LỜI MỞ ĐẦU
Sau nhiều thập kỷ hình thành và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao với nhiều mô hình khác nhau, đang được các quốc gia trên thế giới, nhất là các nước chậm phát triển vận dụng như một phương thức hiệu quả nhất huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, tạo động lực thúc đẩy quá trình hội nhập.
Là một quốc gia thuộc nhóm nước chậm phát triển, Việt Nam không nằm ngoài quỹ
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thu hút vốn FDI vào các khu công nghiệp-Khu chế xuất vùng đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đạo và xu hướng phát triển nói trên. Hơn 20 năm qua, cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện nền kinh tế, quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp đã tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng mới hiện đại, góp phần từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng hợp tác quốc tế.
Trong gần 20 năm hình thành và phát triển, các khu công nghiệp, khu chế xuất đã thể hiện được vai trò của mình bằng những thành tựu nổi bật, khẳng định được sự lựa chọn của Đảng ta là đúng đắn.
Đồng bằng sông Cửu Long, một vùng đất trù phú của đất nước ta, luôn được biết đến với những cánh đồng màu mỡ, những vườn cây trái sum sê, những con kênh con rạch chằng chịt... Giờ đây, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đất thuần nông nay, những khu công nghiệp cũng đã mọc lên. Trong những năm qua, rất nhiều khu công nghiệp của vùng đã hoạt động rất hiệu quả, đã đóng góp đáng kể vào phát triển nền công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung của vùng.
Qua thời gian thực tập, em đã có dịp được tìm hiểu kỹ hơn về các khu công nghiệp, khu chế xuất và em thấy rằng: Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các khu công nghiệp, khu chế xuất vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng còn rất nhiều vấn đề đang được đặt ra. Trong đó vấn đề nổi cộm là các khu công nghiệp hoạt động không hiệu quả, không thu hút được vốn đầu tư của các thành phần trong và ngoài nước, làm cho hiệu quả sử dụng đất rất thấp. Đây là một vùng đất có nhiều tiềm năng để phát triển nhưng khả năng thu hút vốn đầu tư nói chung, và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng vào các khu công nghiệp, khu chế xuất còn rất hạn chế, chiếm tỷ lệ thấp so với tổng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả nước, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của vùng. Vì vậy, làm sao để thu hút được nhiều hơn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bài toán đang được đặt ra với các khu công nghiệp, khu chế xuất trong vùng.
Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất vùng đồng bằng sông Cửu Long” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề thực tập của em gồm 3 phần:
Chương I: Khu công nghiệp, khu chế xuất và vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiêp, khu chế xuất
Chương II: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất vùng đồng bằng sông Cửu Long
Chương III: Phương hướng và các giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề thực tập này, em đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của cô giáo – Tiến sỹ Nguyễn Thị Kim Dung, của các bác, các cô chú, các anh chị trong ban Nghiên cứu và phát triển các ngành sản xuất, Viện Chiến lược phát triển, đặc biệt là sự giúp đỡ rất nhiệt tình của anh Nguyễn Đăng Hưng. Nhân dịp này, em xin được bày tỏ lòng biết ơn tới cô giáo, cùng toàn thể các bác, các cô chú, các anh chị đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Do thời gian không dài, kiến thức của em còn nhiều hạn chế, và việc tìm kiếm số liệu cũng gặp nhiều khó khăn, nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô để em hoàn thiện bài viết tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I: Khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) và vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX
Vai trò của các KCN, KCX đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Khái niệm về KCN, KCX
Theo Nghị định của Chính phủ số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 quy định về KCN, KCX thì KCN, KCX được hiểu như sau:
Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công nghiệp quy định tại Nghị định này.
KCN, KCX được gọi chung là khu công nghiệp, trừ trường hợp quy định cụ thể.
Như vậy, các KCN, KCX là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp chế xuất đảm bảo tiết kiệm và tận dụng tối đa cơ sở hạ tầng, quản lý hành chính và quản lý môi trường thuận lợi hơn, tốt hơn. Chúng có những đặc trưng sau đây:
+ KCN, KCX được coi là một địa bàn tự do thu nhỏ về chính sách kinh tế - xã hội, một “phòng thí nghiệm” các chính sách mở cửa của nước sở tại. Việc xây dựng các KCN, KCX có thể làm thay đổi diện mạo một vùng kinh tế, tạo điều kiện cho dân cư được tiếp cận với một nền công nghiệp hiện đại, làm thay đổi tập quán sinh hoạt ở địa phương.
+ KCN, KCX là nơi tiếp nhận, chuyển giao và áp dụng có hiệu quả nhất những thành tựu khoa học công nghệ, áp dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh và dịch vụ bởi một địa bàn tương đối rộng, được quy hoạch theo chiến lược phát triển lâu dài của nền kinh tế, với một hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương đối hiện đại, đồng bộ, cùng với những chính sách ưu đãi mà Nhà nước giành cho các KCN, KCX , tạo điều kiện thuận lợi cho các khu công nghiệp tiếp nhận các công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới, tận dụng được lợi thế của nước đi sau để rút ngắn khoảng cách về khoa học công nghệ với các nước khác.
+KCN, KCX là bộ phận không thể tách rời của một quốc gia, thường là những khu vực địa lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào giới hạn với các vùng lãnh thổ còn lại của nước sở tại và được Chính phủ chính thức cho phép thành lập.
Các KCN, KCX được thành lập phải được Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Các KCN, KCX được hình thành trên địa bàn lãnh thổ phải đáp ứng các điều kiện và tiêu chí sau đây:
+ Việc hình thành các KCN, KCX phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và tình hình phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của từng địa phương.
+ Các KCN, KCX phải có điều kiện thuận lợi hoặc có khả năng xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, triển khai đồng bộ và kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển KCN, KCX với quy hoạch phát triển đô thị, phân bố dân cư, nhà ở, các công trình xã hội phục vụ công nhân trong KCN, KCX.
+ Các KCN, KCX phải có quỹ đất dự trữ để mở rộng và có điều kiện liên kết thành cụm các khu công nghiệp; riêng đối với các địa phương thuần túy nông nghiệp, khi phát triển các khu công nghiệp để thực hiện mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế cần tiến hành phân kỳ đầu tư chặt chẽ nhằm đảm bảo sử dụng đất có hiệu quả.
+ Các KCN, KCX phải có khả năng thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Đây là một điều kiện hết sức quan trọng, bởi vì vốn đầu tư là đầu vào quan trọng nhất đối với tất cả các KCN, KCX, là điều kiện cần để phát triển các khu công nghiệp.
+ KCN, KCX phải được xây dựng ở những địa phương có khả năng cung cấp và đáp ứng nhu cầu về lao động một cách tốt nhất.
+ Phải đảm bảo được các yêu cầu về an ninh quốc phòng.
+ Đối với các địa phương đã phát triển khu công nghiệp, việc thành lập mới các khu công nghiệp chỉ được thực hiện khi tổng diện tích đất công nghiệp của các khu công nghiệp đã được thuê ít nhất là 60%.
+ Đối với khu công nghiệp có quy mô diện tích trên 500ha và có nhiều chủ đầu tư tham gia đầu tư xây dựng – kinh doanh kết cấu hạ tầng, phải tiến hành lập quy hoạch chung xây dựng khu công nghiệp theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng trược khi lập kế hoạch chi tiết khu công nghiệp để đảm bảo tính thống nhất và tính đồng bộ của hệ thống hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp.
+ Trong các KCN, KCX không có khu dân cư. Trong khu công nghiệp có thể có khu chế xuất, có doanh nghiệp chế xuất.
1.1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển các KCN, KCX.
a) Chủ trương phát triển các KCN, KCX
Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, việc phát triển các KCN, KCX được coi là nhân tố cơ bản trong việc khai thác tốt tiềm năng nội sinh, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài, đây là con đường ngắn nhất để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, và cũng chính là con đường mà Việt Nam đã chọn.
KCN, KCX của Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với công cuộc đổi mới được khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thữ VI (1986). Thông qua nghị quyết của Đảng từ các kỳ Đại hội từ năm 1986 đến nay, đã hình thành hệ thống các quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển KCN, KCX ; khẳng định vai trò của KCN, KCX trong việc “tạo nền tảng để đến cuối năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Sau gần 15 năm phát triển, với những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế, góp phân quan trọng trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, các KCN, KCX đã khẳng định sự lựa chọn của Đảng ta là đúng đắn, là hợp lý.
b) Cơ chế chính sách cho phát triển các KCN, KCX
Để phát triển các KCN, KCX, cần phải thu hút được các nhà đầu tư đầu tư vào đó. Muốn vậy, phải tạo ra được một môi trường đầu tư thật thuận lợi. Một trong những yếu tố “hấp dẫn” các nhà đầu tư là cơ chế chính sách ưu tiên của Đảng, Nhà nước, của địa phương về đầu tư vào các KCN, KCX
Trong suốt thời kỳ hình thành và phát triển các KCN, KCX, quản lý Nhà nước về phát triển các khu công nghiệp luôn luôn được đổi mới, hoàn thiện hơn. Các chính sách ưu đãi và những điều kiện về mặt hành chính được cải cách sao cho lợi ích của nhà đầu tư là cao nhất. Điển hình là các cơ chế, chính sách sau:
+ Cơ chế “một cửa, tại chỗ”: Các KCN, KCX thực sự là nơi thử nghiệm mô hình “một cửa, tại chỗ”. Ở những địa phương có KCN, KCX thì Ban quản lý các KCN, KCX cũng được thành lập nhằm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ngay tại địa phương có KCN, KCX đó. Ban quản lý các KCN, KCX được Bộ Kế hoạch và đầu tư ủy quyền quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư (bao gồm tiếp nhận hồ sơ, cấp phép và giải quyết các vấn đề phát sinh trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp). Ban quản lý các KCN, KCX là đầu mối liên kết giữa nhà đầu tư với KCN, KCX, thông qua Ban quản lý các KCN, KCX, nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận với các thông tin về KCN, KCX, nắm bắt được tình hình của các khu công nghiệp một cách rõ ràng, chi tiết hơn và được giải quyết thủ tục đầu tư ngay tại địa phương chứ không phải qua nhiều “cửa” như trước đây. Nhờ đó, giúp cho nhà đầu tư nước ngoài nhanh chóng và đơn giản hóa việc xin phép đầu tư, giảm bớt được chi phí về thời gian và tiền bạc; đồng thời giúp giảm bớt khối lượng công việc của cơ quan Trung ương, tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, nắm bắt tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN, KCX một cách trực tiếp và sâu sát hơn thông qua Ban quản lý các KCN, KCX.
+ Chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp: những dự án đầu tư vào KCN, KCX được hưởng ưu đãi cao hơn đối với các dự án cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực nhưng đầu tư ngoài KCN, KCX như giảm 50% thuế thu nhập đối với người có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập, kể cả người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại các KCN, KCX ; khu vực đầu tư nước ngoài được khuyến khích, ưu tiên cao hơn đối với khu vực đầu tư trong nước.
