Tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo tại Công ty cổ phần XNK Tạp phẩm: ... Ebook Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo tại Công ty cổ phần XNK Tạp phẩm
60 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo tại Công ty cổ phần XNK Tạp phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tính tất yếu
Từ một nước nghèo đói thiếu lương thực vào những thập niên 1980 trở về trước đến nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới. Điều này có một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu gạo đã đem lại nguồn thu ngoại tệ hàng năm cho Chính phủ, đảm bảo cán cân thanh toán, tạo điều kiện để nhập khẩu thêm máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất trong nước, tạo công ăn việc làm cho người dân, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại.
Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm là Công ty thuộc Bộ Thương Mại cũng tham gia vào hoạt động xuất khẩu gạo đóng góp vào hoạt động xuất khẩu chung của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu gạo của Công ty những năm gần đây liên tục tăng.Tuy nhiên kim ngạch còn rất nhỏ, thị trường còn hạn hẹp ở một số nước truyền thống, nhiều hợp đồng thực hiện mà không có lãi hoặc lãi rất nhỏ. Vì vậy điều cấp thiết là phải nghiên cứu tìm hiểu thị trường để đưa ra các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo một cách hữu hiệu.
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động xuất khẩu gạo của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu tạp phẩm TOCONTAP, một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu từ rất sớm, chúng ta có thể thấy được những tồn tại, hạn chế chung của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cả nước từ đó đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thế giới.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những lý luận chung về xuất khẩu, quá trình hình thành phát triển và hoạt động thương mại của Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm trong lĩnh vực xuất khẩu gạo.
Phạm vi nghiên cứu là hoạt động xuất khẩu gạo của Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm và một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá, nhận xét, tổng hợp số liệu thực tế.
Kết cấu
Tên đề tài: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tạp phẩm.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo bài viết bao gồm 3 chương:
Chương I : Lý luận chung về xuất khẩu
Chương II : Thực trạng xuất khẩu gạo tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tạp phẩm
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tạp phẩm
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ của thầy: PGS.TS Nguyễn Như Bình cùng các cô chú tại phòng XNK7 Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Tạp phầm đã giúp em hoàn thành bài viết này.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU
1.1. Khái niệm xuất khẩu
Sản xuất ngày càng phát triển đồng thời nhu cầu về sản phẩm của con người cũng đa dạng hơn nhưng một quốc gia không đủ khả năng đáp ứng những nhu cầu đó. Do đó các quốc gia tiến hành trao đổi hàng hoá với nhau và một trong những hoạt động trao đổi đó ngày nay gọi là xuất khẩu.
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ của một quốc gia cho các nước còn lại trên thế giới trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá ( cả tài sản hữu hình lẫn vô hình )
Dưới giác độ kinh doanh thì xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ. Dưới giác độ phi kinh doanh như như làm quà tặng hoặc viện trợ không hoàn lại thì đó là việc lưu chuyển hàng hoá qua biên giới một quốc gia.
Chủ thể tham gia xuất khẩu
Bao gồm các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, và Chính phủ
Đối tượng xuất khẩu
Bao gồm tất cả hàng hóa mà có lợi thế, có khả năng cạnh tranh trên thị trường nước ngoài, mang lại lợi ích cho chủ thể xuất khẩu, gồm cả hàng hoá hữu hình và vô hình.
Thị trường xuất khẩu
Là thị trường nước ngoài có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm mà nước đó xuất khẩu
1.2. Vai trò của xuất khẩu
1.2..1. Xuất khẩu giúp cho đất nước có nguồn vốn để phát triển
Đối với những nước chưa phát triển, công nghệ còn lạc hậu thì một trong những nội dung quan trọng là phát triển đất nước đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo đói. Để thực hiện được điều này thì chúng ta cần có ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, công nghệ và nguyên vật liệu nhằm phát triển kinh tế.
Nguồn vốn để nhập khẩu có rất nhiều, có thể là nguồn vay nợ nước ngoài, nhận viện trợ từ các nước phát triển, vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI… Tuy nhiên những nguồn vốn này bị thụ động, phụ thuộc vào nước ngoài. Vốn ODA thường có lãi suất thấp nhưng gắn liền vào đó là các ràng buộc vế chính trị với nước cung cấp ODA, nguồn vốn vay nợ nước ngoài thường ít không thể vay nhiều một khi việc sử dụng vốn của chính phủ chưa thực sự hiệu quả. Chính vì thế nguồn vốn quan trọng nhất không thể không kể đến là nguồn vốn do xuất khẩu. Một khi kim ngạch nhập khẩu cao cũng đồng nghĩa với việc sẽ thu được nguồn ngoại tệ lớn để nhập khẩu hàng hoá.
1.2.2. Xuất khẩu giúp thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất trong nước
Cùng với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Vì thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế là điều tất yếu đối với đất nước đang trong công cuộc công nhiệp hoá hiện đại hoá hiện nay. Và để làm được điều này thì xuất khẩu đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Cụ thể:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành sản xuất khác đi kèm phát triển. Chẳng hạn khi xuất khẩu gạo đòi hỏi phải có cơ sở chế biến lúa gạo sau thu hoạch từ đó kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo máy móc.
- Xuất khẩu gạo cũng tạo điều kiện để phát triển những ngành công nghiệp phụ trợ. Chẳng hạn muốn sản xuất và xuất khẩu gạo thì cần phải có phân bón, thuốc trừ sâu…Tạo điều kiện để phát triển ngành hoá học.
- Xuất khẩu cũng tạo tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước thông qua việc tiếp thu công nghệ, máy móc, kỹ thuật tiên tiến từ nước ngoài.
- Khi tham gia vào xuất khẩu các doanh nghiệp bị cạnh tranh gay gắt hơn do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí hạ giá thành …Bằng cách áp dụng công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực sản xuất.
1.2.3. Xuất khẩu giúp giải quyết công ăn việc làm, nâng cao chất lượng đời sống cho nhân dân
Khi xuất khẩu phát triển thì lượng hàng hóa bán được sẽ tăng lên từ đó sẽ thúc đẩy sản xuất mở rộng quy mô số lượng việc làm sẽ nhiều hơn trước. Đồng thời thu nhập của người lao động cũng tăn lên. Khi tỷ lệ thất nghiệp giảm thu nhập bình quân của người lao động tăng lên thì tệ nạn xã hội cũng giảm rõ rệt và mặt bằng dân trí được nâng lên.
1.2.4. Xuất khẩu để mở rộng và tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại từ đó nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế
Các quốc gia trong quá trình xuất khẩu hàng hoá ra thị trường thế giới không chỉ xây dựng được uy tín của mình mà còn góp phần quảng bá hình ảnh đất nước. Ảnh hưởng của quốc gia trên trường quốc tế cũng nhờ đó mà nâng lên, tiếng nói của quốc gia trong việc bàn bạc các vấn đề chung cũng từ đó mà có trọng lượng. Đồng thời quan hệ kinh tế chính trị với bên ngoài cũng được mở rộng.
Hiện nay Việt Nam có quan hệ buôn bán với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng qua các năm. Nhiều mặt hàng có khối lượng và kim ngạch xuất khẩu lớn như: gạo ( đứng thứ 2 thế giới ), hồ tiêu cà phê ( thứ 3 thế giới ), thuỷ sản, dầu thô, dệt may…
1.3. Hình thức xuất khẩu
1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một quốc gia cho quốc gia nước ngoài.
Ưu điểm: Hình thức xuất khẩu này giúp giảm chi phí trung gian, tiếp cận một cách trực tiếp với thị trường, năm bắt và đáp ứng kịp thời các nhu cầu của thị trường. Do vậy có sự phán ứng linh hoạt trước những biến động của thị trường.
Hạn chế: Hình thức này gặp phải nhiều rủi ro khi thị trường xuất khẩu biến động. Doanh nghiệp xuất khẩu sẽ không bán được hàng hoặc khi giá cả trong nước có sự biến động bất ngờ doanh nghiệp xuất khẩu phải chịu thiệt hại rất lớn.
Hình thức xuất khẩu này chủ yếu là thông qua việc mở các văn phòng đại diện để bán sản phẩm, giới thiệu sản phẩm hoặc là đầu tư trực tiếp sang nước đó để tận dụng các lợi thế đặc biệt của nước đó nhằm giảm chi phí nâng cao lợi nhuận. Do vậy hình thức này mang lại nhiều lợi nhuận nhất nhưng cũng chứa đựng yếu tố rủi ro cao nhất.
1.3.2. Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hoá dịch vụ của công ty ra thị trường nước ngoài thông qua trung gian ( người thư 3 ). Hay nói cách khác xuất khẩu gián tiếp là cách thức mà nhà sản xuất tiến hành xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt ngay tại quốc gia tiếp nhận xuất khẩu.
Ưu điểm: Hình thức này giúp nhà xuất khẩu phân chia bớt rủi ro cho bên trung gian. Do vậy lợi nhuận họ thu được sẽ đảm bảo hơn.
