bản tệ chi ra để có thể thu được một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất ngoại tệ tính ra thấp hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc xuất khẩu có hiệu quả. Việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu không những chỉ dựa vào tính toán hay ước tính mà còn phải dựa vào cả kinh nghiệm của những người nghiên cứu thị trường để dự đoán các xu hướng biến động của giá cả thị trường trong nước cũng như ngoài nước, dự đoán được các khả năng có thể xảy ra.
1.2 Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng:
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi 1 thị trường nhất định, trong 1 thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Nghiên cứu về dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu thực của khách hàng, kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm. Cộng với việc nắm bắt nhu cầu là nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao gồm việc xem xét đặc điểm tính chất khả năng của sản xuất hàng hoá thay thế, khả năng lựa chọn mua bán. Một vấn đề nữa là tính chất thời vụ của sản xuất và tiêu dùng hàng hoá trên thị trường để có biện pháp thích hợp trong từng giai đoạn bảo đảm cho việc xuất khẩu có hiệu quả.
Dung lượng thị trường không cố định, nó thay đổi tuỳ theo tác động của các nhân tố đó là:
- Nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chất chu kỳ.
- Nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của thị trường bao gồm những tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp chính sách của Nhà nước, thị hiếu tiêu dùng.
- Nhân tố ảnh hưởng tạm thời tới dung lượng thị trường như hiện tượng đầu cơ gây nên những đột biến về cung - cầu, các yếu tố tự nhiên (thiên tai, lụt bão,...), yếu tố chính trị xã hội,...
1.3 Lựa chọn đối tác kinh doanh:
Trong xuất khẩu, khách hàng là những người hoặc những tổ chức có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá hay các loại dịch vụ các hoạt động hợp tác kinh tế hay hợp tác khoa học kỹ thuật, liên quan đến việc cung cấp hàng hoá. Có thể chia làm 3 loại khách hàng chính bao gồm: Các hãng (công ty), các nghiệp đoàn kinh doanh, các cơ quan Nhà nước. Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động xuất khẩu. Người ta thường phải dựa trên cơ sở nghiên cứu sau:
Một là: tình hình sản xuất, kinh doanh của đối tác trong lĩnh vực và phạm vi kinh doanh để thấy được khả năng cung cấp lâu dài thường xuyên, để liên kết kinh doanh và đặt hàng sản xuất.
Hai là: khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật cho phép ta thấy được những ưu thế trong thoả thuận về giá cả, điều kiện thanh toán.
Ba là: thái độ và quan điểm kinh doanh là vươn tới chiếm lĩnh thị trường hay độc quyền kinh doanh, độc quyền giá cả, những quan điểm mua bán với bạn hàng.
Tóm lại, công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường là nhằm thực hiện phương châm hành động: chỉ bán cái thị trường cần chứ không phải là bán cái mình có sẵn.
2-/ Tổ chức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu:
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của 1 doanh nghiệp, một địa phương hay một vùng có khả năng xuất khẩu được. Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là một hệ thống nghiệp vụ trong kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu, bao gồm các khâu từ nghiên cứu thị trường đến thu mua, vận chuyển, bảo quản, xuất kho. Phần lớn các hoạt động nghiệp vụ này chỉ làm tăng chi phí thuộc chi phí lưu thông chứ không làm tăng giá trị sử dụng của hàng hoá. Do vậy các doanh nghiệp cần nghiên cứu để đơn giản hoá các nghiệp vụ nhằm giảm chi phí lưu thông để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, thông qua hệ thống các đại lý thu mua hàng xuất khẩu chủ động được nguồn hàng, chủ động và ổn định trong kinh doanh buôn bán, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu, đến tiến độ giao hàng, thực hiện hợp đồng xuất khẩu, uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh. Kinh nghiệm cho thấy các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu mạnh không phải chỉ vì lắm tiền nhiều vốn mà phải có hệ thống chân hàng mạnh, hệ thống đại lý thu mua rộng khắp, hoạt động thường xuyên bám sát thị trường.
Có nhiều tiêu thức để phân loại nguồn hàng xuất khẩu như: phân loại theo chế độ phân cấp quản lý (thuộc chỉ tiêu kế hoạch nhà nước, ngoài kế hoạch) phân loại theo đơn vị giao hàng, theo phạm vi doanh nghiệp được phân công khai thác, theo khối lượng hàng hoá thu mua, theo mối quan hệ kinh tế. Tuỳ theo tình hình riêng của mỗi doanh nghiệp mà có những hình thức thu mua, tạo nguồn hàng xuất khẩu khác nhau như: thu mua tạo nguồn theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng; thu mua tạo nguồn xuất khẩu theo hợp đồng, không theo hợp đồng; thông qua liên doanh liên kết với các đơn vị sản xuất; tự sản xuất; thông qua đại lý thu mua; thông qua hàng đổi hàng.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là hệ thống các công việc bao gồm:
2.1 Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu:
Đây là việc nghiên cứu khả năng cung cấp hàng xuất khẩu trên thị trường, được xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Trong đó nguồn hàng thực tế là nguồn đã có và đang sẵn sàng đưa vào lưu thông. Nguồn hàng tiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện, nó có thể có hoặc không xuất hiện trên thị trường, với nguồn hàng này đòi hỏi doanh nghiệp ngoại thương phải có đầu tư, có đơn hàng, có hợp đồng kinh tế thì người cung cấp mới tiến hành sản xuất.Trong công tác xuất khẩu đây là nguồn hàng cực kỳ quan trọng.
Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn nhằm xác định chủng loại mặt hàng, kích cỡ, mẫu mã, công dụng, chất lượng, giá cả, thời vụ, những đặc điểm, tính năng riêng của từng mặt hàng. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải xác định được xem mặt hàng dự định kinh doanh xuất khẩu có phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật hay không? Đồng thời nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu phải xác định được giá cả của hàng hoá trong nước so với giá cả quốc tế, lợi nhuận thu được sau khi trừ đi giá mua và chi phí khác là bao nhiêu. Người làm công tác này cũng cần tìm hiểu chính sách quản lý của Nhà nước về mặt hàng đó như thế nào? Tất cả những công việc này nhằm giúp doanh nghiệp hạn chế được rủi ro của thị trường, tiến hành khai thác ổn định nguồn hàng trong khoảng thời gian hợp lý, làm cơ sở chắc chắn cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
2.2 Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu:
Xây dựng một hệ thống thu mua thông qua đại lý và chi nhánh của mình, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua, nâng cao năng suất và hiệu quả thu mua. Hệ thống thu mua bao gồm mạng lưới các đại lý, hệ thống kho hàng ở các địa phương, các khu vực có loại hàng thu mua. Chi phí này khá lớn, do vậy doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cân nhắc trước khi chọn đại lý và xây dựng kho, nhất là những kho đòi hỏi phải trang bị nhiều phương tiện đắt tiền. Hệ thống thu mua đòi hỏi phải gắn với các phương án vận chuyển hàng hoá, với điều kiện giao thông của các địa phương.
Ngoài ra, đầu tư cho người sản xuất cũng là việc làm chắc chắn lâu dài để đảm bảo có nguồn hàng ổn định trước sự tranh mua trên thị trường nội địa. Tuy vậy, do yêu cầu của đầu tư nên các doanh nghiệp phải có vốn lớn và cũng chứa đựng nhiều rủi ro do sự biến động của thị trường, nhất là khi giá cả trên thị trường hạ xuống dưới mức kinh doanh có lãi. Trong việc này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ có trình độ kỹ thuật cao, có hiểu biết về sản phẩm, am hiểu tình hình thị trường, có khả năng dự đoán xu hướng biến động của thị trường. Điều này không phải bao giờ doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng làm được, bởi vì ngày nay nhiều sản phẩm thuộc loại kỹ thuật cao, phức tạp và hết sức đa dạng.
2.3 Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu:
Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp ngoại thương với các nhà sản xuất hoặc các chân hàng đều thông qua hợp đồng thu mua, đổi hàng, gia công,... Do vậy việc ký hợp đồng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả thuận và tự nguyện, các bên ký kết hợp đồng làm cơ sở vững chắc đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách bình thường. Đây chính là một hợp đồng kinh tế, là cơ sở pháp lý cho mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người cung cấp hàng.
Tuỳ theo tính chất loại hình thu mua nguồn hàng xuất khẩu mà 2 bên ký kết với nhau những loại hợp đồng khác nhau.
2.4 Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu:
Sau khi đã ký kết hợp đồng với các chân hàng và các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương phải lập được kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận làm việc theo kế hoạch. Cụ thể gồm những phần việc sau: đựa hệ thống kênh thu mua đã được thiết lập vào hoạt động, chuẩn bị đầy đủ các thủ tục giấy tờ giao nhận hàng theo hợp đồng đã ký, tổ chức hệ thống kho hàng tại điểm nút của các kênh, tổ chức vận chuyển hàng theo các địa điểm đã quy định, đưa các cơ sở sản xuất gia công chế biến đi vào hoạt động, chuẩn bị đầy đủ tiền thanh toán cho nhà sản xuất. Trong quá trình hoạt động thu mua, doanh nghiệp ngoại thương phải ghi bảng biểu để theo dõi tiến độ thực hiện kế hoạch thu mua nhằm kịp thời phát hiện những ách tắc trì trệ để có những biện pháp xử lý kịp thời.
2.5 Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho hàng xuất khẩu:
Phần lớn hàng hoá trước khi xuất khẩu đều phải qua một hoặc một số kho để bảo quản, phân loại, đóng gói, nhờ làm thủ tục xuất khẩu. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần chuẩn bị tốt cho công tác tiếp nhận hàng xuất khẩu. Công tác bảo quản hàng hoá trong kho là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chủ kho hàng. Chủ kho hàng phải có trách nhiệm không để hàng bị hư hỏng, đổ vỡ, mất mát,... trừ khi hàng hoá bị hư hỏng, đổ vỡ, mất mát,... là do hành động bất khả kháng gây ra.
Cuối cùng là công việc xuất kho giao hàng, công đoạn này đòi hỏi phải đúng thủ tục quy định và phải có đầy đủ các giấy tờ hoá đơn hợp lệ.
3-/ Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu:
Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng.
