Một số giải pháp thúc đẩy Hoạt động xuất nhập khẩu cà phê của Công ty Intimex

Lời nói đầu Ngành cà phê Việt Nam là một ngành sản xuất có truyền thống lâu đời, trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển, ngành cà phê đã đạt được những thành tựu to lớn. Cà phê đã và đang trở thành mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn mang tính chiến lược trong cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam. Ngày nay, sản xuất cà phê thế giới đang tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển nằm ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Việt Nam không những có điều kiện khí hậu thuận lợi mà còn có cả thổ nhưỡng phù hợ

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy Hoạt động xuất nhập khẩu cà phê của Công ty Intimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p với việc canh tác cà phê. Đây là một trong những ưu thế lớn để có thể phát triển mạnh hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong thời gian tới. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp mới thúc đẩy hoạt động xuất khẩu mặt hàng cà phê đối với các doanh nghiệp của Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với công ty kinh doanh xuất nhập khẩu có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản lớn như Công ty xuất nhập khẩu Dịch vụ Thương mại INTIMEX. Đây chính là lý do để tôi chọn đề tài này cho đề án môn Thương mại quốc tế của mình. Mục đích của đề tài này là nhằm nắm rõ ý nghĩa của mặt hàng cà phê với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty, qua đó đề xuất một số phương án và giải pháp phát triển xuất khẩu cà phê cho công ty INTIMEX. Do những hạn chế nhất định về thời gian và phạm vi nghiên cứu, đề án này không đề cập đến các hoạt động kinh doanh khác. Với mục tiêu và phạm vi như vậy đề án có kết cấu như sau: - Chương I : Khái quát chung về mặt hàng cà phê và thị trường xuất khẩu cà phê của công ty INTIMEX. - Chương II : Tình hình xuất nhập khẩu mặt hàng cà phê tại công ty INTIMEX. - Chương III : Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu cà phê của công ty INTIMEX trong thời gian tới. Chương 1 Khái quát chung về mặt hàng cà phê và thị trường xuất khẩu của công ty intimex. I - Quá trình hình thành và phát triển của ngành cà phê. 1. Sự ra đời và phát triển ngành cà phê thế giới. 1.1. Sự ra đời. Cây cà phê lần đầu tiên được những người Etiôpia phát hiện ra cách đây khoảng 1000 năm, sau đó nó nhanh chóng được những người dân trong khu vực sử dụng như một thứ nước giải khát với tác dụng kích thích mạnh mẽ chưa từng được biết đến. Bởi vậy, thời đó quả cà phê được những người dân này coi như một báu vật thần kỳ mà trời đã ban cho họ. Cho tới thế kỷ VI cây cà phê đã lan sang tới Yêmen và vươn tới các nước khác thuộc khu vực Trung cận Đông, sau đó nó nhanh chóng có mặt ở khắp các nước Arập. Vì thế, cho tới ngày nay có loại cà phê có tên gọi là cà phê Arabica. Vào khoảng đầu thế kỷ XVI, các nhà buôn bắt đầu nhập khẩu cà phê vào châu Âu và thứ nước uống từ quả cà phê trở nên quen thuộc trong giới thượng lưu thời đó. Cùng thời gian này, cây cà phê cũng được trồng thử ở Nam Mỹ, châu á, châu Đại dương. Kết quả trồng thử khả quan đã thúc đẩy các nhà buôn và người dân trong các khu vực này đầu tư vào cây cà phê với mục đích thương mại. Tới cuối thể kỷ XVII, cây cà phê đã tìm được một vị trí vững chắc trong ngành trồng trọt thế giới. Nhu cầu tiêu thụ cà phê cùng các sản phẩm từ cây cà phê cũng tăng dần theo thời gian tạo điều kiện thúc đẩy ngành sản xuất ngày càng phát triển, chính thức đưa nó bước sang một giai đoạn phát triển mới với quy mô rộng khắp trên tòan thế giới. 1.2. Quá trình phát triển. Cũng như hầu hết các loại cây trồng quan trọng khác trên thế giới, cùng với sự tham gia tăng mạnh mẽ việc khai phá đất hoang, diện tích canh tác cà phê cũng đã tăng mạnh. Vào năm 1985, diện tích trồng cà phê đã đạt khoảng 9,5 triệu ha. Sau đó tốc độ tăng có chậm lại nếu