Hạn chế: Nhà xuất khẩu phải chia bớt một phần lợi nhuận cho trung gian nên lợi nhuận của họ sẽ giảm. Hơn nữa nhà sản xuất sẽ nhận biết thông tin thị trường. Thông tin từ người tiêu dùng sẽ đến chậm và điều này có thể gây thiệt hại rất lớn. Nhà xuất khẩu sẽ không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
1.3.3. Hình thức gia công quốc tế
Gia công quốc tế là hoạt động bên đặt gia công giao hoặc bán toàn bộ nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công. Sau một thời gian thoả thuận bên nhận gia công sẽ nộp hoặc bán lại cho bên đặt gia công. Bên đặt gia công phải trả cho bên gia công một khoản phí gọi là phí gia công. Đây là hình thức xuất khẩu phổ biến ở Việt Nam.
Ưu điểm: Bên nhận gia công không phải lo đầu vào và đầu ra cho sản phẩm. Tạo thêm công ăn việc làm, tận dụng được số lao động dư thừa. Tiếp thu, học hỏi được công nghệ, cách thức quản lý của các nước phát triển.
Hạn chế: Bên nhận gia công nhận gia công theo đơn đặt hàng vì vậy sẽ không chủ động trong quá trình sản xuất và sẽ không nắm bắt được thông tin thị trường. Lợi nhuận thu được không cao.
1.3.4. Hình thức tái xuất khẩu
Tái xuất khẩu là xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng hoá trước đây đã nhập khẩu nhưng không gia công chế biến gì thêm. Hình thức xuất khẩu nhằm hưởng lợi nhuận chênh lệch giữa giá nhập khẩu với giá xuất khẩu lại.
Ưu điểm: Hình thức xuất khẩu này yêu cầu vốn không lớn do không phải đầu tư vào sản xuất. Chính vì thế mà nhà xuất khẩu có thể thay đổi mặt hàng xuất khẩu một cách linh hoạt theo nhu cầu thị trường.
Nhược điểm: Chi phí vận chuyển của hình thức xuất khẩu này khá lớn. Rủi ro của hoạt động xuất khẩu này cũng tương đối cao khi mua đi bán lại. Chẳng hạn khi mua với giá cao nhưng khi bán lại gặp phải sự biến động của thị trường làm giá giảm xuống.
1.3.5. Hình thức chuyển khẩu
Chuyển khẩu là hàng hoá được chuyển từ một nước sang một nước thứ ba thông qua một nước khác.
Ưu điểm: Hình thức xuất khẩu này gặp ít rủi rovì nhà xuất khẩu chỉ phải chuyển hàng hoá sang nước thứ hai. Nước thứ haichỉ như một người trung gian.
Hạn chế: Lợi nhuận của nhà xuất khẩu thu được thấp do thực hiện các dịch vụ như vận tải, quá cảnh, lưu kho, lưu bãi.
1.3.6. Xuất khẩu tại chỗ
Xuất khẩu tại chỗ là hành vi bán hàng hoá cho người nước ngoài trên lãnh địa của nước mình.
Ưu điểm: Hình thức này gặp ít rủi ro về pháp luật, chính trị, vận chuyển so với các hình thức xuất khẩu khác. Vì chúng ta bán hàng hoá ngay trên lãnh địa của nước mình. Do vậy mội trường kinh doanh rất thân thuộc. Hình thức này còn tiết kiệm được chi phí vận chuyển, đóng gói nên lợi nhuận có thể lớn.
Hạn chế: Số lượng bán được không cao.
Mỗi một hình thức xuất khẩu lại có những ưu và nhược điểm riêng. Do vậy tuỳ vào loại hàng hóa, khả năng của nhà xuất khẩu mà lựa chọn loại hình thức xuất khẩu cho phù hợp để mang lại lợi nhuận cao nhất.
1.4. Nội dung của hoạt động xuất khẩu
Một doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu cần tiến hành các bước sau:
Bước 1: Tiến hành nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Mỗi một quốc gia có một môi trường khác nhau do vậy trước khi quyết định xuất khẩu một mặt hàng gì nhà xuất khẩu cần tiến hành nghiên cứu tìm hiểu thị trường về các mặt: Tìm hiểu thông tin về người tiêu dùng, thị hiếu của họ, tập tục thói quen tiêu dùng của khách hàng, môi trường luật pháp …Tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh để lựa chọn thị trường xuất khẩu cho phù hợp
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập và xử lý thông tin nhằm giúp người xuất khẩu ra các quyết định đúng đắn và có lợi nhất. Đồng thời hoạch định chính sách quảng cáo, marketing cho phù hợp.
Trong quá trình thu thậpvà xử lý thông tin nhà xuất khẩu cần đạt được những kết quả sau:
- Phải nắm vững thị trường nước ngoài như: dung lượng thị trường, tập quán và thị hiếu tiêu dùng, các kênh tiêu thụ, sự biến động về giá cả, hệ thống pháp luật…
- Nhận biết được vị trí của hàng xuất khẩu trên thị trường nước ngoài cũng như nhu cầu của khách hàng về loại hàng hoá đó.
- Lựa chọn thị trường xuất khấu: Sau khi tìm hiểu thông tin về môi trường kinh doanh ở nước ngoài thì đưa ra quyết định thị trường xuất khẩu
Có rất nhiều phương pháp nghiên cứu và tiếp cận thị trường như: đài, báo, internet, các cơ quan xúc tiến thương mại, hội chợ, triển lãm, quan sát thực tê…
Kết quả cuối cùng của bước này là đưa ra quyết định về mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu.
Bước 2: Lập phương án kinh doanh
Sau khi lựa chọn được mặt hàng và thị trường xuất khẩu nhà xuất khẩu cần lập ra kế hoạch kinh doanh, những khó khăn, thách thức khi xuất khẩu mặt hàng đó và đưa ra phương án giải quyết sơ bộ.
Bước 3: Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu
Sau khi lựa chọn được đối tác thì nhà xuất khẩu phải giao dịch đàm phán với đối tác về: thời gian xuất khẩu, mặt hàng xuất khẩu, hình thứcvận chuyển, phương thức thanh toán để đi đến ký kết hợp đồng.
Tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà nhà xuất khẩu có thể lựa chọn một trong các hình thức đàm phán sau đây để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất cho doanh nghiệp mình.
- Đàm phán qua thư tín
- Đàm phán qua điện thoại
- Đàm phán trực tiếp
Thông thường với những đối tác mà đã có quan hệ làm ăn lâu dài, tin cậy lẫn nhau hợp đồng có giá trị không lớn thì có thể đàm phán qua thư tín. Vơí những hợp đồng có giá trị lớn thì nên đàm phán trực tiếp.
Bước 4: Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Hai bên tiến hành các thủ tục để tiến hành xuất khẩu. Tuỳ theo điều kiện của hợp đồng mà bên xuất khẩu có thể phải làm các thủ tục như: Chuẩn bị nguồn hàng, kiểm tra chất lượng hàng hoá, xin giấy phép xuất khẩu, thuê tàu vận chuyển, mua bảo hiểm, làm các thủ tục nhập khẩu, giao hàng, làm các thủ tục thanh toán.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có xảy ra tranh chấp thì các bên sẽ tiến hành khiếu nại theo điều khoản đã ký trong hợp đồng.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố chủ yếu sau:
1.5.1. Yếu tố kinh tế
Đây là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu. Muốn xuất khẩu được hàng hoá thì cần phải có người tiêu dùng hay sức mua mà sức mua lại chịu ảnh hưởng bởi các thông số kinh tế như: thu nhập, chi phí sinh hoạt va kết cấu tiết kiệm của một quốc gia. Một yếu tố cơ bản phản ánh kích thước của thị trường tiềm năng đó là dân số. Điều quan trọng nhất là so sánh tốc độ tăng dân số với tốc độ tăng trưởng GDP để xem xét, dự đoán khả năng mở rộng thị trường của quốc gia đó
Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của một quốc gia mà hoạt động xuất nhập khẩu phát triển mạnh hay không. Những quốc gia mà nền kinh tế chỉ đáp ứng đủ nhu cầu của người dân để tồn tại thì cơ hội cho hoạt động xuất khẩu của các công ty sẽ ít. Còn những quốc gia thường xuất khẩu nguyên liệu thô có nền kinh tế đang công nghiệp hoá sẽ tạo điều kiện, triển vọng mở ra nhiều thời cơ cho các công ty kinh doanh xuất khẩu. Do đó những nhà xuất khẩu nào có thể dự đoán được tình hình thị trường quốc tế sẽ giúp họ giảm được những chi phí không đáng có và vượt ra được những biến động kinh tế.
Một quốc gia có có nền sản xuất phát triển, sử dụng công nghệ hiện đại sẽ tạo ra những mặt hàng có chất lượng tốt, giá thành thấp có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
1.5.2. Môi trường văn hoá xã hội
Môi trường văn hoá xã hội là yếu tố quan trọng khi xuất khẩu hàng hoá vào bất cứ thị trường nào bởi ở mỗi nước thị hiếu, thói quen tiêu dùng, phong tục tập quán, sở thích… đều khác khau đòi hỏi đặc tính sản phẩm, cách thức quảng cáo, marketing, phương thức thâm nhập thị trường phải phù hợp.
