Một số giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Thái Bình

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới với việc chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế tư nhân ở nước ta nói chung và ở tỉnh Thái Bình nói riêng được phát triển nhanh chóng. Đến nay khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm, thu hút vốn, tăng thu nhập cho dân cư, góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Trong nhiều ngành, kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng lớn, đây là khu vực kinh tế có nhiều tiềm năng, đa d

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1443 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạng, phức tạp và còn có nhiều khuyết tật, hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu đánh giá tiềm năng, ưu thế và hạn chế về tình hình và xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân ở Thái Bình là vấn đề cấp bách hiện nay. Đến nay, việc quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta nói chung, ở Thái Bình nói riêng trong đó có kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều bất cập. Trước yêu cầu mới về phát huy nội lực của lĩnh vực kinh tế, từ bài học ở các nước trong khu vực cho thấy việc đổi mới quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân nhằm giải phóng năng lực sản xuất, phát huy ưu thế của kinh tế tư nhân và khơi dậy mọi tiềm năng trong dân để phát triển kinh tế là vấn đề cấp bách và lâu dài ở tỉnh Thái Bình. Trong điều kiện kinh tế mở cửa, giao lưu quốc tế ngày càng tăng, xu hướng hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển, việc đổi mới quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân cho phù hợp với tình hình ở Thái Bình, trong nước và quốc tế là một yêu cầu quan trọng và cấp thiết, vừa nhằm tuân thủ các hệ thống luật pháp trong nước, vừa nhằm phát huy lợi thế so sánh ở Thái Bình, tăng khả năng cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân trong nước. Việc nghiên cứu đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân và đề ra những giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân ở Thái Bình, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Thái Bình. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu đề tài “ một số giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Thái Bình” với 3 mục đích : Làm rõ một số vấn đề về lý luận và quan điểm của Đảng về kinh tế tư nhân; bản chất, đặc điểm, vai trò của kinh tế tư nhân ở nước ta. Thực trạng kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thái Bình Đề xuất những giải pháp tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Thái Bình 3. Đối tượng và nội dung nghiên cứu của đề tài Đề tài chủ yếu nghiên cứu kinh tế tư nhân ở tỉnh Thái Bình được thành lập sau khi có Luật doanh nghiệp, Luật công ty, Doanh nghiệp Nhà nước chuyển sở hữu thành công ty cổ phần. Đề tài chia thành 3 nội dung chính : Những vấn đề lý luận chung về kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta Thực trạng hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân ở tỉnh Thái Bình Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới của tỉnh Thái Bình 4. Các kết quả dự kiến đạt được Qua việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng của khu vực kinh tế tư nhân tỉnh Thái Bình làm rõ những điểm mạnh và hạn chế của khu vực kinh tế này để có những định hướng và giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, thúc đẩy kinh tế tỉnh phát triển, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Chương 1 : Những vấn đề lý luận chung về kinh tế tư nhân ở nước ta I - Bản chất, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 1. Quá trình phát triển, đổi mới tư duy về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế ở nước ta Với những thành tựu thu được sau hơn 20 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Đảng trong việc không ngừng đổi mới nhận thức, quan điểm, chính sách về vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trước đây, trên phương diện lý luận, chúng ta thừa nhận nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội có nhiều thành phần, nhưng trên thực tế cũng như trong hành động không thực sự thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Nền kinh tế được chia thành : kinh tế xã hội chủ nghĩa (gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể) và kinh tế phi xã hội chủ nghĩa (gồm kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ…). Với chủ trương sớm xây dựng và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm tỷ trọng lớn trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông bằng làn sóng quốc doanh hoá, tập thể hoá thông qua các biện pháp hành chính là chủ yếu. Các thành phần kinh tế phi XHCN thì bị ngăn cấm không cho phát triển, bị thu hẹp dần, cải tạo và dần bị xoá bỏ… Trong khi kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, bên cạnh những thành tích đóng góp vào công cuộc bảo vệ xây dựng miền Bắc XHCN và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước thì các khu vực này ngày càng bộc lộ những yếu kém, làm cho tình trạng trì trệ, kém phát triển và khủng hoảng kinh tế - xã hội tăng lên và dẫn đến công cuộc đổi mới từ năm 1986. Sự nghiệp đổi mới, trong đó có đổi mới kinh tế do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thừa nhận trên cả lý luận và thực tiễn của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trong đó có kinh tế tư nhân. Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986), sau khi phê phán “những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh”, mắc bệnh “chủ quan, duy ý chí, giản đơn hoá”, “chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan”. Đại hội khẳng định đường lối đổi mới, chỉ rõ “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”, chỉ rõ 6 thành phần kinh tế : kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình, kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước. Tuy nhiên, khái niệm kinh tế tư nhân được chính thức sử dụng từ Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương khóa VI (tháng 3 – 1989). Nghị quyết chỉ rõ : trong điều kiện của nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng hoá đi lên XHCN. Về mặt quy định pháp lý, việc ban hành Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân (năm 1990) đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân với các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân. Đại hội lần thứ IX của Đảng (4 – 2001) quyết định : “khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động”. Trong nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương khoá IX (3 – 2002) đã chỉ rõ : “kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN”. 2. Khái niệm và bản chất của kinh tế tư nhân 2.1. Khái niệm kinh tế tư nhân Kinh tế tư nhân trước hết là một đơn vị kinh tế ngoài Nhà nước, quyền sở hữu các doanh nghiệp này thuộc cá nhân, tổ chức (những người tham gia góp vốn), đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của pháp luật. Trong khuôn khổ pháp luật, chủ doanh nghiệp của tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh (trừ một số ngành nghề mà pháp luật cấm sản xuất kinh doanh) và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, quyền thừa kế về vốn, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp khác của chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên công ty được Nhà nước bảo hộ theo pháp luật. Ở nước ta hiện nay đang có nhiều cách lý giải khác nhau về kinh tế tư nhân : Có người cho kinh tế tư nhân đồng nghĩa với kinh tế tư bản tư nhân, có người lại đồng nhất kinh tế tư nhân với kinh tế ngoài quốc doanh. Quan điểm hiện nay của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ở Hội nghị Trung ương 5 khoá IX (3 – 2002) : “kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và khuyến khích tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân…” Như vậy, do chưa có sự thống nhất chung nên đến nay vẫn có thể hiểu khái niệm kinh tế tư nhân qua các cấp độ khác nhau : - Theo cấp độ khái quát nhất : kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh nghiệp trong và ngoài nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. - Theo cấp độ hẹp hơn : kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Do có những quan niệm khác nhau về kinh tế tư nhân nên số liệu thống kê về loại hình kinh tế này cũng rất khác nhau, khó theo một hệ thống nhất quán theo các năm. Nhưng có thể khái quát chung về khái niệm kinh tế tư nhân như sau : Kinh tế tư nhân là loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và tương ứng với phương thức quản lý, phân phối phù hợp với hình thức sở hữu đó. 2.2. Bản chất của kinh tế tư nhân Bản chất của các thành phần kinh tế do quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất quyết định. Kinh tế tư nhân dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lợi ích cá nhân là động lực để các cá nhân hoạt động kinh tế, sản xuất và kinh doanh. Trong hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, mục đích của sản xuất hàng hoá không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng mà thông qua giá trị sử dụng để thực hiện giá trị của hàng hoá và từ đó đạt được lợi nhuận. Để làm được điều này, trước hết phải xác định rõ quan hệ hàng hoá, sau đó mới xác định quan hệ lợi ích được thực hiện trong hàng hóa. Do quan hệ hàng hoá được sản xuất ra từ các tư liệu sản xuất, nên muốn xác định quan hệ hàng hoá thì phải xác định được các quan hệ sản để sản xuất ra hàng hoá đó. Quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cơ bản đã đáp ứng điều này vì đặc trưng của quan hệ này là thừa nhận lợi ích cá nhân. Trong xã hội có giai cấp, ý thức về quyền sở hữu là thuộc tính của mỗi con người, con người chỉ cảm thấy thực sự có động cơ khi họ hoạt động “cho mình”, tức là vì lợi ích, trước hết là lợi ích cho chính bản than, sau đó mới vì các mục đích khác. Do đó, quyền sở hữu được coi là một quyền tự nhiên của con người trong xã hội có giai cấp. Kinh tế tư nhân ra đời từ rất sớm, từ khi xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ, và vẫn tồn tại và phát triển đến ngày nay bởi đặc trưng về sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Chủ doanh nghiệp của kinh tế tư nhân, chủ hộ kinh doanh cá thể là những người trực tiếp sở hữu vốn, tài sản, các quan hệ liên quan tới tài sản như thế chấp, thuê mướn và các tranh chấp được giải quyết rõ ràng, sòng phẳng. Doanh nghiệp của tư nhân gắn với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên có thể truyền lại, thừa kế cho các thế hệ con cháu, kể cả kinh nghiệm, kiến thức kinh doanh và tạo ra động lực thúc đẩy phát triển hoạt động kinh doanh. Kinh tế tư nhân sở hữu vốn gắn với quản lý nên quan hệ giữa quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi gắn chặt với nhau, tạo ra tính chủ động, năng động trước thị trường, bộ máy quản lý gọn nhẹ, đơn giản. Mục đích hoạt động của kinh tế tư nhân là thu lợi nhuận tối đa; vốn, tài sản kinh doanh là của mình nên các chủ doanh nghiệp vừa phải thận trọng nhưng đồng thời cũng phải chớp thời cơ kinh doanh, không để mất cơ hội để có thể kinh doanh thu lợi nhuận. 