xét trên phạm vi toàn thế giới, tuy nhiên, nếu xét theo khu vực thì khu vực châu á vẫn tiếp tục đạt mức tăng bình quân tới 4,25% năm còn các khu vực khác lại có sự suy giảm hoặc tăng không đáng kể. Tới năm 1995, diện tích trồng cà phê trên thế giới là 10.493.900 ha, tính bình quân mỗi năm đã tăng khoảng 0,1%. Về chủng loại cà phê, kể từ khi được phát hiện ra tới nay tuy chưa có tài liệu nào thống kê chính thức, song thực tế cho thấy nếu xét về khía cạnh thương mại hiện đang tồn tại khoảng hơn mười loại cà phê khác nhau trong đó gồm hai loại chủ yếu là cà phê chè (Arabica) chiếm khoảng 64,5% và cà phê vối (Robusta) chiếm khoảng 34,5%. Ngoài ra, hiện nay để theo dõi tình hình buôn bán cà phê trên thế giới người ta còn phân chia cà phê chè (Arabica) ra làm ba loại khác nhau là: cà phê dịu Comombia, các loại cà phê dịu khác, cà phê Arabica của Braxin và Natural Arabica. 2. Sự ra đời và phát triển ngành cà phê Việt Nam. Cây cà phê lần đầu tiên được người Pháp đưa vào trồng ở nước ta vào năm 1887 tại hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị. Sau đó chúng được trồng thử nghiệm tại nhiều tu viện nhằm thăm dò khả năng phát triển cà phê trên diện rộng ở Việt Nam. Cây cà phê tỏ ra nhanh chóng thích nghi với điều kiện tự nhiên ở một số vùng như: Tây nguyên, Trung du và miền núi phía Bắc ... cho thấy khả năng phát triển ngành cà phê Việt Nam sau này. Tính tới năm 1945 diện tích cà phê cả nước đã đạt mức 10.700 ha trong đó: Bắc kỳ là 4.100 ha, Trung Kỳ là 5.902 ha và Nam Kỳ là 700 ha với năng suất trung bình lên cả ba miền đạt khoảng 4 - 5tạ/ha. Lượng cà phê sản xuất ra trong thời kỳ này chủ yếu được các chủ đồn điền thu mua và xuất khẩu sang Pháp. Chất lượng cà phê trồng ở Việt Nam lúc đó được đánh giá tương đương với loại cà phê Arabica của Colombia. Thời kỳ sau năm 1945 đến năm 1954, do điều kiện chiến tranh nên diện tích cũng như sản lượng cà phê Việt Nam đã bị giảm sút nhiều. Sau đó, trong thời kỳ miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều nông trường cà phê đã được xây dựng. Tuy nhiên, do những khó khăn về điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện kỹ thuật mà năng suất cũng như sản lượng cà phê ở miễn Bắc thời kỳ đó còn khá thấp. Diện tích cà phê năm cao nhất cũng chỉ đạt 14.000 ha (1963) và sản lượng năm cao nhất cũng chỉ là 4.850 tấn (1968). ở miền Nam, diện tích và sản lượng cà phê cũng có nhiều biến động. Nếu năm 1945 chỉ là 700 ha thì năm 1946 là 3.019 ha, tới năm 1957 con số đó là 3373 ha. Sau đó chính phủ ngụy quyền cũ cũng đã cho xây dựng nhiều đồn điền cà phê, vì vậy tới năm 1964 diện tích cà phê ở miền Nam đã đạt 11.120 ha. Tuy nhiên, cũng do chiến tranh xảy ra ác liệt sau đó mà tới năm 1975 khi miền Nam hoàn toàn giải phóng diện tích cà phê chỉ còn khoảng 10.000 ha. Đến năm sau 1975 ngành cà phê Việt Nam mới thực sự bước sang giai đoạn phát triển với sự gia tăng liên tục về diện tích canh tác cũng như sản lượng. Nếu năm 1976 tổng diện tích cà phê trên cả nước là 18.800 ha với sản lượng khoảng 9.000 tấn thì tới năm 1980 các con số đó là 22.000 ha và 9.700 tấn, năm 1985 tổng diện tích cà phê đã đạt 44.700 ha và sản lượng đạt 12.300 tấn. Trong giai đoạn này năng suất bình quân mới chỉ đạt khoảng 6,5-7 tạ/ha do chúng ta chưa thực sự quan tâm tới kỹ thuật canh tác cà phê cũng như chưa có điều kiện tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật từ nước ngoài mà chỉ chú trọng tới việc gia tăng diện tích bằng việc tích cực khai phá đất hoang. Tuy vậy, chất lượng cà phê Việt Nam vẫn được đánh giá cao trên thị trường Quốc tế với các bạn hàng chủ yếu là Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Ngòai ra, vào đầu thập kỷ 80 chúng ta cũng đã xuất khẩu được một số lượng cà phê đáng kể sang Singapore và Hồng Kông. Đó chính là cột mốc đáng ghi nhớ mở ra một thời kỳ mới đối với sự phát triển của ngành cà phê, hòa nhập cùng sự phát triển của đất nước trong giai đoạn đổi mới, mở cửa nền