+ Chính phủ đã bãi bỏ một số quy định về thuế theo hướng khuyến khích đầu tư nước ngoài như: thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; áp dụng một số chính sách giá trị gia tăng (VAT), thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo hướng ưu đãi đặc biệt đối với doanh nghiệp khu chế xuất.
Một số chính sách về đất đai cũng được xây dựng, sửa đổi theo hướng ưu đãi tiền thuê đất đối với doanh nghiệp KCN, KCX
+ …
1.1.3. Vai trò của các KCN, KCX đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm của Việt Nam trong gần 15 năm qua cho thấy, hình thành và phát triển các KCN, KCX đã đóng góp một phần rất lớn vào quy mô, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp nói riêng và vào quy mô, tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế đất nước nói chung. Nhờ vận hành mô hình này thành công, nhiều quốc gia đã thoát nghèo và ngày càng trở nên giàu mạnh. KCN, KCX ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều đó được thể hiện nổi bật trong những khía cạnh sau:
Thứ nhất, sự hình thành các KCN, KCX sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vốn là một yếu tố cơ bản của quá trình công nghiệp hóa. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải có một lượng đầu tư rất lớn. Vì vậy, làm sao để thu hút được nhiều nhất nguồn vốn đầu tư trong nước và các nguồn lực của nước ngoài là câu hỏi được đặt ra ở các nước đang phát triển. Phát triển các KCN, KCX là một mô hình lý tưởng để giải đáp một phần câu hỏi trên. Là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, với nhiều điều kiện ưu đãi, cơ sở hạ tầng thuận lợi cho công việc sản xuất kinh doanh… nên các KCN, KCX ngày càng là một điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.
Ở Việt Nam, vốn đầu tư thu hút vào các KCN, KCX liên tục tăng lên qua các thời kỳ. Tính đến cuối tháng 12/2005, các KCN, KCX ở nước ta đã thu hút được 2120 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn đăng lý đạt 16.843 triệu USD; 2376 dự án trong nước còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư trên 117 nghìn tỷ đồng. Đến tháng 9/2008, các khu công nghiệp đã thu hút thêm được 1041 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký tăng thêm là 14.259 triệu USD, 715 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký tăng thêm là 68.363 tỷ đồng so với thời điểm T12/2005.
Như vậy có thể thấy rằng các KCN, KCX có đóng góp không nhỏ trong việc huy động nguồn lực vào thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Thứ hai, sự phát triển các KCN, KCX góp phần đáng kể vào GDP,vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đa dạng hóa ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần chuyển dịch cơ cấu chung của cả nước.
Các KCN, KCX đóng góp lớn vào việc nâng cao giá trị sản xuất công nghiệp , nâng cao giá trị gia tăng của ngành công nghiệp, do đó góp phần làm tăng GDP của địa phương nói riêng, và của cả nước nói chung, đồng thời trực tiếp làm tăng tỷ trọng ngành công nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Mặt khác, các KCN, KCX hình thành và phát triển kéo theo các ngành dịch vụ phục vụ đời sống và sản xuất bên trong KCN, KCX cũng được phát triển mạnh mẽ hơn, làm cho tỷ trọng ngành dịch vụ tăng lên. Vì vậy, các KCN, KCX góp phần đáng kể làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các dự án đầu tư vào KCN, KCX rất đa dạng, với nhiều ngành nghề khác nhau, trong đó có nhiều ngành nghề mới. Thêm vào đó, sự xuất hiện của các ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu của các KCN, KCX. Do đó, các KCN, KCX góp phần làm đa dạng hóa các ngành nghề.
Các KCN, KCX là nơi thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, các dự án trong KCN, KCX thường có công nghệ tiên tiến, vì vậy năng lực sản xuất cao hơn. Vì vậy, các doanh nghiệp ở ngoài các KCN, KCX muốn tồn tại và phát triển thì phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Như vậy, các KCN, KCX đã gián tiếp thúc đẩy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, làm cho thị trường càng năng động hơn, hiệu quả hơn, hội nhập với thế giới tốt hơn.
Thứ ba, phát triển KCN, KCX tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng công nghiệp mới, có giá trị lâu dài, đồng thời góp phần hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước
Việc phát triển các KCN, KCX góp phần đáng kể vào việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, KCX, tạo điều kiện thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa, mở rộng thị trường tiêu thụ.
Để thu hút đầu tư, thì cần phải có một cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh và thuận lợi cho nhà đầu tư. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng không chỉ được tiến hành bên trong KCN, KCX mà còn phải được đầu tư cả ở bên ngoài KCN, KCX, tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại.
Có thể thấy rằng, việc hình thành các KCN, KCX đã đẩy mạnh phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế địa phương, góp phần rút ngắn sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
Thứ tư, phát triển các KCN, KCX tạo điều kiện để tập trung xử lý chất thải, bảo vệ môi trường sinh thái.
KCN, KCX là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều kiện tập trung các chất thải do các doanh nghiệp thải ra dể xử lý, tránh tình trạng khó kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp do phân tán về địa điểm sản xuất
KCN, KCX góp phần thực hiện mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất từ nội đô vào, do đó góp phần giải quyết ô nhiễm đô thị, xử lý tập trung ô nhiễm.
KCN, KCX tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường trong việc kiểm soát ô nhiễm và có biện pháp xử lý kịp thời đối với hành vi gây ô nhiễm của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp ngoài KCN, KCX.
Thứ năm, các KCN, KCX đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, nâng cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội
Lao động là một đầu vào quan trọng, không thể thiếu đối với tất cả các doanh nghiệp dù là ở lĩnh vực nào. Vì vậy, việc hình thành các KCN, KCX_nơi tập trung một số lượng lớn các doanh nghiệp công nghiệp, đã mở ra một không gian kinh tế rộng lớn, một kênh mới rất có tiềm năng thu hút lao động ở nhiều trình độ khác nhau, nhờ đó đã giải quyết vấn đề việc làm cho hàng chục vạn lao động, trong đó có một phần đáng kể là lao động nông thôn dư thừa, giúp họ có một công việc ổn định, được đào tạo tay nghề, chuyên môn, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, góp phần tích cực vào việc đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tính đến T8/2008, các KCN, KCX ở nước ta đã thu hút được khoảng 1.064.000 lao động trực tiếp, nếu tính đến cả lao động gián tiếp thì số lao động thu hút được ước tính khoảng 1,5 – 1,8 triệu lao động.
KCN, KCX là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp vói công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Do đó, KCN, KCX đóng góp rất lớn vào đào tạo nguồn nhân lực để hình thành đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện đại. Ở nước ta, nhiều khu công nghiệp đã xây dựng các cơ sở dạy nghề (trường cao đẳng kỹ thuật công nghệ Biên Hòa, Trung tâm dạy nghề Việt Nam – Singapore…). Đặc biệt đã hình thành mô hình liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực giữa các khu công nghiệp và Nhà trường.
KCN, KCX là nơi doanh nghiệp được thử thách trong môi trường cạnh tranh sôi động không chỉ trong nước, mà còn thử thách trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Cạnh tranh và quan hệ cung – cầu lao động diễn ra ở khu vực này rất gay gắt, tạo động lực để lao động không ngừng phấn đấu, nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ chuyên môn.
Thứ sáu, các doanh nghiệp trong KCN, KCX góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
Thông qua việc thực hiện nghĩa vụ thuế, các doanh nghiệp trong các KCN, KCX đã đóng góp một phần không nhỏ vào nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Cuối cùng, KCN, KCX có tác dụng lan tỏa tích cực tới trình độ phát triển của các vùng, các ngành, các lĩnh vực
Mối liên kết thể hiện trước tiên trong phạm vi nội bộ KCN, KCX bởi những ngành nghề bổ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư trong KCN, KCX đã tạo điều kiện cho các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào phát triển và bản thân các doanh nghiệp trong KCN, KCX có điều kiện tiêu thụ sản phẩm của nhau.
Các KCN, KCX ra đời đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác động rất tích cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hóa, nâng cao hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất. Hiệu quả này đặc biệt rõ nét ở các KCN, KCX thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long.Khu công nghiệp là nơi tiêu thụ các yếu tố đầu vào, cung cấp các đầu ra cho địa phương và các vùng lân cận, do đó nó có sức lan tỏa tích cực tới các vùng lân cận, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng đó theo hướng tích cực.
Việc phát triển các KCN, KCX có tác động rõ rết đến quá trình quy hoạch, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phương nơi có khu công nghiệp và ở các vùng lân cận. Bởi vì, các địa phương đề ra các chương trình và giải pháp cụ thể về đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động, cung cấp lao động cho các KCN, KCX; mặt khác, khi nhận thức được cơ hội có việc làm, tự người dân đến tuổi lao động tại các địa phương sẽ chủ động định hướng cho minh trong việc học nghề.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh chính là chất lượng sản phẩm. Trong lĩnh vực này, các KCN, KCX cũng có tác động lan tỏa rất lớn đến công nghiệp địa phương. Các doanh nghiệp trong KCN, KCX thường là những dự án đầu tư mới, phần lớn được trang bị máy móc thiết vị thế hệ mới, đồng bộ. Với thế mạnh về công nghệ, thiết bị, cộng với phương pháp quản lý tiến bộ, cac doanh nghiệp này sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt và ổn định. Vì vậy, để cạnh tranh có hiệu quả và tồn tại được trên thị trường, các doanh nghiệp ngoài KCN, KCX sản xuất sản phẩm cùng loại không còn cách nào khác là phải áp dụng mọi biện pháp để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, góp phần giúp công nghiệp địa phương từ chỗ phục vụ nhu cầu tại chỗ là chính đã vươn ra thị trường cả nước và xuất khẩu.
Như vậy, vai trò của KCN, KCX trong quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là rất quan trọng. Các KCN, KCX khong chỉ trực tiếp thúc đẩy công nghiệp của địa phương và của vùng phát triển mạnh mẽ, mà cón có tác động lan tỏa rộng rãi tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế từng địa phương và cả nước. Đó chính là hạt nhân của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và hoạt động thu hút FDI vào các KCN, KCX
Khái niệm, đặc điểm và các hình thức của FDI
Khái niệm
FDI là nguồn vốn lớn, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. FDI trở thành một tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hóa sản xuất và lưu thông. Không có một quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa lại không cần đến FDI và tất cả đều coi đó là nguồn lực quốc tế quan trọng cần khai thác để từng bước hòa nhập vào cộng đồng quốc tế.