3. Các loại hình kinh tế tư nhân Kinh tế tư nhân được hình thành trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sở hữu tư nhân được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, đan xen nhau từ đó hình thành nhiều loại hình tổ chức kinh tế tư nhân khác nhau. Kinh tế tư nhân bao gồm : các hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ và doanh nghiệp tư nhân. Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 đã quy định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn : công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Công ty cổ phần Công ty hợp danh Doanh nghiệp tư nhân Nhóm công ty 3.1. Các hộ sản xuất kinh doanh cá thể tiểu chủ Địa bàn, ngành nghề hoạt động của loại hình này chủ yếu chuyên sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp có tính chất tự sản, tự tiêu, buôn bán nhỏ. Chủ yếu là sử dụng lao động của gia đình, quy mô nhỏ, vốn ít. Nhưng hiện nay có một số lượng lớn hộ sản xuất kinh doanh đang hoạt động nên có một vị trí quan trọng trong khu vực kinh tế tư nhân. Đối với một số hộ sản xuất kinh doanh ở quy mô lớn hơn như trang trại, nuôi trồng thuỷ sản, … có thể thuê mướn thêm lao động. 3.2. Công ty trách nhiệm hữu hạn 3.2.1. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp trong đó : Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá năm mươi Thành viên không chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại điều 43, 44 và 45 của Luật doanh nghiệp Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phần. 3.2.2. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được phát hành cổ phần. 3.3. Công ty cổ phần Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế sổ lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp và có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán để huy động vốn. 3.4. Công ty hợp danh Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. 3.5. Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Mỗi cá nhân chỉ được phép thành lập một doanh nghiệp tư nhân. 3.6. Nhóm công ty Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau : Công ty mẹ - công ty con Tập đoàn kinh tế Các hình thức khác 4. Tính tất yếu khách quan tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một xu hướng tất yếu, một chủ trương đúng đắn và nhất quán của Đảng. Bởi vì : - Trong xã hội có giai cấp, sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân luôn mang trong nó một động lực mạnh mẽ - động lực cá nhân, một thuộc tính tồn tại lâu dài với đời sống con người và xã hội loài người. Việc theo đuổi lợi ích thiết thân của bản thân con người trong thời đại hiện nay vẫn chưa thể mất đi, do đó, nó đòi hỏi phải hình thành một cơ chế vừa có thể kích thích con người, vừa có thể thực hiện mục tiêu xã hội. Đó chính là cơ chế thị trường cùng với sự tồn tại khách quan của các hình thức sở hữu đa dạng, trong đó sở hữu tư nhân và tương ứng với nó là thành phần kinh tế tư nhân được coi là động lực quan trọng của sự phát triển. Nếu so sánh đối chiếu với các hình thức sở hữu khác, thì các nhà kinh tế học đã thừa nhận rằng, trong nền kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là hình thức sở hữu phù hợp hơn cả.. Quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã xác định được quan hệ hàng hoá, xác định được quan hệ lợi ích được thực hiện trong hàng hoá bởi một đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế thị trường là thừa nhận lợi ích cá nhân. Thực tế cho thấy, nếu không có sự giao dịch, chuyển nhượng tài sản giữa các doanh nghiệp, giữa các cá nhân sản xuất hàng hoá, thì cũng không có cạnh tranh về giá cả và thị trường theo đúng nghĩa của nó, do vậy, cũng không có nền kinh tế thị trường thực sự. - Sự xuất hiện và phát triển kinh tế tư nhân là một tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Kinh tế tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, sở hữu tư nhân tồn tại cùng với sự phát triển của lịch sử loài người. Sự phân công lao động đã làm xuất hiện chế độ tư hữu, chế độ tư hữu đã tạo nên động lực cho con người trong việc tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế - xã hội, gắn bó họ với các hoạt động ấy và sự quan tâm thường xuyên của họ tới việc tạo ra của cải vật chất và bảo vệ thành quả lao động. Ý thức về quyền sở hữu là thuộc tính của mỗi con người, con người chỉ cảm thấy có động cơ khi họ hoạt động vì lợi ích mà trước hết là lợi ích kinh tế của bản thân. Nó đang tiếp tục phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay và sẽ còn tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. - Trong xã hội có giai cấp và trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự phát triển của lực lượng sản xuất không thể tách rời sự phát triển hài hoà giữa hai khu vực kinh tế cơ bản bản : kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân. Kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau, tạo điều kiện để cùng tồn tại và phát triển. Kinh tế Nhà nước nắm giữ một số lĩnh vực, ngành nghề quan trọng nhất của nền kinh tế, phần còn lại kinh tế tư nhân có nhiệm vụ phát triển tương xứng với tầm vóc và vị trí của mình. Kinh tế Nhà nước đảm bảo sự phát triển ổn định nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội ở những lĩnh vực mà kinh tế tư nhân không tham gia hoặc không muốn tham gia, giữ vững ổn định chính trị xã hội. Kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà nước có vai trò, vị trí và chức năng đặc thù trong một cơ cấu phát triển chung, vì thế chúng không thể thay thế nhau, không lấn át nhau. Vì vậy, nền kinh tế chỉ có thể đạt được các mục tiêu tăng trưởng cao, lâu dài và ổn định khi hai khu vực kinh tế đó hỗ trợ, bổ sung cho nhau để thực hiện chức năng riêng của mình trong một hệ thống phát triển chung. Ở nước ta hiện nay, trong mối quan hệ giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, quyết định bản chất và định hướng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, còn kinh tế tư nhân là “chỗ dựa thiết yếu”, “có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định sự tồn tại của kinh tế tư nhân là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và việc cải tạo thành phần kinh tế này là một trong những nhiệm vụ kinh tế tư bản, lâu dài của cả thời kỳ quá độ. Thực tiễn cho thấy, việc phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương đúng đắn và nhất quán của Đảng ta dựa trên cơ sở khoa học, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, là sự vận dụng một cách tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của đất nước. Phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan vì những lý do : Thứ nhất : Khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền và bước vào xây dựng xã hội mới thì đòi hỏi cấp bách và khách quan là từng bước xây dựng cơ sở kinh tế - xã hội của chế độ mới. Bên cạnh kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể được hình thành trên cơ sở chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thì còn tồn tại một lực lượng rất lớn kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Thứ hai : Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, sản xuất nông nghiệp lạc hậu. Sự chênh lệch giữa các vùng, các ngành và trong nội bộ từng vùng về tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không phải là nhỏ. Sự tồn tại kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, của những người làm dịch vụ, buôn bán nhỏ và một bộ phận nhỏ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp của một bộ phận dân cư ở vùng núi cao. Như vậy, phát triển kinh tế tư nhân là điều kiện cần và đủ để thúc đẩy kinh tế các tỉnh, vùng và kinh tế cả nước phát triển. Thứ ba : Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiềm lực và khả năng của các thành phần kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể chưa đủ mạnh để có thể đảm đương được việc đáp ứng nhu cầu xã hội. Kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục chứng tỏ vai trò động lực của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thứ tư : Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã đóng góp không nhỏ vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội của đất nước. Kinh tế tư nhân đã góp phần giải quyết một lượng rất lớn công ăn việc làm, huy động, khai thác các nguồn lực của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước, đảm bảo ổn định và cải thiện đời sống của đại bộ phận dân cư và ổn định chính trị - xã hội của đẩt nước. Như vậy, nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan. 5. Vai trò của kinh tế tư nhân ở nước ta Kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ vai trò của nó, trở thành một đối chứng hiện thực năng động để các khu vực kinh tế khác phấn đấu vươn lên, tự đổi mới, tự hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. Kinh tế tư nhân được coi là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, được đối xử và hoạt động bình đẳng như các khu vực kinh tế khác. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế tư nhân có điều kiện phát triển với nhiều hình thức và quy mô khác nhau với hàng chục ngàn doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,… ra đời và hoạt động trong các tất cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ,… Đặc biệt là từ khi Quốc hội ban hành luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty (1990), kinh tế tư nhân có bước phát triển rất nhanh chóng. Sự xuất hiện ngày càng nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong tất cả các lĩnh vực, các ngành sản xuất, kinh doanh đã đẩy lùi tình trạng độc quyền, làm cho sản xuất hàng hoá phát triển, thị trường được mở rộng, các quy luật kinh tế thị trường phát huy được tác dụng, đẩy lùi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp vốn đã ăn sâu trong tiềm thức xã hội. Thông qua việc phát triển kinh tế tư nhân mà quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về kinh tế được phát huy. Kinh tế tư nhân là “chỗ dựa thiết yếu”, “có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Sở dĩ kinh tế tư nhân có vai trò như vậy là vì những lý do sau đây : Thứ nhất, kinh tế tư nhân là một bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân đã tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn, đóng góp đáng kể vào giá trị thu nhập của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong những năm qua, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp với tỷ trọng khá lớn vào sự ổn định trong GDP. Năm 2000, kinh tế tư nhân đạt gần 187.720 tỷ đồng, chiếm hơn 42% GDP toàn quốc (khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm gần 39%). Nếu xem xét cụ thể, hộ kinh doanh đóng góp trên 154.560 tỷ đồng, chiếm gần 82,35%; doanh nghiệp đóng góp trên 33.150 tỷ đồng, chiếm trên 17,60% GDP của kinh tế tư nhân. Thứ hai, kinh tế tư nhân tạo ra động lực mạnh mẽ, đóng góp ngày càng lớn vào ngân sách Nhà nước, tham gia tích cực và hiệu quả trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Đóng góp của kinh tế tư nhân vào ngân sách Nhà nước ngày càng nhiều hơn, từ 6% năm 2000 lên trên 7,5% năm 2005. Ngoài ra, kinh tế tư nhân đã góp