Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Công ty Dâu tằm tơ 1 - Hà Nội

Mục lục Đề mục Trang Lời mở đầu. 3 Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu. 4 I. Tổng quan về hoạt động xuất khẩu. 4 Nguồn gốc của TMQT. 4 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. 5 Chức năng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu. 7 4. Các loại hình xuất khẩu. 8 II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu. 11 1. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu. 11 2. Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu. 15 3. Kí kết hợp đồng xuất khẩu. 16 4.

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Công ty Dâu tằm tơ 1 - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu. 17 5. Đánh giá hiệu qủa xuất khẩu. 21 III. Khái quát về lịch sử tơ tằm thế giới và đặc điểm của ngành sản xuất tơ tằm xuất khẩu. 22 1. Lịch sử tơ tằm thế giới. 22 2. Các yếu tố đặc trưng của hàng tơ tằm xuất khẩu. 26 3. Đặc điểm của ngành sản xuất tơ tẵm xuất khẩu. 27 Sự cần thiết phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa cho xuất khẩu tơ lụa của Việt Nam. 30 Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I Hà Nội. 31 I. Tổng quan về công ty dâu tằm tơ I. 31 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty. 31 2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty. 32 3. Cơ cấu tổ chức quản lý và cơ cấu tổ chức sản xuất của công ty. 33 3.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty. 33 3.2: Quy trình công nghệ của các bộ phận sản xuất của công ty. 36 II. Thực trạng xuất khẩu hàng tơ lụa ở công ty dâu tằm tơ I. 40 1. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung. 40 2. Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và kết quả đạt được. 40 3. Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu tơ lụa của công ty dâu tằm tơ I. 45 3.1: Doanh thu xuất khẩu của công ty dâu tằm tơ I. 45 3.2: Thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty. 46 3.3: Tình hình xuất khẩu theo mặt hàng. 47 3.4: Phương thức xuất khẩu của công ty. 48 3.5: Phương thức thanh toán áp dụng trong xuất khẩu. 48 3.6: Nỗ lực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công ty. 49 3.7: Quy trình nghiệp vụ xuất khẩu của công ty. 49 4. Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu của công ty dâu tằm tơ I. 52 4.1: Những mặt đã làm được. 52 4.2: Những tồn tại chủ yếu và nguyên nhân kìm hãm sự phát triển hoạt động xuất khẩu ở công ty. 53 Chương III: Định hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I - Hà Nội trong thời gian tới. 56 I. Định hướng phát triển hoạt động xuất khẩu của công ty trong thời gian tới. 56 1. Định hướng phát triển ngành tơ tằm Việt Nam trong thời gian tới. 56 2. Định hướng phát triển hoạt động xuất khẩu của công ty trong thời gian tới. 58 II. Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I - Hà Nội. 59 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường mở rộng thị trường xuất khẩu. 59 2. Tiếp tục đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất hiện đại. 60 3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty. 60 4. Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. 61 Hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý và tổ chức xây dựng chiến lược kinh doanh phát triển thị trường. 64 6. Hoàn thiện nghiệp vụ xuất khẩu. 65 III. Một số kiến nghị với nhà nước. 66 Kết luận. 68 Tài liệu tham khảo. 69 Lời Mở Đầu Ngày nay quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân loại, không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà vẫn có thể phồn vinh được. Trong bối cảnh đó TMQT là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, duy trì và phát triển văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, chiến lược phát triển kinh tế mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn là hướng mạnh về xuất khẩu, từng bước thay thế nhập khẩu.Với chiến lược đó các nhà doanh nghiệp đã có nhiều cơ hội để tăng trưởng và phát triển mạnh, tham gia vào TMQT. Công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội là một điển hình, trong những năm vừa qua nhờ hoạt động xuất khẩu tơ lụa công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể, lợi nhuận liên tục gia tăng, uy tín được tăng cường, đời sống của cán bộ công nhân viên ngày một cải thiện. Tuy vậy, trong quá trình xuất khẩu công ty không tránh khỏi những khó khăn hạn chế. Trong thời gian thực tập tại công ty, thấy được thực trạng như vậy, đồng thời nhận thức được tầm quan trọng của của công tác xuất khẩu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, với sự giúp đỡ hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo, Thạc Sĩ Nguyễn Trọng Hà cùng các cô chú, các anh chị trong công ty, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội”. Báp cáo được chia làm 3 phần: Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu. Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội. Chương III: Định hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội trong thời gian tới. Do những hạn chế về thời gian, tài liệu nghiên cứu và khả năng của người viết, bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý chân thành để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và quý báu của thầy giáo Th.s Nguyễn Trọng Hà và các cô chú, các anh chị trong công ty đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Chương I Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu I.Tổng quan về hoạt động xuất khẩu. Nằm trên những vùng khác nhau của quả đất, mỗi một quốc gia có điều kiện tự nhiên đất đai khí hậu khác nhau. Cho đến nay trên thế giới chưa có một quốc gia nào có đủ tất cả các nguồn lực để tự sản xuất tất cả các hàng hoá cho tiêu dùng trong nước một cách có hiệu quả. Chính vì thế từ xưa tới nay, thương mại quốc tế (TMQT) dù dưới hình thức nào thì cũng luôn có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Vậy TMQT là gì? TMQT là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ (hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) giữa các quốc gia, thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc lấn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia trên thế giới. TMQT cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán. TMQT là một lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.TMQT bao gồm nhiều hoạt động khác nhau trên giác độ một quốc gia đó chính là hoạt động ngoại thương. Nội dung của TMQT bao gồm: Xuất và nhập khẩu hàng hoá, hữu hình và vô hình. Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công Tái xuất khẩu và chuyển khẩu. Xuất khẩu tại chỗ. Thương mại hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài không thể là quan hệ ban phát cho không, không phải chỉ có nhập mà phải có xuất, phải cân đối được xuất nhập và tiến tới xuất siêu ngày càng lớn. Vậy xuất khẩu là gì? Xuất khẩu là việc bán sản phẩm hàng hoá sản xuất ra nước ngoài nhằm mục đích thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nườc, phát triển sản xuất kinh doanh khai thác ưu thế tiềm năng đất nước và nâng cao đời sống nhân dân. Khác với hoạt động mua bán sản phẩm diễn ra trên thị trường nội địa, hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn nhiều, bởi đây là hoạt động buôn bán trao đổi qua biên giới quốc gia, thị trường vô cùng rộng lớn khó kiểm soát, thanh toán bằng ngoại tệ đồng thời phải tuân thủ theo những tập quán thông lệ quốc gia cũng như luật pháp của từng địa phương. Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực trong mọi điều kiện từ xuất nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng, máy móc thiết bị và cả công nghệ cao. Tất cả các hoạt động buôn bán trao đổi này đều nhằm mục đích là đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia. 1. Nguồn gốc của TMQT. TMQT có từ hàng ngàn năm nay, nó ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế. TMQT trước hết là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các quốc gia. Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với tiến bộ khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi dào, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn. Thương mại bắt nguồn từ sự đa dạng và điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế thì chắc chắn đem lại lợi nhuận lớn hơn. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất ít nhất cũng giải thích được sự hình thành TMQT giữa các nước trong kinh doanh các mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch... Song như chúng ta đã biết phần lớn số lượng thương mại trong các mặt hàng không xuất phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của sản xuất. Một nước có thể sản xuất được mặt hàng này tại sao lại nhập khẩu chính mặt hàng đó từ một nước khác? Làm sao nước ta với xuất phát điểm thấp, chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt hàng của các cường quốc kinh tế lại có thể vẫn duy trì quan hệ thương mại với các nước đó? Để giải thích những câu hỏi trên chúng ta hãy xem xét quy luật lợi thế tương đối (hay lý thuyết về lợi thế so sánh) của nhà kinh tế học David Ricardo (1772- 1823). Quy luật lợi thế tương đối nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất coi đó là chía khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết này khẳng định nếu mỗi quốc gia chuuyên môn hóa sản xuất các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay có hiệu quả sản xuất cao nhất thì thương mại có hiệu quả cho cả hai nước. Nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào TMQT để tạo ra lợi ích. Khi tham gia vào TMQT quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối). Còn nhiều lý do khác nhau khiến TMQT ra đời và ngày càng trở lên quan trọng, đặc biệt trong một thế giới hiện đại. Một trong những lý do đó có thể là TMQT tối cần thiết cho việc chuyên môn hoá để có hiệu quả kinh tế cao trong các ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ được thực hiện trong hàng hoá các nước sản xuất. Sự khác nhau về sở thích và mức cầu cũng là một nghuyên nhân khác để có TMQT. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối ở hai nơi giống hệt nhau, TMQT vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau về sở thích. Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, con đường xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo kiểu cô lập với bên ngoài, tự cấp, tự túc hay thay thế nhập khẩu đã hoàn toàn không có sức thuyết phục. Thực tế cho thấy con đường dẫn đến phát triển nhanh, bền vững không phải qua chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng để sản xuất ra những sản phẩm sơ chế, mà thông qua việc mở rộng và phát triển các ngành sản xuất chế biến sâu, có giá trị thặng dư cao, hướng về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả hơn để khai thác tốt nhất lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật, công nghệ, thị trường cho sự phát triển. Để thấy rõ điều này chúng ta hãy xem xét những vai trò sau đây của TMQT nói chung và của xuất khẩu nói riêng. 