Theo luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thì “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư”. Như vậy, hình thức đầu tư này không đơn thuần chỉ là sự chu chuyển tài chính quốc tế, mà cùng với nó là sự chuyển giao công nghệ, bí quyết quản lý và các tài sản vô hình khác. FDI là một loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó chủ sở hữu đồng thời là người trực tiếp quản lý điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Theo khái niệm của Quỹ Tiền tệ quốc tế đưa ra năm 1977 thì: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là quá trình đầu tư mà nhà đầu tư thực hiện công việc đầu tư kinh doanh hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước mình nhằm thu về những lợi ích lâu dài.” Định nghĩa này đề cao mục đích của các nhà đầu tư_ thu về những lợi ích lâu dài, nó phân biệt rõ ràng đầu tư trực tiếp với đầu tư gián tiếp nước ngoài. Đầu tư gián tiếp nhà đầu tư không tham gia vào quá trình quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Như vậy, có thể định nghĩa: “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư do các tổ chức kinh tế và cá nhân nước ngoài tự mình hoặc cùng với các tổ chức kinh tế của nước sở tại bỏ vốn vào một đối tượng nhất đinh, trực tiếp quản lý và điều hành để thu lợi trong kinh doanh. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được tiến hành thông qua các dự án – gọi là dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài”.
Đặc điểm của FDI
Thứ nhất, FDI không dể lại gánh nặng nợ nần cho Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư
Khi thực hiện hình thức FDI, các nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh, làm ăn lâu dài ở nước sở tại, hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Nước tiếp nhận FDI không phải chịu những điều kiện ràng buộc kèm theo của người cung ứng vốn như tiếp nhận ODA, hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, viện trợ không hoàn lại… Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư. Đây là điều nhiều nước đang phát triển và chậm phát triển rất quan tâm, vì khả năng trả nợ của họ thường là yếu kém.
Thứ hai, FDI là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn khỏi nước sở tại
Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực năm 1997 đã cho thấy, những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng thường là những nước nhận nhiều vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài; ngược lại những nước thu hút nhiều FDI thường chịu tác động của cuộc khủng hoảng ít hơn, nhẹ hơn. Chính vì vậy, sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ, các nước đang phát triển được khuyến cáo nên thay đổi chính sách theo hướng thận trong hơn với đầu tư gián tiếp, chú trọng hơn đến việc thu hút FDI. Bởi vì trong trường hợp không muốn đầu tư tiếp, nhà đầu tư trực tiếp cũng không thể rút vốn dễ dàng, nhanh chóng như đầu tư gián tiếp, vì vốn của họ nằm trực tiếp trong nhà xưởng, thiết bị trên nước sở tại.
Thứ ba, FDI không đơn thuần chỉ là vốn, mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật,phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản phẩm mới, mở ra thị trường mới cho nước tiếp nhận đầu tư.
Đây là điểm hấp dẫn quan trọng của FDI. Các nước đang phát triển thường có trình độ khoa học và công nghệ thấp, lạc hậu. Để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển, thì những nước này cần nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới, tiên tiến. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể của mình, mỗi nước có cách đi riêng để nâng cao trình độ công nghệ của mình, thông qua FDI là cách tiếp cận nhanh, trực tiếp, thuận lợi. Đồng thời, FDI có tác dụng rõ nét hơn các hình thức đầu tư nước ngoài khác trong việc chấn hưng, làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư.
Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song những chủ yếu là 3 hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi là hợp doanh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành lập một pháp nhân.
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên nước ngoài, hợp tác với nước tiếp nhận đầu tư cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả sản xuất, kinh doanh của mình.
Lợi ích chung và những hạn chế của việc thu hút FDI đối với nước nhận đầu tư.
a) Lợi ích
Cùng với nguồn vốn trong nước, FDI đóng vai trò rất quan trọng đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở các nước đang phát triển. Việc tiếp nhận FDI mang lại rất nhiều lợi ích cho nước sở tại, điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau:
FDI bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế. Các nước đang phát triển cần có một lượng vốn lớn để đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện khoa học, kỹ thuật thế giới phát triển ngày càng mạnh mẽ; tuy nhiên, do năng suất lao động thấp, thu nhập người dân còn thấp dẫn đến khả năng tích lũy nội bộ thấp, cản trở họ tiếp cận với những công nghệ tiên tiến. Do đó FDI là một nguồn vốn quan trọng để giải quyết một phần bài toán thiếu vốn ở các nước này.
Thông qua FDI, các nước sở tại tiếp thu được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Cùng với việc cung cấp vốn, qua hình thức này, các công ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác tiên tiến hơn sang cho nước tiếp nhận đầu tư, do đó các nước tiếp nhận đầu tư có thể nhân được nhưng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại (thực tế, có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần), những kinh nghiệm quản lý, năng lực Marketing, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động…).
FDI có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đầu tư FDI làm cho hoạt động đầu tư trong nước phát triển. Các doanh nghiệp trong nước được tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu, để tồn tại được trong môi trường đó, đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các tiềm năng của đất nước. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, phù hợp với xu hướng chung của phân công lao động quốc tế.
Các doanh nghiệp FDI thu hút một số lượng lớn lao động, giải quyết được việc làm cho một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động.
Việc tiếp nhận FDI không đẩy các nước vào cảnh nợ nần, không chịu những ràng buộc về chính trị, xã hội.
FDI góp phần bổ sung đáng kể vào nguồn thu ngân sách quốc gia thông qua việc thực hiện nghĩa vụ về thuế cho doanh nghiệp có vốn FDI.
Như vậy, có thể thấy lợi ích của FDI với nước sở tại có thể chia thành hai loại._.: Tác động trực tiếp được tạo ra thông qua những mối quan hệ giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư trên cơ sở chuyển giao vốn, công nghệ tiên tiến và bí quyết quản lý hiện đại, nâng cao trình độ quản lý và kinh doanh của các công ty địa phương. Tác động gián tiếp được tạo ra thông qua việc tăng cường tính cạnh tranh của cả hai phía đối tác hoặc lợi ích bên ngoài, hiện tượng này gọi là “hiệu ứng lan tỏa” của FDI.
b) Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất định, đó là:
Khai thác và sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhiều nước sở tại có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đây chính là một điểm rất hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Họ sử dụng tài nguyên thiên nhiên làm nguyên liệu đầu vào, và thường có xu hướng khai thác, sử dụng quá mức để đạt được mức lợi nhuận cao nhất. Điều này, nếu không được kiểm soát một cách chặt chẽ, sẽ làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt.
Chuyển giao công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm môi trường. Không phải tất cả các công nghệ của các dự án FDI đều là công nghệ tiên tiến, hiện đại, mà trong đó, bên đầu tư chuyển giao cả công nghệ đã lỗi thời, lạc hậu, biến nước nhận đầu tư trở thành “bãi rác” để thải bỏ những công nghệ không thể dùng được ở nước họ nữa, gây ra ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Gây ra những xung đột về mặt xã hội: Do có khác biệt về văn hóa của nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư, sự khác biệt trong nhận thức về luật pháp, cách hiểu khác nhau về thái độ và hành vi trong quá trình điều hành, giao tiếp và xử sự làm phát sinh những xung đột giữa giới chủ với công nhân. Mặt khác, nguồn vốn nước ngoài di chuyển vào trong nước làm tăng thu nhập của vốn nước ngoài trên thị trường trong nước và làm giảm thu nhập của vốn trong nước. Về thực chất, đây là việc tái phân phối thu nhập của vốn trong nước cho vốn nước ngoài, do đó có thể gây ra làn sóng “bài ngoại”, của vốn trong nước và hiện tượng phân biệt ngấm ngầm hoặc công khai trong quan hệ giữa vốn trong và ngoài nước. Điều này thể hiện nhiều ở các xung đột giữa các bên mang quốc tịch khác nhau trong liên doanh và trên thực tế có rất nhiều liên doanh bị đổ vỡ do những bất đồng phát sinh không thể dung hòa.
FDI làm tăng khoảng cách giữa các vùng trong nước, giữa thành thị và nông thôn, gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Vì mục đích cuối cùng và quan trọng nhất của nhà đầu tư là luôn luôn tối đa hóa lợi nhuận, họ thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật của quốc gia sở tại, nhưng chỉ đầu tư vào những vùng, những ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận cao.
Quan niệm về hoạt động thu hút FDI vào các KCN, KCX
Thu hút FDI vào các KCN, KCX là một quá trình bao gồm nhiều hoạt động khác nhau và các quyết định nối tiếp nhau nhằm vận động và giúp đỡ các nhà đầu tư nước ngoài ra quyết định và thực hiện đầu tư vào một KCN, KCX cụ thể của một quốc gia.
Hoạt động thu hút có nghĩa là các hoạt động nhằm gia tăng sự chú ý và quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế vào các dự án đầu tư cụ thể trong một KCN, KCX, có thể mang lại lợi ích thương mại cho các nhà đầu tư. Hoạt động này bao gồm nhiều nội dung, liên quan chặt chẽ với nhau. Việc thực hiện tốt và có sự phối hợp đồng bộ giữa các nội dung sẽ mang lại kết quả cao cho hoạt động thu hút FDI vào các KCN, KCX của một quốc gia.
Thu hút FDI vào KCN, KCX có các hình thái chủ động và bị động. Hình thái chủ động là hình thái các chủ thể trong nước sở tại tích cực, chủ động tìm kiếm nhà đầu tư nước ngoài, thuyết phục họ đầu tư vào các KCN, KCX thông qua các hoạt động mang tính chuyên nghiệp như tham gia triển lãm quốc tế, chủ động tìm kiếm đối tác đầu tư bằng cách tiếp xúc với các doanh nghiệp khác tham gia triển lãm; quảng cáo trên các tờ báo quốc tế có uy tín; quảng bá hình ảnh của các KCN, KCX trong nước thông qua hoạt động quan hệ công chúng. Những khu công nghiệp áp dụng hình thái chủ động thường thành công hơn trong hoạt động thu hút FDI. Thông qua hình thái chủ động, ban quản lý các khu công nghiệp luôn tìm cơ hội được thể hiện mình rõ nét nhất, ấn tượng nhất trước mắt các nhà đầu tư nước ngoài, làm cho họ biết đến mình để so sánh, cân nhắc với các đối tượng khác trước khi quyết định đầu tư. Từ đó cũng làm tăng cơ hội được lựa chọn trước các nhà đầu tư. Hình thái bị động là các KCN, KCX chờ đối tác nước ngoài đến, giới thiệu và đề xuất với các nhà đầu tư những lợi thế về địa điểm, nhân lực của khu công nghiệp để giúp nhà đầu tư đi đến quyết định đầu tư vào một khu công nghiệp mà họ kỳ vọng. Hình thái này luôn mang lại hiệu quả kém hơn trong hoạt động thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp. Chính vì luôn chờ đợi các nhà đầu tư tìm đến mà các KCN, KCX thuộc hình thái bị động nhiều khi đã đánh mất đi những cơ hội thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài khi cuộc chiến cạnh tranh để thu hút FDI vào các KCN, KCX đang diễn ra rất quyết liệt giữa các quốc gia trong khu vực và giữa các địa phương trong cả nước. Hiện nay, các KCN, KCX ở Việt Nam hầu như đang ở hình thái bị động.