1.5.3. Môi trường chính trị
Môi trường này có ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn mặt hàng và thị trường xuất khẩu. Nếu nhà xuất khẩu xuất khẩu hàng hoá sang một nước có môi trường chính trị ổn định thì sẽ thuận lợi hơn rất nhiều khi xuất khẩu sang thị trường mà chính trị đầy biến động. Khi chính trị biến động thì doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường đó sẽ gặp rất nhiều những rủi ro về vận chuyển, thanh toán…
1.5.4. Môi trường pháp luật
Các nhà xuất khẩu thường lựa chọn những thị trường xuất khẩu mà có hệ thống pháp luật ổn định rõ ràng minh bạch. Môi trường pháp luật ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu bao gồm luật và các qui định về các lĩnh vực như:
Luật thuế
Luật thương mại
Luật chống bán phá giá
Luật doanh nghiệp
Quyền sở hữu tài sản
Luật chống độc quyền
Luật sở hữu trí tuệ
1.5.5. Chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước
Nhà nước đưa ra các định hướng và công cụ quản lý xuất khẩu nhằm khuyến khích hoặc hạn chế xuất khẩu. Nhà xuất khẩu cần phải nghiên cứu yếu tố này vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà xuất khẩu. Nhà xuất khẩu cần biết mặt hàng nào được ưu tiên mặt hàng nào không được ưu tiên, những mặt hàng nào nằm trong định hướng xuất khẩu sẽ được chính phủ tạo điều kiện thuận lợi hơn hay những mặt hàng nào mà chính phủ đang coi là thị trường cần phát triển cần mở rộng thì sẽ có những ưu đãi đặc biệt thông qua các công cụ quản lý xuất khẩu của nhà nước. Những công cụ quản lý xuất nhập khẩu mà các nước thường sử dụng là:
Thuế quan
Thuế quan là loại thuế đánh vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu hoặc quá cảnh
Thuế quan nhập khẩu là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá nhập khẩu, theo đó người mua trong nước phải trả cho hàng hoá nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người xuất khẩu ngoại quốc nhận được. Khi một quốc gia muốn hạn chế nhập khẩu thì mức thuế quan nhập khẩu sẽ cao và hàng hoá nhập khẩu sẽ có khả năng cạnh tranh kém hơn vì giá thành cao.
Thuế quan xuất khẩu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu. Khi một quốc gia muốn hạn chế xuất khẩu một mặt hàng nào đó thì sẽ đánh thuế xuất khẩu cao đối với mặt hàng đó làm cho hàng hóa đó kém khả năng cạnh tranh hơn.
Hạn ngạch
Hạn ngạch hay hạn chế số lượng là quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một hàng hoá hay một nhóm hàng hoá được phép xuất hoặc nhập từ một thị trường trong một khoảng thời gian nhất định, thông qua hình thức cấp giấy phép
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một biện pháp hạn chế xuất khẩu, mà theo đó, một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt số lượng hàng xuất khẩu sang nước mình một cách tự nguyện nếu không họ sẽ áp dụng các biện pháp trả đũa kiên quyết.
Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật
Đây là những quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, đo lường, an toàn lao động, bao bì đóng gói, đặc biệt là các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm, vệ sinh phòng dịch đối với động và thực vật tươi sống, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sinh thái đối với máy móc, thiết bị và dây chuyền công nghệ ( không có chất phế thải độc hại, tiếng ồn không quá mức cho phép …)
Trợ cấp xuất khẩu
Bên cạnh các công cụ nhằm hạn chế xuất khẩu còn có những công cụ dùng để nâng đỡ hoạt động xuất khẩu. Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp đối với các nhà xuất khẩu trong nước. Bên cạnh đó chính phủ còn có thể thực hiện một khoản cho vay ưu đãi đối với các bạn hàng nước ngoài để họ có điều kiện mua các sản phẩm do nước mình sản xuất ra, và để xuất khẩu sang bên ngoài.
1.6. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu
- Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu: Là đại lượng so sánh giữa khoản thu ngoại tệ do xuất khẩu mang lại với số chi phí bản tệ phải bỏ ra để có được số ngoại tệ đó.
Hxk =
Trong đó:
Hxk: Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu
DTxk: Khoản thu ngoại tệ do xuất khẩu
Cxk: Chi phí bản tệ bỏ ra
- Lợi nhuận: Là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện kết quả kinh doanh
P = DT- CP
Trong đó:
P : Lợi nhuận
DT: Doanh thu
CP: Chi phí
- Hệ số sinh lời của vốn: Tổng số tiền lợi nhuận được phản ánh trên các báo cáo thu nhập cho ta kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
Hkd = =
- Thời gian hoàn vốn: Là chỉ số kết quả kinh tế đơn giản và được sử dụng tương đối phổ biến trong đánh giá các hoạt động kinh doanh
Tp =
Trong đó:
Tp: Thời gian hoàn vốn
C : Chi phí bỏ ra
DT: doanh thu
- Điểm hoà vốn: Là điểm tại đó mức doanh thu đủ để trang trải mọi phí tổn hay nói cách khác điểm hoà vốn là điểm mà tại đó với một mức sản phẩm hoặc dịch vụ bán ra với một đơn giá cố định thì tổng doanh số thu được cân bằng với tổng chi phí. Tại đó doanh nghiệp chưa có lãi mà cũng không bị lỗ.
1.7.Thực trạng xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam
1.7.1. Đặc điểm của thị trường xuất khẩu gạo
- Tính thời vụ trong sản xuất và buôn bán : Do sản xuất lúa gạo có tính thời vụ vì vậy xuất khẩu lúa gạo cũng mang tính thời vụ. Xuất khẩu gạo là một quá trình từ sản xuất, chế biến, thu mua, dự trữ … phụ thuộc vào các mùa vụ nên việc xuất khẩu cũng phần lớn bị ảnh hưởng và theo thời vụ. Để khắc phục tình trạng này các doanh nghiệp chủ động thu mua tạm trữ để chuẩn bị cho xuất khẩu.
- Gạo là lương thực chủ yếu ở các nước đang phát triển và phần lớn được tiêu thụ tại chỗ do đó tỷ lệ gạo xuất khẩu thường chiếm một tỷ lệ nhỏ khoảng 5% sản lượng gạo được sản xuất hàng năm. Các nước đang phát triển chủ yếu là các nước Châu Á và Châu Phi sản xuất và tiêu thụ lúa gạo nhiều nhất chiếm khoảng 85% lượng gạo thế giới.
- Hoạt động xuất nhập khẩu gạo chủ yếu được thực hiện thường được thực hiện giữa các Chính phủ các nước vì gạo là mặt hàng mang tính chiến lược của các quốc gia thiếu hụt về lương thực. Lương thực luôn là mặt hàng mang tính chiến lược của các quốc gia mà việc sản xuất lương thực không đảm bảo tiêu thụ trong nước. Bởi vậy việc kinh doanh lương thực trên thế giới chủ yếu là giữa các Chính phủ với nhau thông qua các hiệp định hoặc các hợp đồng có tính nguyên tắc dài hạn và được định lượng cụ thể.
- Số lượng gạo tham gia xuất khẩu trên thế giới là không ổn định, phụ thuộc nhiều vào các điều kiện thời tiết.
- Mặt hàng tiêu thu gạo ở các quốc gia khác nhau phụ thuộc vào thị hiếu người tiêu dùng. Ở những quốc gia phát triển có thu nhập cao thì thường tiêu thụ lượng gạo tính bình quân đầu người thấp và có xu hướng sử dụng gạo có chất lượng cao. Trong khi các nước chậm phát triển thì có xu hướng sử dụng lượng gạo trên đầu người càng lớn và chất lượng không cao.
Chủng loại gạo rất phong phú nhưng nói chung trên thị trường hiện nay có các loại gao sau:
+ Gạo 5% tấm
+ Gạo 10% tấm
+ Gạo thơm
+ Gạo nếp
+ Gạo đồ
+ Gạo ngon hạt dài
1.7.2. Các hình thức xuất khẩu gạo chủ yếu mà Việt Nam sử dụng
Kinh doanh xuất nhập khẩu gạo trong điều kiện nền kinh tế đang tiến tới kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều biến động đòi hỏi phải áp dụng những hình thức khác nhau nhằm mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh, hạn chế rủi ro và thu được lợi nhuận cao nhất. Hiện nay xuất khẩu gạo của Việt Nam chủ yếu dưới các hình thức sau:
1.7.2.1. Xuất khẩu gạo trực tiếp
Xuất khẩu gạo trực tiếp là việc xuất khẩu gạo do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc do đặt mua từ các hộ nông dân,các cơ sở chế biến, các đơn vị kinh doanh khác ở trong nước, sau đó chế biến và đóng bao … và trực tiếp ký kết hợp đồng, thực hiện xuất bán ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng hóa của doanh nghiệp mình.
1.7.2.2. Xuất khẩu gạo uỷ thác
Hình thức xuất khẩu gạo uỷ thác, doanh nghiệp ngoại thương đóng vai trò quan trọng là trung gian xuất khẩu làm thay các doanh nghiệp chế biến những thủ tục xuất khẩu cần thiết, như thủ tục xuất khẩu, ký kết hợp đồng xuất khẩu… và được hưởng phần trăm theo giá trị lô hàng xuất khẩu theo sự thoả thuận của hai bên. Hình thức xuất khẩu gạo uỷ thác còn được thể hiện một doanh nghiệp ký kết được hợp đồng xuất khẩu nhưng vì lý do nào đó cần phải uỷ thác cho doanh nghiệp khác trực tiếp xuất khẩu và chỉ được hưởng phí uỷ thác theo khối lượng hàng xuất.