kinh tế . II - Phân bố cây cà phê ở Việt Nam: 1. Phân bố theo vùng. Hiện nay ở Việt Nam cây cà phê được trồng ở 4 khu vực chủ yếu bao gồm: Trung du và miền núi phía Bắc, Trung bộ, Tây nguyên và khu vực Đông Nam Bộ. Trong đó, khu vực Tây nguyên - Đông Nam Bộ đóng vai trò quan trọng nhất. Đây là khu vực có điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi cho việc trồng và chăm sóc cà phê, vì vậy hàng năm khu vực này thường chiếm 72 - 94% về diện tích canh tác và từ 82 - 98 % về sản lượng cà phê cả nước. Hơn nữa, khu vực này còn có quỹ đất chưa khai hoang khá lớn, vì vậy trong tương lai khu vực này vẫn sẽ là trung tâm phát triển của ngành cà phê Việt Nam . Bên cạnh khu vực Tây nguyên - Đông Nam Bộ thì khu vực miền Trung thuộc khu bốn cũ cũng có một vai trò đáng kể trong ngành cà phê. Năm cao nhất (1983) khu vực này đã chiếm tới 23,37% diện tích và 16,63% sản lượng cà phê toàn ngành. Tuy nhiên, sau đó diện tích cũng như sản lượng đã liên tục suy giảm vì nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản là năng suất trồng cà phê quá thấp không đủ bù đắp chi phí. Cho tới tận thời gian gần đây, do đã chú trọng tới việc áp dụng kỹ thuật mới để nâng cao năng suất, ngành cà phê khu vực này mới có dấu hiệu hồi phục. Nếu so với sản lượng 548 tấn vào năm 1981 thì tới năm 1990 sản lượng cà phê khu vực này đã đạt 737 tấn và tới năm 1994 đạt 1.021 tấn. Ngoài ba khu vực kể trên thì khu vực Trung du và miền núi phía Bắc cũng đã từng là một khu vực cho tỷ trọng sản xuất đáng kể trong toàn ngành cà phê. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cà phê Việt Nam thì diện tích cũng như sản lượng cà phê của khu vực này lại tụt giảm nhanh chóng, các nông trường cà phê được xây dựng trước đây hầu như không còn hoạt động, hoạt động sản xuất cà phê của tư nhân cũng chỉ còn rất lẻ tẻ, hầu như không cho sản lượng thương mại đáng kể . Nguyên nhân của hiện tượng này không chỉ do điều kiện tự nhiên không thuận lợi mà còn do người dân ở đây chưa thấy hết được nguồn lợi do cây cà phê đem lại, cũng như chưa nắm bắt được kỹ thuật canh tác cà phê để có thể mang lại năng suất cao đủ bù đắp chi phí và cho lợi nhuận. Nếu chỉ xét riêng theo các tỉnh thành thì chỉ riêng 4 tỉnh: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Đồng Nai, Gia Lai đã chiếm khoảng 58% tổng diện tích cà phê cả nước trong đó Đắc Lắc là 87.170 ha, Lâm Đồng: 38.410 ha, Đồng Nai: 17.863 ha và Gia Lai: 18.599 ha (1975). Về sản lượng, các tỉnh này cũng chiếm từ 60 đến 70% tổng sản lượng cà phê cả nước. Thậm chí các con số này còn có thể cao hơn nữa trong một vài năm tới. 2. Phân bố theo thành phần kinh tế . Ngành trồng trọt cà phê ở Việt Nam bao gồm 2 thành phần kinh tế chủ yếu là thành phần tư nhân và thành phần tập thể. Tỷ trọng sản lượng giữa hai thành phần này luôn có sự biến động mạnh mẽ qua các thời kỳ. Từ khoảng giữa thập kỷ 80 trở về trước sản lượng cà phê tập trung chủ yếu vào thành phần kinh tế tập thể với một hệ thống các nông trường quốc doanh quy mô lớn. Trong bối cảnh chung của nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đó, các nông trường cà phê của Nhà nước có rất nhiều điểm thuận lợi so với các hộ nông dân canh tác đơn lẻ, vì vậy diện tích, năng suất cũng như sản lượng cà phê quốc doanh luôn chiếm tỷ lệ áp đảo so với thành phần tư nhân. Ngược lại, do sự thua thiệt về điều kiện vật chất, kỹ thuật mà thành phần kinh tế tư nhân chưa thể hiện được vai trò của nó trong việc trồng và sản xuất cà phê. Bước vào năm 1986, cùng với chính sách mở cửa của Nhà nước, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, các thành phần kinh tế tư nhân trong nhiều ngành nghề mới có điều kiện bung ra phát triển, các hộ trồng cà phê cũng nhanh chóng hòa nhập vào xu hướng đó tạo động lực thay đổi cơ cấu sản lượng theo thành phần kinh tế trong ngành cà phê Việt Nam. Sự thay đổi này có thể thấy rõ nét qua bảng thống kê sau: Biểu 1: Tỷ trọng sản lượng cà phê giữa các thành