Có nhiều hình thức đàm phán khác nhau:
Đàm phán qua thư tín: Đây là hình thức chủ yếu để giao dịch kinh doanh giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư từ, ngay cả sau này khi 2 bên đã có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì việc duy trì quan hệ cũng phải qua thư tín thương mại. So với gặp gỡ trực tiếp thì giao dịch qua thư tín tiết kiệm được chi phí rất nhiều. Trong cùng một lúc có thể giao dịch được với nhiều khách hàng ở nhiều nước khác nhau. Người viết thư tín có điều kiện để cân nhắc suy nghĩ, tranh thủ ý kiến nhiều người và có thể khéo léo dấu kín ý định của mình. Tuy nhiên, giao dịch qua thư tín thường mất nhiều thời gian để chờ đợi, có thể bỏ lỡ thời cơ mua bán. Người ta có thể sử dụng điện tín để khắc phục được phần nào nhược điểm này.
Đàm phán qua điện thoại: Đàm phán qua điện thoại nhanh chóng giúp cho nhà kinh doanh tiến hành đàm phán một cách khẩn trương, đúng thời cơ. Tuy nhiên, phí tổn điện thoại quốc tế tương đối cao, các cuộc điện thoại trao đổi thường phải hạn chế về thời gian, cho nên các bên không thể trình bày chi tiết. Trao đổi qua điện thoại là trao đổi miệng không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận, những quyết định trong trao đổi. Vì thế điện thoại chỉ được dùng trong trường hợp thật cần thiết, khẩn trương hoặc những trường hợp chỉ còn chờ xác nhận một vài chi tiết. Khi phải sử dụng điện thoại cần phải chuẩn bị thật chu đáo để có thể trả lời ngay mọi vấn đề được nêu lên. Sau khi trao đổi bằng điện thoại cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán.
Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: gặp gỡ trực tiếp giữa 2 bên để trao đổi về mọi điều kiện buôn bán, là một hình thức đặc biệt quan trọng. Hình thức đàm phán này đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa 2 bên và nhiều khi là lối thoát cho những đàm phán bằng thư tín hoặc điện thoại đã kéo dài quá lâu mà không có kết quả. Đàm phán bằng thư tín hoặc điện thoại không thể hiệu quả bằng đàm phán trực tiếp song đây cũng là hình thức đàm phán khó khăn nhất, đòi hỏi người tiến hành đàm phán phải giỏi nghiệp vụ, tự tin, phản ứng nhạy bén để có thể tỉnh táo, bình tĩnh dò xét ý đồ của đối phương.
Với những hình thức đàm phán khác nhau như._. trên song nhìn chung các cuộc đàm phán đều phải thoả mãn các bước sau:
Chào giá (phát giá): là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng của mình, là thời cơ đề nghị ký kết hợp đồng. Trong chào hàng, người xuất khẩu phải nêu rõ tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, điều kiện cơ sở giao hàng giá cả, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán, bao bì hàng hoá,...
Hoàn giá (mặc cả): trong trường hợp người nhận được chào hàng không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó mà đưa ra đề nghị mới thì đề nghị mới gọi là hoàn giá. Mỗi lần giao dịch thường phải trải qua nhiều lần hoàn giá mới đi đến kết thúc.
Chấp nhận: là sự đồng ý tất cả các điều kiện của chào hàng hoặc sau khi đã hoàn giá, do 2 phía cùng chấp nhận. Khi đó hợp đồng được thành lập.
Xác nhận: sau khi hai bên mua bán đã thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều khoản đã thoả thuận rồi gửi cho bên kia. Đó là văn bản xác nhận. Xác nhận thường được lập thành 2 bản, bên xác nhận ký trước rồi gửi cho bên kia. Bên kia ký xong, giữ lại một bản và gửi trả lại 1 bản.
Sau khi các bên mua và bán tiến hành giao dịch đàm phán có kết quả thì phải tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế. Nội dung hợp đồng phải thể hiện đầy dủ quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia ký kết. Hợp đồng thể hiện dưới hình thức văn bản là hình thức bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu ở nước ta, đây là hình thức tốt nhất được pháp lý công nhận trong việc bảo vệ quyền lợi của 2 bên. Nó xác định rõ ràng trách nhiệm của bên mua, bên bán tránh được những biểu hiện không đồng nhất trong ngôn từ, quan niệm. Ngoài ra, hợp đồng còn tạo điều kiện thuận lợi cho thống kê theo dõi, kiểm tra việc thực hiện hợp đồng theo quy định chung của quản lý Nhà nước. Hợp đồng kinh tế ngoại thương được coi là sự thoả thuận bằng văn bản của những đương sự có quốc tịch khác nhau, trong đó một bên gọi là bên bán (bên xuất khẩu) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của bên mua (bên nhập khẩu) một tài sản gọi là hàng hoá và bên mua có trách nhiệm trả tiền, nhận hàng.
Một hợp đồng ngoại thương thông thường bao gồm những nội dung chính sau:
+/ Số hợp đồng
+/ Ngày, tháng, năm và nơi ký hợp đồng
+/ Các điều khoản bắt buộc phải có của hợp đồng:
- Điều khoản 1: Tên hàng, quy cách phẩm chất, số lượng, bao bì, ký mã hiệu.
- Điều khoản 2: Giá cả (đơn giá), tổng giá trị.
- Điều khoản 3: Thời gian, địa điểm và phương tiện giao hàng.
- Điều khoản 4: Giám định hàng hoá.
- Điều khoản 5: Điều kiện xếp hàng và thưởng phạt.
- Điều khoản 6: Những chứng từ cần thiết cho lô hàng xuất khẩu.
- Điều khoản 7: Thanh toán.
- Điều khoản 8: Trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng.
- Điều khoản 9: Thủ tục giải quyết các tranh chấp hợp đồng.
- Điều khoản 10: Hiệu lực hợp đồng.
Những lưu ý khi ký kết hợp đồng xuất khẩu:
- Văn bản của hợp đồng thường do một bên soạn thảo, bên kia cần nghiên cứu kỹ lưỡng và cho ý kiến. Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng phải là ngôn ngữ thông dụng.
- Người ký hợp đồng phải có đủ thẩm quyền chịu trách nhiệm về nội dung ký kết.
- Hợp đồng cần phải được trình bày rõ ràng, phải phản ánh đúng nội dung thoả thuận, không để tình trạng mập mờ, có thể suy luận được nhiều cách khác nhau.
- Các điều khoản trong hợp đồng phải tuân thủ đúng luật pháp quốc tế cũng như luật pháp của các bên tham gia ký kết.
4-/ Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu:
Sau khi hợp đồng được ký kết cần phải xác định rõ trách nhiệm nội dung, trình tự công việc phải làm, cố gắng không để xảy ra sai sót sẽ gây thiệt hại.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau:
Sơ đồ Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Ký hợp đồng xuất khẩu
Kiểm traL/C
Xin giấy phép XK
Chuẩn bịhàng hoá
Uỷ thác thuê tàu
Kiểm nghiệm hàng hoá
Làm thủ tục hải quan
Giao hànglên tàu
Mua bảo hiểm
Làm thủ tụcthanh toán
Giải quyếtkhiếu nại
* Kiểm tra L/C:
Sau khi hợp đồng xuất khẩu đã được ký bởi 2 bên mua và bán (bên nhập khẩu và bên xuất khẩu), người xuất khẩu cần phải kiểm tra xem L/C do người nhập khẩu mở tại ngân hàng có đúng nội dung hợp đồng đã ký không. Nếu có yêu cầu sửa đổi thì phải thông báo cho người mua sửa lại L/C tại ngân hàng mở L/C. Mọi nội dung sửa đổi phải có sự xác nhận của ngân hàng mở L/C mới có hiệu lực, văn bản sửa đổi trở thành một bộ phận cấu thành không thể tách rời L/C cũ và nội dung cũ bị huỷ bỏ.
* Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá:
Đây là vấn đề đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu tiếp theo của quá trình xuất khẩu:
Đơn xin giấy phép xuất khẩu bao gồm:
Phiếu hạn ngạch (nếu là hàng có hạn ngạch), bản sao hợp đồng xuất khẩu, L/C và 1 số giấy tờ có liên quan khác. Sau đó khi đã được chấp nhận thì nhận được 1 số giấy phép có nội dung về tên, địa chỉ của người bán, người mua, các chỉ tiêu về vận tải, chủng loại hàng hoá, giao nhận hàng hoá, thời hạn hiệu lực của giấy phép.
Việc xin giấy phép xuất khẩu trước đây là 1 công việc bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn xuất khẩu hàng ra nước ngoài nhưng theo quy định số 55/1998/QĐ/TTg ban hành ngày 03/03/1998 của Thủ tướng Chính phủ, kể từ ngày 18/3/1998 (ngày quyết định có hiệu lực), tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được quyền xuất khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung đăng ký kinh doanh trong nước của doanh nghiệp, không cần phải xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu tại Bộ Thương mại nữa. Quy định này không áp dụng với một số mặt hàng đang được quản lý theo cơ chế riêng, cụ thể là những mặt hàng gạo, chất nổ, sách báo, ngọc trai, đá quý, kim loại quý, tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm và đồ cổ.
* Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu:
Người xuất khẩu phải tiến hành chuẩn bị hàng hoá để xuất khẩu. Công việc chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu gồm 3 công đoạn sau:
- Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu: ở đây, doanh nghiệp xuất khẩu tổ chức thu gom hàng bằng nhiều biện pháp khác nhau như mua nguyên liệu về gia công, sản xuất thành hàng xuất khẩu, mua đứt bán đoạn với đơn vị sản xuất hàng hoá, tổ chức đại lý thu mua hoặc nhận xuất khẩu uỷ thác.
- Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: việc đóng gói bao bì là căn cứ theo yêu cầu trong hợp đồng đã ký kết, bên cạnh đó công việc này có ý nghĩa nhất định với quá trình kinh doanh bởi vì bao bì vừa phải đảm bảo được phẩm chất của hàng hoá vừa thuận tiện cho quá trình vận chuyển bốc xếp hàng hoá, tạo điều kiện cho việc nhận biết loại hàng hoá, gây ấn tượng và làm cho người mua có cảm tình với hàng hoá, với doanh nghiệp. Có nhiều loại bao bì khác nhau về chất liệu, hình dáng, kích cỡ, do vậy cần phải lựa chọn loại bao bì phù hợp với mặt hàng và yêu cầu của hàng hoá xuất khẩu, đáp ứng đúng cam kết đã nêu ra trong hợp đồng, đồng thời cũng có hiệu quả kinh tế.
- Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu: ký hiệu bằng số hay chữ, hình vẽ được ghi ở mặt ngoài bao bì để thông báo những thông tin cần thiết cho việc nhận biết, giao nhận, bốc dỡ và bảo quản hàng hoá. Khi kẻ ký mã hiệu hàng hoá, phải đảm bảo nội dung cần thông báo cho người nhận hàng, cho việc tổ chức vận chuyển hàng hoá và bảo quản hàng hoá, đồng thời phải thoả mãn yêu cầu sáng sủa, rõ ràng, dễ hiểu không gây khó khăn cho việc nhận biết hàng hoá.
* Thuê tàu:
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá, việc thuê tàu chở hàng dựa vào các căn cứ sau đây:
- Những điều khoản của hợp đồng xuất khẩu hàng hoá.
- Đặc điểm của hàng hoá xuất khẩu.
- Điều kiện vận tải.
Chẳng hạn nếu điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng xuất khẩu là CIF hoặc CFR thì đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải thuê tàu biển để giao hàng. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là FOB thì đơn vị nhập khẩu phải có trách nhiệm giao hàng lên tàu tại cảng bốc hàng quy định.
Nếu hàng hoá xuất khẩu cần phải bảo quản tươi sống thì phải thuê tàu có thiết bị đông lạnh.
Trên thực tế việc thuê tàu là dựa vào các điều khoản cụ thể được quy định trong hợp đồng. Đơn vị xuất khẩu có phải đứng ra thuê tàu hay không còn tuỳ thuộc vào các điều khoản ghi trong hợp đồng.
* Kiểm nghiệm hàng hoá:
Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu là công việc cần thiết và quan trọng vì nhờ công tác này mà quyền lợi của khách hàng được đảm bảo, ngăn chặn kịp thời những hậu quả xấu, phân định trách nhiệm của các khâu trong sản xuất cũng như tạo nguồn hàng, bảo đảm uy tín nhà xuất khẩu cũng như nhà sản xuất trong quan hệ buôn bán.
Công tác kiểm tra hàng xuất khẩu được tiến hành ngay sau khi hàng chuẩn bị đóng gói xuất khẩu tại cơ sở sản xuất, còn hàng kiểm tra ở cửa khẩu là do khách hàng trực tiếp kiểm tra hoặc cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, phụ thuộc vào sự thoả thuận của 2 bên.
* Làm thủ tục hải quan:
Đây là quy định bắt buộc đối với bất cứ loại hàng hoá nào, công tác này được tiến hành qua 3 bước:
- Khai báo hải quan: chủ hàng có trách nhiệm kê khai đầy đủ các chi tiết về hàng hoá một cách trung thực và chính xác lên một tờ khai để cơ quan kiểm tra thuận tiện theo dõi. Nội dung tờ khai hải quan gồm có: loại hàng, tên hàng, số lượng, giá trị hàng hoá, phương tiện hàng hoá, nước nhập khẩu. Tờ khai hải quan được xuất trình cùng với 1 số giấy tờ như hợp đồng xuất khẩu, giấy phép, hoá đơn đóng gói.
- Xuất trình hàng hoá và nộp thuế: hàng hoá xuất khẩu phải được sắp xếp một cách trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát...
- Thực hiện các quyết định của hải quan: đây là công việc cuối cùng trong quá trình hoàn thành thủ tục hải quan. Đơn vị xuất khẩu có nghĩa vụ thực hiện một cách nghiêm túc nhất các quyết định của Hải quan đối với lô hàng như cho phép xuất hoặc không cho phép xuất khẩu hàng hoá...
* Giao hàng lên tàu:
Trong trường hợp nhà xuất khẩu chịu trách nhiệm chuyên chở thì công việc giao hàng lên tàu tiến hành theo trình tự sau:
- Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu lập bảng đăng ký hàng chuyên chở.
- Xuất trình bảng đăng ký hàng hoá chuyển chở cho người chuyên chở để lấy hồ sơ xếp hàng.
- Bố trí chuyên chở hàng vào cảng và bốc xếp hàng lên tàu.
- Lấy biên lai thuyền phó sau khi xếp hàng lên tàu, đây là xác nhận của tàu vận chuyển về số hàng đã bốc xếp lên tàu, sau đó lấy biên lai thuyền phó đổi lấy vận đơn đường biển. Vận đơn này mang ý nghĩa có giá trị về mặt pháp lý vì đó là cơ sở để giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra về hàng hoá được bảo hiểm.
Còn nếu là hàng hoá vận chuyển bằng đường sắt hay bằng container thì phải làm đơn vận chuyển bằng đường sắt hay thuê container để chuyên chở hàng hoá.
* Mua bảo hiểm:
Việc chuyên chở hàng hoá xuất khẩu bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Bởi vậy, trong kinh doanh thương mại quốc tế hàng hoá xuất khẩu thường được mua bảo hiểm để tránh những rủi ro quá lớn.
Có 2 loại hợp đồng bảo hiểm đó là hợp đồng bảo hiểm bao (Open policy) và hợp đồng bảo hiểm chuyến (Voyage Policy). Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm:
- Điều kiện bảo hiểm A: Bảo hiểm mọi rủi ro.
- Điều kiện bảo hiểm B: Bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng.
- Điều kiện C: Bảo hiểm không bồi thường tổn thất riêng.
Ngoài ra còn 1 số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như: Bảo hiểm chiến tranh, đình công, bạo động.
* Thanh toán hợp đồng:
Đây là khâu quan trọng và là khâu cuối cùng phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động xuất khẩu. Hiệu quả kinh tế trong khu vực kinh doanh xuất khẩu một phần nhờ vào chất lượng của việc thanh toán. Thanh toán là bước đảm bảo cho người xuất khẩu thu được tiền về và người nhập khẩu nhận được hàng hoá.
Trong xuất khẩu phải chú ý đến các vấn đề sau:
- Tỷ giá hối đoái.
- Tiền tệ trong thanh toán.
- Thời hạn thanh toán.
- Phương thức và hình thức thanh toán.
- Điều kiện đảm bảo hối đoái.
Có nhiều loại phương thức thanh toán được sử dụng trong thanh toán, doanh nghiệp cần phải biết cách lựa chọn các phương tiện thanh toán cũng như thời hạn, hình thức và điều kiện thanh toán một cách có lợi nhất.
* Giải quyết tranh chấp:
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi hàng hoá có tổn thất hoặc mất mát,... dẫn đến tranh chấp về kinh tế, 2 bên căn cứ vào điều khoản thứ 9 trong hợp đồng xuất nhập khẩu để chọn trọng tài hay toà án kinh tế xét xử vụ tranh chấp. Các bên nên tôn trọng sự phán quyết của cơ quan thụ lý vụ án, tránh khiếu nại nhiều lần gây tổn thất về kinh tế, thời gian và suy giảm mối quan hệ truyền thống.
5-/ Đánh giá hiệu quả kết thúc một hợp đồng xuất khẩu:
Sau khi đã kết thúc một hợp đồng xuất khẩu, để đánh giá kết quả cụ thể của một hợp đồng, các nhà quản lý xuất khẩu phải trải qua khâu đánh giá, nghiệm thu kết quả của hợp đồng. Qua bước này người ta sẽ xác định được chính xác kết quả thu được: lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội,... từ việc tổng hợp chi phí và doanh thu xuất khẩu, người ta tính lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hợp đồng đó. Ngoài việc hạch toán lỗ lãi của quá trình kinh doanh xuất khẩu, các nhà quản lý còn phải đánh giá về bạn hàng, về thị trường hàng hoá trên thế giới và đặc biệt là mối quan hệ tiếp theo giữa doanh nghiệp với người mua hàng. Nhiệm vụ của người quản lý xuất khẩu là phải củng cố niềm tin với khách, biến họ từ khách hàng mới trở thành khách hàng truyền thống. Kết thúc một hợp đồng xuất khẩu cũng là dấu hiệu để các nhà kinh doanh xuất khẩu bước vào một hợp đồng mới. Qua đánh giá lại hợp đồng vừa thực hiện, họ sẽ rút ra được nhiều kinh nghiệm bổ ích hơn nhằm đem lại hiệu quả cao hơn cho hợp đồng sắp tới.
Sau đây là một số chỉ tiêu thường được dùng trong đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
5.1 Chỉ tiêu lợi nhuận:
Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp, phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó là tiền đề để duy trì và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp để cải thiện và nâng cao mức sống của người lao động.
Lợi nhuận là số dôi ra của doanh thu so với chi phí:
P = T - C
Trong đó:
P là lợi nhuận.
T là tổng doanh thu.
C là tổng chi phí.
5.2 Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của xuất khẩu:
Hiệu quả của việc xuất khẩu được xác định bằng so sánh số ngoại tệ thu được do xuất khẩu (giá trị quốc tế của hàng hoá) với những chi phí bỏ ra cho việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu đó (giá trị dân tộc của hàng hoá). Chỉ tiêu này cho ta biết số thu ngoại tệ đối với đơn vị chi phí trong nước. Công thức này được vận dụng để tính hiệu quả xuất khẩu kinh doanh của từng mặt hàng hoặc hiệu quả xuất khẩu sang từng nước, từng khu vực thị trường.
Trong đó:
Hx: Hiệu quả tương đối của việc xuất khẩu.
Tx: Doanh thu (bằng ngoại tệ) từ việc xuất khẩu đơn vị hàng hoá, dịch vụ (giá quốc tế).
Cx: Tổng chi phí của việc sản xuất sản phẩm xuất khẩu, bao gồm cả vận tải đến cảng xuất hàng (giá trong nước).
5.3 Chỉ tiêu doanh lợi xuất khẩu:
Doanh lợi xuất khẩu phản ánh kết quả tài chính của hoạt động xuất khẩu, nghĩa là nó phản ánh những kết quả bằng tiền thực tế thu được và những chi phí thực tế bỏ ra cho những kết quả đó, giá tính doanh lợi được tính toán trên cơ sở giá hiện hành (giá tính toán của kế toán doanh nghiệp). Vì vậy, về mặt lượng nó không trùng hợp với các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xuất khẩu đã xem xét:
Trong đó:
Dx : là doanh lợi xuất khẩu.