1.2.4. Các nhân tố tác động tới việc thu hút FDI vào các KCN, KCX
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX là hoạt động mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ nguồn lực vào để tiến hành sản xuất và cung cấp dịch vụ trong khu vực nhất định do nước sở tại quyết định thành lập. Khi đầu tư vào KCN, KCX, nhà đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn hai hình thức: đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng và đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Mục đích của tất cả các nhà đầu tư đều là nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì vậy, trước khi bỏ vốn ra đầu tư, nhà đầu tư sẽ phải xem xét, tính toán, lựa chọn rất kỹ càng. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI của một khu công nghiệp. Có thể phân những yếu tố đó theo hai nhóm sau:
1.2.4.1. Các nhân tố thuộc môi trường đầu tư của nước sở tại
Nhân tố chính trị - xã hội
Sự ổn định chính trị và an ninh là yếu tố cơ bản đảm bảo cho quá trình đầu tư lâu dài, đảm bảo an toàn cho nguồn vốn đầu tư, vì vậy đây chính là yếu tố đầu tiên khiến các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm khi có ý định đầu tư vào một quốc gia. Cho dù một quốc gia có đầy đủ các điều kiện thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên và con người; có môi trường đầu tư thuận lợi và ưu đãi với các nhà đầu tư nước ngoài cũng không thể hấp dẫn được họ vì những rủi ro là quá lớn mỗi khi có sự thay đổi thể chế chính trị. Những sự thay đổi này sẽ làm đảo lộn phương hướng, chiến lược hay đình trệ hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Có ổn định chính trị thì những cam kết của chính quyền địa phương nước sở tại đối với nhà đầu tư về sở hữu vốn đầu tư, các chính sách ưu tiên, định hướng phát triển mới được đảm bảo. Sự ổn định về mặt xã hội, tức là nhà đầu tư nước ngoài được đảm bảo an toàn về con người, về tài sản, hạn chế tối đa các tệ nạn xã hội có thể tác động tới tâm lý của các nhà đầu tư. Như vậy, sự ổn định về chính trị - xã hội là nhân tố tích cực tác động đến tình hình thu hút FDI và ngược lại, sự bất ổn về chính trị - xã hội là nguyên nhân để các nhà đầu tư nước ngoài xa lánh.
Nhân tố kinh tế
Đây là nhân tố tập hợp của những yếu tố như: cơ sở hạ tầng, khả năng vốn đầu tư trong nước, mức độ phát triển kinh tế và các chính sách kinh tế ảnh hưởng tới việc thu hút FDI vào quốc gia sở tại. Cơ sở hạ tầng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thu hút FDI. Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống kho, cảng, đường xá, sân bay, điện, nước, dịch vụ bưu chính viễn thông… tốt sẽ giảm bớt chi phí đầu vào và thúc đẩy quá trình lưu thông, tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó, để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài, cần phải có một nguồn vốn trong nước tương đối lớn để đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật. Chi phí này bao gồm: chi phí đất đai, chi phí xây dựng, chi phí mua sắm trang thiết bị máy móc, chi phí công trình phụ trợ… Nguồn vốn trong nước dồi dào sẽ là một nguồn lực quan trọng hình thành nên những cơ sở hạ tầng hiện đại, đáp ứng nhu cầu và thu hút được vốn cảu các nhà đầu tư nước ngoài. Mức độ phát triển kinh tế thể hiện qua tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, GDP/đầu người có ảnh hưởng tới quyết định đầu tư vào một quốc gia của nhà đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khẳng định rằng nền kinh tế của nước sở tại đang tăng trưởng theo chiều hướng tốt hay xấu, các chính sách kinh tế của Nhà nước có hợp lý hay không, có phát huy được tác dụng hay không, và nền kinh tế ổn định ở mức độ nào. Ngoài ra, các chính sách kinh tế đặc biệt là các chính sách liên quan đến đầu tư nước ngoài như các quy định về chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách thuế, chính sách khuyến khích FDI, chính sách tỷ giá hối đoái…là những công cụ quan trọng của chính quyền nước sở tại nhằm tác động vào việc ra quyết định đầu tư của nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một quốc gia/
Nhân tố hệ thống pháp luật đầu tư
Hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài vào một quốc gia bao gồm luật và các văn bản pháp lý khác của quốc gia sở tại điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài như: quá trình hình thành, thẩm định, cấp giấy phép đầu tư và quản lý hoạt động của các dự án FDI. Hệ thống pháp luật đầu tư của nước sở tại càng phù hợp với thông lệ quốc tế, luật khuyến khích và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài thì cùng với các yếu tố khác như cơ sở hạ tầng tốt, hệ thống tài chính, tiền tệ ổn định và hiệu quả, ổn định chính trị - xã hội sẽ xây dựng nên một môi trường kinh doanh hấp dẫn, thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư nước ngoài.
Nhân tố văn hóa
Bên cạnh kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kết cấu hạ tầng xã hội cũng rất quan trọng. Việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần phong phú cho các nhà đầu tư nước ngoài có ý nghĩa không nhỏ vì sau những giờ làm việc căng thẳng, các nhà đầu tư cần đến các hoạt động thể thao, giải trí, nghỉ ngơi lành mạnh. Nghiên cứu và xây dựng mô hình đời sống văn hóa đa dạng, phù hợp với thói quen, tâm lý các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo ra sức hút mạnh mẽ đối với họ. Ngoài ra, đặc điểm của nền văn hóa xã hội của địa phương cũng sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi hay không thuận lợi về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán để trở thành yếu tố khuyến khích hay kìm hãm việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Khi thực hiện quy hoạch các KCN, KCX, phải gắn với yếu tố văn hóa của địa phương. Các công trình văn hóa không chỉ phục vụ cho lợi ích tinh thần cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn phải quan tâm đến nhu cầu của người lao động; dành một tỷ lệ thích đáng diện tích mặt bằng cho giao thông, thông tin bưu chính, khu cây xanh, nhà văn hóa, sân thể thao phục vụ người lao động… đời sống văn hóa, tinh thần phong phú sẽ mang lại hiệu quả làm việc cao cho người lao động và cũng là mang lại lợi ích cho nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiêm, nhân tố văn hóa cũng rất được chú ý khi lựa chọn địa điểm đầu tư.
1.2.4.2. Nhân tố thuộc môi trường đầu tư của KCN, KCX
Bên cạnh những nhân tố thuộc về môi trường đầu tư chung ảnh hưởng tới hoạt động thu hút FDI, thì có rất nhiều những yếu tố bên trong KCN, KCX và yếu tố thuộc về địa phương có KCN, KCX ảnh hưởng mạnh mẽ tới xu hướng phát triển của dòng vốn FDI vào các KCN, KCX:
Hệ thống các ngành công nghiệp phụ trợ và dịch vụ phục vụ kinh doanh tại địa phương
Một doanh nghiệp muốn hoạt động được thì ngoài những nguyên, nhiên vật liệu chính còn phải sử dụng những hàng hóa và dich vụ do các doanh nghiệp khác cung ứng. Trong điều kiện ngày nay, mức độ chuyên môn hóa trong sản xuất kinh doanh ngày một tăng dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp ngày càng lớn. Chính vì vậy, khi quyết định lựa chọn một KCN, KCX làm địa điểm kinh doanh, các nhà đầu tư quan tâm đến các ngành công nghiệp phụ trợ và các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phục vụ kinh doanh ngay tại KCN, KCX và ngay tại địa phương đó. Các ngành công nghiệp phụ trợ sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư những vật tư phu, dịch vụ gia công, cung cấp các chi tiết sửa chữa máy móc, thiết bị… Các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ kinh doanh sẽ cung cấp các dịch vụ như là tư vấn, kiểm toán, ngân hàng, tài chính, tư vấn luật, đào tạo… Địa phương có ngành công nghiệp phụ trợ và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh được thỏa mãn được nhu cầu của nhà đầu tư sẽ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của địa phương. Chính vì vậy, địa phương cần quy hoạch và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ đi cùng với việc thúc đẩy phát triển các dịch vụ phục vụ kinh doanh để cải tiện năng lực cạnh tranh của các nhà đầu tư.
Nguồn lao động tại địa phương:
Nhà đầu tư khi đến kinh doanh tại địa phương có nhu cầu sử dụng lao động tại địa phương. Nguồn lao động có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư tại địa phương. Chính vì vậy, nguồn lao động của địa phương sẽ ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của địa phương đối với nhà đầu tư, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của địa phương. Khi đánh giá về nguồn lao động, người ta xem xét dưới hai góc độ: số lượng và chất lượng nguồn lao động. các yếu tố sử dụng để đánh giá nguồn lao động như: số lượng người lao động, chất lượng nguồn lao động, trình độ người lao động, mức lương và đạo đức nghề nghiệp của người lao động. Một địa phương có lượng cung cấp lớn về nhân công với mức lương thấp thì có lợi thế hơn trong việc thu hút các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động với kỹ năng thấp nhưng lại gặp bất lợi đối với việc thu hút các ngành sản xuất sản phẩm tinh vi, đòi hỏi kỹ năng cao. Một địa phương có nguồn lao động với chất lượng cao nhưng giá nhân công quá cao thì chưa chắc đã hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Địa phương được coi là có lợi thế cạnh tranh về nguồn lao động nếu số lượng và chất lượng nguồn lao động tại địa phương thõa mãn được nhu cầu của nhà đầu tư và chi phí cho nhân công hợp lý. Nói một cách khác, nhà đầu tư sẽ lựa chọn địa phương có nguồn lao động phù hợp với nhu cầu của họ và mức chi phí cho việc sử dụng lao động là thấp nhất. Chính vì vậy, các địa phương cần xem xét nhu cầu về nguồn lao động của nhóm các nhà đầu tư mà địa phương mong muốn thu hút để có chính sách và biện pháp nhằm phát triển nguồn lao động cho phù hợp.
Quy mô thị trường địa phương:
Hàng hóa sản xuất ra phải tiêu thụ được thì doanh nghiệp mới thu hồi được vốn và mới có lợi nhuận. Nếu thị trường tiêu thụ càng gần doanh nghiệp thì doanh nghiệp càng tiết kiệm được nhiều hơn chi phí vận chuyển, phân phối. Vì vậy, quy mô thị trường địa phương là một nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thu hút FDI vào KCN, KCX. Nếu như thị trường địa phương là một khách hàng tiềm năng của nhà đầu tư, hàng hóa mà doanh nghiệp FDI đó sản xuất ra có thể tiêu thụ được nhiều hơn (xuất khẩu tại chỗ) và thu hồi vốn nhanh hơn so với các thị trường khác. Những điểm hấp dẫn của một thị trương luôn là yếu tố đầu tiên được các nhà đầu tư xem xét, đánh giá khi lựa chọn địa điểm đầu tư.
Cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, KCX
Cơ sở hạ tầng (CSHT) là một nhân tố hết sức quan trọng để thu hút các nhà đầu tư. CSHT trong KCN, KCX càng tốt, đầy đủ, thuận lợi và hợp lý thì càng thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn. Nhưng nếu CSHT bên ngoài hàng rào KCN, KCX lại yếu kém, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống cấp điện, nước không đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư thì dù CSHT trong KCN, KCX có thuận lợi đến đâu thì cũng khó có thể tiến hành đầu tư. Vì vậy, muốn thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài, cần phải hoàn thiện CSHT cả trong và ngoài KCN, KCX. Thực tế cho thấy, vốn đầu tư thường đổ vào các KCN, KCX thuộc các vùng có CSHT thuận lợi nhất như các KCN, KCX vùng Đông Nam Bộ, KCN, KCX vùng đồng bằng sông Hồng.
Đặc điểm về mức độ hợp tác và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp địa phương.
Mức độ hợp tác và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tại địa phương thể hiện trong văn hóa ứng xử trong kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn, điều này ảnh hưởng đến sự hấp dẫn hoặc kém hấp dẫn của các doanh nghiệp tại địa phương. Sự hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau của các doanh nghiệp tại địa phương thúc đẩy việc thu hút tài năng đến với địa phương, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao uy tín và hình ảnh của địa phương đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tại địa phương. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tại địa phương phản ánh thế mạnh của các doanh nghiệp hiện tại, góp phần xây dựng thơng hiệu địa phương. Địa phương có thương hiệu tốt thì sẽ rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Trên đây là những yếu tố chủ yếu tác động tới hiệu quả thu hút FDI nói chung và đặc biệt là hoạt động thu hút đầu tư vào các KCN, KCX nói riêng. Để thu hút được nhiều FDI hơn, các địa phương có khu KCN, KCX cần phải nắm rõ được những yếu tố này để có những chính sách, biện pháp thích hợp trong hoạt động thu hút FDI, bổ sung nguồn vốn phát triển các KCN, KCX, công nghiệp hóa, hiện đại hóa địa phương.
Sự cần thiết phải thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL.
Tầm quan trọng của KCN, KCX đối với vùng ĐBSCL
ĐBSCL nằm ở phía Tây Nam Bộ, bao gồm 13 tỉnh thành: Long An, Tiền Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Cần Thơ, Trà Vinh, Đồng Tháp, An Giang, Bến Tre, Cà Mau, Vĩnh Long.
Là một vùng được thiên nhiên ưu đãi, có sinh thái đặc thù để phát triển nền nông nghiệp đa dạng,; sản phẩm có tỷ trọng hàng hóa cao, có vai trò đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu khối lượng lớn, thu ngoại tệ đáng kể cho vùng và cho đất nước. Mặc dù vậy, ĐBSCL vẫn là một vùng chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Mức sống dân cư còn thấp hơn mức trung bình của cả nước, trình độ phát triển đang ở điểm xuất phát thấp. Nền kinh tế còn ở trạng thái thuần nông, nông nghiệp còn chiếm một tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản xuất của vùng, các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu ở dạng sơ chế. Vì vậy, vùng cần phải phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ để làm tàu kéo phát triển nông nghiệp. Một trong những biện pháp để phát triển mạnh ngành công nghiệp của vùng là hình thành các KCN, KCX tập trung.
Cũng như các KCN, KCX nói chung, các KCN, KCX vùng ĐBSCL cũng có những vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng, của đất nước như đã trình bày ở phần 1.1.3. Bên cạnh đó, do những đặc điểm riêng của vùng đất này nên vai trò của các KCN, KCX vùng ĐBSCL được thể hiện trong một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, các KCN, KCX tạo mối liên kết giữa các khu vực kinh tế trong cơ cấu kinh tế của vùng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Với những ưu đãi của tự nhiên, vùng ĐBSCL có những điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển ngành nông nghiệp, thủy hải sản. Những dự án thu hút vào các KCN, KCX trong vùng chủ yếu là ở các lĩnh vực chế biến nông sản, trái cây, thủy hải sản, chế biến thức ăn chăn nuôi, … phục vụ cho thế mạnh của vùng. Các doanh nghiệp chế biến nông sản, thủy hải sản sử dụng các sản phẩm của ngành nông nghiệp, hải sản để làm đầu vào, sản xuất ra sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng của vùng, và chủ yếu là phục vụ xuất khẩu. So với việc xuất khẩu các sản phẩm thô, thì xuất khẩu các sản phẩm đã được chế biến sẽ mang lại giá trị gia tăng lớn hơn, tận dụng được các nguồn lực ngay tại địa phương cho việc phát triển các ngành nghề khác. Việc phát triển các KCN, KCX, đặc biệt là việc thu hút các doanh nghiệp chế biến vào các KCN, KCX không đã giải quyết một phần đáng kể cho thị trường đầu ra của ngành nông nghiệp, thủy sản, đó chính là động lực để người nông dân tập trung sản xuất tốt hơn. Với mối quan hệ này, các KCN, KCX chính là thị trường đầu ra của ngành nông nghiệp, thủy sản. Mặt khác, KCN, KCX cũng chính là nơi cung cấp các sản phẩm cho trồng trọt, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản như: phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn chăn nuôi, công cụ đánh bắt… Như vậy, một lượng lớn các đầu ra của doanh nghiệp được tiêu thụ ngay tại địa phương, giảm chi phí cho doanh nghiệp. Như vậy, có thể thấy rằng giữa các KCN, KCX và người dân địa phương có một sự gắn kết rất chặt chẽ, tồn tại mối quan hệ hai chiều giữa các KCN, KCX với ngành nông nghiệp, thủy sản của vùng ĐBSCL. Qua đó có thể thấy rằng, việc hình thành các KCN, KCX đã hoàn thiện dây chuyền khai thác/ nuôi trồng – chế biến – xuất khẩu nông – thủy sản_ thế mạnh của vùng ĐBSCL.
Việc hình thành các KCN, KCX cũng đòi hỏi các ngành dịch vụ cũng được hình thành và phát triển mạnh mẽ, như: dịch vụ thương mại, các dịch vụ liên quan đến xuất nhập khẩu, dịch vụ thông tin liên lạc, dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ tư vấn, nhà hàng – khách sạn, vui chơi giải trí, văn hóa, giáo dục…để phục vụ nhu cầu sản xuất cho các doanh nghiệp và phục vụ đời sống của những người làm việc trong trong KCN, KCX. Do đó, ngành dịch vụ cũng ngày càng phát triển hơn.
Thứ hai¸ các KCN, KCX góp phần nâng cao trình độ công nghệ, đóng góp quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.
Công nghệ được di chuyển từ nước có trình độ cao sang các nước có trình độ công nghệ thấp hơn; di chuyển vốn từ các nước có các ngành sử dụng nhiều vốn sang các nước có nguồn tài nguyên sẵn có và lao động “dư thừa” nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên phạm vi không gian ngoài biên giới quốc gia. Với những đặc trưng riêng của mình, các KCN, KCX là nơi thu hút vốn đầu tư hiệu quả nhất, là nơi tiếp nhận những công nghệ mới được chuyển vào từ các quốc gia khác, hoặc từ những vùng khác trong nước để từng bước nâng cao trình độ công nghệ của địa phương mình.
Đối với vùng ĐBSCL, là một vùng nông nghiệp điển hình và quan trọng nhất của cả nước, việc hình thành các KCN, KCX có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao trình độ công nghệ của các ngành phục vụ cho thế mạnh của vùng, phát huy mạnh mẽ hơn nữa tiềm năng và lợi thế so sánh của các ngành chủ lực của vùng như sản xuất gạo, trái cây, thủy sản bởi vì: với những lợi thế mà vùng có được, đó là một điều hết sức thuận lợi để phát triển ngành công nghiệp chế biến, các ngành công nghiệp phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản, do đó, việc hình thành các KCN, KCX sẽ là một nơi lý tưởng để các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư, khai thác những tiềm năng thế mạnh của vùng. Các KCN, KCX chính là nơi tiếp nhận và ứng dụng những công nghệ mới tiên tiến, hiện đại, nhờ đó, những lĩnh vực khác, như các ngành trồng trọt, nuôi trồng, chăn nuôi sử cũng ngày càng được chuyên môn hóa, hiện đại hóa hơn nhờ sử dụng những sản phẩm từ các công nghệ đó, không những nâng cao năng suất lao động mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất … cho bà con nông dân. Do vậy, các KCN, KCX đã góp phần rất quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
…
1.3.2. Sự cần thiết phải thu hút FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL
Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Việt Nam cần tập trung vào phát triển các nhân tố có tính chất tiền đề sau: vốn tích lũy; đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật, công nhân lành nghề và cán bộ quản lý kinh doanh; nâng cao năng lực sản xuất cho nhiều ngành then chốt. Thu hút FDI vào các KCN, KCX là một trong những giải pháp để tạo dựng các tiền đề nói trên cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là một vấn đề mang tính toàn diện, có khả năng giải quyết đồng thời các yêu cầu về vốn, lao động, khoa học công nghệ, trình độ quản lý, và là con đường nhanh nhất để tiến tới mục tiêu trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Do đó, việc thu hút FDI vào phát triển các KCN, KCX có thể rút ngắn và đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. FDI ngày càng thể hiện được vai trò quan trọng của mình đối với sự phát triển các KCN, KCX, đặc biệt là đối với vùng ĐBSCL, điều đó được thể hiện trong những khía cạnh sau:
FDI làm tăng nguồn vốn đầu tư vào các KCN, KCX, nâng cao tỷ lệ lấp đầy KCN, KCX.
Để các KCN, KCX hoạt động hiệu quả, cần phải có một nguồn vốn rất lớn, vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh, không có vốn, KCN, KCX sẽ không thể hoạt động được, gây lãng phí tài nguyên đất đai. Đối với vùng ĐBSCL thì đất đai là một tài nguyên vô cùng quan trọng, mỗi tấc đất giành cho việc hình thành các KCN, KCX làm giảm đi một sản lượng lúa rất đáng kể, do đó, cần phải đảm bảo sao cho các KCN, KCX được xây dựng phải hoạt động hiệu quả để không gây lãng phí,đem lại lòng tin cho người nông dân. Mặt khác, đất nước ta còn nghèo, nguồn tích lũy còn thấp, không đủ khả năng đầu tư để lấp đầy hết các KCN, KCX. Do đó, cần phải tận dụng nguồn vốn từ bên ngoài. FDI góp phần quan trọng làm tăng quy mô nguồn vốn đầu tư và chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng nguồn vốn đầu tư vào các KCN, KCX. Các dự án FDI thường có quy mô lớn hơn các dự án từ nguồn vốn trong nước, do đó đóng góp đáng kể vào tỷ lệ lấp đầy các KCN, KCX, nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN, KCX. Nhờ đó, ngành công nghiệp của vùng cũng ngày một phát triển, chiếm một tỷ trọng cao hơn trong tổng giá trị sản xuất, giá trị gia tăng của vùng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thu hút FDI vào các KCN, KCX đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta.