phần kinh tế Năm Thành phần 1980 1985 1990 1995 Tư nhân 28% 49% 76% 79% Tập thể 72% 51% 24% 21% (Nguồn: Niên giám thống kê 80 - 95) Tỷ lệ 21 - 79 này vẫn đang tiếp tục thay đổi theo hướng giảm dần vai trò của thành phần kinh tế tập thể. Sở dĩ có hiện tượng này một phần còn là do trong những năm gần đây ngành cà phê có chủ trương nhượng lại quyền canh tác cà phê từ các nông trường cho các hộ nông dân vốn trong cơ chế cũ vẫn nhận khoán canh tác cà phê của các nông trường quốc doanh. Như vậy, có thể thấy rằng trong tương lai không xa thành phần kinh tế tư nhân sẽ chiếm vai trò chủ đạo trong ngành cà phê Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không thể phủ nhận vai trò của các doanh nghiệp quốc doanh, bởi chỉ các doanh nghiệp Nhà nước mới có đủ vốn và nhân lực phục vụ cho công cuộc hiện đại hóa ngành cà phê, đưa nó phát triển mạnh hơn nữa trong giai đoạn tới. III - Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam và Thế giới: 1. Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê ở Việt Nam. 1.1. Tình hình sản xuất . Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển ngày nay cà phê đã thực sự được chỗ đứng trong nền kinh tế Việt Nam. Ngành cà phê có những bước phát triển không ngừng cả về diện tích cũng như sản lượng. Sở dĩ có được thành quả đó là bởi nhiều nguyên nhân, trước hết đó là nguồn lợi có được từ việc trồng cà phê. Cây cà phê là loại cây công nghiệp đặc sản của vùng nhiệt đới mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều nếu đem so với việc trồng các loại cây nông sản khác. Theo tính toán, việc trồng 1 ha cà phê thường mang lại giá trị kinh tế cao gấp 1,5 lần so với trồng 1 ha lúa và gấp từ 5 đến 10 lần so với việc trồng một số loại cây công nghiệp khác. Hơn nữa cùng với sự đổi mới nền kinh tế đất nước, chúng ta có nhiều cơ hội giao lưu buôn bán với thế giới bên ngoài hơn, hàng hóa của Việt Nam mà cụ thể là mặt hàng cà phê có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới. Điều đó chính là động lực thúc đẩy ngành cà phê phát triển. Ngoài ra còn có một nguyên nhân hết sức quan trọng khác đó là sự nhạy cảm của những người trực tiếp tham gia sản xuất và xuất khẩu cà phê. Nhờ nắm bắt được nhu cầu thị trường thế giới cùng việc đẩy mạnh áp dụng kỹ thuật canh tác, chú trọng đầu tư thâm canh, tăng cường khai hoang nâng cao diện tích trồng cà phê mà năng suất cũng như sản lượng cà phê của Việt Nam đã tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Liên tục nhiều năm năng suất tăng rõ rệt từ 600-700 kg nhân/ ha nay đạt bình quân 1,4 tấn nhân/ ha, cá biệt có nơi 4- 4,5 tấn nhân/ ha. World Bank đánh giá năm 1996 năng suất cà phê vối (Robusta) của Việt Nam (1,48 tấn/ ha) xếp nhì thế giới, sau Costa Rica (1,6 tấn/ ha), trên Thái Lan (0,99 tấn/ ha). Cùng với năng suất, diện tích và sản lượng cà phê của Việt Nam cũng đang ở mức rất cao, có xu hướng tiếp tục tăng. Biểu 2: Sản xuất cà phê Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000 Năm Chỉ tiêu 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Diện tích (1000 ha) 135,5 135,5 143 148,8 164,6 186 254 296 350 420 DT tăng so với niên vụ trước(1000 ha) 0 7,5 5,8 15,8 37,2 68 42 54 70 SL cà phê ( 1000 tấn) 82,5 131,4 145,2 179 212,5 235 362 400 420 600 SLtăng so với niên vụ trước(1000tấn) 48,9 13,8 33,8 33,5 22,5 127 38 20 180 Năng suất (tấn/ha) 0,61 0,97 1,02 1,20 1,29 1,26 1,43 1,35 1,20 1,43 NS tăng so với niên vụ trước (tấn/ha) 0,36 0,05 0,18 0,09 -0,03 0,17 -0,08 -0,15 0,23 (Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 1991 - 2000) Qua bảng số liệu trên chúng ta nhận thấy rằng diện tích cà phê VN tăng rất mạnh và còn tiếp tục tăng. Đây chính là kết quả từ chính sách khuyến khích phát triển cà phê của chính phủ trong kinh tế hộ gia đình, tư nhân kết hợp với đầu tư hỗ trợ của Nhà nước qua các chương trình định canh, định cư, phủ xanh đất trống đồi trọc. Bên cạnh mặt đáng mừng, diện tích tăng mạnh cũng phản ánh một tình trạng đáng ngại đó là sự phát triển vượt tầm kiểm soát của cà phê trồng mới.