Tx : là thu nhập về bán hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ được chuyển đổi ra tiền Việt Nam theo tỷ giá công bố mua của Ngân hàng Ngoại thương (Sau khi trừ mọi chi phí bằng ngoại tệ).
Cx : tổng chi phí cho việc xuất khẩu.
5.4 Chỉ tiêu doanh lợi xuất khẩu trong điều kiện tín dụng:
Để đẩy mạnh xuất khẩu, người xuất khẩu thường bán chịu hàng của mình cho người mua. Và như vậy người bán sẽ nhận thêm được một khoản lợi do việc bán chịu đó. Lãi suất để tính sẽ là mức lãi do 2 bên thoả thuận với nhau. Tiền bán hàng thu được sẽ thay đổi do có lãi suất tín dụng, được tính theo công thức sau:
Dx = =
Trong đó:
Dx : là doanh lợi xuất khẩu trong điều kiện tín dụng.
Tx : là thu nhập ròng về xuất khẩu (sau khi đã trừ đi chi phí bằng ngoại tệ).
Cx : là tổng chi phí về xuất khẩu.
R : là lãi suất tín dụng.
Kv : là hệ số hiệu quả vốn kinh tế quốc dân.
t : là thời gian bán chịu.
III-/ Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
Trong quá trình hoạt động thương mại, bất kỳ một hình thức kinh doanh nào cũng đều chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của môi trường kinh doanh theo hai chiều tích cực và tiêu cực. Đối với xuất khẩu, nội dung quan trọng của thương mại quốc tế thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh là mạnh mẽ hơn, bởi vì trong thương mại quốc tế, các yếu tố về môi tưrờng kinh doanh phong phú và phức tạp hơn hẳn so với thương mại trong nước. ở đây phải kể tới các nhân tố:
1-/ Các công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô:
Các nước khác nhau có chính sách thương mại khác nhau, thể hiện ý chí và mục tiêu của Nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan tới nền kinh tế của đất nước mình. Để nền kinh tế trong nước vận hành có hiệu quả thì những chính sách thương mại thích hợp là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu những công cụ chính sách chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết quản lý hoạt động này.
a-/ Thuế quan:
Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu.
Việc đánh thuế xuất khẩu được Chính phủ ban hành nhằm quản lý xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho nền kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ đối ngoại. Thuế quan cũng gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng lên không có hiệu quả và do mức tiêu dùng trong nước giảm. Nhìn chung công cụ này chỉ được áp dụng đối với một số ít mặt hàng xuất khẩu bổ sung nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
b-/ Các công cụ phi thuế quan:
- Công cụ Quota (hạn ngạch xuất khẩu). Hình thức này áp dụng như một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế quan và ngày càng có vai trò quan trọng trong xuất khẩu hàng hoá.
Hạn ngạch được hiểu như quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu, nhập khẩu từ một thị trường nội địa trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép.
Mục đích của Chính phủ khi sử dụng Quota xuất khẩu là nhằm quản lý kinh doanh hoạt động xuất khẩu có hiệu quả hơn và thông qua đó điều chỉnh loại hàng hoá xuất khẩu. Hơn thế nữa có thể bảo vệ tài nguyên cũng như điều chỉnh cán cân thanh toán...
Bên cạnh việc thi hành những biện pháp quản lý hàng xuất khẩu như kể trên, các quốc gia còn áp dụng một số biện pháp phi thuế quan khác như: Đặt ra các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá, các thông số kỹ thuật quy định cho hàng xuất khẩu,...
c-/ Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến khích xuất khẩu:
- Một chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách duy trì tỷ giá tương đối ổn định và ở mức thấp. Kinh nghiệm của các nước đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái thường kỳ để đạt mức tỷ giá cân bằng trên thị trường và duy trì mức tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả trong nước.
- Trợ cấp xuất cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy mở rộng xuất khẩu đối với mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này được áp dụng vì khi thâm nhập vào thị trường nước ngoài thì sự rủi ro cao hơn so với tiêu thụ trong nước. Việc trợ cấp xuất khẩu cho các mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu có thể dưới các hình thức, trợ giá, miễn, giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu hoặc cho bạn hàng nước ngoài vay ưu đãi để có điều kiện sảnphẩm của nước mình...
d-/ Các chính sách đối với cán cân thanh toán thương mại:
Trong hoạt động thương mại nói chung bảo đảm cân bằng cán cân thanh toán và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc củng cố lòng tin đối với các đối tác nước ngoài, nâng uy tín của mình trên thị trường quốc tế và tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế nhanh. Đương nhiên biện pháp để giữ cân bằng không phải là hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu hoặc vay vốn. Sự cân bằng theo kiểu đó là cân bằng tiêu cực. Vấn đề đặt ra là cần khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó chú trọng tới mặt hàng chủ lực, giảm bớt nhập siêu tiến tới cân bằng xuất nhập. Như vậy, nhìn chung việc giữ cán cân thanh toán, cán cân thương mại đã chứa đựng trong đó những yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
2-/ Các quan hệ kinh tế quốc tế:
Trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, các mối quan hệ quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ đối với hoạt động xuất khẩu cũng vậy, khi xuất khẩu hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác người xuất khẩu phải đối mặt với hàng rào thuế quan, hàng rào phi thuế quan, các hàng rào này chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu.
Khi đó với xu hướng toàn cầu nền kinh tế hiện nay nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành, nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương giữa các quốc gia, các tổ chức kinh tế cũng được ký kết với mục tiêu thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và toàn thế giới. Nếu một quốc gia tham gia vào các liên minh kinh tế và các hiệp định thương mại ấy sẽ là một tác nhân tích cực đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. Nếu không chính nó lại trở thành vật cản đối với việc thâm nhập vào thị trường trong khu vực đó.
Tóm lại có được các mối quan hệ quốc tế mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo những tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu của một quốc gia.
3-/ Các yếu tố chính trị, Chính phủ và pháp luật:
Các yếu tố chính trị, Chính phủ và pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động mua bán quốc tế. Các Công ty kinh doanh xuất khẩu đều phải tuân thủ các quy định của Chính phủ liên quan, tập quán và luật pháp quốc gia, quốc tế hiện hành. Khi hoạt động kinh tế quốc tế nói chung, kinh doanh xuất khẩu nói riêng các nhà kinh doanh luôn phải lưu ý:
- Các quy định của luật pháp Việt Nam đối với hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế (thủ tục và quy định về mặt hàng xuất nhập khẩu, quy định về quản lý ngoại tệ,...).
- Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia.
- Các quy định nhập khẩu của các quốc gia mà doanh nghiệp có quan hệ làm ăn.
- Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan tới việc xuất khẩu như: Công ước viên về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế năm 1590 hay luật bảo hiểm quốc tế, luật vận tải quốc tế, các quy định về giao nhận ngoại thương, INCOTERM.
4-/ Các yếu tố khoa học công nghệ:
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nhiều công nghệ tiên tiến đã được ra đời tạo ra những cơ hội, nhưng cũng gây nên nguy cơ đối với các nghề nói chung và các đơn vị sản xuất, kinh doanh mặt hàng xuất khẩu nói riêng.
Đối với lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng các công nghệ mới, các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật sẽ giúp cho các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm mới với chất lượng cao và mẫu mã đa dạng hơn. Nhờ đó chu kỳ sống của sản phẩm được kéo dài và có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Trong hoạt động xuất khẩu cũng vậy, việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ có tác động làm tăng hệ quả của công tác này. Điều thấy rõ nhất, là nhờ sự phát triển của bưu chính viễn thông, tin học mà các đơn vị ngoại thương có thể đàm phán ký kết hợp đồng với đối tác qua điện thoại, điện tín,... giảm được chi phí đi lại.
Bên cạnh đó khoa học công nghệ còn có tác động vào các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, bảo quản hàng hoá, kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng,... Đó cũng là những nhân tố ảnh hưởng tích cực đến hoạt động xuất khẩu.
chương II
Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở Công ty xuất nhập Tổng hợp I
I-/ khái quát về Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I
1-/ Quá trình hình thành - phát triển Công ty:
Đầu những năm 1980, khi Nhà nước ban hành nhiều chủ trương chính sách nhằm đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu, trong đó có việc mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các ngành, các địa phương, quyền sử dụng ngoại tệ thu được do xuất khẩu các mặt hàng vượt chỉ tiêu hoặc ngoài chỉ tiêu phải giao nộp, thì công tác xuất nhập khẩu trở nên sôi động ở tất cả các ngành, các địa phương trong cả nước.
Bên cạnh những kết quả thu được (thể hiện ở nhịp độ tăng kim ngạch) lại phát sinh nhiều hiện tượng tranh mua, tranh bán ở cả thị trường trong nước và nước ngoài gây ra các hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, làm phá giá thị trường dẫn đến nguy cơ lạm phát bùng nổ.
Vấn đề đặt ra là vừa khuyến khích phát triển công tác xuất nhập khẩu địa phương, vừa chấn chỉnh và từng bước lập lại trật tự, kỷ cương trong khu vực này, hạn chế tới mức thấp nhất hiện tượng tranh mua, tranh bán.
Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I ra đời trong hoàn cảnh đó, nhận nhiệm vụ trước Bộ Ngoại thương góp phần giải quyết vấn đề trên bằng các biện pháp kinh tế để thu hút được các đầu mối đã bung ra nhằm tập trung về một mối.
Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I được chính thức thành lập ngày 15/12/1981 theo Quyết định số 1356/TCCB của Bộ ngoại thương (nay là Bộ Thương mại) nhưng đến tháng 3/1982 mới thực tế đi vào hoạt động.
Đặt trụ sở tại 46 Ngô Quyền - Hà Nội, lấy tên giao dịch là: Generalexim - Hà Nội.
Công ty trực thuộc Bộ Thương mại, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh doanh, có tư cách pháp nhân, vốn và tài khoản riêng tại Ngân hàng. Một đặc điểm cũng cần nói tới là ngày 01/08/1993 theo Quyết định số 858/TCCB của Bộ Thương mại đã quyết định hợp nhất Công ty Phát triển sản xuất và Xuất nhập khẩu vào Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I, giúp tạo thêm cho Công ty những thế và lực mới hết sức to lớn.