Với một môi trường làm việc hiện đại, được tiếp cận với công nghệ tiên tiến, phong cách quản lý chuyên nghiệp do các doanh nghiệp FDI đem lại, quá trình thu hút FDI vào các KCN, KCX tạo ra những điều kiện thuận lợi để đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng cao, có tác phong làm việc công nghiệp. Điều này rất quan trọng, nhất là với vùng ĐBSCL, khi mà phần lớn lao động là trong lĩnh vực nông nghiệp, trình độ lao động còn rất thấp, kỷ luật lao động không cao, còn mang nặng tính chất “tự do” của người nông dân. Nhu cầu nhân lực trong các dự án FDI sẽ tạo điều kiện cho lao động địa phương có cơ hội được tiếp thu kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao trình độ quản lý, rèn luyện tác phong làm việc công nghiệp, theo chuẩn mực của nền công nghiệp hiện đại.
Nhờ các dự án FDI, các KCN, KCX đã tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả nhiều thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến, tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý hiệu quả, chuyên nghiệp.
Là một vùng đất thuần nông, công nghệ của vùng còn rất lạc hậu, năng suất lao động của vùng rất thấp, do đó, việc thu hút được khoa học công nghệ từ bên ngoài là một yếu tố hết sức quan trọng để phát triển các KCN, KCX nói riêng, và phát triển kinh tế - xã hội của vùng nói chung. Các KCN, KCX với điều kiện CSHT thuận lợi là một thế mạnh để thu hút FDI, các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng có xu hướng đầu tư vào các KCN, KCX. Các nhà đầu tư nước ngoài phần lớn là các công ty đa quốc gia có tiềm lực mạnh không chỉ về vốn mà còn về nghiên cứu và ứng dụng triển khai công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản trị kinh doanh; vì vậy, trong quá trình chuyển giao vốn họ cũng đồng thời chuyển giao cả những công nghệ và kinh nghiệm quản lý của họ. Đó là cơ hội để chúng ta tiếp thu được những thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến một cách hiệu quả nhất.
Như vậy, có thể thấy được vai trò rất quan trọng của việc thu hút FDI vào các KCN, KCX, vì vậy việc thu hút FDI là một tất yếu khách quan. Đối với vùng ĐBSCL, nhiều KCN, KCX đã được thành lập nhưng hoạt động không hiệu quả, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, thì việc thu hút FDI lại càng cần thiết và phải được quan tâm. Là một vùng đất thuần nông, công nghiệp còn nhỏ lẻ, thủ công, lạc hậu, thì việc thu hút FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn để các KCN, KCX hoạt động hiệu quả hơn, mà còn giúp cho các KCN, KCX tiếp nhận được các công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiệu quả, khoa học, học hỏi được phong cách làm việc công nghiệp từ các dự án FDI. Nhờ đó, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ của vùng, giúp công nghiệp hóa tác phong làm việc của những người lao động xuất phát chủ yếu từ nguồn gốc nông dân.
Trong chương I, em đã trình bày những vấn đề lý luận về KCN, KCX, về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, về sự cần thiết phải thu hút FDI vào các KCN, KCX, đặc biệt là đối với vùng ĐBSCL. Đó là những lý thuyết cần thiết cho việc phân tích trong chương II. Tiếp theo đây, trong chương II, em sẽ tìm hiểu, xem xét thực trạng thu hút FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL trong thời gian qua.
Chương II: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
2.1. Tổng quan về các KCN, KCX vùng ĐBSCL
2.1.1. Khái quát tình hình phát triển các KCN, KCX vùng ĐBSCL
Vùng ĐBSCL luôn được biết tới với những tên gọi như “vựa lúa”, “miệt vườn”, “vùng sông nước”. Với những sản vật mà thiên nhiên ban tặng cho vùng hạ lưu sông Mê Kông, vùng ĐBSCL là vựa lúa của nước ta, là khu vực đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực của quốc gia. Ai cũng nghĩ cái “tư duy nông nghiệp” đã ăn sâu vào tâm khảm của người dân vùng châu thổ này. Nhưng giờ đây, dọc theo hai nhánh rẽ của dòng Mekong, những khu, cụm công nghiệp với nhiều nhà máy, xí nghiệp đã khoác lên đôi bờ của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đất từ lâu vẫn được xem là vựa lúa, là miệt vườn thuần nông.
Năm 1995, khu công nghiệp Trà Nóc I được cấp phép thành lập tại Cần Thơ với diện tích đất tự nhiên là 135 ha. Đây là khu công nghiệp đầu tiên của vùng ĐBSCL . Từ đó đến nay, vùng ĐBSCL đã có 34 KCN, KCX, chiếm 17,4% tổng số KCN, KCX của cả nước được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ với quy mô diện tích hơn 6810 ha, chiếm 13% tổng diện tích KCN, KCX của cả nước, trong đó có 16 khu công nghiệp đang hoạt động và 18 khu công nghiệp đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản.
Biểu 2.1: Phân bố các KCN, KCX theo vùng, lãnh thổ đến hết năm 2008
TT
Vùng
Số lượng KCN,KCX
Diện tích KCN,KCX(ha)
Số lượng
%
Diện tích
%
1
Đồng bằng sông Hồng
47
24.1
12516.0
23.9
2
Trung du miền núi phía Bắc
13
6.7
2513,0
4.8
3
Duyên hải Trung Bộ
22
11.3
4923.5
9.4
4
Tây Nguyên
4
2.0
465.4
0.9
5
Đông Nam Bộ
75
38.5
25156.7
48.0
6
Đồng bằng sông Cửu Long
34
17.4
6810.0
13.0
Cả nước
195
100
52384.6
100
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Các KCN, KCX vùng ĐBSCL chủ yếu là được thành lập sau từ sau năm 2003 trở lại đây, rất nhiều KCN, KCX chỉ mới được cấp phép xây dựng năm 2007,2008; trước đó chỉ có một số ít các KCN, KCX được thành lập: Trà Nóc I, Trà Nóc II (Cần Thơ), Mỹ Tho (Tiền Giang), Sa Đéc (Đồng Tháp), Đức Hòa, Tân Kim (Long An). Như vậy, các KCN, KCX ở vùng ĐBSCL đang còn khá mới mẻ.
Các KCN, KCX vùng ĐBSCL có quy mô trung bình khoảng 200.3._.ề thu hút FDI:
Trong thời gian tới để tăng cường thu hút FDI vào các KCN, KCX của Vùng ĐBSCL cần quán triệt những quan điểm sau đây:
Một là, thống nhất quan điểm: FDI là một bộ phận quan trọng góp phần bổ sung vào nguồn vốn phát triển của Vùng. Thấy được tầm quan trọng của KCN, KCX trong chiến lược thu hút FDI. Từ đó có sự tính toán trong chiến lược thu hút đầu tư nói riêng và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Vùng ĐBSCL nói chung.
Hai là, việc xây dựng chiến lược thu hút FDI cần xuất phát trên cơ sở chiến lược, quy hoạch của địa phương, của Vùng; đồng thời cần đứng trên góc độ của chủ đầu tư, để tạo sự bình đẳng, thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư khi tiến hành triển khai các dự án của mình.
Ba là, do có sự gắn kết và mặt địa lý, bổ trợ về các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, giao thông liên lạc,… nên các địa phương trong Vùng cần phải có sự thống nhất quan điểm, biện pháp, các chính sách ưu đãi trong việc thu hút FDI, tránh tình trạng các địa phương ban hành những chính sách, biện pháp mâu thuẫn, cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến những hậu quả không hay cho các địa phương đó.
Bốn là, đảm bảo tính bền vững trong việc thu hút FDI. Thu hút FDI cần phải tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội, lấy việc nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao đời sống của người dân, đảm bảo an ninh xã hội, môi trường sinh thái làm mục tiêu cơ bản chủ đạo. Đối với ĐBSCL, việc thu hút FDI phải hỗ trợ cho mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Năm là, kết hợp có hiệu quả nguồn vốn FDI với các nguồn vốn khác, tạo nên sự đồng bộ, bổ trợ cho nhau trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào tất cả các lĩnh vực ngoại trừ những lĩnh vực thuộc về an ninh quốc gia, những lĩnh vực mà pháp luật ngăn cấm, đặc biệt khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực mà địa phương, vùng đang ưu tiên phát triển, lĩnh vực có công nghệ kỹ thuật cao, an toàn với môi trường…; chính quyền địa phương phải đầu tư vào những ngành nghề bổ trợ quan trọng nhưng mà nhà đầu tư không muốn thực hiện do lợi nhuận thấp, rủi ro cao.
3.3.2. Mục tiêu cụ thể của việc thu hút FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL đến năm 2020
Theo đề án “Rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể các KCN, KCX đến năm 2020”, thì tới năm 2020 cả nước sẽ tăng tổng diện tích các KCN, KCX thêm 110000ha tới 120000ha, bao gồm cả việc thành lập mới và mở rộng thêm một số KCN, KCX . Trong đó, vùng ĐBSCL dự kiến sẽ mở rộng và thành lập mới khoảng 5000 – 6000 ha diện tích các KCN, KCX tập trung, nâng tổng diện tích các KCN, KCX trong vùng tới năm 2020 khoảng 12000 – 13000 ha.
Để phát triển các KCN, KCX đã thành lập, các KCN, KCX dự kiến được thành lập mới và mở rộng thì cần một khối lượng vốn rất lớn, trong đó, nguồn vốn FDI là rất quan trọng.
Bảng 3.1: Dự báo nhu cầu vốn FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL theo từng giai đoạn
Giai đoạn
2009 – 2010
2011 – 2015
2016 – 2020
Lượng vốn
(triệu USD)
288
1450 - 1470
2300 - 2600
Như vậy, có thể thấy trong thời gian tới, do mục tiêu nâng cao tỷ lệ lấp đầy của các KCN, KCX đã thành lập, cùng với việc thành lập và mở rộng thêm nhiều KCN, KCX nên nhu cầu thu hút vốn FDI là rất lớn, bao gồm cả việc thu hút FDI vào xây dựng CSHT và thu hút FDI vào sản xuất kinh doanh. Với thực trạng thu hút FDI hiện nay, thì trong thời gian tới, để đạt được mục tiêu trên, cần phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ và thật sự hiệu quả.
3.4. Những giải pháp thu hút FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL trong thời gian tới
3.4.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút FDI vào các KCN, KCX
Trong thời gian qua, một số địa phương vì muốn thu hút được nhiều vốn đầu tư nên đã lạm dụng chính sách ưu đãi đầu tư, dẫn đến những tác động tiêu cực tới sự phát triển các KCN, KCX. Vì vây, trong thời kỳ tiếp theo, để thu hút FDI có hiệu quả, chính quyền các cấp cần ban hành hệ thống chính sách thu hút đầu tư trên cơ sở những quy định chung và định hướng phát triển đất nước, và phải hoàn thiện hơn nữa chính sách ưu đãi đầu tư phát triển các KCN, KCX như:
Xác định mặt bằng chính sách chung cho các KCN, KCX để tránh tình trạng các địa phương cạnh tranh lẫn nhau, đưa ra các chính sách ưu đãi vượt khung trái với Luật đầu tư. Mặt bằng chính sách này cần phải xác định dựa trên cơ sở các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tương tự nhau của địa phương. Các điều kiện tự nhiên, xã hội thuận lợi cho phát triển kinh tế sữ được hưởng ưu đãi ít hơn so với các địa bàn khó khăn.