phần tăng nguồn thu ngân sách như thuế môn bài, thuế VAT trong nhập khẩu và các loại phí khác. Kinh tế tư nhân phát triển là nhân tố quan trọng làm kích thích và làm sống động đời sống kinh tế đất nước, tạo áp lực cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước đổi mới hoạt động kinh doanh. Thứ ba, ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế tư nhân đã và đang từng bước khẳng định vị trí “chỗ dựa thiết yếu” của nó theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường. Nó đã thực sự trở thành một bộ phận của kinh tế dân doanh. Kinh tế tưu nhân đang có cơ hội phát triển mạnh mẽ cả về bề rộng lẫn chiều sâu, cả về quy mô số lượng lẫn chất lượng. . Khu vực kinh tế tư nhân chính là nơi thu hút, tạo việc làm cho xã hội : tạo ra khoảng 2 triệu chỗ làm mới. Sự phát triển của kinh tế tư nhân không chỉ tạo ra việc làm mà còn góp phần thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động vốn đang mất cân đối và góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Thứ tư, kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam sẽ không thực hiện được nếu không có sự tham gia của kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó, kinh tế tư nhân phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của các thị trường : thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế đất nước, thúc đẩy quá trình quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, trong nghị quyết đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định : tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương phát triển mạnh các thành phần kinh tế, xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, minh bạch, thông thoáng và thuận lợi hơn, ổn định chính sách, bảo đảm quyền của mọi người dân được tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm gắn liền với chủ trương đúng đắn của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần. Những thành tựu kinh tế quan trọng đạt được qua 20 năm đổi mới đất nước là bằng chứng sinh động, xác nhận một cách thuyết phục sự khởi sắc của nền kinh tế nói chung và triển vọng tiềm tàng của kinh tế tư nhân nói riêng. Bởi vậy, có thể nói, đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây có thể coi là một trong những nhiệm vự quan trọng của công cuộc đổi mới của đất nước trong những năm sắp tới. II – Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Thái Bình 1. Các chính sách và biện pháp hỗ trợ của Nhà nước 1.1.Nhà nước xây dựng khung pháp luật, ban hành các chính sách khuyến khích sự phát triển của kinh tế tư nhân Việc Nhà nước ban hành Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 là cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành và phát triển khu vực kinh tế tư nhân; năm 1999, Quốc hội thông qua Luật doanh nghiệp, luật này quy định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp, luật này được sửa đổi, bổ sung vào năm 2005 Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10. Luật doanh nghiệp (1999) đánh một dấu mốc quan trọng trong những nỗ lực của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho khối kinh tế tư nhân phát triển. Luật đã chế hoá và hiện thực hoá quyền tự do kinh doanh bao gồm quyền tự do lựa chọn loại hình doanh nghiệp, tự do thành lập doanh nghiệp, tự do tổ chức quản lý, tự do lựa chọn quy mô, địa bàn, ngành nghề, trừ một số ngành nghề bị cấm theo quy định của pháp luật. Luật doanh nghiệp (2005) tiếp tục củng cố thành quả và hoàn thiện thêm một bước luật doanh nghiệp (1999) bằng việc xoá bỏ một cách cơ bản các phân biệt và khác biệt trong quản lý giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, tạo một mặt bằng pháp lý cho các doanh nghiệp và bổ sung các quy định bảo vệ các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nhỏ, và các quy định về quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Ngoài việc ban hành các bộ luật, Nhà nước còn có các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân. - Cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia nhập thị trường. Nghị quyết 38/CP của Chính phủ ngày 4/5/1994 về việc cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và đã xác định “thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh” là một lĩnh vực ưu tiên cải cách. Đến năm 1998, một số cải cách đơn giản hoá thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh đã được thực hiện. Luật doanh nghiệp (1999) đã có thay đổi mang tính đột phá là xoá bỏ thủ tục xin phép thành lập doanh nghiệp kéo theo sự xoá bỏ hơn 150 giấy phép kinh doanh và đơn giản hoá tối đa thủ tục đăng ký kinh doanh. - Chính sách thuế Hệ thống chính sách thuế từng bước được áp dụng thống nhất và bình đẳng với tất cả các thành phần kinh tế trong đó có kinh tế tư nhân, tạo ra cơ sở hạ tầng pháp lý của môi trường kinh doanh, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế và phù hợp với cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Trong số các luật thuế được ban hành từ năm 1986 đến nay thì Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được coi là có ảnh hưởng lớn đối với doanh nghiệp, công ty tư nhân. Ngoài ra còn kể đến các chính sách ưu đãi thuế trong Luật khuyến khích đầu tư tư nhân (1994) và Luật khuyến khích đầu tư tư nhân sửa đổi năm 1998. Đó là các chính sách về : miễn, giảm thuế sử dụng đất; miễn thuế nhập khẩu; ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư. - Chính sách tín dụng Các cải cách trong lĩnh vực ngân hàng đã góp phần khơi thông nguồn tín dụng cho khu vực kinh tế tư nhân. Năm 1990, hai pháp lệnh về ngân hàng ra đời, pháp lệnh về ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Đối với tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển cung cấp tín dụng của Nhà nước hỗ trợ cho c._.ác dự án đầu tư của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư theo quy định của Chính phủ. Từ năm 1999, theo nghị định 43/1999/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, hình thức cấp nguồn vốn đầu tư phát triển đựơc chuyển sang cho vay. - Chính sách đất đai Luật đất đai được xây dựng ngày 14/7/1993 và đến nay đã được sửa đổi ba lần. Ngoài ra, các quy định về ưu đãi, hỗ trợ đất đai và cơ sở hạ tầng còn được quy định nhiều trong Luật khuyến khích đầu tư tư nhân, quy định một số hình thức hỗ trợ của Nhà nước cho nhà đầu tư như : công bố công khai quy hoạch sử dụng đất, xây dựng các khu công nghiệp với quy mô vừa và nhỏ ở các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, xây dựng các công trình hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu chế xuất. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ, ưu đãi miễn giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất cho nhà đầu tư. - Chính sách hỗ trợ phát triển kinh doanh Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, theo nghị định này, các đơn vị kinh doanh trong nước có đăng ký kinh doanh, không tính đến sở hữu Nhà nước hay tư nhân, có vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng, có số lao động thường xuyên không quá 300 lao động sẽ được hưởng những chính sách hỗ trợ. Sự hỗ trợ sẽ được thực hiện thông qua nhiều chương trình khác nhau. 1.2. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo môi trường cho khu vực kinh tế tư nhân hoạt động Nước ta đã tiến hành xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo nền tảng cho kinh tế tư nhân phát triển. Xây dựng các khu công nghiệp nhỏ và vừa, hình thành cụm công nghiệp địa phương tạo điều kiện cho doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân có mặt bằng đầu tư kinh doanh. Xây dựng hệ thống giao thông vận tải : đường bộ, đường thuỷ, đường không trong cả nước tạo điều kiện cho giao lưu kinh tế giữa các tỉnh trong nước. Đào tạo nguồn lao động đáp ứng cho nhu cầu lao động của nền kinh tế. Với việc thi hành Luật doanh nghiệp và hàng loạt các biện pháp cải cách khác, môi trường kinh doanh ở nước ta trong mấy năm gần đây đã có những cải thiện quan trọng theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh của người dân trên nguyên tắc doanh nghiệp và người dân được tự do kinh doanh tất cả các lĩnh vực mà pháp luật không cấm, khuyến khích người dân làm ăn, kinh doanh làm giàu cho mình và cho đất nước, khuyến khích mọi doanh nghiệp tham gia các ngành xuất khẩu, chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa… Chính trong môi trường đó, khu vực kinh tế tư nhân và đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân đã nhanh chóng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước trên các mặt : tạo công ăn việc làm, tăng vốn đầu tư phát triển, mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy phát triển các thị trường, đổi mới kinh tế và hành chính… 1.3. Thực hiện quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một xu thế khách quan. Tuy nhiên, để đưa kinh tế tư nhân phát triển đúng quỹ đạo, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa lại là một nhiệm vụ hết sức phức tạp, lâu dài và khó khăn. Kinh tế tư nhân chỉ có thể phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa khi Đảng và Nhà nước có chính sách và biện pháp quản lý phù hợp, không làm mất động lực phát triển của nó, nhưng cũng không để nó vận động một cách tự phát, ngoài vòng pháp luật. Nếu không đảm bảo sự phát triển hài hoà, cân đối giữa các thành phần kinh tế có thể dẫn đến những hệ quả về chính trị và xã hội khó lường. Để nền kinh tế nhiều thành phần, nhất là kinh tế tư nhân phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải vận dụng các công cụ về kinh tế, pháp luật để quản lý. Nhà nước ban hành các bộ Luật, nghị định và các quy định… để hướng dẫn, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Các luật như : Luật doanh nghiệp, luật cạnh tranh, luật thương mại, luật đất đai, …. 2. Sự mở rộng và giao lưu kinh tế đất nước là điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân trong tỉnh phát triển Sự nghiệp đổi mới, trong đó có đổi mới kinh tế, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng, miền trong cả nước tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, kinh tế tư nhân có cơ hội phát triển và nở rộ. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển nhanh chóng trong thời gian qua còn do một nguyên nhân khác, đó là do tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, khởi đầu từ khi đất nước đổi mới, mở cửa nền kinh tế, và đặc biệt phát triển từ giữa thập kỷ 1990, khi nước ta lần lượt tham gia ASEAN, ASEM, APEC và không ngừng mở rộng quan hệ song phương với các nước khác trên thế giới. Thị trường các nước mở rộng dần cho các sản phẩm của Việt Nam đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có kinh tế tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm của mình trên thị trường khu vực và quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thị trường trong nước còn hạn hẹp do tình trạng nước nghèo, mức thu nhập và khả năng tiêu dùng còn thấp, các doanh nghiệp còn thiếu đầu ra. Các quan hệ thương mại và đầu tư rộng mở cũng tạo cho doanh nghiệp Việt Nam cơ hội có các đối tác làm ăn, cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ của họ, đào tạo nguồn nhân lực cho mình và trưởng thành dần qua hợp tác và cạnh tranh. Khi nước ta tham gia WTO, các cơ hội này lại càng mở rộng, những rào cản sẽ được dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có vị trí bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trên thị trường các nước. Họ sẽ có quyền không chỉ xuất nhập khẩu, tiếp nhận đầu tư, mà còn mở rộng nhiều phương thức hợp tác khác và đầu tư ra thị trường nước ngoài, khai thác tối đa những lợi thế cạnh tranh của mình và vận dụng sự phân công lao động quốc tế, tham gia mạng lưới kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu theo cách có lợi nhất cho mình. Tham gia WTO cũng thúc đẩy nước ta cải thiện mạnh mẽ môi trường pháp lý, chính sách cho kinh doanh, tạo thuận lợi cho cạnh tranh và phát triển của mọi doanh nghiệp. 