Quá trình phát triển của Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I kể từ ngày thành lập tới nay có thể chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn I: Từ 15/12/1981 đến cuối 1983
Đây là giai đoạn đầu của Công ty với một biên chế gồm 50 cán bộ công nhân viên có trình độ nghiệp vụ còn thấp, tư tưởng nhận thức chưa được đổi mới, thiếu năng động, chờ văn bản, chờ cơ sở tự đến với mình. Cơ sở vật chất nghèo nàn, vốn liếng ban đầu chỉ có 139.000 đồng, Nhà nước lại không cấp vốn.
Lúc này mối quan hệ của Công ty với các đơn vị cơ sở chưa được xác lập, đối với nước ngoài tên tuổi Công ty còn quá mới mẻ.
Thời kỳ này Công ty đang chập chững, dò bước đi sao cho đúng hướng. Công ty nhận thức vấn đề cốt lõi là phải ổn định tổ chức, tự bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, bên cạnh đó gửi cán bộ đi đào tạo trong và ngoài nước. Công ty đặt nhiệm vụ phải xây dựng một quỹ hàng hoá phong phú, đa dạng vì đó cũng là tiền, là vốn, có như vậy mới đủ sức lực cho Công ty phát triển.
Giai đoạn II: Từ năm 1984 đến cuối 1989.
Giai đoạn này Công ty đã đào tạo, bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ kinh doanh vững mạnh và một tổ chức tương đối hợp lý. Năm 1989, số cán bộ công nhân viên của Công ty là 200 người, trong đó có trên 60% đã qua đại học, cao đẳng. Công ty tập trung xây dựng một số vấn đề được xem là trọng điểm, đó là vấn đề phương thức kinh doanh và xây dựng quỹ hàng hoá. Công ty đã có quan hệ với 17 tỉnh và thành phố và hơn 40 đơn vị quận huyện. Công ty cũng đã gây dựng được một mạng lưới thương nhân nước ngoài có độ tin cậy cao, vấn đề đầu tư phát triển lâu dài được Công ty quan tâm.
Giai đoạn này Công ty còn đẩy lên được về kim ngạch xuất nhập khẩu.
Biểu số 1: Tổng Kim ngạch xuất nhập khẩu Của Công ty giai đoạn 1982 - 1989
Đơn vị tính: usd
Năm
Kim ngạch xuất nhập khẩu thực hiện (USD)
Mức tăng (%)
Mức hoàn thành kế hoạch Bộ giao %)
1982
11.800.000
100
1983
12.647.000
107,0
110
1984
19.463.000
154,0
108
1985
35.560.000
182,7
114
1986
46.813.000
131,6
116
1987
51.813.000
110,7
118
1988
49.257.000
95,1
115
1989
44.418.000
90,2
108
Trong thời kỳ này Công ty cũng đóng góp vào Ngân sách một phần không nhỏ, tổng cộng từ 1982 đến 1989 đóng góp được:
Biểu số 2: Đóng góp và Ngân sách Nhà nước của Công ty
Đơn vi tính: Đồng.
Năm
Đóng góp vào Ngân sách Nhà nước
1982
6.174.204
1983
71.889.790
1984
93.940.183
1985
2.624.995
1986
81.109.952
1987
852.835.115
1988
2.294.617.070
1989
2.084.271.142
Tổng cộng
5.487.462.451
Tuy nhiên, trong thời kỳ này Công ty gặp nhiều khó khăn, Nhà nước nợ đọng vốn của Công ty từ 1986 - 1990 là tiền Công ty ứng trước để nhập nguyên liệu cho sản xuất 2,5 triệu USD, tiền hàng Công ty tham gia giao lạc, cà phê cho Liên Xô cũ, Đông Âu theo Nghị định thư trị giá 4,5 triệu Rúp, chênh lệch do điều chỉnh giá gần 1 tỷ đồng không được giải quyết.
Trong 5 năm ở giai đoạn này Công ty được Bộ kinh tế đối ngoại, Bộ nội vụ tặng 5 bằng khen, 2 cờ đơn vị thi đua xuất sắc.
Giai đoạn III: từ 1993 đến nay.
Ngày thành lập Công ty vốn lưu động chỉ có 139.000 đồng, đến nay đã có gần 40 tỷ đồng. Hàng năm, Công ty nộp cho Nhà nước thuế xuất nhập khẩu lên tới hàng chục tỷ đồng. Công ty luôn đảm bảo được đời sống cho cán bộ công nhân viên, tiền lương không ngừng tăng lên. Trong năm 2001, Công ty đã có quan hệ giao dịch với gần 30 thị trường nước ngoài, trong đó có quan hệ mua bán thực sự là 25 thị trường. Có những thị trường lớn như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật, Singapore, Indonesia, Maylaysia, Thái Lan, Anh, Pháp, Hà Lan, Italia, Hungarie.
Biểu số 3: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty giai đoạn 90 - 98
Năm
Kim ngạch XNK thực hiện (USD)
Mức tăng (%)
Mức hoàn thành kế hoạch Bộ giao (%)
1993
40.655.000
91,5
102
1994
27.021.000
68,4
100
1995
31.900.000
118,1
106
1996
46.000.000
144,2
102
1997
49.223.000
107,0
103
1998
56.612.000
115,0
113
1999
63.356.707
111,9
115
2000
78.432.733
123,8
135,23
2001
64.448.642
82,17
102,29
Điều nổi bật trong 2 năm vừa qua là Công ty đã mở rộng quan hệ mua bán với 2 thị trường lớn nhất thế giới là Mỹ và Trung Quốc.
- Về đối tác: Công ty hiện có quan hệ giao dịch với hơn 100 thương nhân và tổ chức nước ngoài, 60 đối tác nội địa, với tổng số khoảng 200 hợp đồng nội ngoại mỗi năm, tỷ lệ hợp đồng ký và thực hiện đạt tỷ lệ khá cao.
- Về phương thức kinh doanh: ngoài hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp thông qua L/C, năm 2000 Công ty còn mở ra 2 hình thức mới là hàng đổi hàng với Trung Quốc và tạm nhập tái xuất.
2-/ Chức năng nhiệm vụ của Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I:
Công ty được thành lập với nhiệm vụ là trực tiếp xuất nhập khẩu hoặc xuất nhập khẩu uỷ thác mọi mặt hàng ngoài chỉ tiêu giao nộp của các địa phương, các ngành, các doanh nghiệp từ Quảng Bình trở ra, Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I còn được giao thêm một số nhiệm vụ khác theo từng giai đoạn, cụ thể là:
+ Thực hiện xuất khẩu hoặc nhập khẩu một số mặt hàng được giao._.n lớn hơn là thu mua lại, đồng thời Công ty có thể gia công chế biến hàng nông sản theo đúng như mong muốn của bên nước ngoài. Công ty có thể chủ động về số lượng, chất lượng, khống chế số lượng hàng sản xuất ra cho phù hợp với đơn hàng xuất khẩu tránh dư thừa, tồn kho do không kiểm soát được chất lượng hàng xuất khẩu để khách hàng từ chối nhận hàng. Công ty cũng có thể chế biến thuê cho các đơn vị khác khi họ gặp khó khăn về khối lượng, thời gian, trình độ công nghệ. Ngược lại, là Công ty cũng có thể liên doanh liên kết với các đơn vị sản xuất chế biến để thu mua hàng xuất khẩu của họ khi chưa sản xuất được hoặc thuê họ chế biến khi Công ty gặp phải hợp đồng quá gấp gáp thời gian, khối lượng quá lớn hoặc công nghệ chế biến của Công ty chưa đạt yêu cầu chất lượng hay mặt hàng nào đó không thể sản xuất được.
Một hình thức mở rộng nguồn hàng xuất khẩu là Công ty nhận xuất khẩu uỷ thác. Hình thức này đã được Công ty áp dụng từ lâu, tuy nhiên vấn đề là làm sao càng ngày càng có nhiều hợp đồng uỷ thác. Để làm được điều này, Công ty cần tăng cường mối quan hệ thân thiết với các bạn hàng để họ vui vẻ cùng chia sẻ lợi nhuận với công ty.
Tất cả các hình thức mở rộng nguồn hàng xuất khẩu đều nhằm làm cho Công ty tăng thu, giảm chi, ổn định nguồn hàng, là một đối tác uy tín lớn đối với bên nước ngoài.
* Hoàn thiện cơ cấu hàng xuất khẩu:
Bên cạnh lĩnh vực tạo nguồn hàng xuất khẩu, Công ty cần thực hiện cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Mặc dù hàng của Công ty đưa ra thị trường quốc tế gồm nhiều loại khác nhau nhưng để cạnh tranh được với các đối thủ lớn khác, Công ty cần không ngừng thay đổi, bổ xung những chủng loại hàng mới, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Hiện nay, một số mặt hàng chính của Công ty có tỷ trọng như sau:
Biểu số 9: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Công ty
Đơn vị tính: USD
Mặt hàng xuất khẩu
1999
2000
2001
Lạc nhân
3.342.427
1.857.443
1.234.800
Cà phê
876.500
1.437.255
1.227.732
Cao su
986.200
1.215.600
1.507.839
Hạt tiêu
1.230.487
1.437.975
1.201.506
Hạt điều
500.000
678.924
907.312
Tổng cộng
6.935.614
6.627.197
6.079.189
Như vậy, bên cạnh một số mặt hàng truyền thống như lạc nhân, hạt tiêu, Công ty cần tiếp tục phát huy vai trò chủ lực của các mặt hàng lạc nhân, hạt tiêu nhưng cũng cần phải quan tâm khai thác các mặt hàng, nhóm hàng khác mà thế giới có nhu cầu như cao su, cà phê, hạt điều, dầu lạc,... Nếu như ở mặt hàng hạt tiêu, lạc nhân, Công ty có những biện pháp tiếp tục duy trì và đẩy mạnh vị trí vốn có của nó thì đối với mặt hàng hạt điều, cà phê, Công ty lại phải khôi phục vai trò của 2 mặt hàng trong hoạt động xuất khẩu của Công ty. Hạt điều là một trong những hàng hoá đang chiếm được cảm tình của người tiêu dùng nên Công ty cũng đang dần nâng tỷ trọng mặt hàng này lên bằng việc đầu tư xây dựng một xí nghiệp hạt điều, nâng số lượng xuất khẩu hạt điều hơn 500 tấn/năm. Ngoài ra trong thời gian tới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Công ty cũng nên có một sự cải biến cho phù hợp với xu thế tiêu dùng của thế giới và tiềm năng sẵn có của Công ty, của quốc gia, đó là sự bổ xung những mặt hàng mới như chè, mây tre cói, ngô, tinh dầu,... Kinh doanh những mặt hàng mới sẽ gặp nhiều kho khăn, song muốn tồn tại và phát triển, Công ty không còn cách nào khác là phải đối mặt và giải quyết những khó khăn đó.
* Nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu:
Hàng hoá muốn xuất khẩu được không thể không chú ý đến chất lượng. Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mọi doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Muốn vậy, Công ty cần kiểm tra kỹ quá trình vận động của hàng hoá từ khâu đầu tới khâu cuối. Đặc biệt đối với mặt hàng thực phẩm, ngoài việc kiểm tra chất lượng ở thời điểm sản xuất, dự trữ, bảo quản , còn phải quan tâm đến thời hạn sử dụng an toàn. Đối với hàng nông sản thông thường phải bao gói cẩn thận nhằm giữ gìn chất lượng sản phẩm như khi mới chế biến. Đây là một trong những tiêu chuẩn về chất lượng của hàng hoá xuất khẩu. Khi mức sống, khoa học công nghệ phát triển cao thì yêu cầu về chất lượng hàng hoá cũng cao hơn. Do đó, đối với những hàng tự sản xuất Công ty phải kiểm tra nghiêm ngặt, tôn trọng quy trình công nghệ chế biến, đối với những hàng thu gom phải có bộ phận kiểm tra, nghiệm thu chất lượng hàng trước khi nhập hàng từ các nơi sản xuất.
* Tổ chức tốt khâu dự trữ, bảo quản:
Một trong những biện pháp nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là củng cố, hoàn thiện khâu dự trữ, bảo quản hàng hoá. Hiện nay, hệ thống kho tàng của Công ty tương đối nhiều, dung lượng lớn. Tuy nhiên có một số kho đã bị xuống cấp, mái nhà dột, nền kho ẩm. Những điều kiện như vậy không đảm bảo an toàn cho chất lượng hàng hoá trong kho, vì vậy Công ty cần tổ chức tu sửa lại hệ thống kho tàng nhằm bảo quản tốt hơn, bảo toàn chất lượng hàng hoá. Hơn nữa, do đặc tính của hàng nông sản là theo vụ mùa nên nếu công ty muốn có hàng để xuất khẩu trong cả năm thì rõ ràng khâu dự trữ phải tốt. Vì vậy đẩy mạnh hoạt động sản xuất trong Công ty cũng đồng nghĩa với việc tổ chức, thực hiện có hiệu quả việc dự trữ hàng hoá xuất khẩu, tránh tình trạng "thừa vẫn thừa, thiếu vẫn thiếu" hay "thừa lúc này, thiếu lúc khác". Vì vậy công ty phải xây dựng được một kế hoạch dự trữ thường xuyên, dự trữ mùa vụ cụ thể trong từng giai đoạn nhất định căn cứ vào lượng hàng xuất khẩu và xu hướng, khả năng xuất khẩu của giai đoạn tiếp theo. Việc lập kế hoạch dự trữ những mặt hàng cụ thể Công ty phải phân cấp cho các phòng, các cơ sở sản xuất, các của hàng chuyên doanh đảm trách.
3-/ Đẩy mạnh hoạt động Marketing xuất khẩu:
Marketing xuất khẩu rất cần thiết đối với mọi quốc gia cũng như đối với các doanh nghiệp. Nó đòi hỏi những hiểu biết khác với ở trong nước, mặc dù sự khác nhau nhiều lúc về trình độ hơn là về tính chất. Hơn nữa, những hiểu biết đó cùng với khả năng riêng biệt và kinh nghiệm trở thành những nhân tố quyết định đối với sự thành công của Công ty.
Công ty phải thực sự quan tâm hơn đến vấn đề quản lý Marketing xuất khẩu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Hoạt động Marketing xuất khẩu của Công ty cần phải dựa trên 3 vấn đề cơ bản sau:
* Một: Xác định mục tiêu đối với hoạt động xuất khẩu của công ty. Đó là những mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với sự tối đa hoá lợi nhuận thu được và không ngừng tìm cách xâm nhập các thị trường mới nhằm mở rộng phạm vi hoạt động của công ty trên thị trường quốc tế. Những tiêu chuẩn cụ thể mà Công ty đưa ra để đánh giá sự phát triển là doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận xuất khẩu và thị phần của Công ty trên mỗi loại thị trường.
* Hai: dựa trên cơ sở những mục tiêu đã xác định, Công ty xây dựng chương trình hoạt động Marketing xuất khẩu bao gồm việc triển khai cả chiến lược và chiến thuật của Marketing mix.
* Ba: Sử dụng các khả năng của công ty để thực hiện Marketing mix.
Hoạt động xuất khẩu của Công ty chịu tác động của các nhân tố thuộc về Công ty (như vốn, mặt hàng kinh doanh, nguồn nhân lực của Công ty,...), về thị trường, về chiến lược xuất khẩu được Công ty lựa chọn. Cụ thể, việc lựa chọn hoạt động Marketing xuất khẩu của Công ty nên thực hiện theo mô hình sau:
Thị trường xuất khẩu
Đánh giá cơ hội thị trường:
a. Đánh giá thị trường tiềm năng.
b. Ước tính lượng bán ra tiềm năng.
c. Phân đoạn thị trường
Xác lập chiến lược XK, các hoạt động:
a. Dự kiến bán ra.
b. Ngân sách cho việc bán.
c. Giấy phép bán.
d. Danh mục hàng hoá bán.
e. Kiểm kê các bản kiểm kê.
g. Nhu cầu nhân lực.
h. Ngân sách cho khuếch trương.
i. Quỹ tài chính.
k. Quỹ lợi nhuận.
Chiến lược Marketing xuất khẩu
Triển khai các kế hoạch chiến lược Marketing xuất khẩu:
a. Đề ra mục tiêu XK
b. KH hoá Marketing Mix: Sản phẩm, giá cả, phân phối, khuếch trương
Lựa chọn kế hoạch chiến lược xuất khẩu
Dòng thông tin phản hồi
mô hình Marketing xuất khẩu
Trong 4 nhân tố của Marketing Mix là sản phẩm, giá cả, phân phối và khuếch trương ở Công ty, vấn đề còn nhiều điều đáng nói nhất là các chính sách về khuếch trương. Hàng hoá muốn xuất khẩu được nhiều thì phải tích cực làm công tác khuếch trương vì nó tác động rất lớn tới hành vi của người mua (người nhập khẩu) và mục tiêu là thông tin cho khách hàng tiềm năng (bao gồm cả người trung gian) về hàng hoá để thuyết phục họ trở thành người mua hàng, để họ bày tỏ thái độ, bày tỏ những thay đổi trong nếp nghĩ và đi đến quyết định hành động có lợi cho nhà xuất khẩu. Để xúc tiến bán hàng xuất khẩu, Công ty nên áp dụng các hình thức như: gửi Catolog ra nước ngoài, tham gia hội chợ hàng tiêu dùng ở nước ngoài hoặc trực tiếp tiếp thị tới từng doanh nghiệp tại nước ngoài. Gửi Catalog cho nước ngoài sẽ giúp rút ngắn khoảng cách người bán và người mua. Thông qua Catalog khách hàng có được các thông tin về chủng loại hàng hoá, kích cỡ, màu sắc,... vì thế Catalog phải được in ấn đẹp đẽ, dễ đọc, dễ hiểu, màu sắc bố cục ấn tượng dễ nhớ. Ngoài ra Công ty còn có thể sử dụng hình thức gửi hàng mẫu qua bưu điện cho các khách hàng quan tâm nhằm cung cấp cho họ nhận biết về hình dáng, chất lượng, hương vị của hàng hoá. Đặc biệt đối với mặt hàng nông sản không một hình thức nào hay hơn là để khách hàng tiếp xúc trực tiếp với hàng hoá để họ tự cảm nhận.
Công ty cần mở rộng hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở trong và ngoài nước. Thông qua các cửa hàng này, khả năng xâm nhập thị trường của Công ty sẽ tăng lên. Khách hàng có thể xem hàng hoá được trưng bày ở cửa hàng. Các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài cần chú ý có các đặc điểm như: địa điểm phù hợp với quảng cáo, ở trung tâm thành phố, gần các đầu mối giao thông, gần các khu cửa hàng bán lẻ. Trong các cửa hàng phải tổ chức trang trí gọn gàng, bắt mắt, phải làm nổi bật được hàng muốn giới thiệu.
4-/ Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả:
Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh tế thì vấn đề vốn cũng phần nào bớt căng thẳng với các doanh nghiệp. Vốn có thể được huy động bằng nhiều hình thức khác nhau.
* Công ty có thể bổ xung vốn lưu động và vốn cố định của mình trích từ lợi nhuận hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản của Công ty và tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nguồn vốn tự có này thể hiện qui mô của doanh nghiệp và nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí trong các hoạt động. Tuy nhiên vì điều kiện thực tế là Công ty kinh doanh trong nhiều lĩnh vực vốn bị rải rác, trong khi hoạt động xuất nhập khẩu lại yêu cầu phải có một lượng vốn lớn nên ngoài nguồn vốn tự có, Công ty phải sử dụng các hình thức khác để huy động vốn.