1.7.2.3. Xuất khẩu gạo theo nghị định thư giữa hai Chính phủ
Xuất khẩu gạo theo nghị định thư giữa hai Chính phủ là hình thức xuất khẩu gạo được ký kết theo hiệp định thư giữa hai Chính phủ với mục đích trả nợ, ủng hộ theo quan hệ hữu hảo giữa các quốc gia…
Xuất khẩu gạo theo hình thức này có nhiều ưu đãi như khả năng thanh toán chắc chắn ( Do Chính phủ trả cho Doanh nghiệp bằng tiền của ngân sách ) vì thường được Chính phủ đứng ra bảo lãnh. Giá gạo được tính trên cơ sở hợp lý đảm bảo cho các Doanh nghiệp có lợi nhuận.
1.7.3.Thực trạng sản xuất và xuất khẩu gạo
1.7.3.1.Thực trạng sản xuất
Lúa luôn giữ vị trí trung tâm trong nghiệp và kinh tế nông thôn. Việt Nam có hai vùng sản xuất lúa lớn là Đông bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là hai châu thổ có mật độ dân cư và trình độ thâm canh sản xuất nông nghiệp thuộc loại cao nhất nước.
Về diện tích: Diện tích tự nhiên của cả nước là 329.314,04 km2 , với khoảng 20-25% đất đai được sử dụng vào mục đích sản xuất nông ngiệp, trong đó có trên một nửa được dùng cho sản xuất lúa. Tổng diện tích đất gieo trồng năm 2006 là 7324,4 nghìn ha, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long chiếm tỷ lệ cao nhất là 51,3% tiếp đó là đồng bằng sông Hồng 19,6%. Mặc dù hai vùng này chỉ chiếm khoảng 15% tổng diện tích tự nhiên nhưng đã sản xuất ra trên 2/3 sản lượng gạo của cả nước.
Về giống lúa: Việt Nam có khá nhiều giống lúa khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện của từng vùng sinh thái và từng mùa vụ. Các tỉnh phía Bắc sử dụng nhiều giống lúa nhập từ Trung Quốc và lúa lai. Trong khi miền Nam lại trồng nhiều giống lúa IR có nguồn gốc từ viện lúa Viện lúa Quốc tế. Theo điều tra của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 2000, cả nước mỗi vụ gieo trồng trên 200 giống lúa khác nhau.
Về năng suất: Năng suất lúa của Việt Nam có mức tăng nhanh qua các năm và đạt ở mức khá cao nhờ có giống tốt và hệ thống thuỷ lợi được cải thiện. Năm 2005 năng suất lúa bình quân cả nước đã đạt mức 4,9/tấn/ha/vụ. Năng suất vụ đông xuân năm 2007 đạt khoảng 54 - 55 tạ/ha. Tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, bình quân năng suất lúa thu hoạch năm 2008 ước tính lên tới 6,5 tấn/ha, đặc biệt một số địa phương như huyện Gò Công Đông của tỉnh Tiền Giang có năng suất lúa bình quân cao hơn 7 tấn/ha.
Về chế biến: Chế biến lúa được phân thành hai loại là chế biến tiêu dùng nội địa và chế biến xuất khẩu. Trong đó chế biến tiêu dùng nội địa được thực hiện trên phạm vi cả nước với các trình độ công nghệ khác nhau từ xay xát thủ công đến xay xát bằng máy với quy mô nhỏ là chủ yếu. Có tới 80% tổng sản lượng lúa của Việt Nam được xay xát bằng máy móc nhỏ của tư nhân. Còn chế biến xuất khẩu được thực hiện ở các vùng sản xuất lúa xuất khẩu. Sản phẩm xuất khẩu của lúa chủ yếu là gạo, các sản phẩm từ gạo cũng có nhưng số lượng không đáng kể. Hệ thống chế biến gạo xuất khẩu tuy được cải thiện nâng cấp nhưng mức độ hoạt động thấp, chất lượng chế biến chưa cao. Tỷ lệ gạo sau chế biến chỉ đạt 60-65% trong đó tỷ lệ gạo nguyên hạt chỉ chiếm 42-48%
1.7.3.2. Thực trạng xuất khẩu gạo
Về giá thành
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trong những tháng đầu năm 2008 đã tăng ở mức kỷ lục từ trước đến nay. Những ngày qua ở nhiều tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đã xảy ra tình trạng tranh mua lúa giữa các thương lái khiến cho giá lúa được đẩy lên liên tục, nhiều nơi thương lái sẵn sàng mua lúa non với giá cao, trả tiền trước lấy lúa sau. Giá lúa các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long tăng và vào đầu tháng 3 năm 2008 giá lúa ở mức cao 4.200 – 4.300 đ/kg tùy địa phương và tùy độ ẩm. Giá gạo nguyên liệu gạo lứt để làm ra gạo 5% tấm khoảng 5.700 đ/kg, gạo thành phẩm 5% tấm khoảng 6.660 đ/kg, gạo 10% tấm 6.600 đ/kg, gạo 15% tấm 6.540 đ/kg, gạo 25% tấm 6.360 đ/kg.
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng dần cùng với xu hướng tăng của chất lượng gạo và quan hệ cung cầu của thị trường lúa gạo thế giới. Đặc biệt vài năm trở lại đây giá gạo Việt Nam tăng liên tục. Năm 2006 mặc dù lượng gạo giảm nhưng giá gạo xuất khẩu trung bình lên đến 278USD/1 tấn tăng 12 USD so với năm 2005 và tăng tới 56% so với năm 2003. Bên cạnh đó, gạo Việt Nam còn vượt gạo Thái Lan về mức độ tăng giá. Nếu so với cùng kỳ năm trước, giá gạo Thái Lan tăng 71%-73% thì giá gạo Việt Nam tăng 77%-82% . Theo thông tin từ các doanh nghiệp xuất khẩu gạo giá gạo xuất khẩu vào cuối tháng 2 năm 2008 như sau:
+ Gạo 5% tấm : 460-465 USD /tấn, FOB giá physical
+Gạo 25% tấm : 418 USD /tấn, FOB giá physical
Tuy giá gạo xuất gạo những ngày gần đây đã tăng rất cao khoảng 60USD/ tấn nhưng so với giá gạo thế giới thì giá gạo của chúng ta vẫn ở mức thấp.
Tại Thái Lan giá gạo được bán như sau:
+ Gạo trắng 100% loại B: 480-490 USD /tấn, FOB giá physical
+ Gạo trắng 5% tấm :470-480 USD /tấn, FOB giá physical
+ Gạo đồ PB 100% :480-510 USD /tấn, FOB giá physical
Tại Ấn Độ:
+ Gạo Bassmaati : 850 USD /tấn, FOB giá physical
Để ổn định giá gạo xuất khẩu Thái Lan đang có dự định muốn hợp tác với chúng ta. Theo thông tấn xã Việt Nam vụ ngoại thương Thái Lan dự kiến tổ chức cuộc gặp giữa Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan và Hiệp hội thực phẩm Việt Nam tại Bangcốc nhằm đi tới những thảo thuận cụ thể để thống nhất giá gạo xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Mục đích của các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan đặt ra trong cuộc gặp này là hai bên đưa ra hạn ngạch xuất khẩu của mình để đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh và mang lại lợi ích cao nhất cho người nông dân ở mỗi nước trước nhu cầu tiêu dùng và giá cả ngày càng tăng trên thị trường thế giới. Nếu cuộc gặp này đạt được những kết quả tốt đẹp, giá gạo xuất khẩu sẽ ổn định hơn sau khi đột ngột tăng. Ngoài ra giá gạo ổn định cũng sẽ góp phần tránh được việc bán phá giá và tiến tới sự hợp tác trong việc nâng tiêu chuẩn gạo thương mại, thu hẹp khoảng cách xuất khẩu gạo giữa hai nước.
Về xuất khẩu:
Nhờ đổi mới chính sách và thành tựu trong sản xuất mà lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không ngừng gia tăng. Trong 15 năm gần đây tốc độ tăng trưởng của sản xuất lúa gạo khá ổn định, tỷ lệ xuất khẩu trong tổng sản lượng gạo đã tăng từ 9,5% trong năm 1990 lên 26,7% trong năm 1999. Từ 3.730 nghìn tấn vào năm 1998 lên 4.500 nghìn tấn vào năm 2007 và đạt được mức kỷ lục là 4.993 nghìn tấn vào năm 2005.
Bảng 1: Xuất khẩu gạo ._.của Việt Nam qua các năm.