Đây là một trở ngại trong công tác chỉ đạo kinh doanh xuất khẩu. Như vậy nếu như trong cả thời kỳ 100 năm phát triển tới năm 1985 ngành cà phê Việt Nam mới đạt sản lượng khoảng 12 ngàn tấn thì trong các năm của thập kỷ 90 mỗi năm sản lượng cà phê của Việt Nam đều tăng hàng chục ngàn tấn, thậm chí từ năm 96 tới năm 97 sản lượng đã tăng 127 nghìn tấn. Tuy nhiên đó mới chỉ là những con số thể hiện bề nổi của ngành cà phê Việt Nam. Thực tế cho thấy mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong việc nâng cao diện tích, năng suất, cũng như sản lượng nhưng chúng ta còn rất nhiều khó khăn trong các công đoạn sản xuất cà phê sau thu hoạch. Các hộ nông dân hầu như chỉ sản xuất theo hướng tự phát, ít có chiến lược phát triển lâu dài, vì vậy các vấn đề về công nghệ, kỹ thuật sau thu hoạch hầu như bị bỏ trống, điều đó đã lý giải lý do tại sao trong thời gian gần đây cà phê Việt Nam không còn được đánh giá cao về chất lượng như trước kia. Theo thống kê vào đầu niên vụ 94/95 các nông trường và các hội nông dân chỉ mới đáp ứng được khoảng 30% tổng sản lượng cà phê thu hoạch được phơi và sấy khô theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. Nghĩa là 70% còn lại không đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật và sự sút giảm về chất lượng sẽ là một tất yếu. Đến năm 1997 tỉ lệ này nhích lên 45% tương đương 170.000 tấn trong tổng số 360.000 tấn cà phê của cả nước. Nhờ sự quan tâm và hướng dẫn của ngành cà phê đối với các hộ sản xuất đơn lẻ mà tới đầu năm 99 toàn ngành cà phê đã được đầu tư máy móc thiết bị đảm bảo cho khoảng 70% sản lượng cà phê sản xuất ra đạt chất lượng cao đáp ứng đòi hỏi của thị trường quốc tế. Bên cạnh đó trong một vài năm gần đây chúng ta đã cố gắng chuyển hướng sang sản xuất cà phê hòa tan nhằm đưa sản phẩm tiêu dùng cuối cùng tới người tiêu dùng trong nước và người tiêu dùng quốc tế. Kết quả, trong năm 98 chúng ta đã sản xuất được khoảng 2100 tấn và xuất khẩu gần 1000 tấn, hứa hẹn những bước phát triển mới trong tương lai. 1.2. Tình hình xuất khẩu. Cùng với những thành tựu to lớn mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua, lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam cũng đã có những bước phát triển vô cùng quan trọng. Đóng góp vào sự phát triển đó ngành cà phê đã thực hiện sự khẳng định được vai trò của mình. Sự tăng trưởng xuất khẩu cà phê của Việt Nam không những được nhìn nhận trong nội tại nền kinh tế đất nước mà còn được các tổ chức quốc tế như ICO, ESCAP, ... công nhận. a. Kim ngạch, khối lượng, giá cả. Do sản xuất cà phê trong nước phát triển liên tục trong nhiều năm qua mà khối lượng cà phê xuất khẩu cũng có sự gia tăng mạnh mẽ. Từ chỗ mỗi năm Việt Nam chỉ xuất khẩu được 5 đến 7 nghìn tấn cà phê với kim ngạch chưa khi nào vượi quá 10 triệu USD Mỹ thì tới nay đã là một trong năm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Từ năm 1994 kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã vượt qua con số 400 triệu USD, đưa Việt Nam trở thành một trong 3 nước xuất khẩu nhiều cà phê nhất khu vực châu á - Thái Bình Dương là : ấn Độ, Indonesia và Việt Nam . Biểu 3: Kim ngạch, khối lượng, giá xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 1998. Năm Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Khối lượng (1000 tấn) 89,6 93,5 116,2 106 170 210 233 360 390,4 Giá cả (USD /tấn) 850 830 720 900 2.647 2.633 1.814 1.210 1.526 Kim ngạch (triệu USD ) 76,16 77,61 83,66 95,40 450,0 500,0 422,0 416,6 592,2 (Nguồn: Tổng hợp từ thời báo kinh tế ) Qua bảng trên chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy kim ngạch và khối lượng cà phê xuất khẩu trong thời kỳ 90 - 97 được chia thành hai giai đoạn: 90 - 93 và 94 - 97. Trong giai đoạn đầu khối lượng xuất khẩu dao động ở mức trên dưới 100 ngàn tấn còn kim ngạch trung bình khoảng 80 triệu USD. Suốt những năm nay tuy có sự tăng trưởng