* Công ty có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút nguồn vốn từ bên ngoài vào công ty. Cùng với chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi, khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc Công ty tiến hành liên doanh, liên kết với các bên đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vốn và sử dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của những nước phát triển là việc nên làm. Tuy nhiên để tiến hành liên doanh liên kết có lợi cho Công ty mà không làm ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của Công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Trước hết, đối tác mà Công ty lựa chọn phải có cùng lĩnh vực hoạt động mà Công ty định liên kết kinh doanh. Sau nữa là phải có bề dày kinh nghiệm tức là đã hoạt động trong lĩnh vực này lâu và có uy tín mạnh trên thịt rường quốc tế, có khả năng chinh phục khách hàng trên toàn thế giới. Ngoài ra cần thiết phải có những thoản thuận chi tiết về thời hạn liên doanh, tỷ lệ vốn góp, phạm vi hoạt động,... trên cơ sở đã nghiên cứu cụ thể, chi tiết về thực trạng, xu hướng phát triển của Công ty, của đối tác, của thị trường nông sản, các chính sách và pháp luật của Nhà nước. Có thể nói liên doanh là một hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng cũng đã phổ biến ở nước ta. Song để đạt được hiệu quả cao thì cần phải có một sự nghiên cứu, chuẩn bị thật kỹ lưỡng trước khi thực hiện.
* Trong nhiều trường hợp, để huy động vốn Công ty phải yêu cầu đối tác hỗ trợ tín dụng. Cụ thể là với một số hợp đồng xuất khẩu, Công ty yêu cầu người mua (người nhập khẩu) ứng trước một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng, Công ty có thể sử dụng số tiền ứng trước đó như một phần vốn của mình. Đối với những hợp đồng có giá trị quá lớn, vượt xa khả năng của Công ty thì Công ty có thể áp dụng hình thức yêu cầu hỗ trợ tín dụng. Bên cạnh hình thức yêu cầu hỗ trợ tín dụng, Công ty cũng có thể thực hiện hợp đồng bằng cách mời một nhà xuất khẩu Việt Nam cùng tham gia và 2 bên cùng nhau chia sẻ lợi nhuận.
* Huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính tín dụng. Cùng với sự lớn mạnh của cơ chế thị trường là sự hoàn thiện các hệ thống ngân hàng và các hoạt động của ngân hàng ở nước ta. Ngân hàng trở thành nơi tin cậy cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua các hình thức vay ngắn hạn, dài hạn, tín dụng xuất khẩu để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động thương mại quốc tế.
Vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với mọi đơn vị kinh doanh nhưng chắc chắn nó không phải là vấn đề bế tắc bởi có rất nhiều cách huy động vốn. Điều quan trọng hơn là làm thế nào để sử dụng những đồng vốn đó một cách hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu vốn cũng là do việc sử dụng vốn lãng phí, bừa bãi, không tiết kiệm. Công ty cần có những biện pháp tích cực nhằm tăng nhanh vòng quay của vốn, tránh ứ đọng vốn ở khâu này trong khi thiếu vốn ở khâu khác, đó là việc phân phối nguồn vốn hợp lý có kiểm tra, kiểm soát vòng tuần hoàn của vốn và đánh giá mức sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra.
5-/ Nâng cao, bồi dưỡng trình độ của cán bộ xuất nhập khẩu:
Trình độ cán bộ là một trong những nguồn lực cơ bản của Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I. Công ty đi lên như hiện nay là nhờ có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ tinh thông về nghề nghiệp, nhiệt tình với hết khả năng và trách nhiệm của mình. Hiện tại lao động gián tiếp của Công ty chiếm chỉ có 9% trong tổng số cán bộ công nhân viên, trong tổng số thì có tới 90% là Đại học và trên Đại học.
Hàng năm thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng và bổ nhiệm, Công ty có tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, có trình độ, thực sự am hiểu về nghiệp vụ, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt. Tuy nhiên cho đến nay Công ty vẫn chưa có hình thức nâng cao và bổ xung kiến thức rộng rãi cho cán bộ xuất nhập khẩu vì lý do quá bận rộn công việc. Để đảm bảo cho Công ty có được đội ngũ cán bộ không bị lạc hậu về trình độ thì hàng năm Công ty phải cử luân phiên một số cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn ngày do các giáo sư, tiến sĩ trực tiếp giảng dạy.
Ngoài ra Công ty cũng cần phải có chính sách khuyến khích vật chất, tinh thần để động viên các cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu, sử dụng cơ chế khoán có quản lý phần nào cũng khuyến khích được cán bộ công nhân viên tích cực tham gia kinh doanh, tạo sự tương đối công bằng trong thực hiện nhiệm vụ và thu nhập. Công ty vẫn cần tiếp tục hoàn thiện hơn nhất là ở khâu giao chỉ tiêu và gắn nó vào chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu.
III-/ Một số kiến nghị với Nhà nước:
1-/ Đẩy mạnh sản xuất và chế biến các mặt hàng nông sản:
Sản xuất chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cơ cấu, chất lượng hàng xuất khẩu. Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu nông sản thì bên cạnh việc tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng, Việt Nam cần phải đầu tư mạnh cho phát triển sản xuất hàng nông sản theo chiều sâo, từng bước nâng cao chất lượng hàng nông sản. Các biện pháp tiến hành bao gồm:
- Tạo nguồn vốn ban đầu cho nông dân: Đây là việc làm hết sức cần thiết vì để mở rộng được diện tích đất gieo trồng, thay đổi cơ cấu giống cây tròng, áp dụng những tiến bộ khoa học quản lý vào sản xuất,... đòi hỏi cần có những chi phí không phải là nhỏ mà nhièu khi người nông dân không tự trang trải nổi. Thời gian qua, các chương trình trợ giúp vốn cho người dân đã đựoc thực hiện song kết quả thu được còn rất hạn chế. Nguyên nhân của sự hạn chế này là do việc cho người nông dân vay vốn với lãi suất ưu đãi diễn ra dàn trải thiếu tập trung. Điều đó dẫn tới một số hộ nông dân chỉ có thể vay một vài trăm nghìn đồng, không đủ cho đầu tư sản xuất. Các hộ nông dân năng động muốn làm ăn lớn đã chấp nhận đi vay với lãi suất tín dụng thông thương thì lại gặp khó khăn trong vấn đề về tài sản thế chấp. Trong khi ngân hàng lại có hiện tượng ứ đọng tiền mặt.
Để khắc phục hạn chế này, trong thời gian tới Nhà nước cần đưa ra những chính sách ưu đãi đối với ngân hàng phục vụ người sản xuất hàng nông sản, khuyến khích các cơ sở chế biến, các nhà kinh doanh nông sản ứng trước vốn để mua nông sản. Bên cạch đó cũng cần khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực này.
- Đầu tư chi phí cho nghiên cứu cải tạo giống cây trồng nhằm nâng cao chất lượng hàng nông sản: ở Việt Nam thời gian qua, với việc khoán 10 năng suất và sản lượng nông sản đã tăng lên vượt bậc. Song nó cũng sinh ra một số vấn đề, đó là người sản xuất chạy theo những giống cây trồng có năng suất cao mà không chú ý đến chất lượng nông sản. Trong đó sản xuất lúa gạo, tỷ lệ diện tích lúa đặc sản như tám thơm, nàng hương, nếp hoa vàng ngày càng thấp. Còn cà phê thì diện tích cà phê Robusta là chủ yếu. Điều này đã ảnh hưởng tới chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, làm cho giá cả luôn ở mức thấp hơn so với giá cả trung bình của thế giới. Trong xu hướng chung của xuất nhập khẩu hàng nông sản hiện nay đang chuyển từ cạnh tranh bằng giá cả sang cạnh tranh bằng chất lượng hàng hoá thì đây là bất lợi đối với Việt Nam. Để hạn chế được bất lợi này Việt Nam không còn con đường nào khác là gieo trồng các giống cây cho sản lượng chất lượng cao, từng bước hạn chế và dần dần loại bỏ các giống cây có chất lượng thấp.
- Tăng cường đầu tư tạo ra các vùng nguyên liệu tập trung có chất lượng cao, có cơ sở hạ tầng đủ điều kiện phục vụ cho sản xuất ra sản phẩm với năng suất chất lượng cao. Với một nguồn lực hạn chế như Việt Nam hiện nay thì đây là một biện pháp hữu hiệu. Vấn đề là phải xác định đâu là vùng ưu tiên cho từng mặt hàng.
- Tổ chức thu mua nông sản cho người dân: Vì khả năng vốn có hạn, các điều kiện về kho tàng cất giữ còn hạn chế nên người nông dân phải bán nông sản ngay sau khi thu hoạch, trong khi Nhà nước lại chưa kịp thu mua nông sản cho người dân. Điều này dẫn đến tình trạng tư thương lợi dụng ép giá người nông dân làm ảnh hưởng đến thu nhập của họ, không khuyến khích được sản xuất. Để tránh tình trạng này Nhà nước cần chuẩn bị kỹ lưỡng về vốn, kho tàng, mạng lưới thu mua,... tạo điều kiện để cho các công ty vay vốn ngân hàng thu mua nông sản xuất khẩu.
- Nhà nước cần đầu tư mạnh cho phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản, từng bước nâng cao tỷ lệ hàng nông sản chế biến trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam trong thời gian qua chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô nên vừa hạn chế việc mở rộng xuất khẩu vừa ảnh hưởng làm giảm kim ngạch xuất khẩu. Vì thế trong thời gian tới Việt Nam cần đẩy mạnh việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và công nghiệp chế biến, tăng cường đầu tư cho công nghiệp chế biến, công nghiệp bao bì, mẫu mã, tạo ra loại sản phẩm nông sản có giá trị hàm lượng công nghiệp cao. Bên cạnh đó Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu nông sản chế biến thông qua tăng hạn ngạch cho các loại sản phẩm này, giảm thuế xuất khẩu để tạo ra sự khác biệt giữa biểu thuế xuất khẩu đánh trên các sản phẩm nông sản thô và nông sản đã qua chế biến.
- Khuyến khích đầu tư liên doanh vào lĩnh vực sản xuất và chế biến nông sản. Thúc đẩy mạnh hoạt động này sẽ đem đến cho Việt Nam nhiều lợi ích mà trước hết phải kể đến vốn và công nghệ thích hợp. Bên cạnh đó còn giúp Việt Nam giải quyết các vấn đề khó khăn về giống cây trồng chất lượng cao, kỹ thuật thâm canh, bí quyết trong vấn đề chế biến sản phẩm, xâm nhập vào thị trường mới.