Năm
Sản lượng gạo (nghìn tấn)
Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
1998
3.730
1.024
1999
4.508
1.025
2000
3.374
610
2001
3.535
545
2002
3.242
608
2003
3.900
693
2004
4.062
859
2005
4.993
1.330
2006
4.701
1.310
2007
4.500
1.400
Nguồn:Vinanet
Biểu đồ1: Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam
Xuất khẩu gạo trong tháng 02/2008 đạt 226.595 tấn, trị giá 82,286 triệu USD. Lũy kế xuất khẩu gạo từ ngày 01/01/2008 đến ngày 29/02/2008 đạt 313.682 tấn, trị giá 113,349 triệu USD.Tính đến hết tháng 3/2008, các doanh nghiệp đã xuất khẩu khoảng 800.000 tấn gạo thu về khoảng 310 triệu USD, chỉ tăng 20% về lượng nhưng tăng tới 61% về giá trị. Dự tính năm 2008 khối lượng gạo xuất khẩu là 4,5 triệu tấn, kim ngạch 1,7 tỷ USD.
Về thị trường:
Việt Nam xuất khẩu gạo trung bình khoảng 3.8 triệu tấn, cung cấp gạo cho khoảng trên 120 quốc gia trên thế giới, thuộc tất cả các Châu lục khác nhau. Tuy nhiên gạo xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là sang các nước Châu Á( 47,53%) Châu Phi( 25,57%) Trung Đông( 11,35) Gần đây thị trường Châu Mỹ cũng đã được chú trọng và khai thông, hứa hẹn một thị trường đầy tiềm năng cho xuất khẩu nông sản. Dự kiến thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam năm nay là Philippin, Indonexia, Malaysia, Cuba sẽ chiếm khoảng 3 triệu tấn 1.5 triệu tấn còn lại sẽ xuất khẩu sang các thị trường khác.
Bảng 2 : Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam Đơn vị:%
Các Châu lục
Châu Á
Châu Phi
Trung Đông
Châu Mỹ
Châu Âu
Châu Úc
47,53
25,57
11,35
9,68
5,32
0,55
(Nguồn: Vinanet)
Biểu đồ 2: Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU TẠP PHẨM
2.1. Tổng quan về Công ty
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội, tên tiếng Anh là Viet Nam National Sundrries Import and Export Join Stock Company tên giao dịch là TOCONTAP, là công ty thuộc Bộ Thương Mại, được thành lập ngày 05/03/1956 với tên khai sinh là “ Tổng công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm”. Ngày 23/03/1993 Bộ Thương Mại ra quyết định số 284/TM-TCCB chính thức đổi tên Tổng công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm thành Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà Nội. Năm 2005 công ty thực hiện cổ phần hoá và chuyển thành “Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tạp phẩm”.
Hình thức sở hữu: Công ty cổ phần.
Lĩnh vực kinh doanh: Kinh doanh thương mại.
Ngành nghề kinh doanh: Xuất nhập khẩu.
Trong nửa thế kỷ xây dựng và phát triển của mình từ những đòi hỏi thực tế khách quan, mà cơ cấu tổ chức của công ty đã nhiều lần thay đổi. Năm 1964, Toàn bộ các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty được tách ra để thành lập Công ty Artexport. Năm 1977, bộ phận xuất nhập khẩu hàng dệt may tách thành Công ty Textinmex. Năm 1985, tách mặt hàng dụng cụ kim khí và cầm tay thành công ty Mecanimex.
Năm 1987, bộ phận da, giả da và giày dép được tách ra để thành lập Công ty xuất nhập khẩu da giày Leaprodemxim. Từ năm 1975, đất nước thống nhất, nhiều cán bộ cốt cán của công ty đã vào miền Nam để thành lập chi nhánh Tocontap Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1990, Chi nhánh Tocontap TP. Hồ Chí Minh đã tách hẳn ra thành công ty độc lập trực thuộc Bộ Thương mại và mang tên Tocontap Saigon.
Các kho tàng, bến bãi của công ty trong quá trình hoạt động cũng được chuyển giao cho công ty giao nhận kho vận ngoại thương. Ngày 23/3/1993 Bộ Thương mại đã ra Quyết định đổi tên Tổng công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm thành Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm. Đến năm 2005 Công ty tiến hành cổ phần hoá và có tên là Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tạp phẩm.
Trải qua hơn 50 năm xây dựng và phát triển, dù gặp nhiều biến động về tổ chức, kinh tế, xã hội, Tocontap đã liên tục phấn đấu từng bước trưởng thành, đến nay đã là một trong những Công ty có bề dầy lịch sử buôn bán quốc tế lâu năm nhất nước ta với các mốc lịch sử sau:
Thời kỳ 1956-1960: Đây là thời kỳ đất nước vừa thoát ra khỏi cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, nền kinh tế còn yếu kém, chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, nền công nghiệp đang trong giai đoạn xây dựng, kinh doanh xuất nhập khẩu còn nhiều bỡ ngỡ nên kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty chưa cao. Kim ngạch bình quân mỗi năm đạt 28.7 triệu Rup/USD, trong đó xuất khẩu là 10.7 triệu Rup/USD, nhập khẩu là 18 triệu Rup/USD. Kim ngạch xuất khẩu của Tổng Công ty thời kỳ này chiếm 20.8% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn miền Bắc.
Thời kỳ 1961-1965: Kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân mỗi năm đạt 57.9 triệu Rup, trong đó xuất khẩu là 29.5 triệu Rụp, nhập khẩu là 28.4 triệu Rup. Kim ngạch xuất khẩu bình quân chiếm 28.8% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn miền Bắc.
Thời kỳ 1966-1975: Thời kỳ giặc Mỹ đã bắt đầu đánh phá miền Bắc, hoạt động xuất nhập khẩu cũng chịu ảnh hưởng nặng nề nhưng Công ty đã quyết tâm giữ vững và đẩy mạnh kim ngạch xuất nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn này bình quân mỗi năm đạt 84.9 triệu Rup/USD, trong đó xuất khẩu là 16.5 triệu Rup/USD, nhập khẩu là 68.4 triệu Rup/USD. Kim ngạch xuất khẩu của Công ty bình quân chiếm 33.5% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn miền Bắc.
Thời kỳ 1976-1980: Thời kỳ đất nước vươn dậy sau chiến tranh, khắc phục hậu quả của bom đạm và từng bước đi lên. Năm 1976-1977: Kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân mỗi năm đạt 217.5 triệu Rup/USD. Trong đó xuất khẩu đạt 75.7 triệu Rup/USD và nhập khẩu là 141.3 triệu Rup/USD. Kim ngạch xuất khẩu của Công ty bình quân chiếm 27.8 % tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đây là thời điểm đỉnh cao về kim ngạch của TOCONTAP thì đến năm 1978 toàn bộ bộ phận dệt may tách thành Công ty TEXTIMEX. Những năm 1978-1980 kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân mỗi năm đạt 39.8 triệu Rup.
Thời kỳ 1981-1985: Kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân mỗi năm đạt 64.3 triệu Rup/USD. Trong đó xuất khẩu là 27 triệu Rup/USD, nhập khẩu là 37.3 triệu Rup/USD.
Thời kỳ 1986-1990: Kim ngạch ngạch xuất nhập khẩu bình quân mỗi năm đạt 69.1 triệu Rup/USD. Trong đó xuất khẩu là 33.1 triệu Rup/USD, nhập khẩu là 36 triệu Rup/USD.
Thời kỳ 1991-1995: Bắt đầu thời kỳ đổi mới, nền kinh tế chuyển hướng sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự chỉ đạo của Nhà nước Công ty tiếp tục chia tách và cùng với đó là những mặt hàng và những thị trường chủ yếu được bàn giao, hàng loạt cán bộ lãnh đạo có khả năng và kim ngạch ra đi để xây dựng lực lượng nòng cốt của Công ty mới. Đồng thời kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt với nhiều Công ty thuộc nhiều thành phần kinh tế được thành lập cùng kinh doanh trong cùng lĩnh vực, ngành nghề nên kim ngạch của Công ty bị thu hẹp lại. Kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân mỗi năm đạt 16.7 triệu USSD, trong đó xuất khẩu là 11.1 triệu USD, nhập khẩu là 5.6 triệu USD.
Thời kỳ 1996-2000: Công ty đã vượt qua giai đoạn bỡ ngỡ của kinh tế thị trường, Công ty đã cố gắng tim mọi biện pháp để mở rộng thị trường, mở rộng mặt hàng kinh doanh nên kết quả khả quan hơn hẳn 5 năm trước. Kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân mỗi năm đạt 21.72 triệu USD. Trong đó xuất khẩu là 4.56 triệu USD, nhập khẩu là 17.16 triệu USD.
Thời kỳ 2001- nay: Đây là thời kỳ có xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động của công ty trong cơ chế thị trường đã được hình thành, cơ chế khoán bắt đầu áp dụng từ năm 1998 đã phát huy tác dụng, tình trạng làm ăn theo cơ chế bao cấp đã dần chấm dứt, cán bộ Công ty tự giác làm việc, luôn lấy hiệu quả và chữ tín của Công ty làm mục tiêu cho hoạt động của mình. Trong giai đoạn này kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trưởng, bình quân mỗi năm đạt 32.3 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt 10.2 triệu USD, nhập khẩu đạt 22.1 triệu USD.