2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có được đầy đủ mọi thứ hàng hoá. Buôn bán quốc tế có ý nghĩa sống còn, mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Xuất khẩu là một hoạt động TMQT có vai trò quan trọng thể hiện trên các mặt sau: 2.1: Xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế, phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước. Trong thế giới hiện đại không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa của mình lại phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng các thành tựu kinh tế khoa học kỹ thuật của loài người để phát triển. Nền kinh tế “mở cửa”, trong đó xuất khẩu đóng vai trò then chốt sẽ mở hướng phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi thế tiềm năng sẵn có trong nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất. Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng là: tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những yếu tố thiếu hụt là vốn, kỹ thuật, thị trường và kĩ năng quản lý. Xuất khẩu là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu. 2.2: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, tạo nguồn vốn và kỹ thuật bên ngoài cho quá trình sản xuất trong nước. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh trở thành nhân tố quyết định cho sự phát triển của sản xuất. Xuất khẩu để tăng khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, làm cho nền kinh tế nông nghịêp lạc hậu sản xuất nhỏ là phổ biến có nguồn bổ sung kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh. Quá trình phát triển của nền kinh tế đỏi hỏi phải nhập khẩu một lượng ngày càng nhiều máy móc thiết bị và nguyên liệu công nghiệp ... Trong các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ... thì bằng cách này hay cách khác đểu phải trả. Chỉ có xuất khẩu mới là hoạt động có hiệu quả nhất taọ ra nguồn vốn nhập khẩu bởi chúng không phải trả bất cứ một khoản chi phí nào khác như nguồn vốn vay ngoài hơn nữa còn thể hiện tính tự chủ của nguồn vốn. Trong thực tiễn, xuất khẩu và nhập khẩu có mối quan hệ mật thiết với nhau, vừa là kết quả, vừa là tiền đề của nhau, đẩy mạnh xuất khẩu là để tăng cường nhập khẩu, tăng nhập khẩu để mở rộng và tăng khả năng xuất khẩu. Trong tương lai nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu- nguồn vốn duy nhất để trả nợ- trở thành hiện thực. 2.3: Xuất khẩu góp phần mở rộng tiêu thụ hàng hoá, giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Thị trường trong nước nhỏ hẹp, không đủ bảo đảm cho sự phát triển công nghiệp với quy mô hiện đại, sản xuất hàng loạt do đó không tạo thêm công ăn việc làm, một vấn đề mà các nước nghèo luôn luôn phải giải quyết. Với phạm vi vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hoạt động xuất khẩu mở ra một thị trường tiêu thu rộng lớn với nhu cầu vô cùng đa dạng của mọi tầng lớp, mọi dân tộc trên toàn thế giới. Sản xuất phải gắn với thị trường, có thị trường là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sản xuất hàng xuất khẩu, đến lượt nó sản xuất hàng xuất khẩu lại là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và tăng thu nhập. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. 2.4: Xuất khẩu góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất đó là thành quả của công cuộc khoa học và công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong qúa trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với đất nước ta. Vì vậy xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi, tức là sự phát triển của ngành hàng xuất khẩu này sẽ kéo theo sự phát triển của một ngành khác có quan hệ mật thiết. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế- kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, hoàn thiện công việc quản trị sản xuất và kinh doanh. 2.5: Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại luôn có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một bộ phận rất quan trọng của kinh tế đối ngoại. Vì vậy khi hoạt động xuất khẩu phát triển sẽ kéo theo các bộ phận khác của kinh tế đối ngoại phát triển như dịch vụ, quan hệ tín dụng, đầu tư, hợp tác, liên doanh, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo điều kiện mở rộng xuất khẩu. Vì vậy đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên trường quốc tế, góp phần vào sự ổn định kinh tế chính trị của đất nước. Nói tóm lại, với những vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế, phát triển hoạt động xuất khẩu luôn là chiến lược để phát triển kinh tế ở nước ta. 3.Chức năng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu có các chức năng cơ bản sau: Tạo vốn và kỹ thuật bên ngoài cho quá trình sản xuất trong nước. Thay đổi cơ cấu vật chất sản phẩm có lợi cho quá trình sản xuất trong nước. Tăng hiệu quả sản xuất. Từ những chức năng trên hoạt động xuất khẩu tự đặt ra cho mình một số nhiệm vụ chủ yếu sau: Nghiên cứu chiến lược, chính sách và công cụ nhằm phát triển TMQT nói chung, hoạt động xuất khẩu nói riêng, hướng tiềm năng, khả năng kinh tế nói chung và sản xuất hàng hoá dịch vụ của nước ta nói riêng vào sự phân công lao động quốc tế . Ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực cua đất nước, không đánh giá mình quá cao, quá lạc quan cũng như không tự ti đánh giá mình quá thấp, từ đó bỏ lỡ cơ hội làm ăn với nước ngoài, liên kết và đan xen vào chương trình kinh tế thế giới. Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu theo hướng ngày càng chứa đựng nhiều hàm lượng chất xám, kỹ thuật và công nghệ để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Tạo ra những mặt hàng, nhóm hàng xuất khẩu có khối lượng và giá trị lớn đáp ứng những đòi hỏi cuả thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. Mở rộng thị trường và đa phương hoá đối tác. Hình thành các vùng, các ngành sản xuất hàng xuất khẩu tạo các chân hàng vững chắc, phát triển hệ thống thu mua hàng xuất khẩu. Xây dựng các mặt hàng chủ lực ở phạm vi chiến lược, từ đó có kế hoạch phát triển và mở rộng mặt hàng chủ lực. 4.Các loại hình xuất khẩu. Xuất khẩu có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau phụ thuộc vào số lượng và các loại hình trung gian thương mại. Mỗi phương thức có đặc điểm riêng, có kỹ thuật tiến hành riêng. Thông thường có các loại hình xuất khẩu chủ yếu sau: 4.1: Xuất khẩu trực tiếp. Giống như các hoạt động mua bán thông thường trực tiếp ở trong nước, phương thức xuất khẩu trực tiếp trong kinh doanh TMQT có thể được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi trong đó người mua và người bán trực tiếp gặp mặt ( hoặc thông qua thư từ, điện tín...) để bàn bạc và thoả thuận với nhau về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán... mà không qua người trung gian. Những nội dung này được thoả thuận một cách tự nguyện, việc mua không nhất thiết gắn liền với việc bán. Tuy nhiên, hoạt động mua bán theo phương thức này khác với hoạt động nội thương ở chỗ: bên mua và bên bán là những người có trụ sở ở các quốc gia khác nhau, đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên, hàng hoá là đối tượng của giao dịch được di chuyển qua khỏi biên giới của một nước. Hoạt động xuất khẩu trực tiếp thường có những ưu điểm sau: Thông qua thảo luận trực tiếp dễ dàng dẫn đến thống nhất, ít xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc. Giảm được chi phí trung gian. Có điều kiện xâm nhập thị trường, kịp thời tiếp thu ý kiến của khách hàng, khắc phục thiếu sót Chủ động trong việc sản xuất tiêu thụ hàng hoá Tuy nhiên hoạt động này cũng gặp phải một số hạn chế đó là: Đối với thị trường mới còn nhiều bỡ ngỡ, dễ bị ép giá trong mua bán Khối lượng mặt hàng cần giao dịch phải lớn để bù đắp được chi phí: giấy tờ, đi lại, điều tra tìm hiểu thị trường. 4.2: Xuất khẩu gián tiếp. Nếu trong xuất khẩu trực tiếp người bán tìm đến người mua, người mua tìm đến người bán và họ trực tiếp thoả thuận quy định những điều kiện mua bán, thì trong xuất khẩu gián tiếp, một hình thức giao dịch qua trung gian, mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán và người mua và việc quy định các điều kiện mua bán đều phải thông qua người thứ ba. Người thứ ba này gọi là người trung gian buôn bán. Người trung gian buôn bán phổ biến trên thị trường thế giới là đại lý và môi giới. Đại lý: là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác (principal). Quan hệ giữa người uỷ thác với đại lý là quan hệ hợp đồng đại lý. Môi giới: là loại thương nhân trung gian giữa người mua và người bán, được người bán hoặc người mua uỷ thác tiến hành bán hoặc mua hàng hoá hay dịch vụ. Khi tiến hành nghiệp vụ, người môi giới không được đứng tên của chính mình mà đứng tên của người uỷ thác, không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm cá nhân trước người uỷ thác về việc khách hàng không thực hiện hợp đồng. Người môi giới không tham gia vào việc thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp được uỷ quyền. Quan hệ giữa người uỷ thác với người môi giới dựa trên sự uỷ thác từng lần, chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn. Việc sử dụng những người trung gian thương mại (đại lý và môi giới) có những lợi ích như: Những người trung gian thường có hiểu biết rõ tình hình thị trường, pháp luật và tập quán địa phương, do đó, họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và tránh bớt rủi ro cho người uỷ thác. Những người trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở vật chất nhất định, do đó, khi sử dụng họ, người uỷ thác đỡ phải đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn, phân loại, đóng gói, người uỷ thác có thể giảm bớt chi phí vận tải. Tuy nhiên việc sử dụng trung gian có khuyết điểm như: Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường. Công ty cũng thường phải đáp ứng những yêu sách của đại lý hoặc môi giới. Lợi nhuận bị chia sẻ Trước sự phân tích lợi hại như vậy, người ta chỉ thường sử dụng trung gian trong những trường hợp cần thiết như: khi thâm nhập vào một thị trường mới, khi mới đưa vào thị trường mới một mặt hàng mới, khi tập quán đòi hỏi phải bán hàng qua trung gian, khi mặt hàng đỏi hỏi sự chăm sóc đặc biệt như hàng tươi sống chẳng hạn. 4.3: Buôn bán đối lưu. Buôn bán đối lưu (counter- trade) là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. ở đây mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương. Buôn bán đối lưu đã ra đời lâu trong lịch sử quan hệ hàng hoá- tiền tệ, trong đó sớm nhất là “ hàng đổi hàng”, rồi đến trao đổi bù trừ. Ngày nay, ngoài hai hình thức truyền thống đó, đã có nhiều loại hình mới ra đời từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Các loại hình buôn bán đối lưu phải kể đến như: Nghiệp vụ hàng đổi hàng (barter): trong nghiệp vụ này hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những hàng hoá có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra gần như đồng thời. Nghiệp vụ bù trừ (compensation): đây là hình thức phát triển nhanh nhất của buôn bán đối lưu. Trong nghiệp vụ này hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sỏ giá trị hàng giao và hàng nhận đến cuối kỳ hạn, hai bên mới đối chiếu sổ sách, so sánh giữa giá trị hàng giao với giá trị hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế, mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ. Nghiệp vụ mua đối lưu (counter- purchase): trong nghiệp vụ này một bên giao thiết bị cho khách hàng của mình và để đổi lại mua sản phẩm của công nghiệp chế biến, bán thành phẩm, nguyên vật liệu... Giao dịch bồi hoàn (offset): người ta đổi hàng hoá và/hoặc dịch vụ lấy những dịch vụ và ưu huệ ( như ưu huệ trong đầu tư và giúp đỡ bán sản phẩm). Nghiệp vụ mua lại sản phẩm (buy- backs): trong nghiệp vụ này một bên cung cấp thiết bị toàn bộ và/hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật (know-how) cho bên khác, đồng thời cam kết mua lại những sản phẩm do thiết bị hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật đó chế tạo ra. 4.4: Gia công quốc tế. Gia công quốc tế là một phương thức kinh doanh thương mại trong đó một bên (gọi là bên đặt gia công) giao (hoặc bán) nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho một bên khác (gọi là bên nhận gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại (hoặc bán lại) cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Như vậy trong gia công quốc tế hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất. Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương của nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ tận dụng được giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhận được thiết bị hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc. Nhiều nước đang phát triển đã nhờ vận dụng được phương thức gia công quốc tế mà có được một nền công nghiệp hiện đại như Hàn Quốc, Thái Lan, Xingapo... 4.5: Giao dịch tái xuất. Là hoạt động xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất. 4.6: Xuất khẩu theo nghị định thư. Là hình thức xuât khẩu hàng hoá (hay trả nợ) được kí theo nghị định thư của chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm: khả năng thanh toán chắc chắn (do nhà nước trả cho đối tác xuất khẩu), giá cả hàng hóa dễ chấp nhận. II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu. Kinh doanh TMQT là hoạt động thương mại phức tạp hơn nhiều so với kinh doanh thương mại nội địa bởi nhiều lý do: bất đồng ngôn ngữ, hệ thống luật pháp, phong tục tập quán, thói quen tâm lý... rất khác nhau. Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường, lựa chọn thị trường xuất khẩu... cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua hoàn tất các thủ tục thanh toán. Đó là cả một qua trình phức tạp cần phải được nghiên cứu đầy đủ kĩ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ và kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. Nội dung của hoạt động xuât khẩu bao gồm những nghiệp vụ cơ bản sau: 1. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu. Không chỉ riêng với hoạt động xuất khẩu mà với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào trước khi bước vào nghiên cứu thực hiện các khâu nghiệp vụ người kinh doanh phải nắm bắt được các thông tin về thị trường. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu là vấn đề đầu tiên cần thiết được tiến hành hết sức kỹ lưỡng trong hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi cung cầu và giá cả trên thị trường giúp họ giải quyết được các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá... từ đó mà lựa chọn thị trường xuất khẩu thích hợp nhất cho sản phẩm của mình. 1.1: Nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng đó là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh. Công tác nghiên cứu thị trường phải góp phần chủ yếu trong phương châm hành động “ chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái có sẵn”. Có hai loại thông tin cần thu thập trong nghiên cứu thị trường: - Thông tin sơ cấp (primary information): là những thông tin thu thập mang tính chất trực tiếp từ thị trường đó. Đối với loại thông tin này người ta thường áp dụng phương pháp nghiên cứu tại thị trường (Field study): đây là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên thị trường. Nói cách khác, đó là cách thu thập thông tin từ trực quan, qua các quan hệ giao tiếp với thương nhân và với người tiêu dùng. Biện pháp cụ thể: điều tra, phỏng vấn, quan sát, thực nghiệm. Như vậy, xét về tính phức tạp và mức độ chi phí, nghiên cứu tại thị trường là một hoạt động tốn kém và không phải ai cũng đủ trình độ để làm được. Tuy vậy, phương pháp nghiên cứu này cho kết quả khá chính xác. Vì vậy, trước hết cần sơ bộ xử lý các thông tin về các thị trường đã đề cập, chọn ra những thị trường có nhiều triển vọng nhất. Sau đó căn cứ vào kết quả lựa chọn để tiến hành nghiên cứu hiện trường và lập kế hoạch khảo sát. + Thông tin thứ cấp (Secondary information): Đối với loại thông tin này người ta sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn (Desk study). Về cơ bản nghiên cứu tại bàn bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu xuất bản hay không xuất bản và tìm những nguồn đó. Chìa khoá thành công của nghiên cứu tại bàn là phát hiện ra các nguồn thông tin và triệt để khai thác những nguồn thông tin đó. Ngày nay, trong thời đại tin học, thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả... rất phong phú. Có thể lấy được thông tin từ các nguồn như: qua hệ thống Internet, qua các cơ quan xúc tiến thương mại, các cơ quan thống kê, qua các sách báo thương mại được xuất bản, qua quan hệ với thương nhân... Trong đó, số liệu thông kê là một trong những loại thông tin quan trọng nhất, được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu thị trường, đặc biệt là nghiên cứu tại bàn. Đó là những số liệu thống kê về sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu, dự trữ tồn kho, giá cả... Nó giúp cho người nghiên cứu có một cái nhìn bao quát về dung lượng thị trường và xu hướng phát triển. Nghiên cứu tại bàn, có thể nói là phương pháp phổ thông nhất về nghiên cứu thị trường, vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của những người xuất khẩu mới tham gia vào thị trường thế giới. Tuy nhi._.ên, nó cũng có những hạn chế như chậm và mức độ tin cậy có hạn. Kết quả nghiên cứu tại bàn cũng cần phải bổ sung bằng nghiên cứu tại thị trường. Nội dung thông tin cần thu thập khi nghiên cứu thị trường: nghiên cứu tình hình cung cầu hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá và một số yếu tố khác. Nghiên cứu tình hình cung- cầu hàng hoá: Nghiên cứu tình hình cung cầu hàng hoá cần nắm được các vấn đề sau: Số lượng các doanh nghiệp cung ứng mặt hàng đó trên thị trường và khả năng cung ứng của từng doanh nghiệp đó. Nghiên cứu chu kỳ đưa hàng ra thị trường của từng doanh nghiệp cung ứng đó. Sảnphẩm của hãng đang ở giai đoạn nào trên thị trường (mặt hàng đang ở pha nào của chu kỳ sống) Về mặt tiêu thụ nhà kinh doanh phải biết mặt hàng định xuất khẩu đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống của nó trên thị trường. Chu kỳ này là tiến trình phát triển việc tiêu thụ một mặt hàng bao gồm 4 giai đoạn (gđ) sau đây: Giai đoạn triển khai: đây là giai đoạn đầu tiên trong chu kỳ sống của sản phẩm. Trong giai đoạn này về cơ bản chưa có sản phẩm cạnh tranh, sản phẩm của doanh nghiệp chưa được người tiêu dùng biết đến, doanh nghiệp cần nỗ lực làm cho khách hàng biết đến sản phẩm của mình. Giai đoạn tăng trưởng: đây là giai đoạn phát triển của sản phẩm, trong giai đoạn này sản phẩm được người tiêu dùng biết đến và được thị trường chấp nhận, cần đẩy nhanh quá trình đưa sản phẩm có tính độc đáo của mình vào thị trường, qua đó tạo được môi trường tốt, tăng phạm vi lựa chọn sản phẩm. Giai đoạn bão hoà: trong giai đoạn này doanh thu tiêu thụ vẫn tăng nhưng tăng chậm và có xu hướng giảm. Giai đoạn này có sự cạnh tranh kịch liệt giữa các đối thủ vào thị trường và một hình ảnh mà doanh nghiệp cần thấy rõ là sự tràn ngập hàng hoá trên thị trường. Giai đoạn suy thoái: đây là giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ sống của sản phẩm. Trong giai đoạn này thị trường đã bão hoà về sản phẩm, doanh số bán ra của sản phẩm giảm đi rất nhiều. Để tránh khả năng bị loại khỏi thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải có những biện pháp cải tiến, đổi mới mẫu mã kỹ thuật, hoặc thay thế bằng sản phẩm mới. Từ sự phân tích như trên ta nhận thấy, việc xuất khẩu những mặt hàng đang ở giai đoạn triển khai và tăng trưởng gặp thuận lợi lớn nhất. Tuy vậy, có khi mặt hàng đã ở giai đoạn suy thoái nhưng nhờ thực hiện các biện pháp xúc tiến tiêu thụ (như quảng cáo, cải tiến hệ thống tổ chức tiêu thụ, giảm giá...) người ta vẫn có thể đẩy mạnh được xuất khẩu. Tóm lại, có nắm vững mặt hàng ta đang dự định kinh doanh đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống thì mới có thể xác định những biện pháp cần thiết để làm tăng doanh số bán hàng và tăng lợi nhuận. Cấu trúc của cung, nghĩa là xác định tình hình cạnh tranh trên thị trường. Nếu sự cạnh tranh đã gay gắt, điều đó không có nghĩa là doanh nghiệp phải rút lui, nó có thể giữ vị trí thế thủ chờ đợi giai đoạn chuyển sang tấn công Nghiên cứu những sản phẩm khác cùng đáp ứng nhu cầu còn phải xác định xem sự cạnh tranh ấy tồn tại được bằng cách nào, tỷ lệ hoa hồng thường được chấp nhận là bao nhiêu, hậu quả của cạnh tranh như thế nào, nó sẽ diễn biến ra sao... và khả năng phản ứng của nó trước một đối thủ mới. Phân tích tình hình cầu: Từ những thông tin về hàng hoá đang bán cần xác định xem những sản phẩm nào có thể thương mại hoá được. Người tiêu dùng hiện nay là những ai, họ được phân nhóm như thế nào, nhóm xã hội, nghề nghiệp, tuổi, dân tộc, tôn giáo, nam nữ, cách sống... . Thống kê số lượng khách hàng có nhu cầu mua hàng hoá. . Sức mua trung bình của một doanh nghiệp, một khách hàng. . Nhịp độ mua hàng của họ (chu kỳ mua lặp lại). . Sản phẩm của hãng đang ở thế hệ nào. . Lý do mua hàng của khách hàng là gì? . Ai có khả năng trở thành người tiêu dùng? Cần xác định sự tăng dân số, nhất là sự tăng của bộ phận xác định và tiến hành phân tích sự tăng mức sống. Nếu không có yêu cầu mua vào thời điểm phân tích thì phải xác định xem có yêu cầu không và khi nào. Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất khẩu: Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đồng thời là một nhân tố cấu thành thị trường. Do việc mua bán giữa các khu vực khác nhau diễn ra trong một thời gian dài, hàng vận chuyển qua nhiều nước với các chính sách thuế quan khác nhau, giá cả thị trường lại càng trở lên phức tạp, trong đó giá cả hàng hoá được coi là giá tổng hợp bao gồm giá vốn hàng hoá, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác tùy theo các bước thực hiện và sự thoả thuận giữa các bên tham gia. Nghiên cứu giá cả bao gồm việc nghiên cứu giá cả của từng mặt hàng tại từng thời điểm trên thị trường, xu hướng biến động của giá cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó như: nhân tố chu kỳ, nhân tố lũng loạn của các công ty siêu quốc gia, nhân tố cạnh tranh, nhân tố cung cầu, nhân tố lạm phát, nhân tố thời vụ và một số nhân tố khác như: chính sách của chình phủ, tình hình an ninh chính trị của các quốc gial... Từ đó mới có thể dự đoán một cách tương đối chính xác về giá cả quốc tế của hàng hoá. Rõ ràng việc nghiên cứu và tính toánh một cách chính xác giá cả của các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu là một công việc khó khăn đòi hỏi phải được xem xét trên nhiều khía cạnh, nhưng đó lại là một nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả thực hiện các hợp đồng kinh doanh TMQT. Nghiên cứu các loại hình kinh doanh khác trên thị trường như điều kiện vận tải, tốc độ, phương tiện vận tải như thế nào, chi phí vận tải ra sao, bảo hiểm, vận chuyển... Nghiên cứu một số yếu tố khác liên quan đến hoạt động kinh doanh trên thị trường như: quan hệ chính trị, văn hoá: làm việc với ai phải hiểu văn hoá của người đó, đồng thời có cái nhìn khách quan về nền văn háo của họ, không thể so bì với văn hoá của ta mà cho rằng nền văn hoá của họ không tốt, kinh doanh TMQT cần luôn hiểu “ không có một nền văn hoá nào là tốt hay xấu mà chỉ có sự khác biệt”. Nghiên cứu chính sách, thể chế của quốc gia khác đặc biệt là yếu tố về luật, thể chế tài chính. Nghiên cứu yếu tố tự nhiên của từng đoạn thị trường: vị trí địa lý, khí hậu... 1.2: Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thị trường xuất khẩu giúp đơn vị kinh doanh lựa chọn thị trường, việc lựa chọn thị trường phải căn cứ vào những tiêu chuẩn mà các thị trường phải đáp ứng được: Tiêu chuẩn chung: Về chính trị: có những chính thể này thuận lợi hơn những chính thể khác đối với hoạt động xuất khẩu, nghiên cứu cả những bất chắc chính trị và sự ổn định của chính thể. Về địa lý: khoảng cách địa lý, khí hậu, tháp dân số... Về kinh tế: những chỉ tiêu về tổng sản phẩm quốc nội (GDP), GDP bình quân đầu người, tỷ lệ tăng GDP... Về kỹ thuật: những khu vực phát triển và triển vọng phát triển. Tiêu chuẩn về quy chế thương mại và tiền tệ: Biện pháp bảo hộ mậu dịch: thuế quan, các giấy phép và hạn ngạch... Tình hình tiền tệ: tỷ lệ lạm phát, sự diễn biến của tỷ giá hối đoái Tiêu chuẩn về thương mại: Phần của sản xuất nội địa Sự hiện diện của hàng hoá Việt Nam trên các thị trường Sự cạnh tranh quốc tế trên các thị trường lựa chọn. Những tiêu chuẩn này sau đó phải được cân nhắc, điều chỉnh tuỳ theo mức quan trọng của chúng đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp kết quả hoạt động kinh doanh còn phụ thuộc vào khách hàng. Trong cùng những điều kiện như nhau việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công, với khách hàng khác thì bất lợi. Vì vậy một nhiệm vụ quan trọng của đơn vị kinh doanh trong lựa chọn thị trường là lựa chọn khách hàng. Việc lựa chọn khách hàng (hay lựa chọn thương nhân) để giao dịch không nên căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu mà cần tìm hiểu khách hàng về: Tình hình sản xuất kinh doanh của họ, năng lực, phạm vi kinh doanh và tư cách pháp nhân. Khả năng về vốn và cơ sỏ vật chất kỹ thuật. Năng lực con người và năng lực quản lý của họ Trình độ và quan điểm kinh doanh của thương nhân đó Uy tín của họ trong kinh doanh Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất là nên lựa chọn những đối tác trực tiếp, tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào các thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm. Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng TMQT, song nó phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người làm công tác giao dịch. Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế trong TMQT nói chung và trong kinh doanh xuất khẩu nói riêng là hết sức cần thiết trong hoạt động kinh doanh. Đó là bước chuẩn bị và là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh TMQT một cách có hiệu quả nhất. 2. Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu. Trên cơ sở những kết quả thu lượm được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trườn, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt đến những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau: Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân: trong bước này, người lập phương án rút ra những nét tổng quát về tình hình, phân tích thuận lợi và khó khăn trong kinh doanh. Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích những tình hình có liên quan. Đề ra mục tiêu. Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh bao giờ cũng là mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng với giá cả bao nhiêu, sẽ thâm nhập vào những thị trường nào... Đề ra biện pháp thực hiện. Những biện pháp này có thể bao gồm nhiều biện pháp trong nước (như đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, ký hợp đồng kinh tế, tăng giá thu mua...) và cả các biện pháp ở ngoài nước (như đẩy mạnh quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới đại lý...) Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua một số chỉ tiêu chủ yếu: chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ, chỉ tiêu thời gian hoàn vốn, chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi, chỉ tiêu điểm hoà vốn. Sau khi phương án đã được đề ra, đơn vị kinh doanh phải cố gắng để thực hiện phương án, tức là tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với khách hàng đã chọn. Nhưng để tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với nhau người xuất khẩu và nhập khẩu thường phải qua một quá trình giao dịch, thương thảo về các điều kiện giao dịch. Quá trình đó có thể bao gồm những bước chính như: hỏi hàng, chào hàng, đặt hàng. Hỏi hàng: hỏi hàng còn gọi là hỏi giá, tuy không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi, nhưng nếu hỏi nhiều nơi, nhiều hãng quá có thể gây lên hiểu lầm về nhu cầu của mình. Vả lại, hỏi nhiều sẽ kéo theo việc trả lời và các công việc hành chính văn thư khác. Điều này cũng dễ gây nên tốn thời gian và chi phí. Chào hàng: là lời đề nghị biểu thị muốn bán hàng do người bán đưa ra. Trước khi chào hàng cần nắm được quan hệ cung cầu về hàng hoá đó trên thế giới, mức giá hiện hành trên thị trường, nhu cầu của đối phương và khả năng của ta. Trên cơ sở đó, ta xác định nên đưa ra đơn chào hàng cố định hay đơn chào hàng tự do. Chào hàng cố định: là lời đề nghị ký hợp đồng của người bán chỉ gửi cho một đối tác, trong thời hạn có hiệu lực của chào hàng thì không được gửi cho các đối tác khác. Nếu người nhận chào hàng cố định chấp nhận mua coi như chào hàng được ký. Chào hàng tự do:là lời đề nghị chào bán một mặt hàng nào đó được gửi cho nhiều người và không ràng buộc về mặt pháp lý. Nếu người nhận chào hàng tự do đồng ý mua nhưng người bán vẫn có thể không thực hiện lời chào hàng đó. Có khi, bên mua chưa hỏi mua, nhưng ta chủ động tìm hiểu thấy họ có nhu cầu và ta đưa ra đơn chào hàng (chào hàng chủ động). Cũng có khi, trên cơ sỏ hỏi hàng của bên mua, chúng ta chào hàng để đáp lại thư hỏi hàng của đối phương (chào hàng thụ động). Dù chào hàng theo cách nào, đơn chào hàng cũng cần rõ ràng và có sức hấp dẫn. Sự hấp dẫn không chỉ thể hiện ở giá thấp, ở sự giảm giá, mà có thể ở cả dịch vụ cung cấp cho người mua, phẩm chất hàng tốt, điều kiện thanh toán có lợi cho người mua. Đặt hàng: đặt hàng là lời đề nghị chắc chắn về việc ký kết hợp đồng, xuất phát từ người mua. Do đó, người mua chỉ đặt hàng ở nhà cung cấp nào mà đã biết rõ về chất lượng hàng, mức giá cả, khả năng giao hàng của họ. Người bán cần nắm được điều này để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng tăng hiệu quả kinh doanh. 3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu. Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng ngoại thương: là sự thoả thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nươc khác nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (bên bán) có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu cho một bên khác gọi là bên nhập khẩu (bên mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá, bên mua có nghĩa vụ nhận tiền hàng và trả tiền hàng. Về điều kiện hiệu lực của hợp đồng TMQT, theo điều 81 của Luật Thương mại Việt Nam, hợp đồng mua bán quốc tế có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lý. Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật. Hợp đồng mua bán quốc tế phải có các nội dung chủ yếu mà luật pháp đã quy định.Theo điều 50 của Luật Thương mại Việt Nam, những điều khoản sau buộc phải có trong hợp đồng bao gồm: tên hàng, số lượng, quy cách chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngoài ra, các bên có thể thoả thuận thêm những nội dung, những điều khoản khác trong hợp đồng. Hình thức của hợp đồng phải là văn bản. Nội dung chủ yếu của một hợp đồng TMQT thường bao gồm những nội dung sau: . Số hợp đồng . Địa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng . Tên và địa chỉ của các đương sự . Những định nghĩa dùng trong hợp đồng . Cơ sở pháp lý để kí kết hợp đồng . Các điều khoản và điều kiện của hợp đồng: điều khoản thương phẩm, điều khoản tài chính, điều khoản vận tải, điều khoản pháp lý... 4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, đơn vị kinh doanh xuất khẩu- với tư cách là một bên ký kết- phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị. Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau: 4.1:Kiểm tra L/C. Nếu trong điều khoản thanh toán của hợp đồng ngoại thương quy định sử dụng phương thức tín dụng chứng từ thì bước đầu tiên đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần phải làm đó là đôn đốc người nhập khẩu ở nước ngoài mở L/C đúng hạn và nội dung như hợp đồng quy định. Sau khi nhận được L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra so sánh với nội dung và điều kiện ghi trong hợp đồng, nếu phù hợp người xuất khẩu mới tiến hành làm những công việc thực hiện hợp đồng còn chưa phù hợp phải yêu cầu bên nhập khẩu sửa đổi bổ sung bằng văn bản. 4.2: Xin giấy phép xuất khẩu. Giấy phép xuất khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu trong quá trình xuất khẩu hàng hoá. Với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh làm hàng xuất khẩu và xuất khẩu những mặt hàng nhà nước không hạn chế. Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch và bằng luật pháp, hàng hoá là đối tượng quản lý có 3 mức: Những danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu: Việc điều chỉnh danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Trong trường hợp đặc biệt, việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong danh mục cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu phải được Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định từng trường hợp cụ thể. Hàng hoá xuất nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại: Bộ Thương mại chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan cụ thể hoá danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại theo mã số của danh mục biểu thuết xuất, biểu thuế nhập khẩu (nếu có). Việc điều chỉnh danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại, bao gồm cả lộ trình bãi bỏ loại giấy phép này, do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Việc ký hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong danh mục này chỉ được thực hiện sau khi đã có giấy phép của Bộ Thương mại. Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành: Việc điều chỉnh bổ sung danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành và nguyên tắc áp dụng do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Thủ trưởng cơ quan quản lý chuyên ngành và Bộ trưởng Bộ Thương mại, các bộ ngành quản lý chuyên ngành hướng dẫn thực hiện việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong danh mục này. Thủ tục cấp giấy phép: Khi đối tượng hợp đồng trong phạm vi phải xin giấy phép xuất nhập khẩu, doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ xin phép gồm: Bản sao hợp đồng xuất/nhập Phải có bản giải trình với mặt hàng cấm xuất/nhập Đơn xin cấp giấy phép Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện ngoài bản sao giấy tờ, đơn xin phép phải có bản sao hạn ngạch. Sau khi hoàn tất thủ tục gửi đến cơ quan cấp giấy phép (Bộ Thương mại), sau đó Bộ Thương mại gửi hồ sơ đến các bộ quản lý chuyên ngành. Thời gian cấp giấy phép: Riêng mặt hàng cấm xuất/nhập thì không quy định thời gian Với mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện thì giao cho nhân viên quản lý thụ lý hồ sơ, sau 3 ngày phải trả lời với những hồ sơ xin phép cần bổ sung, cần sửa đổi hoặc những hồ sơ không cấp giấy phép Đối với những hồ sơ hợp lệ cấp giấy phép sau 7 ngày. 4.3: Chuẩn bị hàng xuất khẩu. Thực hiện cam kết trong hợp đồng xuất khẩu, chủ hàng xuất khẩu phải tiến hành chuẩn bị hàng xuất khẩu. Căn cứ để chuẩn bị hàng xuất khẩu là hợp đồng đã ký với nước ngoài và/hoặc L/C (nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C). Công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm 3 khâu chủ yếu: thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu, đóng gói bao bì và kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu. Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu: Việc mua bán ngoại thương thường tiến hành trên cơ sở số lượng lớn. Trong khi đó sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta, về cơ bản, là một nền sản xuất manh mún, phân tán; nguồn hàng để xuất khẩu chủ yếu là hàng sơ cấp (nguyên vật liệu qua sơ chế, hàng bán thành phẩm), hàng thủ công mĩ nghệ, hàng nông lâm, thổ, thuỷ sản. Vì vậy trong rất nhiều trường hợp muốn làm thành lô hàng xuât khẩu chủ hàng xuất khẩu phải tiến hành thu gom tập trung từ các cơ sở sản xuất nhỏ, từ trong nhân dân, từ các cơ sở thương mại... (gọi tắt là các chân hàng). Cơ sở để thực hiện thu gom hàng xuất khẩu là hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu với các chân hàng. Những loại hợp đồng kinh tế thường được sử dụng để huy động hàng xuất khẩu có thể là: hợp đồng mua bán hàng xuất khẩu, hợp đồng gia công, hợp đồng đổi hàng, hợp đồng uỷ thác thu mua hàng xuất khẩu, hợp đồng liên doanh liên kết xuất khẩu... Bao bì đóng gói hàng xuất khẩu: Trong buôn bán quốc tế, tuy không ít mặt hàng để trần hoặc để rời, nhưng đại bộ phận hàng hoá đòi hỏi phải được đóng gói và bao bì trong qúa trình vận chuyển và bảo quản. Tổ chức đóng gói, bao bì là khâu quan trọng của việc chuẩn bị hàng hoá bởi những tác dụng to lớn sau: Bao bì đóng gói bảo đảm được phẩm chất hàng hoá trong quá trình vận chuyển, tránh được rủi ro mất mát. Tạo điều kiện thuận lợi cho bốc xếp, di chuyển, vận chuyển và giao nhận hàng hoá. Tạo điều kiện cho việc nhận biết phân loại hàng hoá. Gây ấn tượng và làm cho người mua thích thú hàng hoá. Trong kinh doanh TMQT người ta thường dùng các loại bao bì như: hòm, bao, kiện hay bì, thùng... đây là bao bì bên ngoài, ngoài ra còn có loại bao bì bên trong và bao bì trực tiếp. Nói chung tuỳ thuộc đặc điểm và tính chất của hàng hoá cần bao gói, vào những điều đã thoả thuận trong hợp đồng mà lựa chọn loại bao bì thích hợp. Ngoài ra cần phải xét đến những nhân tố: điều kiện khí hậu môi trường, điều kiện vận tải, bốc xếp hàng, điều kiện luật pháp thuế quan, chi phí vận chuyển. Kẻ kýmã hiệu hàng xuất khẩu: Ký mã hiệu là những ký hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng hình vẽ được ghi trên các bao bì bên ngoài nhằm thông báo những chi tiết cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ và bảo quản hàng hoá. 4.4: Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu (kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng xuất khẩu). Một nguyên tắc cơ bản trong mọi khâu, mọi công việc đều cần có kiểm tra, kiểm nghiệm để có thể hạn chế và loại trừ những lỗi sai trong quá trình thực hiện. Trong kinh doanh xuất khẩu cũng vậy, trước khi giao hàng người xuất khẩu có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì... (tức kiểm nghiệm) hoặc nếu hàng hoá xuất khẩu là động vật, thực vật phải kiểm tra về khả năng lây lan bệnh tật (tức là kiểm dịch động vật, kiểm dịch thực vật). Việc kiểm nghiệm và kiểm dịch phải được tiến hành ở hai cấp: ở cơ sở và ở cửa khẩu. Trong đó việc kiểm tra ở cơ sở do phòng KCS tiến hành có vai trò quyết định và có tác dụng triệt để nhất. Còn việc kiểm tra ở cửa khẩu có tác dụng thẩm tra lại kết quả kiểm tra ở cơ sở và thực hiện thủ tục quốc tế. 4.5: Thuê tàu, lưu cước. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương, việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào 3 căn cứ sau đây: những điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải. Tàu biển được sử dụng để chuyên chở hàng hoá có thể là tàu chợ, tàu chuyến hoặc tàu định hạn. Việc thuê tàu, lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, chủ hàng xuất nhập khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty hàng hải có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn hơn. Trong buôn bán quốc tế, phương thức chuyên chở hàng hoá bằng đường biển là phương thức vận tải được sử dụng nhiều nhất, chiếm đến 80% khối lượng vận chuyển trong chuyên chở quốc tế. Bên cạnh đó, người ta còn sử dụng một số phương thức khác như: vận tải đường bộ, vận tải đường sắt, vận tải đường sông, vận tải hàng không. Ngoài ra còn còn có hình thức vận tải đường ống, vận tải đa phương thức. 4.6: Mua bảo hiểm. Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Hợp đồng bảo hiểm có hai loại: hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến. Hợp đồng bảo hiểm bao: đơn vị mua bảo hiểm ký hợp đồng từ đầu năm, còn đến khi giao hang xuống tàu xong, chủ hàng chỉ gửi đến công ty bảo hiểm (Bảo Việt) một thông báo bằng văn bản gọi là “giấy báo bắt đầu vận chuyển”. Hình thức hợp đồng bảo hiểm này thường áp dụng đối với các tổ chức buôn bán ngoại thương hoặc doanh nghiệp buôn bán hàng xuất khẩu thường xuyên nhiều lần trong một năm. Hợp đồng bảo hiểm chuyến: khi mua bảo hiểm chuyến chủ hàng gửi đến công ty bảo hiểm một văn bản gọi là “giấy yêu cầu bảo hiểm”. Trên cơ sở giấy yêu cầu này, chủ hàng và công ty bảo hiểm đàm phán ký hợp đồng bảo hiểm. Hình thức này thường áp dụng với các đợt mua bán riêng lẻ. Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm, có 3 điều kiện bảo hiểm chính: bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A), bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng (điều kiện B), bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng (điều kiện C). Ngoài ra, còn có một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt khác như bảo hiểm chiến tranh, đình công, bạo động. 4.7: Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hay nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là công cụ để quản lý hành vi buôn bán theo pháp luật của nhà nước, để ngăn chặn xuất nhập khẩu lậu qua biên giới, để kiểm tra giấy tờ sai sót giả mạo, để thống kê số lượng về hàng xuất nhập khẩu. Việc làm thủ tục hải quan bao gồm 3 bước chủ yếu sau: Khai báo hải quan: chủ hàng khai báo các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để cơ quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Xuất trình hàng hoá: hàng hoá phải được sắp xếp trật tự thuận tiện cho việc kiểm soát. Thông thường đối với hàng khối lượng ít, người ta vận chuyển hàng hoá tới kho của hải quan để kiểm lượng, làm thủ tục hải quan và nộp thuế (nếu có) đối với hàng xuất khẩu. Còn đối với hàng hoá xuất nhập khẩu có khối lượng lớn việc kiểm tra giấy tờ hàng hoá có thể diễn ra ở các nơi sau: Tại nơi đóng gói bao kiện Tại nơi giao nhận hàng cuối cùng Tại cửa khẩu. Thực hiện các quyết định của hải quan. 4.8: Giao hàng xuất khẩu. Phần lớn số hàng xuất khẩu ở nước ta được vận chuyển bằng đường biển, đường sắt và bằng container. Nếu hàng hoá được giao bằng đường biển, chủ hàng phải tiến hành các công việc sau đây: Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu lập bản đăng ký hàng chuyên chở. Xuất trình bản đăng ký hàng chuyên chở cho người vận tải để lấy hồ sơ sếp hàng. Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng. Bố trí phương tiện đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu. Lấy biên lai thuyền phó (Mate,s Receipt) và đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển phải là vận đơn hoàn hảo, đã bốc hàng (Clean on board B/L) và phải chuyển nhượng được (negotiable). Vận đơn cần được chuyển gấp về bộ phận kế toán để lập bộ chứng từ thanh toán. Nếu hàng được chuyên chở bằng đường sắt, chủ hàng phải kịp thời đăng ký với cơ quan đường sắt để xin cấp toa xe phù hợp với tính chất hàng hóa và khối lượng hàng hóa. Khi đã được cấp toa xe, chủ hàng tổ chức bốc xếp, niêm phong cặp chì và làm các chứng từ vận tải, trong đó chủ yếu là vận đơn đường sắt. Vận đơn đường sắt chuyển về phòng kế toán để lập bộ chứng từ thanh toán. Nếu hàng được chở bằng container thì giao theo hai phương thức: hàng đủ một container và hàng chưa đủ một container. Hàng chiếm đủ một container (Full container load- FCL), thì chủ hàng đăng ký thuê container, chịu chi phí chuyển container rỗng từ bãi về cơ sở của mình, đóng hàng vào container và giao đến ga container để giao cho người vận tải. Hàng chưa đủ một container (Lessthan container load- LCL), thì chủ hàng phải làm đăng ký hàng chuyên chở xuất trình cho vận tải. Sau khi được chấp nhận chở hàng, chủ hàng đưa hàng đến ga container và giao cho người vận tải. Cơ quan vận tải chịu trách nhiệm đóng hàng vào container và bốc lên tàu. 4.9: Làm thủ tục thanh toán. Có thề nói thanh toán là khâu trọng tâm và là kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh TMQT. Có 2 phương thức thanh toán chủ yếu sau: Thanh toán bằng thư tín dụng Thanh toán tiền hàng bằng L/C là một phương thức thanh toán bảo đảm hợp lý, thuận tiện an toàn, hạn chế rủi ro cho cả bên mua và bên bán. Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, người xuất khẩu phải yêu cầu người nhập khẩu mở L/C đúng hạn và nội dung như hợp đồng quy định. Sau khi nhận được thông báo đã mở L/C của người nhập khẩu, người xuất khẩu phải đối chiếu L/C với nội dung hợp đồng mua bán xem co phù hợp không, nếu phù hợp thì tiến hành giao hàng, còn nếu thấy còn có chỗ chưa hợp lý thì yêu cầu bên nhập khẩu phải sửa đổi, bổ xung. Đến thời hạn giao hàng, cùng với việc giao hàng người xuất khẩu phải lập bộ chứng từ hoàn hảo, phù hợp với nội dung trong L/C để yêu cầu bên nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho mình. Thanh toán bằng phương thức nhờ thu Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng phương thức nhờ thu, thì ngay sau khi giao hàng, bên xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ và phải xuất trình cho ngân hàng để uỷ thác cho ngân hàng thu tiền hộ. Chứng từ thanh toán cần được lập hợp lệ, chính xác và được nhanh chóng giao cho ngân hàng nhằm nhanh chóng thu hồi vốn. 5. Đánh giá hiệu quả xuất khẩu. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu sẽ cho phép doanh nghiệp xác định được doanh thu tiêu thụ, lỗ lãi trong kinh doanh và kết quả kinh doanh. Đánh giá hiệu quả hoạt động thông qua các chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu tổng hợp Hqdth = Tsd/ Tsx Trong đó: Tsd: thu nhập quốc dân có thể sử dụng được. Tsx: thu nhập quốc dân được sản xuất ra. Chỉ tiêu này cho biết thu nhập quốc dân của một quốc gia tăng giảm như thế nào trong thời kỳ tính toán khi có TMQT. Nếu tương quan lớn hơn 1 TMQT đã làm tăng thu nhập quốc dân, và ngược lại nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 thì thu nhập quốc dân giảm. Chỉ tiêu lợi nhuận LN = TR - TC Trong đó: TR: lợi nhuận TR: Tổng doanh thu TC: Tổng chi phí Chỉ tiêu doanh lợi xuất khẩu Dx = (Tx/cx) * 100% Trong đó: Dx: Doanh lợi xuất khẩu Tx: Thu nhập về bán hàng xuất khẩu tính ra tiền Việt Nam Cx: Tổng chi phí cho việc xuất khẩu. -Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu. Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu = Tổng chi phí (VND)/ Doanh thu xuất khẩu (USD) (TSNTXK) Điểm hoà vốn là điểm mà TSNTXK = TGHĐ ( Tỷ giá hối đoái) Nếu TSNTXK > TGHĐ : không nên xuất khẩu Trong buôn bán quốc tế, với mọi trường hợp đều không thể dùng các thủ thuật gian dối. Muốn nâng cao lợi nhuận phải cố gắng từng bước, cải tiến hoạt động thương mại, phải nẵm vững và tiến hành theo quy trình, không thể nóng vội đốt cháy giai đoạn. Nếu không tôn trọng nguyên tắc trên dễ dẫn đến thua thiệt trong kinh doanh. Dù là có kinh nghiệm sành sỏi lão luyện hay người mới vào nghề, đều phải tuân thủ các bước đi. Đó là việc quan trọng nhất của các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. III. Khái quát về lịch sử tơ tằm thế giới và đặc điểm của hàng tơ tằm xuất khẩu. 1. Lịch sử tơ tằm thế giới. 1.1: Những chặng đường lịch sử tơ tằm thế giới. Theo Khổng Tử, vào năm 2640 trước công nguyên, nàng công chúa Tây Linh Chi của Trung Quốc là người đầu tiên kéo được sợi tơ từ con kén, mà cũng theo truyền thuyết, đã tình cờ rơi vào cốc nước trà của nàng. Kể từ khoảnh khắc lịch sử ấy, người Trung Quốc phát hiện ra vòng đời của con tằm và mãi cho đến 3000 năm sau đó họ vẫn giứ độc quyền về tơ tằm. Vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, vải lụa tơ tằm của Trung Quốc đã bắt đầu được đưa đến khắp vùng Châu á, được vận chuyển bằng đường bộ sang phương Tây và bằng đường biển sang Nhật Bản theo các lộ trình dài được gọi là con đường tơ lụa. Chính tại Châu á, người La Mã đã khám phá ra loại vải lụa tuyệt vời này, nhưng họ lại không biết gì về nguồn gốc của chúng cả. Vào năm 552 sau công nguyên, Hoàng đế Justinien cử hai giáo sĩ sang công cán ở Châu á và khi trở về Byzance họ đã mang theo những trứng tằm được cất giấu trong những cây gậy trúc (đây là một điển hình xa xưa nhất củ._.ơ cơ khí cấp A- 2A các loai, tơ ươm tự động cấp 3A- 4A các loại. Phát huy hơn nữa hiệu quả của các cơ sở ươm tơ của công ty, kí hợp đồng thu mua kén để có được nguồn nguyên liệu sản xuất ổn định. Duy trì phát triển các thị trường đã có, từng bước mở rộng thị trường,... Vì thế từ nay đến năm 2005 công ty dâu tằm tơ I cần phấn đấu đạt tổng doanh thu khoảng 16 tỷ, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 800 nghìn USD. Tổng số nộp ngân sách nhà nước phải gấp đôi năm 2003, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 535.000đ năm 2003 lên 700.000đ vào năm 2005. Xem bảng sau để thấy rõ hơn một số chỉ tiêu chủ yếu của công ty cần phấn đấu đạt được trong thời gian tới: Bảng 7: Các chỉ tiêu chủ yếu của công ty trong thời gian tới Chỉ tiêu Đơn vị 2004 2005 I. Giá trị tổng sản lượng Tr. đ 17.000 20.000 1. Giá trị công nghiệp Tr. đ 12.000 14.000 2. Kinh doanh Tr. đ 4.500 5.400 3. Hoạt động khác Tr. đ 500 600 II. Doanh thu Tr. đ 14.000 16.000 1. Kịnh doanh tơ Tr. đ 12.500 14.000 2. Hoạt động khác Tr. đ 1.500 2.500 III. Kinh doanh XK USD 680.000 800.000 IV. Sản phẩm chủ yếu 1. Sản xuất Tơ cơ khí Tấn 10 14 Tơ tự động Tấn 22 25 Gốc rũ Tấn 4 5 2. Thu mua Tơ cơ khí Tấn 30 35 Kén tằm Tấn 110 130 Trứng tằm Kg 32.500 37.500 V. Lao động tiền lương 1. Tổng lao động bình quân/năm Người 190 200 2. Lương bình quân/người/tháng Đồng 650.000 700.000 VI. Nộp ngân sách nhà nước Tr. đ 205 220 (Nguồn: phòng kế hoạch sản xuất) II.Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I. 1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, mở rộng thị trường xuất khẩu. Công tác thị trường có một vai trò quan trọng trong kinh doanh, nó hướng dẫn, chỉ đạo và phối hợp các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nhờ các hoạt động nghiên cứu thị trường các quyết định đề ra trong sản xuất kinh doanh có cơ sở hoạt động vững chắc hơn. Có thể nói công tác nghiên cứu thị trường cực kỳ quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh xuất khẩu. Để thâm nhập vào các thị trường mới cần phải có cách tiếp cận, có phương pháp và có hệ thống để thu hút khách hàng mới. Vấn đề này phải được lập kế hoạch tốt, với một cam kết đầu tư dài hạn vào các nguồn lực cần thiết (về ngân sách, đi lại, chào hàng...) nhằm đảm bảo phát triển quan hệ bền vữngvới các khách hàng mục tiêu. Như đã nói ở trên, hiện công ty dâu tằm tơ I chưa có một bộ phận chuyên trách nghiên cứu thị trường, công việc này được giao cho cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu đảm nhận. Điều này một phần hạn chế khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu của công ty. Như vậy với tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường trong hoạt động tiêu thụ nói chung, trong hoạt động xuất khẩu nói riêng. Với thực trạng của công tác nghiên cứu thị trường tại công ty dâu tằm tơ I. Vấn đề trước mắt công ty cần phải thực hiện đó là: cần thành lập thêm phòng kinh doanh tiếp thị hoặc tuyển thêm cán bộ marketing cho phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó công ty cần chú ý đến các giải pháp cụ thể sau: Tích cực theo dõi sự phát triển của các hiệp định thương mại thế giới và điều kiện bên ngoài thị trường thế giới, đồng thời tìm hiểu về khả năng của các đối thủ cạnh tranh lớn trên thị trường thế giới nói chung, thị trường mục tiêu nói riêng... Lập ngân sách cho việc tiếp thị ở nước ngoài, bao gồm thường xuyên đi lại và khuyếch trương sản phẩm nhằm làm cho công ty có khả năng thâm nhập vào các thị trường mới. Nghiên cứu các phân đoạn thị trường mục tiêu và xác định nhu cầu tiềm năng của sản phẩm trước khi tiến hành đầu tư. Làm tốt công tác thông tin quảng cáo. Cần quan tâm hơn nữa đến phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Công ty phải thực sự đề cao vai trò của công tác thị trường, thông qua việc thành lập mới phòng kinh doanh tiếp thị biến nó thành một hoạt động mang tính thường xuyên và có chính sách đầu tư thích đáng cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên gia giỏi, đảm nhận việc nghiên cứu và tiếp cận thị trường. Một mặt công ty cần tìm cách mở rộng quan hệ với các thị trường mới, song mặt khác phải nên chú trọng trong việc chủ động đưa ra các giải pháp nhằm củng cố mối quan hệ với bạn hàng truyền thống bởi đó là các đối tác quen thuộc, công ty không phải tốn nhiều chi phí trong việc quảng cáo giới thiệu về mình. 2. Tiếp tục đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất hiện đại. Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, phù hợp đó là yếu tố then chốt tạo nên sản phẩm có chất lượng cao, thực sự mang lại sức cạnh tranh mạnh mẽ cho sản phẩm của công ty trên thị trường thế giới. Nhưng bên cạnh đó công ty cần tránh hiện tượng đầu tư một cách ồ ạt. Trong việc nhập công nghệ mới công ty cần phải nắm được thông tin khoa học kỹ thuật.Bởi thông tin khoa học kỹ thuật sẽ giúp công ty đầu tư được dây truyền công nghệ thích hợp cho sản xuất. Cũng như nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác, đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm, song khó khăn nhất đối với công ty hiện nay là vấn đề về vốn. Do vậy việc huy động có hiệu quả nguồn vốn trong và ngoài nước là giải pháp quan trọng để tháo gỡ khó khăn này. 3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty. Cán bộ công nhân viên trong một doanh nghiệp ngoại thương phát triên phải là những người có đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của doanh nghiệp mình. Đồng thời phải nắm được chính xác mọi thông tin về sự thay đổi nhu cầu và giá cả thị trường, nguyên nhân gây nên sự thay đổi đó và báo cáo cho ban lãnh đạo công ty. Đó là con đường duy nhất giúp cho lãnh đạo của doanh nghiệp ngoại thương kịp thời xử lý một vấn đề trước khi nó vượt ra ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Để có một đội ngũ cán bộ công nhân viên như vậy mỗi nhân viên và cán bộ công ty trước tiên phải là những người giỏi chuyên môn nghiệp vụ ở vị trí hoạt động của mình trong doanh nghiệp, luôn rèn luyện thói quen theo dõi, ghi nhận, nghiên cứu và phân tích các thị trường liên quan tới sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, thị trường mục tiêu.. đồng thời phải nắm được kỹ năng sử dụng một số phương tiện phân tích thông tin và truyền thông hiện đại như máy tính, fax... để nâng cao khả năng phân tích thông tin chính xác, nhanh và kịp thời. Muốn điều này thành hiện thực công ty cần quan tâm đến một số giải pháp: Nâng cao kỹ năng quản lý của cán bộ công nhân viên ở tất cả các cấp mặc dù công tác quản lý nguồn nhân lực ở công ty tương đối tốt. Cơ cấu nhân sự tốt có thể được sử dụng để xây dựng các chương trình hỗ trợ nâng cao năng suất lao động và tiếp tục phát triển trình độ người lao động. Công ty cần tìm hiểu lý do thôi việc của người lao động và xây dựng chiến lược duy trì tỷ lệ thay thế nhân viên. Đào tạo bổ sung cung cấp kiến thức chuyên môn về kinh tế nói chung và về nghiệp vụ buôn bán ngoại thương nói riêng, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ trong công ty, đặc biệt là cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu để có thể giao dịch tốt hơn, tránh sự hiểu lầm do hạn chế về kiến thức ngoại ngữ gây ra, nhằm nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý công ty sao cho gọn nhẹ, linh hoạt, có trình độ cao giúp cho công ty hoạt động liên tục có hiệu quả. Công ty cần đặt ra các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của mình theo các tiêu chuẩn lao động quốc tế đối với các cơ sở hoạt động tương tự và xây dựng chiến lược nâng cao năng suất lao động. Nên mở rộng chương trình đào tạo để nâng cao tay nghề cho công nhân, có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với người lao động. 4. Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. - Vấn đề về chất lượng sản phẩm. Nói đến chất lượng người ta nghĩ ngay đến chất lượng sản phẩm cuối cùng, còn đi sâu tìm hiểu chất lượng là một phạm trù rộng lớn. Chất lượng liên quan đến cả quá trình từ khâu đầu tiên cho đến khâu cuối cùng. Chất lượng ở đây như một mục tiêu áp đặt từ trên xuống, từ ngoài vào mà bất kỳ người nào tham gia vào quá trình đều phải thực hiện, nó được tạo ra từ sự tự giác, tinh thần trách nhiệm của mọi người tham gia vào quá trình này. Mặc dù đã có sự nhận thức đầy đủ về chất lượng nhưng công tác quản trị chất lượng của công ty vẫn bị hạn chế. Bởi một thực tế rằng, tham gia vào quá trình này không chỉ có cán bộ công nhân viên trong công ty mà còn có cả các đơn vị, cá nhân ngoài công ty, công ty chỉ có thể làm tốt hơn công đoạn mà mình phụ trách. Nếu như phân quá trình này thành 2 giai đoạn: giai đoạn từ trồng trọt chăn nuôi đến tạo ra kén và giai đoạn từ khi có kén đến tạo ra tơ thành phẩm thì giai đoạn sau có ý nghĩa quyết định còn giai đoạn đầu có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng tơ được sản xuất. Chính vì vậy, công tác quản trị chất lượng của công ty cần phải coi trọng cả hai giai đoạn này. Công ty cần quán triệt quan điểm: Đảm bảo chất lượng là trách nhiệm của mọi người, mọi bộ phận trong công ty từ giám đốc đến cán bộ quản lý và công nhân. Quản trị chất lượng phải đảm bảo và nâng cao chất lượng phải phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Đổi mới và tăng cường các hoạt động cải tiến chất lượng trong phạm vi toàn công ty. Sự phát triển chất lượng phải bền vững, đạt hiệu quả cao và thường xuyên cải tiến thông qua việc đổi mới công tác quản lý chất lượng và áp dụng hệ thống chất lượng thích hợp, hình thành một phong trào chất lượng có hiệu quả cao trong đó con người giữ vai trò động lực. -Vấn đề về giá cả sản phẩm. Công ty nên lựa chọn phương thức cạnh tranh bằng giá cả dựa trên việc thực hiện chiến lược nhấn mạnh chi phí. Để tạo ra giá thành sản phẩm hấp dẫn công ty cần phải tạo được một bước chuyển biến tích cực trong quản lý chế biến tơ như: khâu quản lý thu mua, quản lý tiêu hao, quản lý chi phí công nghiệp, quản lý chất lượng sản phẩm.. Bên cạnh đó công ty cần xây dựng một chính sách giá cả chặt chẽ để việc cạnh tranh bằng giá không làm giảm nhiều lợi nhuận của công ty. Ngoài việc căn cứ vào chi phí để xây dựng giá, công ty phải tìm được đối thủ đang chi phối giá trên thị trường và những thông tin thường xuyên về mức giá bình quân của sản phẩm cùng loại, kết hợp với việc tìm hiểu sự hình dung về giá của hãng tiêu dùng (mức giá nào là đắt, rẻ, phải chăng) để từ đó công ty xác định được mức giá hợp lý, tránh được phản ứng tiêu cực từ phía đối thủ cạnh tranh. Việc xây dựng chính sách giá thấp hoặc giá phải chăng sẽ khiến công ty không có được lợi nhuận cao, hoặc phải chịu lỗ trong thời gian đầu để tăng thị phần. Thị phần cao có thể tạo ra tính kinh tế trong qua trình mua nguyên liệu, hàng hoá làm giảm chi phí. Vị trí chi phí thấp một khi đã đạt được sẽ cho phép làm tăng tỷ lệ lợi nhuận và như vậy có thể tái đầu tư vào những máy móc thiết bị mới, vùng nguyên liệu...có khả năng duy trì lợi thế về chi phí. Như vậy sau một chu trình sản xuất từ đầu vào tới đầu ra, giá cả thấp lại duy trì lợi thế cạnh tranh của công ty. Tất nhiên giá cả là quay xung quanh giá trị, nên tới khi chất lượng sản phẩm cao hơn, giá cả sản phẩm cũng cần phải thay đổi phù hợp, cũng để tránh tâm lý nghi ngờ của khách hàng về chất lượng sản phẩm của công ty. -Đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên liệu, hàng hoá cho sản xuất và tiêu thụ. Nguyên liệu, hàng hoá đầu vào của công ty ổn định, chất lượng đảm bảo bao nhiêu thì sản phẩm của công ty được sản xuất và tiêu thụ có chất lượng cao, ổn định bấy nhiêu. Do đó kết quả tìm nguồn nguyên liệu hàng hoá đầu vào ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm tiêu thụ của công ty. Hịên nguyên liệu đầu vào tốt và hàng hoá thu mua đảm bảo chất lượng cho sản xuất và xuất khẩu của công ty còn rất hạn chế, nên cũng như các công ty khác cùng ngành trong nước công ty luôn kỳ vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn với ngành ươm tơ dệt lụa Việt Nam. Vì hiện trạng bế tắc trong khả năng liên kết, hợp tác sản xuất giữa nông nghiệp trồng dâu nuôi tằm và công nghiệp ươm tơ dệt lụa đã đem lại quá nhiều bất lợi cho cả hai. Vì vậy trước mắt khi chưa có sự quan tâm đúng mức từ phía các cơ quan chức năng, công ty cần chủ động thiết lập mối quan hệ gắn kết giữa các cơ sở sản xuất và vùng nguyên liệu để chủ động về nguyên liệu cho sản xuất kinh doanh bằng cách ký các hợp đồng dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm trong thời gian dài. Cần khuyến khích người dân nuôi tằm tập trung ở xung quanh các cơ sở ươm tơ để dễ dàng hơn trong việc vận chuyển, bảo quản kén đảm bảo chất lượng kén trong khi ươm. Cán bộ kỹ thuật của công ty cần tính toán cụ thể đảm bảo sự cân đối giữa các khâu trong nội bộ ngành tằm dâu quanh khu vực sản xuất của công tylà trồng dâu, nuôi tằm và ươm tơ. Có như vậy mới đảm bảo lợi ích cho cả bà con và công ty. Trên cơ sở: dựa vào số lượng kén nguyên liệu công ty định thu mua để có kế hoạch cụ thể về lượng trứng giống công ty định cung cấp đồng thời dựa vào diện tích trồng dâu và thời vụ dâu trong vùng để hướng dẫn bà con: Diện tích trồng dâu phải ăn khớp khả năng hom giống, phân bón, nhân lực ... trồng phải đúng kỹ thuật, đúng thời vụ. Nuôi tằm phải ăn khớp với diện tích trồng dâu. Trứng giống phải ăn khớp với thời vụ dâu. Có dâu mà không có giống thì lãng phí dâu, ngược lại thì lãng phí giống. Tuổi tằm phải phát triển thích hợp với lứa dâu, tằm còn nhỏ, ăn ít mà nhiều dâu thì lãng phí; ngược lại khi tằm lớn, ăn rỗi mà thiếu dâu thì sẽ gây thiệt hại, có khi phải đổ tằm đi. Nuôi tằm phải ăn khớp với khả năng nhà cửa, với việc chuẩn bị phương tiện như nong, đũi, né... với trình độ kinh nghiệm, kỹ thuật chăn nuôi. Ngoài ra, còn phải ăn khớp với các cơ sở ươm tơ nếu không khi tằm chín rộ không ươm kịp cũng sẽ gây thiệu hại. Chất lượng kén phải phù hợp với yêu cầu của công nghiệp ươm tơ nếu không sẽ giảm giá trị rất nhiều. Như vậy, công ty cần tính đến một sự phát triển vững chắc, có tính toán cụ thể đồng thời hướng dẫn bà con trong kỹ thuật trồng đâu nuôi tằm không để xảy ra dâu xấu tằm bị hỏng xảy ra thiệt hại sẽ làm cho hiệu quả kinh tế của nghề tằm dâu giảm sút, làm cho người nuôi trồng kém tin tưởng ảnh hưởng đến cả đời sống kinh tế của người nuôi trồng và sự tồn tại lớn mạnh của các cơ sở sản xuất của công ty nói riêng, của công ty dâu tằm tơ I nói chung. Bên cạnh đó khi có khả năng và điều kiện thích hợp công ty cần tiến tới tạo ra các vùng nguyên liệu của riêng mình để có thể chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh. Nói chung, trước mắt công ty cần làm tốt hơn các dịch vụ sản xuất và thu mua: Dịch vụ khép kín từ sản xuất dâu, tằm đến cơ sở ươm tơ cơ khí quy mô vừa và nhỏ tại các vùng nguyên liệu ở địa phương có hợp đồng với công ty để sản xuất tơ cơ khí đạt tiêu chuẩn để thu mua xuất khẩu. Liên kết sản xuất chế biến tơ với các nhà máy của các tỉnh để sản xuất và tiêu thụ tơ, công ty cho các nhà máy vay vốn để mua kén tại vùng nguyên liệu của công ty và tiêu thụ tơ theo giá thoả thuận. - Về vấn đề hình ảnh uy tín sản phẩm. Hiện sản phẩm của công ty chưa có một nhãn hiệu riêng, trên thị trường nó chỉ được biết đến là sản xuất tại Việt Nam. Trong thực tiễn, nhãn hiệu hàng hoá là một công cụ cạnh tranh đảm bảo lợi thế trên thị trường nước ngoài. Việc gắn tên nhãn vào sản phẩm không chỉ đơn thuần để xác nhận sản phẩm của công ty và phân bịêt với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, mà còn để đảm bảo một và duy trì một danh tiếng. Để thâm nhập vào thị trường nước ngoài, nhất là thị trường các nước công nghiệp phát triển, việc tạo uy tín qua nhãn hiệu hàng hóa sẽ gặp phải những khó khăn nhất định và công ty dâu tằm tơ I cần phải khắc phục những khó khăn đó trong phạm vi có thể. + Kỹ thuật: hàng hoá đăng ký nhãn hiệu phải đảm bảo chất lượng ổn định, công ty không nên để tính chất lao động thủ công ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm. + Tài chính: chi phí cho các công tác quảng cáo, xúc tiến... là rất cao do đó công ty cần sử dụng và kết hợp chỉ tiêu một cách hợp lý và có hiệu quả. + Cung cấp: sản phẩm đã có nhãn hiệu phải đảm bảo lúc nào cũng cung cấp đủ nhu cầu của thị trường một thời gian vì một lý do nào đó sẽ bị lu mờ và bị sản phẩm khác thế chỗ. Vị trí của những người đến sau thường thấp và không có được thị phần lớn. Nhưng khi đã có đủ điều kiện, công ty cần mạnh dạn gắn nhãn mác riêng của mình lên sản phẩm, bước đầu có thể khó khăn do chưa được người mua tin tưởng, song không có bước đầu đó công ty sẽ không bao giờ đến được với khách hàng bằng chính tên tuổi của mình. 5. Hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý và tổ chức xây dựng chiến lược kinh doanh phát triển thị trường. Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu, công ty cần hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý của mình. Trong thời gian tới công ty cần quan tâm đến một số vấn đề sau: - Cần phân công hợp lý đúng người, đúng việc với khả năng chuyên môn. - Cần phân bổ chức năng, nhiệm vụ cho các phòng ban một cách hợp lý hơn tránh chồng chéo làm giảm hiệu quả hoạt động. - Cần thực hiện triệt để cơ chế khoán quản để các phòng ban có mục tiêu phấn đấu rõ ràng. Đồng thời có cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng thành viên qua đó có chế độ thưởng phạt đảm bảo công bằng bình đẳng giữa các bộ phận cá nhân, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân viên trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện hiện nay, việc tổ chức hoạch định và triển khai một chiến lược phát triển thị trường là cách làm hữu hiệu để công ty có thể chiếm lĩnh thị trường nội địa và thâm nhập sâu hơn vào thị trường quốc tế. Để có thể thực hiện thành công chiến lược phát triển thị trường, những điểm mà công ty nên quan tâm trong quá trình hoạch định chiến lược và triển khai thực hiện là: + Xác định mục tiêu dài hạn, ngắn hạn và mục tiêu phải mang tính thực tiễn xét đến năng lực tổng thể và tiêu chuẩn chất lượng hiện tại của công ty có phù hợp với mục tiêu chung của toàn ngành. + Kế hoạch đề ra phải trên cơ sở nghiên cứu và hiểu biết về các nhân tố bên ngoài chứ không chỉ bó buộc trong khuôn khổ của toàn ngành. +Kế hoạch đề ra phải dựa vào nhu cầu thị trường không mang nặng tính đầu tư sản xuất. + Công ty cần nghiên cứu và lập trình tự kế hoạch thực hiện các mục tiêu, biện pháp thực hiện một cách hợp lý và khoa học. Mặt khác công ty cũng cần xây dựng các chiến lược dự phòng bởi môi trường kinh doanh luôn thay đổi và dù công ty có khả năng dự báo tốt đến đâu cũng không thể chắc chắn rằng chiến lược hiện tại của mình là hoàn hảo và đã tính toán hết được những xu hướng biến đổi của môi trường. + Công ty cần lựa chọn đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm và tinh thần trách nhiệm cao ở các phòng ban để tham gia vào quá trình hoạch định và xây dựng chiến lược phát triển thị trường của mình. Thêm vào đó công ty cần tham khảo ý kiến của Tổng công ty dâu tằm tơ Việt Nam, ý kiến của các chuyên gia và nghiên cứu kinh nghiệm của các doanh nghiệp cùng ngành đã thực hiện chiến lược phát triển thị trường từ trước. + Công ty cần đầu tư thích đáng vào công tác hoạch định cũng như cung cấp kinh phí hoạt động cho kế hoạch triển khai và các biện pháp thực hiện để có thể thu được kết quả tốt nhất. Nguồn kinh phí tập trung cho công tác triển khai và tổ chức thực hiện, công ty có thể đề nghị cơ quan chủ quản tạo điều kiện giúp đỡ, cho phép được huy động vốn trong nội bộ doanh nghiệp hoặc kêu gọi đầu tư từ bên ngoài. + Ban lãnh đạo công ty cần thường xuyên theo dõi, kiểm tr, đôn đốc quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược. Kịp thời phát hiện và có biện pháp khắc phục những yếu kém, tồn tại để các kế hoạch thực hiện diễn ra theo đúng tiến trình đã vạch sẵn. Đồng thời có các biện pháp khen