Trong KCN, KCX cần thực hiện bình đẳng trong ưu đãi đầu tư giữa các doanh nghiệp. Thực hiện chế độ ưu đãi đầu tư riêng biệt đối với doanh nghiệp trong và ngoài nước là cần thiết để đảm bảo sự tự chủ của khu vực kinh tế trong nước. Tuy nhiên, sự bất bình đẳng trong doanh nghiệp của các thành phần kinh tế dẫn đến mâu thuẫn, tiêu cực và ảnh hưởng tới nguồn thu Ngân sách Nhà nước. Do đó, cần thực hiện hệ thống chính sách ưu đãi đầu tư thực sự công bằng ở các KCN, KCX nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh cùng sản xuất hàng hóa. Tiến tới giảm sự phân biệt trong chính sách giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Đảm bảo sự đồng bộ và thiết thực trong hệ thống chính sách với mục tiêu phát triển lâu dài, đặc biệt với các chính sách ưu đãi đầu tư với các văn bản pháp luật đã ban hành. Để tìm hiều mong muốn nguyện vọng của các nhà đầu tư và kiểm tra sự phù hợp của chính sách ưu đãi đầu tư nên duy trì mỗi năm 1 – 2 lần doanh nghiệp đối thoại với lãnh đạo địa phương và ban quản lý các KCN, KCX
Việc hoàn thiện cơ chế chính sách thể hiện cụ thể ở một số chính sách sau:
Về cơ chế “một cửa, tại chỗ”:
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế này để đạt được hiệu quả tốt hơn. Chuyển từ mô hình ủy quyền sang mô hình phân cấp và tương ướng là mở rộng quy mô phân cấp về vốn, đặc biệt các dự án không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện nhằm tạo sự năng động và chịu trách nhiệm của Ban quản lý và chính quyền địa phương. Mặt khác, các Ban quản lý đã có một thời gian hoạt động theo nguyên tắc ủy quyền đã tích lũy được kinh nghiệm quản lý, sẽ phát huy năng lực của mình tốt hơn.
Về chính sách đất đai:
Kiến nghị với Chính phủ ban hành các văn bản dưới Luật cụ thể hóa 3 quyền của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đó là: quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê, quyền thuế chấp.
Phối hợp chặt chẽ với chủ đầu tư trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng, đặc biệt đối với các dự án hiện đang còn ách tắc trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến đất đai.
Tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài được thuê đất trong một khoảng thời gian dài tương đương với các nước trong khu vực. Xem xét mức tiền thuê đất cho phù hợp với chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài của địa phương. Bảo đảm mức tiền thuê hợp lý, có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực.
Về chính sách thị trường và công nghệ:
Có chính sách khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ hiện đại vào Việt Nam; có biện pháp ngăn chặn nhập công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, đem lại năng suất thấp và hiệu quả thấp. Thực hiện ưu đãi đặc biệt đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao. Tích cực cử cán bộ đi học tập, nghiên cứu tại những quốc gia có nền khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng tiên tiến; tạo nguồn lực có chất lượng tốt phục vụ cho mục tiêu phát triển đất nước.
3.4.2. Đảm bảo sự đồng bộ giữa hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, KCX
CSHT là một yếu tố rất quan trọng trong việc thu hút đầu tư. Để thu hút đầu tư hiệu quả thì cần phải đảm bảo sự đồng bộ giữa CSHT bên trong và bên ngoài hàng rào KCN, KCX. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy trong quá trình triển khai thực hiện các quy hoạch thường không đồng bộ tạo ra những khó khăn nhất định trong quá trình phát triển, làm giảm khả năng thu hút FDI và giảm tính hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn thu hút được. Do đó, để nâng cao khả năng thu hút FDI ở các KCN, KCX thì trước hết phải thực thi các biện pháp phát triển và hoàn thiện hệ thống hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, KCX.
3.4.2.1. Đối với hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào KCN, KCX
Thứ nhất, đảm bảo mặt bằng để đầu tư phát triển KCN, KCX
Trên cơ sở các danh mục các KCN, KCX đã được quy hoạch và dự kiến phát triển theo từng giai đoạn thì căn cứ theo các quy định của pháp luật hiện hành, UBND các tỉnh cần xây dựng các biện pháp bảo tồn, duy trì, có kế hoạch cụ thể để đảm bảo sử dụng hiệu quả mặt bằng đất trước khi giao đất cho phát triển KCN, KCX, đảm bảo cung cấp mặt bằng đúng tiến độ và với chi phí giải phóng mặt bằng thấp nhất.
Tăng cường hiệu lực của các quy định pháp luật về chính sách đất đai, đảm bảo hiệu lực của các cơ quan, các cấp chính quyền trong việc thực thi pháp luật liên quan đến quản lý đất đai và tài nguyên môi trường.
Nghiên cứu xây dựng cơ chế giá đền bù, giải phóng mặt bằng phù hợp với thực tiễn của từng địa phương trong vùng nhưng vẫn phải đảm bảo các quy tắc chung theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, Đổi mới nội dung và phương thức thu hút đầu tư phát triển hạ tầng.
Việc thu hút được vốn đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng là một vấn đề quan trọng cần được quan tâm. Việc đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp thu hút đầu tư có vị trí và tác dụng đặc biệt quan trọng đối với thu hút đầu tư phát triển CSHT trong KCN, KCX. Do đó, cần phải:
- Có các biện pháp công khai thông tin phát triển các KCN, KCX để thu hút được sự chú ý của tất cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thuộc mọi thành phần kinh tế
- Xây dựng quy trình nghiên cứu, lựa chọn quy trình nghiên cứu, lựa chọn các nhà đầu tư hạ tầng một cách thuận tiện và nhanh chóng hướng tới lựa chọn các nhà đầu tư có tiềm năng cho phát triển các KCN, KCX.
- Khai thác tối đa các phương tiện thông tin để cung cấp đầy đủ thông tin về phát triển các KCN, KCX trên địa bàn từng tỉnh như: xây dựng và quản lý, vận hành và cập nhật thông tin trên một website về phát triển các KCN, KCX trên địa bàn từng tỉnh, quảng bá trên các trang báo của địa phương…
Thứ ba, tạo nguồn vốn phát triển các KCN, KCX
Ở những nơi có điều kiện thu hút đầu tư vào các KCN, KCX, nhất là nhà đầu tư nước ngoài thì việc đầu tư phát triển hạ tầng KCN, KCX có thể cho các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân cả trong và ngoài nước đầu tư xây dựng, nhưng phải trên cơ sở quy hoạch chung của các cấp chính quyền địa phương và Trung ương.
Ở những địa phương có CSHT yếu kém, xa trung tâm cần có sự hỗ trợ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định để đầu tư hoàn chỉnh một số hạ tầng thiết yếu bên trong và đấu nối với bên ngoài hàng rào KCN, KCX.
Thành lập “quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển CSHT KCN, KCX” ở các tỉnh, thành phố. Vốn của quỹ được huy động từ nhiều nguồn vốn như: Ngân sách cấp lần 1 và bổ sung hàng năm, vốn vay tín dụng ưu đãi…
Ngoài các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước hoặc các nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước, còn cần có nguồn vốn chủ lực cho việc đầu tư phát triển hạ tầng KCN, KCX dưới hình thức xã hội hóa vốn đầu tư như: cổ phần hóa các công ty phát triển hạ tầng KCN, KCX, bán cổ phiếu, trái phiếu để người dân có điều kiện tham gia góp vốn đầu tư xây dựng KCN, KCX
Khuyến khích người dân có đất trong các khu quy hoạch bị giải tỏa để xây dựng KCN, KCX góp vốn cổ đông bằng tiền đền bù giá trị quyền sử dụng đất dưới các hình thức cổ phiếu, trái phiếu…
3.4.2.2. Đối với hạ tầng bên ngoài hàng rào KCN, KCX
Không chỉ CSHT bên trong hàng rào KCN, KCX thuận lợi, mà CSHT bên ngoài KCN, KCX cũng cần phải đầy đủ thì mới thu hút được các nhà đầu tư. Vì vậy, cần phải chú trọng xây dựng CSHT không chỉ bên trong mà cả bên ngoài KCN, KCX.
Việc xây dựng CSHT bên ngoài hàng rào KCN, KCX cần có sự quan tâm đặc biệt của Trung ương, các cấp Chính quyền địa phương. Vùng ĐBSCL với mạng lưới sông ngòi dày đặc, nền đất yếu, thường xuyên bị ngập lụt, thuận lợi cho giao thông đường thủy nhưng việc xây dựng mạng lưới giao thông đường bộ lại gặp nhiều khó khăn, tốn nhiều kinh phí, nên rất cần sự quan tâm của Chính phủ. Cần phải giành một nguồn ngân sách đáng kể để đầu tư phát triển hạ tầng giao thông của vùng ĐBSCL, đó chính là một trong những chiếc chìa khóa để thu hút vốn đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội.
Việc xây dựng CSHT không chỉ dựa vào nguồn Ngân sách của Nhà nước và địa phương mà đồng thời, cần phải có chính sách khuyến khích và chính sách ưu đãi đối với các thành phần kinh tế trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực xây dựng CSHT. Xây dựng những quy chế ưu đãi cụ thể đủ sức hấp dẫn đối với các dự án BOT, BTO, BT vào lĩnh vực xây dựng và phát triển CSHT, góp phần giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước.
Thực tiễn cho thấy, ngay khi cầu Rạch Miễu nối 2 bờ sông Tiền phá thế cô lập của tỉnh Bến Tre còn đang được xây dựng thì lượng vốn đầu tư đổ vào tỉnh Bến Tre đã tăng lên đáng kể, năm 2004 tỉnh chỉ thu hút được 5 triệu USD, đến năm 2006 tỉnh đã thu hút được 23 triệu USD, vốn đầu tư vào tỉnh Bến Tre vẫn tiếp tục tăng trong những năm gần đây. Điều đó cho thấy rằng, giao thông là một yếu tố cực kỳ quan trọng đối với việc thu hút đầu tư. Vì vậy, các tỉnh trong vùng cần phải liên kết với nhau để quy hoạch xây dựng một hạ tầng giao thông đồng bộ. Vùng cần đầu tư các công trình giao thông nhằm phá thế đọc đạo của một số tuyến quốc lộ hiện nay vốn đang kìm hãm sự phát triển kinh tế của cả vùng trong thời gian qua như các dự án: tuyến N2 từ Chơn Thânh đến Vòm Cống (Đồng Tháp), tuyến N1 đoạn từ Châu Đốc đi Tịnh Biên (An Giang), đường Hồ Chí Minh đoạn Mỹ An đi Cao Lãnh, đường Hồ Chí Minh đoạn Năm Căn đi Đất Mũi (Cà Mau), tuyến Quản Lộ - Phụng Hiệp nối Cần Thơ – Cà Mau, tuyến hành lang ven biển phía Nam.