Trải qua hơn 50 năm hoạt động kinh doanh, TOCONTAP HANOI đã thiết lập quan hệ kinh tế và kinh doanh quốc tế với trên 70 nước và vùng lãnh thổ, là một trong những công ty có chiều dài lịch sử phong phú và kinh nghiệm dồi dào trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế ở Việt Nam
- Phạm vi kinh doanh hiện tại của Công ty là xuất nhập khẩu tổng hợp tất cả các hàng hoá không thuộc danh mục cấm của Nhà nước Việt Nam. Hiện nay Công ty giao dịch buôn bán những nhóm mặt hàng chính sau:
- Kinh doanh hàng nông sản, lâm sản, thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, tạp phẩm, công nghệ phẩm, sản phẩm dệt, may, da giầy (Trừ loại lâm sản Nhà nước cấm)
- Kinh doanh vật tư, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật liệu xây dựng, hoá chất (Trừ hoá chất Nhà nước cấm), kim khí điện máy, phương tiện vận tải.
- Kinh doanh khách sạn và dịch vụ khách sạn, đại lý bán buôn, bán lẻ hàng hoá (Không bao gồm kinh doanh quán bar, phòng hát Karaoke,vũ trường )
- Tổ chức gia công chế biến, hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước.
- Kinh doanh đồ uống, rượu bia, nước giải khát ( Không bao gồm kinh doanh quán bar)
- Kinh doanh máy móc, vật tư, trang thiết bị y tế, máy móc, thiết bị ngành in.
- Mua bán sắt thép phế liệu, phá dỡ tàu biển cũ làm phế liệu để tiêu thụ trong nước.
- Kinh doanh phân bón, máy móc, vật tư phục vụ nông nghiệp ( Không bao gồm thuốc bảo vệ thực vật)
- Kinh doanh các dụng cụ, thiết bị máy móc trong ngành dịch vụ.
- Kinh doanh các thiết bị phòng cháy, chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn.
- Kinh doanh gỗ ép định hình.
- Các lĩnh vực khác… khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của công ty
Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm là doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Thương Mại và do Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp giấy đăng ký kinh doanh. Công ty được thành lập theo quyết định số 333/TM/TCCB ngày 31/03/1993 của Bộ trưởng Bộ Thương Mại, giấy phép kinh doanh số 108094 ngày 24/04/1993.
Ngày 18/10/2005 Công ty đã chuyển sang cổ phần theo quyết định số 2537/QD-BTM của Bộ Thương Mại. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Công ty cổ phần số 0103012689 ngày 01/06/2006
Ngay từ khi thành lập, Bộ Thương Mại đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của Công ty là xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh, đáp ứng được yêu cầu phục vụ việc phát triển kinh tế và xuất nhập khẩu của đất nước. Mặt hàng kinh doanh là hàng nông sản, lâm sản, hải sản, thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, tạp phẩm, sản phẩm dệt may, giày da, kinh doanh vật tư máy móc thiết bị, hàng thủ công mỹ nghệ … Bên cạnh đó Công ty còn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tự tạo nguồn vốn, bảo toàn vốn, bảo toàn vộn, đảm bảo tự trang trải về tài chính, sản xuất kinh doanh có hiệu quả và đáp ứng được yêu cẩu phục vụ đất nước.
- Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường trong và ngoài nước để cải tiến và ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá, đáp ứng nhu cầu trong nước và ngoài nước.
- Tuân thủ các chính sách, chế độ và pháp luật của Nhà nước có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu.Thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán ngoại thương và các văn bản mà Công ty đã ký kết.
- Thực hiện các quy định của Nhà nước về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, an ninh quốc gia.
- Thực hiện chế độ báo cáo thống kê, kế toán, báo cáo định kỳ theo qui định của Nhà nước và chịu trách nhiệm về tính xác thực của báo cáo.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty
Tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
Phòng hành chính quản trị
Phòng tài chính kế toán
phòng kinh doanh XNK5
phòng kinh doanh XNK6
phòng kinh doanh XNK7
phòng kinh doanh XNK2
phòng kinh doanh XNK1
phòng kinh doanh XNK8
Các văn phòng đại diện ở nước ngoài
Công ty liên doanh TOCAN, Hà Nội
Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh
Chi nhánh Thành phố Hải Phòng
Phòng tổ chức lao động
Phòng tổng hợp
Các phòng thương mại
phòng kinh doanh XNK3
Các chi nhánh
Ban giám đốc
Tổng giám đốc là người điều hành cao nhất mọi hoạt động hàng ngày của Công ty. Tổng giám đốc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ được quy định trong điều lệ tổ chức và hoạt động Công ty và các Quyết định của Hội đồng quản trị. Dưới Tổng giám đốc là Phó Tổng giám đốc người giúp việc cho phó tổng giám đốc, thực hiện các nhiệm vụ và công việc do Tổng giám đốc giao đồng thời trực tiếp điều hành quản lý mọi hoạt động của Công ty khi Tổng giám đốc vắng mặt.Tổng giám đốc hoặc phó Tổng giám đốc phê duyệt các phương án kinh doanh của các bộ phận kinh doanh và chịu trách nhiệm về tính hợp lý, chính xác của các quyết định phê duyệt này. Các phương án kinh doanh và dự thảo hợp đồng phải được trình qua Phòng tổng hợp và phòng tài chính kế toán trước khi trình lên Tổng giám đốc hoặc phó Tổng giám đốc phê duyệt.
Phòng tổ chức lao động
- Tổ chức và quản lý lao động trong Công ty theo yêu cầu của Tổng giám đốc nhằm phục vụ mục tiêu sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Lập kế hoạch đào tào, tuyển dụng lao động, nghiên cứu đề xuất việc chuyển nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quản lý trong Công ty, đề xuất việc chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động trong Công ty theo cơ chế tuyển dụng đề bạt cán bộ, đề xuất của các phòng ban và yêu cầu của Tổng giám đốc.
- Tiếp nhận để giải quyết hoặc đề xuất giải quyết lên Tổng giám đốc các khiếu nại, tố tụng của người lao động, cán bộ quản lý về quyền lợi của họ trong Công ty.
- Giải quyết các vấn đề lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội cho người lao động trong Công ty trên cơ sở tuân thủ Bộ Luật lao động, thoả ước lao động tập thể và Hợp đồng lao động.
Phòng tổng hợp
- Tổng hợp các số liệu và các vấn đề về đối nội, đối ngoại, sản xuất kinh doanh, phân tích số liệu, chính sách, thông tin mới nhất ở trong và ngoài nước liên quan đến hoạt động của Công ty, cung cấp cho Tổng giám đốc và các phòng quản lý, kinh doanh để kịp thời điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Phiên dịch và biên dịch các tài liệu giúp Tổng giám đốc nắm chắc tình hình và các vấn đề mới phát sinh.
- Tìm kiếm và tìm hiểu các đối tác hợp tác kinh doanh cho Công ty.
- Xây dựng kế koạch kinh doanh của cả Công ty và kế hoạch giao cho từng bộ phận trong Công ty. Thống kê tình hình thực hiện kế hoạch của từng bộ phận kinh doanh, từng cá nhân để thực hiện trả lương theo quy chế khoán.
- Lập báo cáo định kỳ để thông báo cho từng phòng ban và báo cáo lên các cơ quan hữu quan.
- Theo dõi, đôn đốc các bộ phận kinh doanh, nộp thuế tại các cửa khẩu đúng hạn. Phối hợp cùng các chi nhánh tại các cửa khẩu để giải quyết các vướng mắc về nộp thuế. Thống kê các thiệt hại tại các bộ phận kinh doanh và của Công ty do một bộ phận kinh doanh khác trong Công ty gây ra.
- Kiểm tra các phương án kinh doanh và dự thảo hợp đồng do các bộ phận kinh doanh trình trước khi chuyển cho phòng tài chính kế toán kiểm tra tiếp theo. Phòng tổng hợp phải kiểm tra số liệu tính toán, kiểm tra các điều khoản của hợp đồng xem có phù hợp với quy định của Công ty, luật pháp của Việt Nam và thông lệ quốc tế hay không. Nếu có sai sót, không phù hợp thì yêu cầu bộ phận kinh doanh sửa đổi. Khi phương án được phê duyệt và hợp đồng được uỷ quyền ký thì phòng tổng hợp vào sổ theo dõi của Công ty. Thời gian kiểm tra phương án và hợp đồng của phòng tổng hợp là không quá 3 gìơ làm việc kể từ lúc nhận được từ các bộ phận kinh doanh, trừ trường hợp phương án hoặc hợp đồng cần phải chuyển lại bộ phận kinh doanh để sửa đổi. Phòng tổng hợp có trách nhiệm giữ bí mật thông tin về khách hàng và hàng hoá. Trường hợp phòng tổng hợp vi phạm thời gian kiểm tra phương án hoặc hợp đồng hoặc tiếp lộ thông tin về khách hàng, hàng hoá thì trưởng phòng và cán bộ có liên quan đến phải chịu trách nhiệm bồi thường mọi tổn thất do việc làm của mình gây ra.
Phòng tài chính kế toán
- Tham mưu cho giám đốc về việc lập kế hoạch và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tài chính của các phòng kinh doanh.
- Cập nhật và báo cáo cho Tổng giám đốc tình hình cân đối tài chính của Công ty.
- Hướng dẫn các bộ phận kinh doanh lập số sách, theo dõi hoạt động mua bán, thanh toán, hạch toán nội bộ theo quy định của Công ty, chế độ chính sách của Nhà nước.