3. Lực lượng lao động Thái Bình là một tỉnh đông dân với dân số là 1.850 ngàn người(năm 2005), chiếm 2,23% so với dân số cả nước, dân số tăng bình quân mỗi năm khoảng 14 nghìn người nên lượng lao động bổ sung hàng năm của tỉnh rất lớn, khoảng 19.000 người mỗi năm. Số người trong độ tuổi lao động là 1.073 ngàn người, trong đó, lao động trong khu vực nông lâm nghiệp chiếm 74,3%, công nghiệp và xây dựng chiếm 17%, khu vực dịch vụ thương mại chiếm 8,7%. Với lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ là thuận lợi rất lớn với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng sử dụng nhiều lao động. Nguồn lao động đã qua đào tạo trong tỉnh là một ưu thế, giúp các doanh nghiệp không phải mất công đào tạo lao động, tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, đẩy nhanh được quá trình sản xuất. Lao động qua đào tạo của tỉnh chiếm 23,5% lực lượng lao động toàn tỉnh. Trong đó, công nhân kỹ thuật và nghiệp vụ chiếm 13,5%; trung học chuyên nghiệp chiếm 5,5%; cao đẳng, đại học và trên đại học chiếm 4,5%. 4. Sự tồn tại và phát triển của các nghề và làng nghề truyền thống Thái Bình là tỉnh có nhiều nghề và làng nghề truyền thống. Tính đến cuối năm 2005, toàn tỉnh có 173 làng nghề, trong đó 162 làng nghề được cấp bằng công nhận, 11 làng nghề đạt tiêu chuẩn, 100% số xã có nghề. Thái Bình nổi tiếng với các nghề truyền thống như : chạm bạc, dệt vải, dệt khăn, dệt chiếu, mộc mỹ nghệ, đúc đồng, thêu …. Năm 2008, toàn tỉnh hiện có 219 làng nghề đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh cấp bằng công nhận. các làng nghề đã tạo việc làm cho khoảng 168.000 lao động có thu nhập tương đối ổn định. Sự tồn tại của các nghề và làng nghề truyền thống là một điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Trước đây, các hộ gia đình chỉ sản xuất nhỏ lẻ, sản phẩm sản xuất ra chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội tỉnh và các tỉnh lân cận. Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang mở cửa, sự hợp tác giao lưu giữa các vùng kinh tế trong nước và với nước ngoài, các hộ gia đình có điều kiện rất thuận lợi khi chuyển từ sản xuất manh mún sang sản xuất hàng hoá tập trung, bởi thị trường tiêu thụ sản phẩm đã được mở rộng trong cả nước và cả với nước ngoài, sản phẩm hàng hoá đã được biết đến từ lâu đời. III - Những đóng góp của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh Thái Bình Sự vận động phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Thái Bình trên các lĩnh vực nông lâm thuỷ sản, công nghiệp và xây dựng, thương mại - dịch vụ gắn liền với nhịp độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Kinh tế tư nhân ở tỉnh Thái Bình đã đạt được những thành quả to lớn, có thể khẳng định đây là lực lượng kinh tế có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 1. Kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách của tỉnh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cùng với kinh tế Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân có những bước phát triển khá, hiện nay ở tỉnh có 2.114 doanh nghiệp và hàng trăm tổ hợp tác, làng nghề truyền thống… thực sự vẫn là khu vực đầy tiềm năng, năng động, có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác nguồn lực, tiền vốn, sản xuất nhiều sản phẩm hàng hoá, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Với số lượng doanh nghiệp lớn và nhiều loại hình đa dạng phong phú, kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng nền kinh tế của tỉnh và đóng góp tích cực cho Ngân sách Nhà nước, hàng năm chiếm tỷ trọng cao trong các ngành kinh tế của tỉnh. Trong những năm qua, kinh tế tư nhân đóng góp với tỷ trọng khá lớn vào sự ổn định trong GDP. Kinh tế tư nhân đóng góp gần 80% trong tổng GDP của các thành phần kinh tế trong sản xuất công nghiệp toàn tỉnh và chiếm gần 45% GDP toàn tỉnh. Sự phát triển của kinh tế tư nhân sẽ thúc đẩy các ngành sản xuất phát triển, góp phần mở mang nhiều ngành nghề và lưu thông hàng hoá, sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. 2. Kinh tế tư nhân đã huy động được ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh Với đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh nên khu vực kinh tế tư nhân ở tỉnh ta đã huy động được lượng vốn lớn trong dân và tận dụng được các nguồn vốn khác để đưa vào quá trình chu chuyển và khai thác khả năng tiềm ẩn tạo ra được nhiều sản phẩm hàng hoá có giá trị trong nước và xuất khẩu như : các loại vải, khăn mặt, phụ tùng xe đạp, xe máy, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ,… Vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng được tăng thêm từ nhiều nguồn : tự huy động trong dân, huy động vốn đầu tư từ các tỉnh khác, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài… Tổng số vốn đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân đến cuối năm 2008 là 11.668 tỷ đồng, tăng gấp 7,7 lấn so với năm 2005. Số vốn đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể là 839.930 triệu đồng. 3. Kinh tế tư nhân phát triển đã giải quyết việc làm, tăng thu nhập và ổn định đời sống cho người lao động Hiện nay, lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân chiếm tới hơn 90% tổng số lao động đang làm việc tại các khu vực kinh tế trong tỉnh.Kinh tế tư nhân đã thu hút được trên 300.000 lao động ,ngoài ra còn tạo việc làm cho trên 150 ngàn lao động vệ tinh, lao động ở các làng nghề. Kinh tế tư nhân đã chuyển một bộ phận lao động trong nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, tạo sự phân công, phân bổ cơ cấu lao động một cách hợp lý giữa các ngành kinh tế. Kinh tế tư nhân đã giúp cải tạo được thu nhập cho người lao động trong tỉnh. Trước đây thu nhập trung bình của người lao động trong tỉnh là từ 250 – 350 ngàn đồng/người/tháng. Thu nhập bình quân của người lao động hiện nay từ 650 – 750 ngàn đồng/ người/ tháng. Đời sống của người dân đã có một bước cải thiện rõ rệt, mức sống được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm ;100% số xã có đường ôtô đến trung tâm xã, số hộ được sử dụng điện là 99,9% (năm 2008), hệ thống thông tin liên lạc điện thoại đã được lắp đặt tại tất cả các xã trong tỉnh. Cùng với các chính sách của Đảng và Nhà nước, kinh tế tư nhân đã góp phần không nhỏ vào chủ trương xoá đói giảm nghèo và giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm qua. 4.Kinh tế tư nhân đã khơi dậy và thúc đẩy sự phát triển các tiềm năng sẵn có của tỉnh Kinh tế tư nhân không những thúc đẩy phát triển nông nghiệp, công nghiệp, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường, mà còn là chất “xúc tác” kích thích, khơi dậy tiềm năng thế mạnh, đưa hoạt động của trên 100 làng nghề, xã nghề trở thành những trung tâm trong việc phát triển kinh tế, thu hút và giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Kinh tế tư nhân còn tận dụng được nguồn lao động sẵn có và dồi dào của tỉnh. Với lực lượng lao động đông, lượng lao động được bổ sung thêm hàng năm lớn, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã tạo ra rất nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động, giảm sức ép về dân số và lao động ở tỉnh. Sự phát triển của kinh tế tư nhân còn giúp khai thác được những tiềm năng sẵn có về du lịch, tài nguyên khoáng sản… 5. Góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở tỉnh Kinh tế tư nhân phát triển đã tác động tới các ngành sản xuất khác, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, làm cầu nối giữa nông nghiệp tới thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước. Khi kinh tế tư nhân mở rộng và phát triển đã thu hút một lượng lớn lao động từ nông nghiệp chuyển sang, lượng lao động dư thừa trong nông nghiệp sẽ giảm, cùng với sự phát triển của công nghiệp, nông nghiệp có thể đưa các ứng dụng của công nghiệp vào trong sản xuất giúp tăng năng suất, chất lượng trong nông nghiệp. Như vậy, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội của tỉnh, như huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư với số lượng lớn vào sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao sức sản xuất của xã hội, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động, thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị trường, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa góp phần tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa tham gia giải quyết các vấn đề xã hội… Nhờ vậy, đã khơi dậy và phát huy được tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, kinh nghiệm sản xuất của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở tỉnh và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính vì những lý do đó, có thể khẳng định, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chương 2 : Thực trạng hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân ở tỉnh Thái Bình I - Đặc điểm kinh tế xã hội tỉnh Thái Bình 1. Giới thiệu khái quát về tỉnh Thái Bình 1.1. Vị trí địa lý Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, nằm ở phía nam châu thổ sông Hồng với diện tích 1.647,7km2. Phía bắc giáp tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hải Phòng; phía tây và tây nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam; phía đông giáp vịnh Bắc Bộ; và là một tỉnh đồng bằng có địa hình tương đối bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 1%. Toàn tỉnh có 01 thành phố, 7 huyện, trong đó có 284 xã, phường, thị trấn. Thái Bình nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng : Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Đây là một thuận lợi lớn trong việc giao lưu kinh tế với các trung tâm kinh tế lớn của nước. Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa : mùa nóng, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10; mùa lạnh, khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23 – 24 0C (thấp nhất là 40C và cao nhất là 390C). Lượng mưa trung bình từ 1.500mm – 1.900mm. Độ ẩm trung bình hàng năm vào khoảng 85 – 90%. Thời tiết vào mùa nóng luôn có những ngày dịu mát do ảnh hưởng của khí hậu biển. Điều kiện khí hậu thích hợp với cây nhiệt đới vốn rất đa dạng, vào mùa đông cho phép phát triển nhiều loại rau màu có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, tỉnh nằm ở hạ lưu sông Hồng,có đường biển và hệ thống sông ngòi thuận lợi cho việc giao thông bằng đường thuỷ. Thái Bình được bao bọc bởi hệ thống sông biển khép kín, có bờ biển dài trên 50 km và có 4 sông lớn chảy qua địa phận của tỉnh : sông Hoá, sông Luộc, hạ lưu của sông Hồng, sông Trà Lý . 