thưởng và kỷ luật kịp thời để nâng cao hiệu quả hoạt động và tinh thần trách nhiệm của cán bộ thực hiện. 6. Hoàn thiện nghiệp vụ xuất khẩu. Về thủ tục hải quan: thủ tục hải quan rất phức tạp và mất nhiều thời gian, do đó công ty nên cử ra cán bộ lo thủ tục hải quan, bên cạnh đó thường xuyên cử họ đi học để tiếp nhận một cách nhanh chóng các chính sách về hải quan và thủ tục hải quan. Kiểm tra L/C: thanh toán trong xuất khẩu là khâu cuối cùng rất quan trọng, là thành quả sau cả một quá trình khó khăn vất vả đưa hàng đến với nhà tiêu dùng. Do đó, công ty phải cử người có trình độ thông thạo nghiệp vụ để kiểm tra L/C, nếu không phù hợp phải đưa được ra biện pháp sử lý kịp thời, tránh những sai sót đáng tiếc mà xảy ra tranh chấp sau này. Thủ tục thanh toán: trong xuất khẩu hàng tơ lụa, côgn ty luôn phải thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán quốc tế với nhiều phương thức khác, đối với mỗi hợp đồng cần lựa chọn phương thức nào thích hợp nhất để hai bên cùng có lợi. Thanh toán với nguồn hàng nên tạo điều kiện đúng hạn, thậm chí nếu cơ sở gặp khó khăn về tài chính có thể ứng vốn trước, thủ tục thanh toán đơn giản sẽ giúp công ty tạo uy tín với bạn hàng trong nước, giữ được nguồn hàng khi khan hiếm. Trong thanh toán với khách hàng nhập khẩu, công ty nên chọn phương thức bảo đảm an toàn nhất, cần thảo luận kỹ với bạn hàng khi ký hợp đồng ngoại thương. Tốt nhất nên thanh toán bằng L/C không huỷ ngang có xác nhận bảo lãnh của ngân hàng. Không nên chiều theo ý của người mua mà chấp nhận các phương thức thanh toán chậm D/A, D/P... mà không đảm bảo chắc chắn việc người nhập khẩu trả tiền hay không, hoặc bị trả chậm hơn thời gian quy định. Cuối cùng, để có thể thực hiện thành công các yêu cầu trên ngoài sự quyết tâm của ban lãnh đạo công ty còn cần có sự đoàn kết, trên dưới một lòng của tập thể cán bộ công nhân viên. Đó sẽ là động lực tốt nhất giúp công ty vượt qua được những bước khó khăn khắc nghiệt của môi trường cạnh tranh, thực hiện thắng lợi chiến lược mở rộng và phát triển thị trường, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong mục tiêu phát triển toàn ngành nói chung và của doanh nghiệp nói riêng trong tương lai. III. Một số kiến nghị với nhà nước. Là một ngành nghề tổng hợp mang lại hiệu qủa kinh tế lớn, ngành tơ tằm Việt Nam đã và sẽ góp phần không nhỏ vào quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, ngành tơ tằm Việt Nam hiện còn quá nhỏ so với tiềm năng của nó và so với ngành tơ lụa của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc, ấn Độ... Chính bởi một phần do thiếu sự quan tâm đúng mức của nhà nước. Vì vậy trong thời gian tới, để thực hiện được phương hướng phát triển ngành đã đề ra, đưa ngành tơ tằm lên ngang tầm với tiềm năng phát triển của nó, coi đó là một trong những ngành sản xuất quan trọng để phát triển nông nghiệp toàn diện và xây dựng thành một nguồn nguyên liệu dân tộc vững mạnh, một ngành hàng xuất khẩu chủ lực thu nhiều ngoại tệ. Nhà nước cần có chính sách đầu tư thích hợp: Phát triển trồng dâu nuôi tằm có chức năng tạo nguyên liệu cho ươm tơ dệt lụa. +Cần quy vùng trồng dâu, nuôi tằm tập trung: quy vùng sản xuất dựa trên cơ sở những vùng có điều kiện thuận lợi về đất đai, nhân lực, có tập quán và kinh nghiệm trồng dâu nuôi tằm. Bản thân các địa phương có phát triển dâu tằm sớm xây dựng quy chế khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất kinh doanh dâu tằm tơ, lụa theo nguyên tắc chung là các cơ sở chế biến phải bảo đảm vùng nguyên liệu cân đối với công suất chế biến và nằm trong quy hoạch chung của từng địa phương. Đồng thời, phát triển trồng dâu nuôi tằm phải đảm bảo cân đối với các mặt sản xuất khác, nhất là đối với sản xuất lương thực, không lấn diện tích và kế hoạch nhân lực trồng cây lương thực cũng như các cây công nghiệp khác. Ngược lại, có tác dụng hỗ trợ cho sản xuất lương thực và các mặt sản xuất chăn nuôi khác. Nhìn chung nhà nước cần có chính sách cụ thể quy vùng phát triển trồng dâu nuôi tằm hiệu quả, tạo nguyên liệu quý cho công nghiệp ươm tơ dệt lụa và xuất khẩu. + Nhà nước đẩy mạnh hơn nữa các hình thức đầu tư, liên doanh liên kết của nước ngoài vào công nghiệp ươm tơ. Có những chính sách ưu đãi, chinh sách đầu tư hợp lý để nhà đầu tư coi đây là một lĩnh vực, một thị trường ổn định và đầy tiềm năng giúp họ yên tâm khi đầu tư vào Việt Nam. Vốn ngân sách chỉ đẩu tư cho sản xuất trứng giống tằm, công tác khuyến nông, một phần hạ tầng nông thôn ở vùng cao, vùng sâu và một phần trồng dâu ở vùng cao theo chương trình trồng 5 triệu hecta rừng.. Nhà nước và Ngân hàng tạo điều kiện duyệt các dự án nhỏ cho hộ nông dân được vay vốn theo chương trình xoá đói giảm nghèo, vốn, tạo việc làm... để trồng dâu; hỗ trợ xây nhà nuôi tằm. Mặt khác cho ngành huy động thêm vốn từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhằm đầu tư đổi mới công nghiệp chế biến khi vùng nguyên liệu mở rộng. Bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực: Hiện nay chúng ta đã cơ giới hoá ngành ươm tơ, trong tương lai sẽ tiến lên tự động hóa. Nhưng muốn tiến lên tự động hoá chúng ta phải có thời gian để xây dựng và chuẩn bị lực lượng kỹ thuật, nhất là phải đưa kỹ thuật nuôi tằm lên trình độ cao hơn mới có thể cung cấp được kén tốt, phù hợp với yêu cầu của công nghiệp ươm tơ. Về ươm tơ, theo yêu cầu phát triển công nghiệp ươm tơ, ươm tơ đã tách khỏi nông nghiệp và đi vào cơ giới hoá, tự động hoá và trở thành một ngành công nghiệp. Vì vậy, ươm tơ đòi hỏi phải được tổ chức theo yêu cầu của sản xuất công nghiệp, thợ ươm tơ phải có trình độ lành nghề mới đảm bảo được yêu cầu về chất lượng tơ xuất khẩu và mới có điều kiện tăng năng suất, hạ giá thành. Rõ ràng vai trò của con người là vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất tơ. Để hàng hoá sản xuất ra đáp ứng tốt yêu cầu của người tiêu dùng, ngoài việc trang bị máy móc thiết bị phải có những cán bộ, công nhân kỹ thuật giỏi. Hiện nay, trong ngành dâu tằm tơ của ta tồn tại một thực tê là thiếu những cán bộ công nhân kỹ thuật giỏi, chính bởi những cơ sở đào tạo đội ngũ nhân công này chỉ “đếm trên đầu ngón tay”. Thật vậy, hiện VISERI có phối hợp với Đại học nông nghiệp I- Hà Nội và Đại học nông lâm thành phố Hồ Chí Minh mở bộ môn dâu tằm nhằm đào tạo kỹ sư trồng dâu nuôi tằm, phòng trừ dịch bệnh, sản xuất trứng giống; thời gian học 4 năm với số lượng 100 sinh viên/năm. Thêm vào đó VISERI có trường trung học dạy nghề tại Bảo Lộc, đào tạo kỹ thuật viên trung cấp về dâu, tằm, tơ; thời gian học 3 năm, quy mộ 500 học sinh/năm. Tổng cộng con số 600 học sinh, sinh viên được đào tạo mỗi năm là một con số quá ít ỏi so với yêu cầu phát triền của công nghiệp ươm tơ. Do đó muốn phát triền ngành dâu tằm tơ trong tương lai nhà nước cần phải tăng cường mở thêm các cơ sở đào tạo nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nguồn nhân lực cho sự phát triền lớn mạnh của ngành trong tương lai. Nhà nước cần có chính sách về giá, thuế quan phù hợp tạo điều kiện cho nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa trong nước phát triển. Tăng cường các cơ sở nghiên cứu tạo ra những giống dâu, giống tằm phù hợp với điều kiện nước ta cho năng suất, chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu chế biến công nghiệp. Ngoài ra, phải xác định rằng để tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dâu tằm tơ Việt Nam phát triển một cách vững chắc và mang lại hiệu quả kinh tê cao cho nền kinh tế thì về lâu, về dài phải đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ ngoài nước, đặc biệt là các sản phẩm may mặc từ chất liệu tơ tằm. Muốn vậy, các cơ quan chức năng và ngành dâu tằm tơ phải tổ chức làm tốt công tác nghiên cứu, tiếp cận thị trường, phân tích và dự báo xu hướng của thị trường- giá cả các sản phẩm tơ tằm của các nước trong khu vực và trên thế giới, từng bước hội nhập và phát triển trong xu thế chung của nền kinh tế đất nước. Kết luận Chiến lược công nghiệp hoá hướng mạnh vào xuất khẩu là một chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, tạo điều kiện cho nềnkinh tế phát triển và đuổi kịp thời đại. Trong đó, xuất khẩu là một mũi nhọn là bước đi tiên phong, khai thác triệt để lợi thế của đất nước. Đồng thời hướng ra thị trường nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh, vừa xuất phát từ yêu cầu phát triển nội tại của nước ta, vừa có thể nhận được sự “ hưởng ứng và ủng hộ” của các nước phát triển trong khuôn khổ không ảnh hưởng tới sự phát triển của các nghành nghề kinh tế ở các nước này. Căn cứ vào tiềm năng, điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội, dân số, truyền thống dân tộc Việt Nam... Nông nghiệp từ xưa tới nay là một thế mạnh vốn có của ta và cho đến nay nhiêu lĩnh vực nông nghiệp ta đã khai thác hết tiềm năng. Đất nước ta còn nghèo vì vậy phải đi lên từ những gì mình sẵn có. Tuy vậy, trong thời đại công nghiệp, ta cần phải biết kết hợp phát triển nông nghiệp và công nghiệp, để tránh bị loại ra khỏi nền kinh tế toàn cầu đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Có thể nói dâu tằm tơ là một trong những ngành đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu trên, một ngành còn nhiều tiềm năng cần được khai thác triệt để. Với những đặc điểm kinh tế kỹ thuật riêng có ngành dâu tằm tơ được đánh giá là có nhiều ưu điểm để sản xuất và xuất khẩu, rất phù hợp với điều kiện sẵn có của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, trong bối cảnh chung tình hình thế giới hiện nay, bên cạnh những thuận lợi nhất định, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng tơ lụa cũng gặp phải nhiều khó khăn thách thức cả trong và ngoài nước. Chẳng hạn như trình độ sản xuất thấp kém nên hàng hoá khó đáp ứng được nhu cầu của thị trường quốc tế, khả năng trình độ tiếp thị quốc tế kém cỏi, thiếu kỹ năng và kinh nghiệm trong hoạt động TMQT, sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước cùng sản xuất một mặt hàng trên thị trường... Do đó, để có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng tơ lụa ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội, không chỉ sự nỗ lực cố gắng của công ty trong việc tìm hướng đi, biện pháp phù hợp mà còn cần phải có sự tác động tích cực của các cơ quan quản lý Nhà nước. Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng tơ lụa ngày càng phát triển, tăng nhanh kim ngạch và ngoại tệ cho đất nước, củng cố uy tín và vị thế của công ty không chỉ thị trường trong nước mà trên toàn thế giới. Tài liệu tham khảo Giáo trình: Thương mại quốc tế (PGS.PTS Nguyễn Duy Bột- NXB thống kê, Hà Nội- 1997). Giáo trình: Marketing thương mại quốc tế (PGS.PTS Nguyễn Duy Bột- Hà Nội- 1997). Giáo trình: Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế (PGS.PTS Trần Chí Thành- NXB Giáo Dục). Giáo trình: Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương (Vũ Hữu Tửu- NXB Giáo Dục- 2002). Luật thương mại (NXB chính trị quốc gia, Hà Nội- 1997). Tạp chí Thị trường - giá cả. số 11-2000: Dâu tơ tằm Việt Nam thực trạng và giải pháp. Báo cáo tổng kết hàng năm của công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội và một số tài liệu khác. Trang Web: ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc23928.doc