- Kiểm tra các hoá đơn, các chứng từ sao cho hợp pháp, đúng nội dung công việc, đúng mục đích. Chỉ được chi tiền khi có sự đồng ý phê duyệt của Tổng giám đốc hoặc Phó tổng giám khi được Tổng giám đốc uỷ quyền.
- Thẩm định các phương án kinh doanh và dự thảo hợp đồng do phòng tổng hợp chuyển tới. Kiểm tra điều khoản thanh toán của hợp đồng có phù hợp không và thống kê tình hình nợ của khách hàng
- Lập sổ theo dõi, kiểm tra các phương án kinh doanh đã phê duyệt, đối chiếu số liệu chứng từ với các bộ phận kinh doanh để đảm bảo các bộ phận kinh doanh thu chi, hạch toán đúng, đủ theo phương án đã phê duyệt.
- Viết hoá đơn bán hàng hoặc dịch vụ theo đề nghị của bộ phận nghiệp vụ. Kiểm tra nội dung và số liệu trước khi viết hoá đơn.
- Xác định hiệu quả từng phương án của từng bộ phận kinh doanh làm cơ sở để trả lương cho từng cán bộ theo quy chế khoán.
- Giám sát việc vay sử dụng vốn vay và hoàn trả vốn vay của các bộ phận kinh doanh để tránh tình trạng ứ đọng vốn, thâm hụt vốn.
- Làm thủ tục bảo lãnh vay vốn ngân hàng hoặc các hình thức huy động vốn khác khi Công ty cần vay vốn kinh doanh.
- Lập báo cáo tài chính hàng năm và hàng quý theo quy định của Nhà nước và báo cáo nhanh khi cần thiết.
Tuân thủ các chế độ chính sách của Nhà nước và quy định của Công ty.
Phòng hành chính quản trị
Có chức năng điều hành toàn bộ hoạt động chung của Công ty các hoạt động công đoàn và đoàn thể, quản lý về văn thư, lưu trữ, điện thoại, Fax, telex, văn phòng phẩm, điều động các phương tiện, thiết bị đã mua sắm để phục vụ cho các hoạt động của Công ty một cách tiết kiệm, có hiệu quả. Đề xuất việc mua sắm phương tiện làm việc, các nhu cầu sinh hoạt của Công ty. Thực hiện công tác phòng cháy chữa cháy.
Phòng kinh doanh
Bao gồm các phòng xuất nhập khẩu được đánh số từ 1 đến 8 nhưng năm 2000 Công ty tổ chức sát nhập phòng số 5 vào phòng số 8 vì vậy hiện nay Công ty có 7 phòng xuất nhập khẩu và bộ phận kho vận trong lĩnh vực kinh doanh, các chi nhánh Hải Phòng và Thành Phố Hồ Chí Minh. Các phòng này trực tiếp thực hiện các hợp đồng kinh doanh của Công ty theo cơ chế khoán. Trưởng phòng là người đại diện cao nhất trong các phòng kinh doanh, được chủ động giao dịch với khách hàng trong và ngoài nước trong giới hạn ngành nghề kinh doanh.
- Phòng kinh doanh được phép sử dụng vốn của Công ty theo phương án kinh doanh đã duyệt và theo khế ước vay vốn ký với Công ty. Chịu trách nhiệm trước Công ty về việc bảo toàn vốn vay để sử dụng kinh doanh. Được huy động vốn nhàn rỗi của cá nhân, tập thể trong phòng để thực hiện các thương vụ kinh doanh của phòng mình.
- Phân công công việc cho cán bộ trong phòng một cách hợp lý, khoa học để phát huy hết tiềm năng nhân lực trong phòng phục vụ công tác kinh doanh. Được quyền đề nghị công ty bổ sung lao động khi cần thiết và chấm dứt hợp đồng lao động khi cán bộ trong phòng vi phạm kỷ luật lao động không tuân thủ theo sự phân công của trưởng phòng hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của phòng, Công ty.
- Chỉ đạo hoặc trực tiếp thực hiện các phương án và hợp đồng đã được phê duyệt. Trong quá trình thực hiện phương án phải thực hiện đúng quy trình thao tác nghiệp vụ chuyên môn để giảm chi phí, nâng cao hiệu quả, chủ động phát hiên kịp thời và ngăn ngừa các rủi ro có thể xảy ra.
- Được quyền tự quyết định giá cả mua bán, các khoản chi phí trong kinh doanh như chi phí vận tải, thuê kho, bốc dỡ hàng hoá, chi phí vận tải, quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi…trên cơ sở chứng từ tài chính thu chi hợp lệ. Nộp lãi cho Công ty trên cơ sở lấy thu bù chi.
- Được phép chủ động phân phối thu nhập của phòng cho từng lao động trong phòng trên cơ sở làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít và thu nhập của trưởng phòng phải cao hơn thu nhập của nhân viên.
2.1.4. Cơ cấu nguồn lao động
Từ khi thành lập cho đến nay, căn cứ vào tình hình nhiệm vụ đề ra cũng như thực tế sản xuất kinh doanh của Công ty mà số lượng nguồn lao động biến đổi không đáng kể. Điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Tổng lao động của Công ty
Năm
2005
2006
2007
Số lượng lao động
299
307
314
Nguồn: Báo cáo hàng năm của Công ty
Bảng trên cho thấy sự biến đổi về nguồn nhân lực của Công ty là không lớn lắm. Năm 2005 là 299 người đến năm 2006 là 307 người tăng thêm 8 người. Năm 2007 là 314 người tăng thêm 7 người so với năm 2006 tương ứng với 2,28%. Điều này cho thấy nguồn lao động của Công ty là tương đối ổn định.
Bảng 4 : Cơ cấu lao động theo giới tính
Chỉ tiêu
2006
2007
Số người
Tỷ lệ %
Số người
Tỷ lệ %
Tổng lao động
307
100
314
100
Lao động nam
197
64,3
199
63,5
Lao động nữ
110
35,7
115
36,5
Nguồn: Báo cáo hàng năm của Công ty
Nhìn vào bảng trên ta thấy đặc điểm nổi bật là số lao động nam chiếm tỷ lệ lớn hơn lao động nữ. Cụ thể là số lao động nam năm 2006 là 197 người chiếm 64,3% còn số lao động nữ chỉ có 110 người chiếm 35,7%. Sang năm 2007 số lao động nam là 199 người chiếm 63,5% còn số lao động nữ là 115 người chiếm 36,5%. Số lao động nam nhiều hơn số lao động nữ là do đặc điểm kinh doanh của Công ty thường hay phải đi công tác đỏi hỏi có sức khỏe .
Bảng 5 : Cơ cấu nguồn lao đông theo độ tuổi
Chỉ tiêu
2006
2007
Số người
Tỷ lệ %
Số người
Tỷ lệ %
Dưới 30
106
34,6
113
35,9
30-49
132
43,1
136
43,2
Trên 49
69
22,3
65
20,9
Nguồn: Báo cáo hàng năm của Công ty
Ở Công ty đang có xu hướng dần trẻ hoá lực lượng lao động, đây là một bước đi đúng đắn để Công ty có thể hoà nhập với sự phát triển của đất nước. Cụ thể năm 2006 số lao động ở độ tuổi dưới 30 là 106 người chiếm 34,6% đến năm 2007 là 113 người chiếm 35,9% tăng 1,3% so với năm trước.
Bên cạnh đó số lao động ở tuổi từ 30-49 ở năm 2006 là 132 người, năm 2007 là 136 người chiếm 43,2% . Đây là lực lượng lao động nòng cốt của Công ty họ không còn trẻ nhưng cũng chưa phải đã già ở độ tuổi này họ đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm và có sức khoẻ để phục vụ tốt cho công việc của mình.
Về trình độ học vấn: Công ty đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ quản lý cũng như đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm, năng động sáng tạo.
Bảng 6: Trình độ lao động của Công ty
Chỉ tiêu
2006
2007
Số lao động
Tỷ lệ %
Số lao động
Tỷ lệ %
Tổng số lao động
307
100
314
100
Đại học và trên đại học
89
29
99
31,5
Trình độ khác
10
3,2
9
2,9
Công nhân
208
67,8
206
65,6
Nguồn: Báo cáo hàng năm của Công ty
Nhìn bảng trên ta thấy số cán bộ được đào tạo được đào tạo sau đại học và đại học tăng lên từ 89 người năm 2006 lên 99 người năm 2007. Đây là những cán bộ có năng lực đảm nhiệm những vị trí quan trọng trong Công ty.
2.2.Thực trạng xuất khẩu gạo tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tạp phẩm
2.2.1.Đặc điểm về mặt hàng
Mặt hàng gạo của Công ty luôn được duy trì xuất khẩu hàng năm dù kim ngạch xuất khẩu so với các mặt hàng khác là không đáng kể, kim ngạch xuất khẩu ổn định và thường xuyên được duy trì, điều này là do Tocontap là thành viên của Hiệp hội lương thực Việt Nam. Hàng năm Hiệp hôi giao chỉ tiêu xuất khẩu cho Công ty nhưng công ty là Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm nên mặt hàng xuất khẩu của Công ty rất đa dạng và phong phú mặt hàng gạo không phải là mặt hàng xuất khẩu chủ lực nên kim ngạch không đáng kể.