Song song vấn đề này Nhà nước cũng cần phải chú ý nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám định nhằm khắc phục tình trạng liên doanh thì thua lỗ nhưng bên nước ngoài vẫn có lãi trong việc tính độ giá góp vốn liên doanh, biến Việt Nam thành bãi rác công nghiệp do nhập khẩu các thiết bị máy móc quá cũ kỹ lạc hậu.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các quỹ bình ổn giá đối với các mặt hàng nông sản. Việc lập quỹ bình ổn giá để hạn chế rủi ro cho người sản xuất là thực sự cần thiết, ở Việt Nam các quỹ này cũng đã được thành lập và đi vào hoạt động song hiệu quả còn rất thấp. Các quỹ này còn chưa đủ mạnh để có thể trợ giá cho người sản xuất khi giá nông sản bị giảm sút. Vì thế người ta chỉ thấy được hoạt động của các quỹ này khi giá cả nông sản lên cao, khi giá thấp người sản xuất cần thì không thấy quỹ này hoạt động. Điều này gây mất lòng tin ở người sản xuất, làm cho họ không dám dầu tư mạnh và sản xuất chế biến kinh doanh,.... Để nâng cao hiệu quả của quỹ bình ổn giá cả thì phải tăng nguồn thu quỹ, cải tiến cơ chế hoạt động nhằm tăng cường sức mạnh cho quỹ này, giúp chúng đủ sức can thiệp vào thị trường khi cần thiết.
2-/ Trợ giúp công ty xuất khẩu nông sản:
Tạo điều kiện về vốn cho các công ty xuất khẩu nông sản: Nông sản là mặt hàng mà việc sản xuất thu mua mang tính thời vụ đậm nét với chu kỳ sản xuất tương đối dài, trong khi đó hoạt động xuất khẩu lại diễn ra suốt năm và được giá cao ở các kỳ giáp vụ. Vì vậy đòi hỏi công ty phải có lượng vốn đủ lớn, đủ sức thu mua trong vụ thu hoạch và dự trữ xuất khẩu cho cả năm.
Mặt khác tại các ngân hàng còn diễn ra tình trạng ứ đọng vốn nhưng Công ty xuất nhập khẩu nói chung khó đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe về tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn,... nên rất khó tiếp cận được với nguồn vốn này. Thời gian tới Nhà nước cần phải đưa ra những biện pháp để khuyến khích ngân hàng cho các Công ty vay vốn thu mua nông sản. Nhà nước nên bỏ qua quy định hạn chế mức tín dụng đối với ngân hàng thương mại nhằm khuyến khích xuất khẩu. Trong trường hợp giá nông sản trên thị trường thế giới có xu hướng thấp hay giá thu mua nông sản trong nước tăng gây thua lỗ cho các cơ sở chế biến kinh doanh nông sản xuất khẩu thì Nhà nước nên xem xét bằng quỹ bình ổn giá cả để giảm đi một phần lãi suất tín dụng. Về phía ngân hàng, Nhà nước cũng cần xem xét lại các quy định về tài sản thế chấp để nó giữ đúng vai trò là điều kiện đảm bảo an toàn vốn cho vay chứ không phải là căn cứ giữa ngân hàng và Công ty.
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các công ty hoạt động trên lĩnh vực này. Có thể nói thị trường nông sản thế giới là một thị trường biến động khá phức tạp nhưng ở Việt Nam thông tin này còn thiếu và chậm, độ chính xác chưa cao. Cho nên thời gian tới Nhà nước cũng như các Bộ có liên quan đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường thế giới. Đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp có cơ hội thăm dò tìm kiếm thị trường.
3-/ Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng đơn giản hơn, thông thoáng hơn, phù hợp với cơ chế thị trường:
Những quy định về xuất nhập khẩu và các hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu nông sản nói riêng và xuất khẩu hàng hoá dịch vụ nói chung ở nước ta hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu phải được đổi mới và hoàn thiện. Cụ thể là:
- Hệ thống các văn bản pháp lý, quy định phải đảm bảo được tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các Công ty liên doanh xuất nhập khẩu, tránh tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đó nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới nhìn đến các Công ty sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thực tế còn vô số các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm không được hưởng các ưu đãi. Vì thế Nhà nước cần xem xét và có chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp này.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: Trên thực tế công tác quản lý xuất khẩu của Nhà nước còn một số mặt bất cập với diễn biến của hoạt động xuất khẩu nhiều khi còn không ít thiếu sót và nhược điểm cần khắc phục và giải quyết. Về lâu dài các quy định về xuất nhập khẩu hiện hành phải được bổ xung và sửa đổi tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển thuận lợi. Hiện nay ở Việt Nam thủ tục xuất khẩu vẫn còn rườm ra gây phức tạp lãng phí thời gian, công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu trong vấn đề thủ tục xuất khẩu. Các cơ quan quản lý xuất nhập khẩu nhiều khi còn tỏ ra quan liêu cửa quyền gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Đối với các mặt hàng có hạn ngạch, Nhà nước nên áp dụng đấu thầu để tránh hiện tượng tiêu cực, đem lại sự công bằng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Trước mắt khi chưa đưa được hình thức này vào áp dụng, cơ quan quản lý nhà nước mà trực tiếp là Bộ thương mại phải lựa chọn ra các công ty đáng tin cậy để giao hạn ngạch. Các Công ty phải có đủ điều kiện về vốn, mạng lưới thu mua, kho tàng để mua hết hàng hoá đặc biệt là nông sản cho người sản xuất. Mặt khác Bộ thương mại cũng cần phải giám sát chặt chẽ phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp nhằm tránh tình trạng tranh dành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây thiệt hại cho những công ty cũng như với Nhà nước.
- Lập chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho người xuất khẩu.
Đây là chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường. Hiện nay tỷ giá giữa VNĐ với USD vẫn còn cao, Nhà nước cần điều chỉnh lại và giữ ở mức ổn định để đảm bảo cho hoạt động xuất nhập khẩu được diễn ra đều đặn.
kết luận
Sau 18 năm hoạt động, Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I đã không ngừng học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ thực tiễn để tiếp tục tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới. Phải đối mặt với những khó khăn do sự thay đổi cơ chế kinh tế, do những biến động về kinh tế, chính trị trên thế giới song Công ty đã không chịu bó tay mà ngược lại, vẫn đang tìm những hướng đi mới, những giải pháp mới để tự khẳng định mình và không ngừng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu muốn tham gia vào thị trường khu vực và thế giới Công ty phải chấp nhận sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt như một quy luật tất yếu của cơ chế thị trường.
Nhằm gắn liền với những đòi hỏi và yêu cầu của thực tế, qua thời gian thực tập ở Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I, tôi đã chọn đề tài: "Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản ở Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I". Nội dung chính của đề tài đề cập đến 3 vấn đề chính. Đó là: Trên cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất nhập khẩu của một doanh nghiệp, phân tích thực trạng xuất khẩu nông sản của công ty, qua đó rút ra được những mặt mạnh cũng như những tồn tại chủ yếu trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản và đưa ra một vài giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại đó và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu của công ty.
Với một đề tài lớn, trình độ chuyên môn còn nhiều hạn chế, vì vậy trong thời gian ngắn bài Luận văn này tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đánh giá, bổ xung, góp ý của các thày cô giáo, các cán bộ trong Công ty và bạn học để đề tài của tôi thực sự hoàn thiện hơn.
Mục lục
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Thương mại Quốc tế
PGS. PTS Nguyễn Duy Bột
Nhà xuất bản Thống kê - Năm 2000
2. Giáo trình Quản trị kinh doanh TMQT
PGS. PTS Trần Chí Thành
Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2000
3. Báo cáo tổng hợp 17 năm phát triển của Công ty XNK Tổng hợp I
4. Báo cáo Tổng hợp các năm 1998, 1999,2000,2001 của Công ty XNK Tổng hợp I
5. Luận văn tốt nghiệp các năm 1999,2000
6. Tổ chức và nghiệp vụ kinh doanh TMQT
PGS. PTS Trần Chí Thành
Nhà xuất bản Thống kê - Năm 1997
7. Thương mại Quốc tế
PGS. PTS Nguyễn Duy Bột
PGS. PTS Đinh Xuân Trình
Nhà xuất bản Thống Kê - Năm 1997
8. Giáo trình Kinh tế thương mại
PGS. PTS Nguyễn Duy Bột
PGS. PTS Đặng Đình Đào
Nhà xuất bản Thống kê - Năm 1999
9. Hướng phát triển thị trường XNK Việt Nam tới năm 2010
PTS. Phạm Quyền
PTS. Lê Minh Tâm
Nhà Xuất bản Thống kê - Năm 2000
10. Việt Nam - Thương mại thời mở cửa
Nhà xuất bản Thống kê - Năm 1999
11.Tạp chí Thương mại Việt Nam
Số 3,7,8 - Năm 2000
Số 5,7 ,10,11,12 - Năm 2001
Số 1,3 - Năm 2002
12.Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới
Số 2 - Năm 1999
Số 1,7 - Năm 2000
Số 4 - Năm 2001
13. Tạp chí Kinh tế và Dự báo
Số 3 - Năm 2001
14. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế
Số 3 - Năm 2002
15. Tạp chí Nông nghiệp Việt Nam
Số 4 - Năm 2000
Nhận xét của cơ quan thực tập
Trong thời gian thực tại Công ty XNK Tổng hợp I - 53 Quang Trung, sinh viên Tô Văn Minh đã có rất nhiều cố gắng .
- Đã tìm hiểu và nghiên cứu số liệu qua Báo cáo tổng hợp các năm của Công ty để phân tích, đánh giá hoạt động xuất khẩu của Công ty có cơ sở khoa học.
- Nêu lên được những vấn đề cơ bản trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản cuả Công ty.
- Đề xuất cho Công ty những biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty. Công ty sẽ nghiên cứu và áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty.
- ý thức tổ chức kỷ luật tốt, tác phong giản dị, hoà nhã, chăm chỉ, ham học hỏi. Cần mạnh dạn hơn.
Thay mặt Công ty XNK Tổng hợp I
Trưởng phòng NV I
Giám đốc
Phó Giám đốc hành chính
Phó Giám đốc kinh doanh
Phó Giám đốc tài chính
Phòng kho vận
các Phòng xnk
các liên doanh
hệ thống cửa hàng
Phòng hành chính
hệ thống cơ sở sx
các chi nhánh
phòng tổ chức
phòng kế toán tài vụ
phòng tổng hợp
KHối phục vụ
khối kinh doanh
khối quản lý
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0426.doc