trong xuất khẩu song sự tăng trưởng này là tương đối ổn định và không xảy ra đột biến nào. Tuy nhiên bước sang năm 1994 xuất khẩu cà phê của Việt Nam thực sự đã có bước nhảy vọt về cả khối lượng cũng như kim ngạch, đặc biệt kim ngạch xuất khẩu cà phê đã tăng gần 500% từ 95,4 triệu USD lên 450,0 triệu USD. Trong khi đó, lượng cà phê xuất khẩu chỉ tăng khoảng 150% từ 106 ngàn tấn lên 170 ngàn tấn, điều đó được giải thích qua sự biến động của giá cà phê. Những năm sau đó tuy khối lượng xuất khẩu đã tăng liên tục lên 210 ngàn tấn năm 95, 233 ngàn tấn năm 96 và 360 ngàn tấn năm 97 nhưng kim ngạch xuất khẩu cà phê lại không hề tăng, thậm chí năm 97 còn giảm xuống 416,6 triệu USD. Năm 98 Việt Nam đã xuất khẩu được 390.405 tấn cà phê đạt kim ngạch 592.279 ngàn USD đưa Việt Nam trở thành nước thứ 3 về xuất khẩu cà phê trên thế giới, ngang với Mêhicô, sau Braxin và Colombia. Đồng thời hiện nay Việt Nam cũng là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới. b. Thị trường. Đến cuối năm 1998 cà phê Việt Nam đã có mặt ở hơn 50 nước và khu vực lãnh thổ với các bạn hàng chủ yếu là Mỹ, Đức, Pháp , ... Tuy nhiên Việt Nam chỉ mới tham gia xuất khẩu cà phê sang thị trường Mỹ trong vòng 5 năm trở lại đây nhưng hiện nay Mỹ đã là bạn hàng nhập khẩu cà phê lớn nhất, trung bình hàng năm Mỹ nhập khẩu khoảng 25% tổng khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó các nước thuộc liên minh châu Âu (EU) cũng nhập khẩu một khối lượng khá lớn, nếu tính chung toàn bộ khu vực này thì lượng nhập khẩu đã chiếm hơn 50% tổng khối lượng xuất khẩu, tương đương khoảng 200 ngàn tấn/năm. Ngòai ra thị trường Nhật cũng tiêu thụ một khối lượng đáng kể cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Hàng năm Nhật nhập khoảng 12.000 tấn cà phê từ Việt Nam. Tuy vậy với một thị trường có mức nhập khẩu trung bình hàng năm tới trên 5 triệu bao thì đây thực sự chỉ là con số khiêm tốn. Bên cạnh đó, Việt Nam còn xuất khẩu cà phê sang thị trường một số nước thuộc khu vực châu á như Singapore, Hồng Kông, .... Trước đây các thị trường này đã từng là bạn hàng nhập khẩu cà phê chủ yếu của Việt Nam khi Việt Nam chỉ mới tham gia thị trường cà phê thế giới, nhưng hiện nay tỷ trọng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang các nước này đang có xu hướng giảm sút. Dự báo trong thời gian tới xuất khẩu của cà phê Việt Nam vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào một số thị trường lớn như Bắc Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) các thị trường khác vẫn sẽ đóng vai trò hỗ trợ nhằm đa dạng hóa thị trường cà phê xuất khẩu Việt Nam . 2. Tình hình buôn bán cà phê trên thế giới. Cùng với việc gia tăng về sản lượng tình hình buôn bán cà phê trên thị trường thế giới cũng trở nên nhộn nhịp hơn trong những thập kỷ trở lại đây. Cà phê và các sản phẩm từ cà phê dần có được vai trò quan trọng hơn trong mậu dịch thế giới, hàng năm kim ngạch buôn bán cà phê thế giới đã vượt quá còn số 10 tỉ đô la Mỹ, đưa nó trở thành một trong những mặt hàng nông sản đạt giá trị kim ngạch cao nhất trong thương mại thế giới. 2.1. Các nước xuất khẩu chủ yếu. Hiện nay, các nước sản xuất cà phê chủ yếu trên thế giới cũng đồng thời là những quốc gia xuất khẩu nhiều sản phẩm cà phê nhất. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu cà phê của họ chưa tương xứng với lượng sản xuất cũng như xuất khẩu do các nước này còn có nhiều hạn chế về mặt kỹ thuật chế biến để có được những sản phẩm cà phê có chất lượng cũng như giá trị cao. Vì vậy mới có hiện tượng một số nước vừa là nhập khẩu vừa là nhà xuất khẩu lớn trên thị trường cà phê. Để hạn chế điều này và khẳng định hơn nữa chỗ đứng của mình trên thị trường xuất khẩu, trong một vài năm trở lại đây các nước xuất khẩu cà phê chủ yếu thuộc nhóm các nước đang phát triển đã cố gắng đẩy mạnh đầu tư về mặt công nghệ để hạn chế dần việc xuất khẩu những sản phẩm sơ chế có giá trị thấp, tăng cường sản xuất và xuất khẩu những chủng