1.2. Dân số và nguồn nhân lực Thái Bình là một tỉnh đông dân, là một trong những tỉnh có mật độ dân số cao nhất trong cả nước nhưng đại đa số là sống ở nông thôn. Năm 2005, dân số trung bình của Thái Bình là 1.850 ngàn người, chiếm 9,85% so với dân số vùng đồng bằng sông Hồng và khoảng 2,23% so với dân số của cả nước. Mật độ dân số trung bình là 1.196,7 người/km2, gấp 1,32 lần so với đồng bằng sông Hồng và 3,6 lần so với cả nước, bình quân nhân khẩu là 3,75 người/hộ; tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên là 1,02%. Do dân số Thái Bình vẫn còn tăng ở mức cao so với yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội, nên nguồn lao động của Thái Bình hàng năm cũng được bổ sung và tăng lên khá nhanh (khoảng 19.000 người) từ các nguồn: bộ đội hết nghĩa vụ, học sinh tốt nghiệp phổ thông không đủ điều kiện học tiếp vào đại học, trung học chuyên nghiệp, số học sinh học nghề, cao đẳng, đại học tổt nghiệp về tỉnh làm việc. Bảng : Số người trong độ tuổi lao động ở Thái Bình qua các năm Đơn vị : nghìn người Năm 2000 2002 2005 Số người trong độ tuổi lao động 1.045 1.073 1.107 Tổng dân số 1.756 1.827 1.85 Năm 2000, tổng số người trong độ tuổi lao động có khoảng 1.045 nghìn người. Thời kỳ 2001- 2005, bình quân mỗi năm tăng khoảng 6 – 7 ngàn người, đây là một lực lượng lao động rất lớn. Lao động qua đào tạo ở Thái Bình chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số lao động, lao động chủ yếu vẫn là lao động thủ công, trình độ dân trí của lao động chưa cao. Bảng : Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao động qua các năm Đơn vị : % Năm 2000 2004 2005 Lao động đã qua đào tạo 23,5 28 30 Lao động chưa qua đào tạo 86,5 82 70 Tổng 100 100 100 Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình Năm 2005, lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân chiếm khoảng 94% số người trong độ tuổi lao động, trong đó lao động khu vực quốc doanh chiếm tỷ trọng 4,73%; lao động ngoài quốc doanh chiếm 95,27%. Tỷ lệ lao động được đào tạo đã tăng qua các năm, năm 2005 đạt 30%. Theo các kết quả điều tra thống kê thì số lao động được giải quyết việc làm bình quân trong giai đoạn 2001 – 2005 khoảng 22.400 người/năm; tỷ lệ lao động chưa có việc làm đến năm 2005 khoảng 5%. Như vậy, Thái Bình là một tỉnh đông dân,lượng lao động dồi dào,hàng năm lại được bổ sung thêm một lượng lớn lao động, đây là một thuận lợi nhưng cũng gây nên áp lực rất lớn về giải quyết việc làm. Trình độ của lao động chưa cao nên ưu tiên phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động thủ công. 1.3. Tài nguyên thiên nhiên Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, trong lòng đất vùng ven biển có nguồn tài nguyên khí đốt. Mỏ khí Tiền Hải khai thác từ năm 1981 với sản lượng bình quân cung cấp mỗi năm hàng chục triệu m3 khí thiên nhiên. Lượng khí này khai thác chủ yếu phục vụ cho phát triển công nghiệp sản xuất đồ sứ tráng men, vật liệu xây dựng ở khu công nghiệp Tiền Hải. Mỏ nước khoáng Tiền Hải với sản lượng khai thác hàng năm khoảng hơn 10 triệu lít đã được thị trường trong và ngoài nước biết đến với nhãn hiệu nước khoáng Vital, nước khoáng Tiền Hải. Ở huyện Hưng Hà đã thăm dò và phát hiện mỏ nước nóng 570C ở độ sâu 50m và nước nóng 720C ở độ sâu 178m, bước đầu đã khai thác phục vụ sản xuất cá giống. Trong lòng đất tỉnh Thái Bình còn có than nâu thuộc bể than nâu vùng đồng bằng sông Hồng, được đánh giá có trữ lượng rất lớn (hơn 30 tỷ tấn) và đầu năm 2009 đã ký kết khai thác với tổng công ty than Việt Nam. 1.4. Đất đai và cơ sở hạ tầng Đất đai của Thái Bình chủ yếu là đất bồi tụ bởi hệ thống sông Hồng nên nhìn chung tốt, thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp toàn diện, với cơ cấu cây trồng vật nuôi phong phú đa dạng. Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh năm 2005 là 164.770 ha, đã khai thác và sử dụng như sau : Bảng : Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Thái Bình năm 2005 STT Chỉ tiêu Diện tích (ha) Cơ cấu (%) Tổng diện tích đất tự nhiên 164770 100 I Đất nông, lâm, ngư nghiệp 106.811 64,8 Trong đó : Đất lâm nghiệp 2.028 1,2 II Đất phi nông nghiệp 45.206 27,4 1 Đất ở 12.484 7,6 -Đất ở đô thị 515 0,3 -Đất ở nông thôn 11.969 7,3 2 Đất chuyên dùng 23.519 14,3 -Đất trụ sở cơ quan 416 0,3 -Đất quốc phòng an ninh 139 0,1 -Đất sản xuất phi nông nghiệp 731,2 0,4 Đất khu công nghiệp 306,5 0,2 Đất cho hoạt động khoáng sản 312,3 0,2 Đất sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ 112,4 0,1 -Đất có mục đích công cộng 22.232,8 13,5 Trong đó : Đất giao thông 7.962,4 4,8 Đất thuỷ lợi 13.090,8 7,9 3 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 436 0,3 4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 1.587 1,0 5 Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 7.157 4,3 6 Đất phi nông nghiệp khác 23 0,0 III Đất chưa sử dụng 2.576 1,6 IV Đất có mặt nước ven biển 10.177 6,2 1 Đất có mặt nước ven biển nuôi trồng thuỷ sản 621 0,4 2 Đất có rừng ngập mặn 2.026 1,2 3 Đất mặt nước ven biển mục đích khác 7530 4,6 Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình Tỉnh đã quy hoạch và xây dựng 7 khu công nghiệp, 18 cụm công nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh, xây dựng đường vào tới chân rào của các khu công nghiệp, rất thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc vận chuyển hàng hoá. Giao thông ở Thái Bình thuận lợi đi các tỉnh trong vùng và với cả nước. Đường giao thông với các trục đường chính : quốc lộ 10 Nam Định - Hải Phòng, quốc lộ 39 Thái Bình – Hưng Yên, quốc lộ Hệ thống thông tin liên lạc cũng đã rất phát triển. Trong tỉnh có 99,9% số hộ sử dụng điện, tất cả các xã, huyện, thành phố đều có trạm thu phát sóng điện thoại. 1.5. Tiềm năng phát triển kinh tế của tỉnh Thái Bình là một tỉnh đông dân, có lực lượng lao động dồi dào, hàng năm lại được bổ sung một lượng lớn lao động nên có thể ưu tiên phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giầy da, … Là một tỉnh với nền nông nghiệp truyền thống, các sản phẩm nông nghiệp đa dạng, các sản phẩm của thuỷ sản cũng phong phú (gồm thuỷ sản nước mặn, thuỷ sản nước lợ, thuỷ sản nước ngọt) nên việc phát triển các ngành công nghiệp chế biến là hoàn toàn hợp lý. Với đa dạng nguồn tài nguyên thiên nhiên, việc phát triển công nghiệp khai thác tài nguyên của tỉnh đã và đang được thực hiện. 1.6. Những thuận lợi và khó khăn về phát triển kinh tế của tỉnh 1.6.1. Thuận lợi Tình hình kinh tế trong nước sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế của tỉnh phát triển. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế của khu vực và thế giới như ASEAN, AFTA, và đặc biệt là tham gia vào WTO đã tạo cơ hội cho kinh tế nước ta được giao lưu, mở rộng thị trường. Thái Bình nằm gần các trung tâm đô thị lớn, đặc biệt là thủ đô Hà Nội và Hải Phòng, đó là những thị trường rộng lớn, là trung tâm hỗ trợ đầu tư, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ và cung cấp thông tin cho tỉnh, tác động rất lớn tới hoạt động kinh tế của tỉnh, tới quá trình sản xuất hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm. Với ưu thế về địa giới hành chính gọn, địa hình bằng phẳng, thông tin liên lạc thuận tiện và kết cấu hạ tầng nông thôn tương đối phát triển; mạng lưới giao thông đường bộ và hệ thống sông và các cửa biển; mạng lưới giao thông đường thuỷ phát triển sẽ có tác động thúc đẩy sự giao lưu hàng hoá của tỉnh với các tỉnh trong vùng, cả nước và quốc tế, nhất là với khu vực nam Trung Quốc và các nước trong khu vực Đông Nam Á. Thái Bình có nguồn lao động dồi dào, có trình độ văn hoá, giá nhân công rẻ, đó là lợi thế trong việc thu hút các dự án đầu tư, nhất là các dự án sản xuất hàng công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động. Hạ tầng kinh tế xã hội sau nhiều năm được đầu tư xây dựng là một trong những điều kiện tương đối thuận lợi cho phát triển kinh tế. 1.6.2. Khó khăn Thái Bình vốn là một tỉnh nông nghiệp, điểm xuất phát và tích luỹ nội bộ thấp, mất cân đối giữa nhu cầu và khả năng đầu tư phát triển. Nguồn vốn ngân sách dành cho đầu tư phát triển còn hạn hẹp, lĩnh vực kinh tế đối ngoại (xuất nhập khẩu, ODA, FDI) còn nhiều khó khăn, nguồn vốn đầu tư nước ngoài thu hút chậm… sẽ làm cho tiến trình công nghiệp hoá, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân và tích luỹ cho nền kinh tế càng khó khăn hơn. Hạ tầng cơ sở kỹ thuật tuy đã được quan tâm đầu tư cải thiện, nhưng thiếu đồng bộ, chưa đủ đáp ứng cho một nền sản xuất hàng hoá và phát triển dịch vụ trong điều kiện cạnh tranh gay gắt và chưa đủ sức hấp dẫn với các nhà đầu tư trong nước cũng như ngoài nước. Nền kinh tế hàng hoá còn yếu, chất lượng thấp, khối lượng hàng hóa nhỏ, manh mún, sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và các nước trong khu vực thấp. Đất hẹp, người đông cùng với các khó khăn vốn có của nền kinh tế thuần nông, sức ép về gia tăng dân số, giải quyết việc làm không chỉ là những hạn chế trước mắt mà còn là vấn đề bức xúc cho phát triển kinh tế trong những năm tới đối với Thái Bình. Các chính sách kinh tế còn thiếu đồng bộ, nhất quán, môi trường đầu tư chậm được cải thiện… làm hạn chế việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Những bức xúc trong lĩnh vực xã hội, tình hình nông thôn chưa thực sự ổn định, hạn chế một phần tính năng động sáng tạo vươn lên trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tập quán làm ăn nhỏ lẻ, trì trệ, ỷ lại, kém năng động của một tỉnh nông nghiệp đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới mở ra những thuận lợi mới để tỉnh phát triển nhưng đồng thời cũng tạo sức ép cạnh tranh quyết liệt. 2. Những thành tựu phát triển kinh tế của tỉnh Trong những năm qua, kinh tế xã hội của tỉnh có bước phát triển rõ rệt. Trong 5 năm 2001 – 2005 nền kinh tế tỉnh Thái Bình đã có bước phát triển khá, đạt khoảng 7,21%/năm, vượt mục tiêu đại hội đề ra ( 7%), gần bằng mức tăng bình quân của cả nước (7,5%). Phát triển tương đối toàn diện cả về kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp và xây dựng tăng bình quân 16,02%/năm. Trong đó sản xuất công nghiệp tăng bình quân 17.82%/năm. Khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 37,8% GDP tăng thêm trong giai đoạn 2001 – 2005. Ngành dịch vụ tăng trưởng bình quân 9,65%/năm. Khu vực dịch vụ đóng góp 33,5% GDP tăng thêm trong giai đoạn 2001 – 2005. Bảng 2. Nhịp độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1996 – 2005 Đơn vị : % Nhịp độ tăng trưởng 1996 - 2000 2001 - 2005 19996 - 2005 Tổng GDP (giá so sánh 1994) 4,45 7,21 5,82 Nông, lâm, ngư nghiệp 2,7 3,23 2,97 Công nghiệp và xây dựng 5,4 17,1 11,08 Dịch vụ 8,3 9,2 8,75 Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình, 11/2005 Tổng sản phẩm nội tỉnh ( GDP – giá cố định 1994 ) năm 2008 ước đạt 7.146,7 tỷ đồng, tăng 10,56% so với năm 2007. Trong đó khu vực nông, lâm, thuỷ sản đạt 3.274,8 tỷ đồng, tăng 4,09%; khu vực công nghiệp – xây dựng đạt 1.654,5 tỷ đồng, tăng 22,5%; khu vực dịch vụ đạt 2.217,4 tỷ đồng tăng 12,7%. Bảng 3. Cơ cấu kinh tế giai đoạn 1995 – 2008 Đơn vị : % 1995 2000 2005 2008 Tổng GDP 100,0 100,0 100,0 100,0 Nông, lâm, ngư nghiệp 61,7 53,7 42,27 39,9 Công nghiệp-xây dựng 13,01 14,75 22,86 25,6 Dịch vụ 25,29 31,55 34,87 34,5 Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình, 11/2005 Kinh tế Thái Bình với nền kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt là sự phát triển của kinh tế tư nhân đã thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh có xu hướng phát triển nhanh, ngành nghề sản xuất kinh doanh đa dạng, mở rộng thị trường tiêu thụ, đã có sản phẩm xuất khẩu, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, đóng góp đáng kể vào quá trình tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 2001 – 2005 đạt 344,33 triệu USD, tốc độ tăng nhanh, bình quân giai đoạn 2001 – 2005 là 23,6%/năm. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 : 130 triệu USD, tăng 28,7%, kim ngạch nhập khẩu : 115 triệu USD, tăng 14,6% so với năm 2007, chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng nông sản, hang công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu cao như vải, phụ liệu hàng dệt may,… Bảng : Giá trị các sản phẩm sản xuất trên địa bàn tỉnh Thái Bình (theo giá so sánh 1994) Các sản phẩm chủ yếu Đơn vị tính Giá trị qua các năm Nhịp tăng (%) 1995 2000 2005 1996-2000 2001-2005 Khí đốt 103m3 23.562 20.149 23.510 -3,08 3,13 Thịt đông lạnh tấn 304 2.878 5.021 56,76 11,8 Thuỷ sản đông lạnh tấn 21 117 130 40,99 5,1 Gạo ngô xay xát 103tấn 459 527 955 1,26 12,6 Bia 103lít 12.240 16.834 42.200 6,58 20,2 Nước khoáng 103lít - 11.000 28.000 - 20,5 Vải các loại 103 m 3.131 5.270 7.800 10,98 8,2 Khăn mặt 106cái 78,196 174 263 17,35 8,6 Tơ tằm tấn 45,8 80 120 11,8 8,4 Chiếu cói 103cái 7.843 5.500 10.300 -6,85 13,4 Quần áo may sẵn xuất khẩu 103cái 2.235 4.024 18.700 11,6 36,0 Sứ dân dụng 103cái 7.076 3.690 5.200 -12,21 7,1 Gạch xây triệuviên 433 354,4 685 -3,93 14,1 Xi măng tấn 11.068 23.000 25.000 15,75 1,7 Gạch Ceramic triệu m2 - 1,087 3,400 - 25,6 Sứ vệ sinh 103sphẩm 134 233 1.500 11,7 45,1 Sợi bóng cao cấp tấn - - 2.500 - Thép hình 103tấn - - 7,0 - Phôi thép tấn - - 3.000 - Ắc quy các loại 103cái - - 100 - Kim ngạch xuất khẩu tr USD 4,6 29,87 84,5 45,5 23,1 Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình Năm 2008, đã giải quyết việc làm mới cho 26 ngàn người, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống còn 14,5% theo chuẩn nghèo mới. II - Thực trạng hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân ở tỉnh Thái Bình 1. Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế tư nhân tỉnh Thái Bình Từ sau đổi mới kinh tế 1986 đến nay, kinh tế tư nhân của tỉnh mới thực sự được quan tâm._.ền đề cần thiết khác để đi vào giai đoạn phát triển cao hơn. - Phát triển kinh tế đi đôi với xử lý và bảo vệ môi trường. - Giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh vững mạnh, sẵn sang đối phó với mọi tình huống. 2.2. Định hướng phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Thái Bình giai đoạn 2010 – 2020 Trên cơ sở mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh đã xác định, kinh tế tư nhân là có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh, và đề ra định hướng phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn 2010 – 2020 : - Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp có thị trường ổn định, hiệu quả kinh tế cao, các ngành công nghiệp có thể mạnh về nguồn nguyên liệu và sử dụng nhiều lao động. Phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp thực phẩm có nguồn nguyên liệu tại chỗ; phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày có tốc độ tăng trưởng cao nhất, đã và đang tìm được chỗ đứng trên thị trường trong nước và xuất khẩu. - Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu nhằm trang bị công nghệ hiện đại, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. - Phát triển công nghiệp tập trung ở các khu và cụm công nghiệp, củng cố phát triển lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề. - Đẩy mạnh sản xuất, phát huy và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn lực cho mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững. - Nâng cao hiệu quả kinh tế, khuyến khích những ngành hàng, mặt hàng sản xuất, kinh doanh có lợi thế của tỉnh; tiếp tục đầu tư và thu hút đầu tư nguồn nhân lực từ bên ngoài, tăng tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng qua chế biến, sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước, địa phương, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ. - Mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu, chú trọng xuất khẩu hàng nông sản thực phẩm, dệt may, sản phẩm nghề và làng nghề; lấy xuất khẩu làm mục tiêu phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm, tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tỷ trọng hàng gia công, tăng tỷ trọng những mặt hàng có hàm lượng công nghệ chất xám và giá trị gia tăng cao. II - Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thái Bình Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới chuyển đổi nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hoá tập trung, bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với cả nước, khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã có bước phát triển, số lượng các doanh nghiệp và số vốn đầu tư phát triển kinh doanh tăng lên qua các năm, tạo thêm được hàng vạn chỗ làm mới, đóng góp tích cực vào tăng nguồn thu cho ngân sách. Tuy vậy, kinh tế tư nhân còn có rất nhiều khó khăn, hạn chế trong quá trình phát triển như thiếu những nguồn lực cần thiết, môi trường kinh doanh còn nhiều khó khăn, thiếu bình đẳng, kinh tế tư nhân chưa thực hiện tốt những chính sách, pháp luật của Nhà nước… Vì vậy, Nhà nước và Uỷ ban nhân dân tỉnh cần có các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh. Các giải pháp cần tập trung vào các lĩnh vực : - Đổi mới cơ chế, chính sách, từ luật, chính sách của Nhà nước Trung ương và địa phương, từ ban hành đến triển khai thực hiện, từ chính sách chung đến chính sách cụ thể của từng ngành và lĩnh vực. - Đổi mới cơ cấu tổ chức và chức năng bộ máy quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân - Thực hiện các biện pháp hỗ trợ có hiệu quả để kinh tế tư nhân phát triển, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, hỗ trợ vốn, đào tạo nguồn nhân lực, hoàn thiện các yếu tố thị trường. Từ mục tiêu trên và những kết quả nghiên cứu đề tài đưa ra các giải pháp cụ thể sau : 1. Quán triệt và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của về phát triển kinh tế tư nhân Tổ chức học tập quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 (Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX) trong toàn đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, tạo ra sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động, đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân theo đường lối của Đảng. Quan điểm về phát triển kinh tế tư nhân đã được ghi rõ trong Nghị quyết đại hội IX của Đảng, nhưng khi đưa vào thực hiện tại tỉnh vẫn còn những vấn đề chưa thống nhất trong nhận thức và hành động. Đó là cần thống nhất về các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân : kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài nhằm góp phần nâng cao nội lực của đất nước nói chung và của tỉnh Thái Bình nói riêng. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp, khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Chăm lo, bồi dưỡng giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, gắn bó với lợi ích đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện triệt để nội dung và tinh thần Luật doanh nghiệp, thực hiện tốt các chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế tư nhân của Nhà nước và của tỉnh. Tiếp tục tuyên truyền phổ biến Luật doanh nghiệp trong đội ngũ cán bộ, công chức có liên quan thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện, thành phố; quán triệt đầy đủ nội dung Luật doanh nghiệp, nhất là các nội dung về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, của cơ quan Nhà nước có liên quan. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và người kinh doanh được hưởng các chính sách ưu đãi hiện hành của Nhà nước. Đi đôi với việc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, hoạt động sản xuất, phải quản lý chặt chẽ, xử lý nghiêm những vi phạm của các doanh nghiệp. Hỗ trợ thúc đẩy mạnh việc thành lập các hiệp hội, các ngành hàng để tăng cường thông tin, liên doanh, liên kết hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, hạn chế được sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế tư nhân. 2. Soát xét lại, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp và ban hành một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển 2.1.Chính sách đất đai và phát triển cơ sở hạ tầng: Hoàn thiện việc tiếp cận đất đai, tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng Đất đai và nhà xưởng là các nhân tố không thể thiếu đối với tất cả các doanh nghiệp. Nếu không có các quy định rõ ràng và ổn định về quyền sử dụng dài hạn, quyền sở hữu hoặc thuê đất đai và nhà xưởng, thì không có doanh nghiệp công nghiệp hoặc nông nghiệp nào có thể tiến hành sản xuất hoặc kinh doanh. Do đó, việc giảm bớt các quy định về loại đất đai và nhà xưởng nào được cấp quyền hợp pháp hay được nhận sẽ trở thành một yếu tố quan trọng trong việc đẩy nhanh tốc độ thực hiện các dự án và doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh. Căn cứ vào Luật đất đai và quy đinh phân cấp quản lý đất đai của Chính phủ, tỉnh tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp có nhu cầu mặt bằng được thuê đất theo điều kiện cụ thể của địa phương, bảo đảm phù hợp với quy hoạch chung của tỉnh. Việc sửa đổi, bổ sung chính sách đất đai và phát triển cơ sở hạ tầng cần quy đinh rõ về hạn mức diện tích thuê đất, thời gian thuê đất, chuyển nhượng đất thuê. Ban hành các quy định về nghĩa vụ của người sử dụng đất,các chế tài xử phạt hoặc thu hồi đất đối với những doanh nghiệp không thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng thuê đất. Quy định các thủ tục rõ ràng và công bằng để giải quyết các vụ tranh chấp và kiện tụng nhằm giải quyết vấn đề quyền sở hữu và quyền sử dụng trong trường hợp không có những tài liệu cần thiết. Nhà nước đưa ra các quy định cụ thể trình tự, thủ tục đăng ký thuê đất đơn giản và gọn hơn nữa và giảm đầu mối tiến tới thực hiện “một cửa, một dấu” trong thủ tục thuê đất, trước mắt thực hiện cho các dự án đầu tư tại khu công nghiệp và cụm công nghiệp. Tỉnh xem xét, hỗ trợ một phần kinh phí đền bù, giải phóng và san lấp mặt bằng trên diện tích được thuê cho các doanh nghiệp đầu tư. Các doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh trong nội đô thị (thành phố, thị trấn) nếu phải di dời vào các khu công nghiệp hay cụm công nghiệp theo quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh thì được xem xét hỗ trợ một phần kinh phí. Đầu tư, xây dựng hệ thống đường bộ, đường thuỷ, xây dựng hệ thống truyền dẫn : cấp điện, cấp nước, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống tài chính,kho bạc, ngân hàng, … Hoạt động kinh doanh không thể có hiệu quả nếu không có hệ thống kết cấu hạ tầng, hạ tầng càng phát triển thì kinh doanh càng phát triển thuận lợi, càng hiệu quả. Giá cước vận tải, nhất là vận tải hàng không, mức thu phí qua đường bộ, qua cầu, qua phà cao, giá cước bưu chính viễn thông của ta hiện nay còn nhiều và cao hơn so với các nước trong khu vực làm tăng chi phí của các doanh nghiệp, đẩy giá thành sản phẩm tăng, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh các sản phẩm có giá trị kinh tế thấp. Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần có các chính sách vận dụng giá thu phí, giá cước ưu đãi cụ thể từng nhóm hàng, từng ngành kinh doanh, từng vùng cụ thể để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động và tạo môi trường hấp dẫn cho nhà đầu tư. 2.2. Chính sách thuế : Tiếp tục cải cách thuế bằng cách đơn giản hoá thủ tục, sắc thuế và tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế Thực hiện nghiêm chỉnh các luật thuế là nghĩa vụ của các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh cá thể. Việc mở rộng ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp chủ yếu là thuế trực thu. Trên tinh thần đó, hướng sửa đổi bổ sung chính sách ưu đãi về thuế cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh cá thể chấp hành nghiêm chỉnh luật thuế và đáp ứng điều kiện theo quy định được tiếp cận với các chính sách ưu đãi về thuế. Nước ta đã xây dựng thành công một hệ thống thuế toàn diện cho nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề nảy sinh cần phải giải quyết, các mức thuế có xu thế quá cao so với các nước trong khu vực, để khuyến khích đầu tư hoặc các hoạt động kinh tế ưu đãi khác nhiều trường hợp miễn giảm thuế và nhiều mức thuế suất đã được áp dụng. Đặc điểm này đã làm cho hệ thống thuế trở nên phức tạp và dẫn đến việc phân biệt đối xử với những người nộp thuế. Cần phải tiếp tục đơn giản hoá thuế thu nhập công ty và mở rộng diện tính thuế bằng cách loại bỏ các trường hợp miễn thuế và thống nhất thuế suất cho tất cả các doanh nghiệp. Mặc dù thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng nguyên tắc thuế suất duy nhất, nhưng các luật thuế khác như Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước lại quy định một loạt trường hợp miễn giảm thuế rắc rối, mhiều mức thuế suất và các ưu đãi thuế khác để khuyến khích đầu tư và các hoạt động kinh tế ưu đãi khác. Việc thực hiện những ưu đãi về thuế là phức tạp đối với Nhà nước và người nộp thuế. Ban hành chính sách thuế phù hợp, nhất là đối với doanh nghiệp mới thành lập, nghiên cứu sản phẩm mới để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích tụ vốn nhanh, đầu tư sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường; đồng thời có giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, tạo sự minh bạch hơn nữa thông qua in ấn và phổ biến các quy định về thuế (mức thuế, các khoản chi được phép tính, …). 2.3. Chính sách tài chính, tín dụng : Hoàn thiện sự tiếp cận tài chính, tín dụng Thực hiện chính sách tài chính tín dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng với các thành phần kinh tế khác; bảo đảm kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của Nhà nước cho kinh tế hộ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho đầu tư vào các mục tiêu mà Nhà nước khuyến khích. Hoàn thiện việc tiếp cận tín dụng ngân hàng trung và dài hạn bình đẳng để tất cả mọi người, mọi doanh nghiệp đi vay đều tuân thủ những thể lệ giống nhau và được hưởng những ưu đãi và điều kiện tín dụng của Nhà nước như nhau. Sửa đổi và ban hành các Luật và quy định nhằm xây dựng một khung pháp luật toàn diện và hiện đại để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho người vay vốn thực hiện và thực thi tài sản cầm cố thế chấp, việc hoàn thiện các quy định trong lĩnh vực này sẽ tạo ra sự bảo đảm tốt hơn đối với những người cho vay và do vậy sẽ khuyến khích họ cho các doanh nghiệp vay nhiều hơn. Hầu hết các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể khi thành lập, triển khai sản xuất, kinh doanh, vốn tự có rất hạn chế nên đều có nhu cầu vốn rất lớn (trong đó có vốn vay). Tỉnh sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể tiếp cận với các nguồn vốn Nhà nước thông qua các tổ chức tín dụng, các tổ chức chính trị xã hội và các tổ chức khác. Công bố công khai danh mục các ngành nghề được vay vốn, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư từ Quỹ hỗ trợ phát triển. Hàng năm, tỉnh sẽ dành một phần ngân sách để hỗ trợ lãi suất tiền vay, đầu tư xây dựng của các doanh nghiệp. Uỷ ban nhân dân tỉnh đầu tư vốn ngân sách xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật bao gồm : Hệ thống cấp điện, nước, hệ thống xử lý nước thải trung tâm, đường giao thông đến chân hàng rào các khu công nghiệp; đầu tư kinh phí xây dựng quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các thị tứ, làng nghề, xã nghề… 2.4. Chính sách về lao động và đào tạo Trước hết, kinh tế tư nhân phải thực hiện đúng các quy định của Bộ luật lao động. Tất cả các đơn vị sử dụng lao động phải ký kết hợp đồng lao động, mức tiền lương, thời gian làm việc, thực hiện đúng các quy định về bảo hiểm xã hội; bảo đảm các điều kiện vệ sinh môi trường và an toàn lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động (từ 100 lao động trở lên); các dự án thuộc diện ưu đãi đầu tư sử dụng từ 50 lao động trở lên mà doanh nghiệp tự đào tạo sẽ được tỉnh xét hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo lần đầu. Ưu tiên sử dụng lao động tại các nơi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng các Khu công nghiệp và Cụm công nghiệp. Nhà đầu tư và các doanh nghiệp có nghĩa vụ ưu tiên tiếp nhận lao động là con em trong các hộ gia đình có đất bị thu hồi để chuyển giao cho doanh nghiệp đầu tư với điều kiện số lao động đáp ứng các tiêu chuẩn tuyển dụng của doanh nghiệp. Chấn chỉnh, củng cố và đầu tư thích đáng cho hệ thống các trường đào tạo nghề và hướng nghiệp trong tỉnh để có đủ điều kiện cơ sở vật chất và chương trình đào tạo lao động thích hợp với yêu cầu thị trường lao động. Mở các lớp miễn phí đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực kinh doanh cá thể. Khuyến khích hình thức dạy nghề, truyền nghề, phát triển nghề và làng nghề. 2.5. Chính sách về khoa học và công nghệ Định hướng phát triển lĩnh vực này phải nhằm thu hẹp khoảng cách lạc hậu công nghệ, tạo bước nhảy vọt về năng suất chất lượng, hiệu quả; ứng dụng rộng rãi công nghệ ở các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ phù hợp với khả năng, điều kiện tỉnh; phát triển và ứng dụng một số công nghệ cao (tin học, sinh học, tự động hoá) nhằm thực hiện tốt chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để có thể dễ dàng hội nhập vào môi trường khoa học – công nghệ của khu vực và Thế giới. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp khấu hao nhanh máy móc và thiết bị với một khoản khấu trừ khi xác định thuế lợi tức. Khuyến khích các hợp đồng thuê tài chính, thuê mua và bán trả góp để các doanh nghiệp có thể tiếp cận hoặc nâng cấp máy móc, thiết bị mới một cách tốt hơn, các văn bản pháp luật cần tạo điều kiện thuận lợi để các thoả thuận thuê tài chính, thuê mua và các hợp đồng trả góp được thực hiện dễ dàng. Tiếp tục loại bỏ những trở ngại về pháp luật và chính sách đối với việc chuyển giao công nghệ - bao gồm yêu cầu đòi hỏi về sự phê duyệt từng trường hợp chuyển giao công nghệ - và cho phép việc chuyển giao công nghệ tuân theo các hợp đồng được thực hiện trên cơ sở tự do thoả thuận. Tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục và giảm bớt các phí tổn đối với thị thực nhập cảnh đặc biệt là đối với các cán bộ kỹ thuật, các nhà khoa học và những người điều hành kinh doanh nước ngoài, bởi họ là những phương tiện chuyển giao công nghệ, thông qua việc đào tạo và thực hiện mà họ cung cấp cho nhà quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân Việt Nam. Xây dựng quỹ phát triển khoa học – công nghệ, quỹ khen thưởng, chính sách sử dụng nhân tài, phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ tại địa phương. 2.6. Chính sách hỗ trợ về thông tin và xúc tiến thương mại Cần có cơ chế và phương tiện bảo đảm cho khu vực kinh tế tư nhân có những thông tin cần thiết. Khuyến khích và hỗ trợ các hộ kinh doanh, các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại. Tập trung vào việc cập nhập các văn bản pháp quy về kinh doanh cho các doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau. Hỗ trợ kinh phí để bổ sung các loại sách báo về pháp luật, trong đó có pháp luật về kinh tế, sách khoa học kỹ thuật cho các điểm Bưu điện văn hoá xã để mọi người dân có điều kiện tìm hiểu. Hỗ trợ một phần tiền thuê mặt bằng cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm trong tỉnh, hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế. 3. Tăng cường các biện pháp quản lý, cải tiến các thủ tục hành chính của Nhà nước có liên quan đến kinh tế tư nhân Xác định rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân để nắm cho được tình hình đăng ký kinh doanh và hoạt động của các hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Uỷ ban nhân dân tỉnh giao cho các Sở, ngành quản lý theo chuyên ngành, giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư làm cơ quan đầu mối để phối hợp theo dõi, tổng hợp tình hình, phát hiện và đề xuất những biện pháp tháo gỡ khó khăn và chủ động uốn nắn những sai phạm của kinh tế tư nhân. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác cải cách hành chính : Tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại bộ máy, khắc phục cho được tình trạng bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực,xác định cải cách hành chính, thể chế hành chính là nội dung quyết định thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, cán bộ trực tiếp làm việc với dân và doanh nghiệp, chấn chỉnh việc thi tuyển công chức, viên chức, đặc biệt là ở cấp tỉnh, cấp huyện; thực hiện tiêu chuẩn hoá công chức, viên chức, từng bước sắp xếp lại hệ thống đào tạo, giáo dục để có được một đội ngũ công chức, viên chức có năng lực đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý Nhà nước hiện nay cũng như thực hiện chế độ cải cách tiền lương, để công chức, viên chức yên tâm công tác. Xử lý nghiêm minh, bình đẳng, công bằng mọi vi phạm của các công chức, viên chức. Thực hiện sớm cải cách hành chính theo mô hình “ một cửa, một dấu” ở những công việc liên quan đến doanh nghiệp trong lĩnh vực : đầu tư, đất đai, xây dựng thuộc các Sở, ngành : Kế hoạch và Đầu tư, Xây dựng, Địa chính, Khoa học – công nghệ và môi trường và các Sở chuyên ngành khác. Kiện toàn cơ cấu tổ chức, chức năng bộ máy, tiến tới thành lập mới một cơ quan hoặc một tổ chức của Chính phủ để chịu trách nhiệm chính trong việc trợ giúp Chính phủ đề ra chính sách phát triển kinh tế tư nhân và phối hợp thực hiện chính sách giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, cụ thể là hoạch định các chính sách và đề ra chiến lược, để tạo môi trường thuận lợi cho việc thành lập, phát triển và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân và các cơ quan quản lý Nhà nước, giải quyết có hiệu quả các vấn đề thực hiện chính sách pháp luật; phân công cho một cơ quan chuyên trách thực hiện những trách nhiệm và chức năng tương tự ở cấp tỉnh và địa phương bao gồm các trách nhiệm truyền đạt và phối hợp với cơ quan hoặc tổ chức phát triển kinh tế tư nhân hiện có hoặc mới được thành lập, được phân công ở cấp Trung ương. Thành lập cơ sở dữ liệu, tập trung thông tin về các doanh nghiệp, công ty đã đăng ký kinh doanh : Tập trung tất cả các thông tin về các doanh nghiệp và công ty đã đăng ký thành lập vào một hệ thống cơ sở dữ liệu duy nhất và hình thành cơ chế cung cấp những thông tin này một cách dễ dàng và nhanh chóng cho công chúng cũng như cho các cơ quan Nhà nước. Điều này cho phép các cơ quan Nhà nước có được những thông tin cơ bản về mọi doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường và hình thức pháp lý của các doanh nghiệp, cung cấp công khai những thông tin đó sẽ làm tăng sự minh bạch của các doanh nghiệp và ngăn ngừa tình trạng lừa đảo. Quan tâm đầu tư môi trường văn hoá – xã hội : Tiếp tục củng cố an ninh trật tự từ cơ sở để các doanh nghiệp an tâm đầu tư, sản xuất, kinh doanh; tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân để nhân dân hiểu rõ. Tỉnh tạo mọi điều kiện để người dân và doanh nghiệp được hưởng các chính sách văn hoá – xã hội như các tỉnh, vùng khác. Đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới : - Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận ngoại tệ. Ngoại tệ là huyết mạch của hoạt động ngoại thương và đầu tư trong phạm vi mà máy móc, thiết bị, linh kiện sản xuất, công nghệ, phụ tùng và các sản phẩm trung gian khác phải nhập khẩu từ nước ngoài. Nhà nước cần có những chính sách cần thiết tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận dễ dàng hơn với ngoại tệ để tham gia hoạt động thương mại quốc tế, đầu tư và các giao dịch chuyển giao công nghệ. Nhà nước duy trì việc kiểm soát ngoại tệ nhưng cho phép các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường không chính thức để huy động ngoại tệ trong khu vực tư nhân vào mục đích sản xuất. Nhà nước cần thay đổi chính sách quản lý ngoại tệ đang có những ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường tiền tệ và hoạt động đầu tư trong nước. - Hoàn thiện môi trường, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân tiếp cận, cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Kinh tế tư nhân với những hạn chế của mình, khó có thể tự mình cạnh tranh trên thị trường thế giới nếu thiếu những hỗ trợ tích cực của Nhà nước, nhất là về thông tin và hỗ trợ xuất khẩu, đổi mới thiết bị công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực. 4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, phát huy vai trò Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với việc phát triển kinh tế tư nhân 4.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền địa phương Các cấp uỷ đảng, chính quyền tăng cường quán triệt và phổ biến rộng rãi trong Đảng và nhân dân về chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tích cực lãnh đạo triển khai và kiểm tra việc thực hiện của các cấp các ngành. Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và các tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên trong các doanh nghiệp của tư nhân có điều kiện. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc, tổ chức công đoàn và các đoàn thể nhân dân khác, bảo đảm phát huy tác dụng thiết thực. Cấp uỷ, chính quyền, các cơ quan chức năng có liên quan ở các cấp thường xuyên theo dõi nắm chắc tình hình, tổ chức gặp mặt động viên, lắng nghe ý kiến, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. 4.2. Khuyến khích thành lập các hiệp hội, hội doanh nghiệp - Khuyến khích thành lập các lập các hiệp hội, hội, xây dựng chiến lược,kế hoạch và nội dung hoạt động của hiệp hội, trên cơ sở đó, kiện toàn tổ chức bộ máy lãnh đạo hiệp hội, bổ sung cán bộ có năng lực, uy tín, nhiệt tình; tăng cường năng lực, tính chuyên nghiệp, chuyên nghiệp, chuyên môn, tính thiết thực và hiệu quả trong hoạt động của hiệp hội. - Thường xuyên tập hợp các kiến nghị của doanh nghiệp về luật pháp,cơ chế chính sách, về cách thức quản lý, điều hành của cơ quan Nhà nước các cấp, về thái độ của đội ngũ công chức; phân tích, tổng hợp và đề bạt các kiến nghị đó đến các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, có liên quan, các cơ quan thông tin đại chúng và các hiệp hội khác; theo dõi, đánh giá sự “tiếp thu” của cơ quan Nhà nước, nguyên nhân của “tiếp thu” và “không tiếp thu” để có giải pháp tiếp theo. - Tuyên truyền, giáo dục thành viên xây dựng văn hoá kinh doanh tiến bộ, kinh doanh trung thực, có ý thức chấp hành luật pháp và trách nhiệm cộng đồng cao. - Nâng cao chất lượng cung cấp thông tin; nâng cao chất lượng và đa dạng hoá hình thức trao đổi kinh nghiệm và cơ hội kinh doanh; hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển kinh doanh. - Thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trước những can thiệp hành chính trái pháp luật của các cơ quan Nhà nước hoặc trước các sự việc hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự. - Nâng cao ý thức kinh doanh trong cộng đồng doanh nghiệp : Thực sự cầu thị và nâng cao ý thức xây dựng văn hoá kinh doanh, đạo đức kinh doanh của doanh nhân Việt Nam : kinh doanh trung thực, chấp hành đúng pháp luật, ý thức trách nhiệm cộng đồng cao, chăm lo đời sống của người lao động; xây dựng và củng cố uy tín, sự tín nhiệm của khách hàng, … Từng bước học tập xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh, cải tiến nâng cao chất lượng, tính thiết thực và hữu ích của chiến lược, kế hoạch trong quản lý hoạt động và quá trình phát triển của công ty. Xây dựng ý thức thường xuyên cải thiện nâng cao tính minh bạch trong quản trị nội bộ công ty góp phần làm lành mạnh môi trường kinh doanh chung của cả nước. 4.3. Thực hiện khen thưởng và xử lý vi phạm Thực hiện công tác thi đua khen thưởng một cách nghiêm túc, công bằng đối với các doanh nghiệp và cả các tổ chức cá nhân Nhà nước có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp như quy định tại điều 119, 120, 121 của Luật doanh nghiệp; khen thưởng kịp thời đối với các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, trong việc nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, có đóng góp lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ phát triển kinh tế đất nước, đều được khen thưởng theo quy định của pháp luật. Xử lý nghiêm túc, công bằng các hành vi vi phạm Luật doanh nghiệp như : cấp giấy đăng ký kinh doanh cho người không đủ điều kiện hoặc từ chối cấp giấy đăng ký kinh doanh cho người đủ điều kiện; vi phạm các quy định về kiểm tra, thanh tra hoạt động của doanh nghiệp; thực hiện kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp mà không đăng ký kinh doanh, hoặc tiếp tục đăng ký kinh doanh khi bị thu hồi giấy phép; kê khai không trung thực, không chính xác, không kịp thời nội dung, thay đổi nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh; cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế; …. Các vi phạm này đều phải xử lý và tuỳ theo mức độ và tính chất vi phạm, người có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 5. Điều kiện thực hiện Uỷ ban nhân dân tỉnh tổ chức chỉ đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư kết hợp với các cấp, các ngành xây dựng kế hoạch và chương trình cụ thể để triển khai Đề án tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích và tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển. Các huyện, thành phố tiến hành kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện và có kế hoạch tăng cường chỉ đạo hoạt động kinh tế tư nhân ở địa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ và các cơ quan thông tin đại chúng có kế hoạch phổ biến, tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân. Cổ vũ biểu dương kịp thời những doanh nhân, đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Sở Kế hoạch và Đầu tư, văn phòng Tỉnh uỷ theo dõi việc triển khai, tổ chức thực hiện và thường xuyên báo cáo kết quả về Ban thường vụ tỉnh uỷ. KẾT LUẬN Sự phát triển của kinh tế tư nhân tỉnh Thái Bình thời gian qua đã khơi dậy tiềm năng của đất nước và của tỉnh trong phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn tiềm năng này bao gồm trí tuệ, kinh nghiệm, năng lực quản lý, khả năng kinh doanh, quan hệ kinh tế xã hội với các vùng trong cả nước và cả với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, vốn, sức lao động, tài nguyên, … Phát triển kinh tế tư nhân đã góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, huy động vốn đầu tư trong xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo được nhiều việc làm, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách cho Nhà nước, tham gia sản xuất nhiều mặt hàng xuất khẩu, tác động tích cực đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế kinh tế, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở tỉnh. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân còn phát triển nhỏ lẻ, kinh tế cá thể vẫn còn một lượng đông đảo, loại hình doanh nghiệp tuy phát triển mạnh nhưng chủ yếu vẫn là quy mô nhỏ. Quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế này đã có những đổi mới cơ bản, bước đầu đã tạo môi trường kinh doanh cho các cơ sở kinh tế tư nhân hoạt động tương đối thuận lợi. Tuy vậy, vẫn còn nhiều trở ngại đối với phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh, chủ yếu là môi trường pháp luật, chính sách chưa ổn định, bộ máy quản lý còn cồng kềnh, kém hiệu lực, biện pháp hỗ trợ chưa thoả đáng. Do vậy, Đảng, Nhà nước và Uỷ ban nhân dân tỉnh cần có những chính sách, dành nhiều sự quan tâm hơn nữa đến khu vực kinh tế này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá IX: Về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX- NXB Chính trị quốc gia Hà Nội Luật doanh nghiệp năm 2005 – NXB Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Thái Bình : Báo cáo tình hình hoạt động kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình năm 2008 và phương hướng năm 2009 Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình : Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình thời kỳ 2001 – 2005 Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình : Báo cáo đánh giá 5 năm thi hành Luật doanh nghiệp tỉnh Thái Bình năm 2005 Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình : Báo cáo tình hình hoạt động của các doanh nghiệp năm 2008 và phương hướng phát triển năm 2009 Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình : Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình từ 2005 – 2020 Cục thống kê tỉnh Thái Bình : Khái quát về cuộc điều tra hoạt động sản xuất kinh doanh các loại hình sản xuất doanh nghiệp năm 2005 Website của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình : www.thaibinh.gov.vn MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21439.doc
Tài liệu liên quan