Gạo là mặt hàng thực phẩm nên thời gian bảo quản không lâu, hơn nữa việc thu gom mặt hàng này vụ thuộc nhiều vào mùa vụ. Bản thân Tocontap chỉ khi ký được hợp đồng ngoại mới tiến hành thu gom hàng từ các lái buôn hoặc những công ty thu gom nhỏ nên chủ yếu xuất khẩu theo đơn đặt hàng của khách do đó không có sự chủ động trong việc cung cấp nguồn hàng.
Về giá cả xuất khẩu: Hiệp hội lương thực giao cho Tocontap số lượng gạo xuất khẩu kèm theo đó là giá cả cũng được ấn định do đó giá cả gạo xuất khẩu của Công ty thường không cao. Ngoài ra Công ty cũng tự tìm kiếm được một số bạn hàng với giá cả cao hơn nhưng số lượng không đáng kể.
2.2.2. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu gạo của Công ty
Giá cả gạo trong nước và quốc tế: Đây là yếu tố tác động rất nhiều đến hoạt động xuất khẩu gạo của Công ty. Nếu giá gạo trong nước cao hơn hoặc gần bằng giá gạo quốc tế thì chi phí thu mua gạo xuất khẩu sẽ cao hơn hoặc gần bằng doanh thu dẫn đến lợi nhuận xuất khẩu thấp. Khi giá gạo trong nước và quốc tế không ổn định cũng ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu gạo của Công ty. Những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008 giá gạo tăng liên tục dẫn đến việc thực hiện những hợp đồng xuất khẩu đã ký trước đây gặp nhiều khó khăn vì khi ký hợp đồng với giá thấp nhưng khi đi thu gom gạo để giao hàng thì giá đã tăng lên làm cho nhiều hợp đồng không có lãi hoặc lãi rất thấp.
Chất lượng gạo xuất khẩu: Những thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản thường yêu cầu chất lượng gạo cao đáp ứng được những tiêu chuẩn đề ra. Hơn nữa chất lượng gạo là một trong những yếu tố quyết định đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Chất lượng gạo cao sẽ bán được với giá cao hơn lợi nhuận thu được cũng sẽ cao hơn. Bản thân Tocontap không tham gia vào quá trình chế biến gạo mà chỉ thu gom từ các thương lái nhỏ rồi đem đi xuất khẩu do đó chất lượng gạo thường không đồng đều và chất lượng gạo không ổn định.
Chính sách an ninh lương thực quốc gia và chính sách xuất khẩu: Chính phủ luôn thúc đẩy xuất khẩu nhưng an ninh lương thực quốc gia bao giờ cũng đặt nên hàng đầu. Xuất khẩu lúa gạo bao giờ cũng phải đảm bảo đủ lương thực đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Ngoài ra khi giá cả quốc tế có nhiều biến động đặc biệt là khi giá gạo quốc tế tăng lên từng ngày thì Chính phủ với Bộ Thương Mại áp dụng các biện pháp để không xuất khẩu gạo ồ ạt nhằm đẩy mạnh xuất khẩu khi giá lên cao, duy trì mức giá tốt nhất cho gạo Việt Nam trên thế giới.
Trước tình hình giá gạo quốc tế ngày một tăng cao và tình hình sản lượng gạo của Việt Nam bị giảm do thời tiết và dịch bệnh Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ra kết luận tại công văn số 78/TB-VPCP ngày 25/03/2008 thông báo chỉ tiêu xuất khẩu gạo năm 2008 tối đa khoảng 3,5-4 triệu tấn để đảm bảo an ninh lương thực và kết luận của Thủ tướng chính phủ trong cuộc họp ngày 01/04/2008 đối với mặt hàng lương thực là không ký thêm hợp đồng xuất khẩu đến hết tháng 06/2008. Ngày 2/4, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đã yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu chưa ký hợp đồng mới cho đến tháng 6/2008 nhằm đảm bảo an ninh lương thực cũng như ổn định giá cả trong nước. Vì vậy mà lượng gạo xuất khẩu của Công ty xuất khẩu gạo nói chung và của Tocontap nói riêng sẽ giảm xuống đáng kể.
Việt Nam ra nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO cũng tác động đến việc xuất khẩu gạo của Công ty. Trước kia khi xuất khẩu gạo Việt Nam thường bị áp dụng hạn ngạch xuất khẩu hoặc bị đánh thuế cao ở các nước muốn bảo hộ ngành nông nghiệp trong nước thì nay không còn nữa. Thêm vào đó, khi đã là thành viên của WTO thì các luật thuế của Việt Nam cũng dần minh bạch hoá, các thủ tục hành chính cũng giảm bớt. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên bên cạnh đó nhà nước cũng phải giảm áp dụng các biện pháp hỗ trỡ các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu như: cho vay vốn ưu đãi đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo, hoàn thuế… làm cho lợi nhuận xuất khẩu gạo giảm.
Lãi suất cho vay trong nước tăng lên khiến cho chi phí đầu vào tăng do đó lợi nhuận giảm. Ngoài ra ngân hàng cũng áp dụng các biện pháp thắt chặt cho vay vốn làm cho Công ty thiếu vốn để thu mua nguồn hàng xuất khẩu.
2.2.3. Phương thức tiến hành xuất khẩu gạo của Công ty
Hoạt động xuất khẩu gạo của Công ty được thực hiện qua các bước sau đây:
Nghiên cứu tìm hiểu thị trường và đối tác kinh doanh: Chủ yếu được thực hiện thông qua các văn phòng đại diện ở nước ngoài và tìm hiểu thông tin trên Internet. Tuy nhiên các văn phòng đại diện ở nước ngoài hoạt động còn kém hiệu quả. Công tác nghiên cứu thị trường còn diễn ra một cách tản mạn hình thức.
Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng: Đây là công tác quan trọng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Đàm phán là cuộc hội thoại giữa hai hay nhiều bên với nhau về yêu cầu và nguyện vọng của mỗi bên đối với bên kia xoay quanh vấn đề có liên quan tới quyền lợi của tất cả các bên. Kết thúc đàm phán thường đi đến kết quả là ký kết các hợp đồng kinh doanh. Trong đàm phán hợp đồng xuất khẩu các bên có quốc tịch khác nhau, ngôn ngữ khác nhau do đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ đàm phán ngoài việc am hiểu nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu còn phải thành thạo ngoại ngữ. Thực tế ở Tocontap công tác đàm phán chủ yếu diễn ra thông qua mạng Internet với những hợp đồng có giá trị nhỏ còn đối với những hợp đồng có giá trị lớn đòi hỏi phải tiến hành đàm phán trực tiếp thì ít diễn ra. Đội ngũ cán bộ đàm phán chưa am hiểu rõ về mặt hàng gạo, trình độ ngoại ngữ và nghiệp vụ xuất nhập khẩu còn hạn chế. Sự cải tiến trong công tác giao dịch đàm phán còn chậm chạp không có tính thực tế cao.
Thu mua nguồn hàng xuất khẩu: Khi ký kết được hợp đồng xuất khẩu Công ty bắt đầu tiến hành thu mua gạo từ các thương lái chủ yếu ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long sau đó đóng gói bao bì mang thương hiệu Tocontap rồi đem giao hàng xuất khẩu.
Các hình thức xuất khẩu gạo chủ yếu mà Công ty áp dụng là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác. Hình thức xuất khẩu trực tiếp chủ yếu là thông qua các văn phòng đại diện ở nước ngoài để bán sản phẩm hoặc Công ty ký kết hợp đồng với khách hàng rồi trực tiếp giao hàng mang thương hiệu Tocontap. Với hình thức xuất khẩu gạo uỷ thác Công ty đóng vai trò là trung gian xuất khẩu đi làm các thủ tục xuất khẩu cần thiết thay cho doanh nghiệp chế biến gạo như: thủ tục thông quan xuất khẩu, ký kết hợp đồng.
2.2.4. Kết quả xuất khẩu gạo của Công ty
Về kim ngạch xuất khẩu
Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng
Đơn vị:USD
2003
2004
2005
2006
2007
Chổi quyét sơn
( % )
3.131..353
3.155.958
2.953.265
3.057.742
3.252.234
( 46,98%)
( 18,31%)
( 22,58%)
( 21,83%)
( 22,66%)
Gạo ( % )
884.643
550.000
1.284.900
1.315.201
1.620.120
(13,27%)
( 3,19%)
( 9,82%)
( 9,39%)
( 11,29%)
Hàng may mặc
( % )
41.972
41.850
57.320
309.797
231.587
0,63%
( 0,24%)
( 0,44%)
( 2,21%)
( 1,61%)
Mặt hàng khác
( % )
2.607.739
13.488.735
8.785.452
9.325.125
9.251.152
39,12%
( 78.26%)
( 67,16%)
( 66,57%)
( 64,44%)
Tổng số
(100%)
6.665.707
17.236.513
13.080.937
14.007.865
14.355.093
Nguồn: Báo cáo hàng năm của Công ty
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty là chổi quét sơn . Đây là mặt hàng được ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28897.doc