loại sản phẩm có chất lượng cao, đã qua tinh chế, không phải trải qua công đoạn sản xuất thuộc một nước phát triển thứ ba nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu cà phê tương ứng với khối lượong. Biểu 4: Một số nước xuất khẩu cà phê chủ yếu trên thị trường thế giới (Đơn vị: triệu bao) Niên vụ Tên nước 1991 1992 1992 1993 1993 1994 1994 1995 1995 1996 1996 1997 1997 1998 Braxin 21,000 17,600 16,900 16,800 13,655 17,318 15,181 Colombia 15,400 14,500 12,700 10,300 12,900 10,900 10,776 Indonesia 4,000 4,500 5,500 3,900 6,195 5,833 4,725 Codivoa 3,500 4,900 3,400 2,400 2,600 3,500 4,571 Mexico 3,000 3,100 3,600 3,600 4,576 4,380 3,829 Uganda 2,013 2,010 2,980 2,238 4,150 4,230 2,928 Goatemala 3,200 4,300 3,400 3,300 3,720 4,000 3,765 Etiopia 0,699 1,160 1,332 1,321 1,300 1,200 2,017 Kenia 1,399 1,412 1,460 1,251 1,200 1,150 0,769 Việt Nam 1,100 2,200 2,700 2,500 3,883 6,000 5,983 Các nước khác 20,210 21,910 19,470 19,470 16,121 13,098 22,072 Thế giới 75,500 77,600 67,200 67,200 73,300 71,600 74,916 (Nguồn: Tổ chức cà phê thế giới - ICO) Qua bảng trên chúng ta có thể thấy trong những năm gần đây cà phê xuất khẩu trên thị trường thế giới không có những biến động lớn. Ngoại trừ niên vụ 94/95 lượng cà phê trao đổi giảm còn 67,2 triệu bao, còn những niên vụ còn lại hầu hết đều đạt trên 71 triệu bao, trong đó niên vụ cao nhất (92/93) đã đạt 77,6 triệu bao. Tuy nhiên, nếu xét cụ thể từng nước thì sản lượng xuất khẩu lại có những biến động đáng kể. Ví dụ: trong niên vụ 91/92 Braxin đã xuất khẩu tới 21 triệu bao, nhưng trong những niên vụ sau đó lượng xuất khẩu của nước này đã liên tục giảm sút, cho tới niên vụ 95/96 con số này chỉ còn 13,655 triệu bao, nhỉnh hơn Colombia chút ít, tới niên vụ 96/97 lượng xuất khẩu của Braxin mới có dấu hiệu phục hồi. Cũng như thế, lượng cà phê xuất khẩu của Colombia, một nước khác thuộc Châu Mỹ La Tinh cũng đã giảm 1/3, từ 15,4 triệu bao niên vụ 91/92 xuống còn 10,7 triệu bao nên vụ 97/98. Ngoại trừ hai trường hợp trên lượng xuất khẩu của tám nước còn lại hầu hết đều tăng trưởng dương, tuy mức độ có khác nhau. Trong số đó đáng chú ý nhất phải kể tới Việt Nam. Nếu như sản lượng xuất khẩu trong niên vụ 91/92 của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở con số khiêm tốn là 1,1 triệu bao, đứng thứ 9 trong số 10 quốc gia xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới thì chỉ 4 năm sau Việt Nam đã xuất khẩu gần 4 triệu bao và tới niên vụ 96/97 Việt Nam đã xuất khẩu 6 triệu bao cà phê vươn lên đứng hàng thứ ba trên thế giới. 2.2. Các nước nhập khẩu chủ yếu. Nếu như các nước xuất khẩu cà phê chủ yếu trên thế giới đều là các nước đang phát triển thì các nước nhập khẩu chủ yếu đều là các quốc gia phát triển và đa phần trong số đó là các quốc gia thuộc nhóm công nghiệp phát triển (G7) như: Mỹ, Đức, Nhật, ... Bảng sau sẽ cho chúng ta thấy rõ tình hình nhập khẩu của các nước này trong thời gian gần đây: Biểu 5: Một số nước nhập khẩu cà phê chủ yếu trên thế giới. (Đơn vị: triệu bao) Năm Tên nước 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Mỹ 22,937 19,324 16,169 17,104 19,434 19,834 18,526 Đức 13,907 13,526 13,674 12,806 13,577 14,356 9,754 Italia 4,595 5,594 5,555 5,387 5,607 5,703 4,912 Nhật 5,652 5,514 6,040 5,324 5,619 5,603 6,017 Pháp 6,660 6,531 6,486 6,246 6,695 6,724 5,320 Anh 3,047 3,173 3,395 2,782 3,113 3,104 2,674 Các nước khác 34,100 35,730 38,630 31,950 28,250 26,072 27,134 Thế giới 90,900 89,400 90,000 81,600 82,300 81,406 75,607 (Nguồn: Tổ chức cà phê thế giới - ICO) Như chúng ta thấy ở trên, tình hình nhập khẩu cà phê ở các nước nhập khẩu chủ yếu không có những biến động lớn như các nước xuất khẩu. Điều đó cho thấy nhu cầu tiêu dùng cũng như nhập khẩu cà phê trên thế giới tương đối ổn định và phụ thuộc nhiều vào năng lực sản xuất của các quốc gia xuất khẩu. Trong số các nước nhập khẩu nhiều cà phê nhất Mỹ luôn chiếm vị trí dẫn đầu với mức trên dưới 20 triệu bao, gần tương đương mức xuất khẩu của Braxin. Hiện nay, người Mỹ đang có xu hướng chuyển sang sử dụng các loại cà phê có chất lượng cao vì vậy lượng nhập khẩu cà phê hòa tan từ các nước khác đã giảm nhiều, thay vào đó lượng nhập khẩu cà phê hòa tan từ các nước khác đã giảm nhiều, thay vào đó lượng nhập khẩu cà phê hòa tan chưa qua chế biến lại tăng đáng kể nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất các loại cà phê có chất lượng đặc biệt ở trong nước. Tiếp đó là Đức với mức nhập khẩu năm 1997 là 14,356 triệu bao. Các nước Nhật, Itailia, Pháp nhập khẩu lượng cà phê gần như nhau, khoảng trên dưới 6 triệu bao/năm. Đứng cuối cùng trong số các nước kể trên là Anh với lượng nhập khẩu hàng năm khoảng 3 triệu bao. So với các nước khác thuộc lục địa châu Âu thì người Anh tỏ ro không mặn mà với cà phê lắm, lượng tiêu thụ cà phê bình quân trên đầu người ở Anh thuộc vào diện thấp trên thế giới nếu so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế. Ngoài ra các nước còn lại cũng chiếm khoảng 30% tổng nhu cầu nhập khẩu cà phê trên thế giới, cá biệt như năm 94 các nước này đã nhập khẩu tới 38,63 triệu bao trên tổng số 90 triệu bao tòan thế giới (tương đương gần 43%). IV- thị trường xuất khẩu cà phê của công ty intimex. Cũng giống như tình trạng chung của hoạt động xuất khẩu Việt Nam những năm trước đây, hoạt động xuất khẩu của công ty INTIMEX nói chung và xuất khẩu cà phê nói riêng trong thời gian đó cũng đều tập trung vào thị trường Đông Âu và Liên Xô cũ. Hàng năm các thị trường này thường chiếm trên 90%tổng khối lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu cuả công ty. Do sớm tham gia vào thị trường xuất khẩu cà phê nên ngày nay công ty đã có được một thị trường xuất khẩu ổn định và đa dạng. Các thị trường chủ yếu về cà phê của Công ty hiện nay bao gồm: Singapore, Hồng Kông, Mỹ, Hàn Quốc, Liên minh Châu Âu (EU),...còn các thị trường truyền thống thuộc hệ thống các nước XHCN cũ nay chỉ còn chiếm một lượng nhỏ trong tổng khối lượng cũng như giá kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty. Năm 1990 Công ty đã xuất khẩu 370 tấn cà phê (tương đương 45% tổng khối lượng xuất khẩu) sang Ba Lan, Tiệp Khắc và Nga, nhưng đến năm 2000 Công ty chỉ xuất khẩu đổi hàng được với Nga 120 tấn cà phê trị giá là 160 ngàn USD. Ngược lại, nếu như vào năm 86 Công ty mới xuất khẩu được những tấn cà phê đầu tiên sang Singapore và Hồng kông thì tới năm 90 Công ty đã xuất khẩu được 240 tấn sang Singapore và 100 tấn sang Hồng Kông. Đến năm 2000 Công ty đã xuất khẩu được gần 1.600 tấn cà phê sang các thị trường này đạt giá kim ngạch 2.500.000USD. Trong một vài năm trở lại đây Công ty đã tích cực khai thác thị trường mới như: Mỹ, EU, Hàn Quốc và đã thu được kết quả hết sức khả quan. Kết thúc năm 2000 tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cà phê sang các thị trường này đã chiếm tới hơn 40% tổng kim ngạch cà phê xuất khẩu của Công ty, tương đương với 1.840.000 USD. Biểu 11: Các thị trường xuất khẩu cà phê chủ yếu của Công ty trong hai năm 1990 và 2000. (Đơn vị: USD) Năm Thị trường 1990 2000 Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Nga 164.000 22,99% 160.000 3,51% Đông Âu 160.000 22,43% X X Mỹ X X 880.000 19,30% EU X X 960.000 21,60% Singapore 196.800 27,59% 1.147.000 25,18% Hồng Kông 82.000 11,49% 963.000 21,71% T.trường khác 110.600 15,50% 450.000 9,70% Tổng số 713.400 100% 4.560.000 100% (Nguồn: Phòng KTTH - Công ty INTIMEX) Chương 2. Tình hình xuất nhập khẩu mặt hàng cà phê tại công ty INTIMEX trong thời gian qua. I- Giới thiệu chung về Công ty INTIMEX. 1. Quá trình hình thành và phát triển. Theo quyết định số 217 của Thủ tướng Chính phủ ngày 23 tháng 6 năm 1979, có sự đề nghị của Bộ Nội thương và sự nhất trí của Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương mại), Công ty đã được thành lập với tên gọi lúc đó là Công ty xuất._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0695.doc
Tài liệu liên quan