Chú trọng nâng cấp và hiện đại hóa mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống điện nước, giao thông, sân bay, bến cảng, kho tàng. Cảng hàng không Cần Thơ cần phải tiếp tục được thiết lập tới các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và cần được cần được mở thêm các đường bay đi các nước Đông Nam Á như Singapore, Thái Lan, Campuchia, đi các nước ở vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á như Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan. Với những điều kiện thuận lợi mà vùng có được, vùng cần phát triển hệ thống cảng sông cảng biển để có thể đón tiếp các tàu lớn, không cần phải trung chuyển qua các cảng của thành phố Hồ Chí Minh để giảm chi phí vận chuyển hàng hóa, tăng lợi cạnh tranh của hàng hóa trong vùng. Cửa Định An (Trà Vinh), là cửa ngõ nối hệ thống cảng của 13 tỉnh, thành phố ĐBSCL với biển Đông, liên tục bị phù sa bồi lắng nên những tàu có trọng tải từ 5000 tấn trở lên không vào cửa Định An được, do đó, hạn chế rất lớn sự lưu thông của tầu thuyền, hạn chế sự phát triển của các doanh nghiệp tại ĐBSCL. Vì vậy, cần phải khẩn trương khơi thông luồng Định An, việc nạo vét cửa Định An trong giai đoạn hiện nay và duy tu để sử dụng lâu dài là cần thiết. Phải thực hiện nạo vét quy mô lớn tại đoạn thường xuyên bị bồi lắng ở cửa biến Định An, tiến hành nạo vét bề ngang đáy luồng cộng với mái dốc khoảng 300m cho luồng tàu hai chiều và duy trì độ sâu 5m cộng với biên độ thủy triều 3/8 – 4m, khối lượng khoảng 1 triệu m3/ năm thì có thể đảm bảo cho tàu trọng tải 10.000 tấn ra vào an toàn.
Các chuyên gia kinh tế đã nhận định rằng: hạ tầng giao thông yếu kém là một trong những nguyên nhân kiềm chế tốc đọ phát triển của vùng ĐBSCL. Việc hàng hóa phải đi vòng và ách tắc nhiều nơi chính là một hạn chế lớn của khu vực nhiều tiềm năng kinh tế này. Vì vậy, việc đầu tư phát triển hạ tầng giao thông ở vùng ĐBSCL là một vấn đề bức xúc cần được quan tâm giải quyết.
Cải thiện chất lượng hệ thống dịch vụ hiện tại và phát triển mạng lưới dịch vụ rộng khắp, có chất lượng cao như y tế, giáo dục, dịch vụ giải trí. Tăng cường và phát triển các loại hình dịch vụ tư vấn về đầu tư, xuất nhập khẩu, nghiên cứu thị trường, luật pháp quốc tế.
3.4.3. Phát triển nguồn nhân lực
Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài. Để đáp ứng yêu cầu phát triển trong vùng, cần có:
Thứ nhất, Quy hoạch và có sự kết hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong vùng để phát triển nguồn nhân lực theo hướng tập trung, ưu tiên đào tạo lao động cho nông nghiệp, công nghiệp chế biến hàng nông – thủy sản xuất khẩu, may mặc, lắp ráp điện tử, lao động dịch vụ thương mại và du lịch. Chỉ khi thực hiện được sự liên kết thì mới có thể đào tạo trên quy mô lớn và giảm chi phí nhất là những nghề đòi hỏi phải đầu tư lớn như chế biến thủy sản.
Thứ hai, Xã hội hóa đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một trong những giải pháp quan trọng để nhanh chóng nâng cao số lượng và chất lượng nhân lực của vùng.
Ngoài hệ thống giáo dục và đào tạo của Nhà nước, cần khuyến khích nhân đóng góp xây dựng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của địa phương, của vùng, hình thành các cơ sở đào tạp dân lập, tư thục, trong đó có các trường đại học.
Hàng năm, nên tổ chức Lễ Vinh danh cá nhân – tổ chức đã có đóng góp cho sự phát triển nền giáo dục đào tạo của vùng. Vinh danh các tổ chức, cá nhân tiêu biểu trong hoạt đọng phát triển hệ thống giao thông nhằm tôn vinh, đồng thời tìm kiếm những cá nhân, tập thể thông qua các hoạt động nghiên cứu, đầu tư, phát triển kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Bên cạnh đó, hoạt động vinh danh còn nhằm công nhận, tôn vinh các giá trị đóng góp của các cá nhân, tập thể, giúp công chúng hiểu đowcj và đánh giá, động viên kịp thời những sáng tạo, những nỗ lực đóng góp của các tổ chức, cá nhân vào hoạt động phát triển giáo dục đào tạo của vùng. Thông qua hoạt động vinh danh còn góp phần tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, thành tích nổi bật đến với công chúng, tạo động lực khích lệ tinh thần lao động sáng tạo, cống hiến tri thức, trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển vùng ĐBSCL nói riêng và đất nước nói chung trên bước đường phát triển và hội nhập. Động viên, khuyến khích các hoạt động nghiên cứu, tham gia đầu tư phát triển hệ thống giáo dục đào tạo ngày càng nhiều hơn, với những thành tích cao hơn nữa.
Thứ ba, Có tầm nhìn chiến lược, tạo mối liên kết đa chiều trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Các tỉnh, thành phố trong vùng ĐBSCL cần liên kết với nhau để xây dựng một số trường đại học, cao đẳng, đặc biệt là về lĩnh vực chuyên môn là thế mạnh của vùng như nông nghiệp, thủy hải sản. Tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa trường đại học, cao đẳng và các doanh nghiệp để sinh viên có cơ hội được vừa học vừa thực hành, nâng cao kiến thức chuyên môn và nâng cao tay nghề của mình, đồng thời giúp cho doanh nghiệp có thể tìm kiếm được các nhân tài; tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa trường học và bà con nông dân, phổ biến tới bà con nông dân, những người sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản… những cây giống, con giống tốt, những phương pháp nuôi trồng khoa học, có hiệu quả cao,… Mở thêm các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề ở các trung tâm đô thị tập trung đông dân cư và có nhiều KCN, KCX tập trung. Liên kết với các doanh nghiệp trong vùng để đào tạo đúng ngành, đúng nghề, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của các doanh nghiệp, giải quyết được vấn đề đầu ra của các sinh viên, học viên. Tạo được mối liên kết chặt chẽ giữa người dân – trường đào tạo – doanh nghiệp sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho các đối tượng đó.
Không chỉ cần sự liên kết giữa các tỉnh trong vùng trong việc đào tạo nguồn nhân lực, mà cần có lên kết chặt chẽ với các có sở đào tạo khác trong cả nước. Đó là yếu tố rất quan trọng, là nền tảng để phát huy tiềm năng, thế manh, nắm bắt cơ hội và hạn chế tối đa cạnh tranh cục bộ, sao cho cùng phát triển nguồn nhân lực một cách đồng bộ, đủ về số lượng và có cơ cấu phù hợp. đạt chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực vùng ĐBSCL hiện nay cần chú trọng hợp tác phát triển đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực biên giới Tây Nam.Vì trước xu thế hội nhập, không gian phát triển của ĐBSCL không còn bó hẹp trong vùng hay chỉ là mối liên kết với thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông nam Bộ, mà còn mở rộng ra không gian rộng lớn của khu vực ASEAN với 600 triệu dân, và rộng hơn nữa. Do đó, công tác đào tạo nguồn nhân lực ở ĐBSCL không chỉ trong nội vùng mà còn khai thác các khu vực của Campuchia, Lào, vì vậy nên có hướng mở cao hơn.
Thứ tư, Đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Từ thực tế tồn tại tình trạng chưa có sự cân đối trong cung cấp và sử dụng nguồn nhân lực, vừa thừa vừa thiếu, cho nên cần thiết có sự điều chỉnh sao cho phù hợp. Vif thế, việc đào tạo phải bắt gặp với nhu cầu sử dụng lao động của nên kinh tế, của xã hội. Cơ sở đào tạo cần quan tâm tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu xã hội mà có kế hoạch đào tạo hợp lý. Giữa các cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất kinh doanh, tổ chức sử dụng lao đọng cần có mối liên hệ mật thiết với nhau: cơ sở sử dụng lao động có thể đặt hàng, cơ sở đào tạo có sản phẩm theo đúng yêu cầu sử dụng. Cơ quan quản lý giáo dục đào tạo cần nắm bắt chắc chắn nhu cầu tổng thể của xã hội để phân bổ chỉ tiêu đào tạo hợp lý cho các cơ sở đào tạo. Đồng thời các cơ sở đào tạo còn phải thường xuyên và nhanh chóng đổi mới chương trình, nội dung, đào tạo thật khoa học, thật hiện đai, luôn cập nhật những thông tin, tri thức mới nhất; đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, thiết bị tiên tiến, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực. Trong quá trình đào tạo cần thiết coi trọng việc thực tập, ứng dụng, thực hành. Điều này sẽ khắc phục dần biểu hiện học vẹt, lý thuyết suông, kém hiểu biết thực tiễn, thiếu kỹ năng thực hành của sinh viên, học viên.
Thứ năm, Đảm bảo nhu cầu chỗ ở và nơi làm việc cho người lao động để họ yên tâm sản xuất. Việc xây dựng nhà ở cho công nhân phải là sự kết hợp giữa chính quyền địa phương, nhân dân và doanh nghiệp theo hướng xã hội hóa trong việc tạo quỹ nhà. Nhà nước phải có đất “sạch” (đất đã giải tỏa) giao cho doanh nghiệp, có thể Nhà nước tự bỏ tiền để bồi thường giải phóng mặt bằng hoặc thu hồi những khu đất không để giao cho doanh nghiệp xây dựng. Đây là một vấn đề cốt yếu để hình thành nhà giá thấp. Nếu để doanh nghiệp tự thu hồi đất theo giá thị trường thì dù có miễn tiền sử dụng đất thì giá thành vẫn bị đẩy lên cao. Các chủ đầu tư dự án nhà ở cho công nhân và nhà ở giá thấp sữ được hưởng rất nhiều ưu đãi như: miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với diện tích đất trong phạm vi dự án nhà ở cho công nhân thuê và nhà ở giá thấp; các chủ đầu tư dự án được phép điều chỉnh tăng mật độ xây dựng và hệ số sử dụng đất 1.5 lần so với quy định hiện hành để góp phần giảm giá thành; chủ đầu tư dự án được áp dụng thuế VAT 0% đối với các hợp đồng thuê nhà ở công nhân và hợp đồng bán nhà ở giá thấp; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong bốn năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế, giảm 50% thu nhập doanh nghiệp trong chín năm tiếp theo và được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong suốt thời gian hoạt động…
Có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho công nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều nhân công lao động như: miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một thời gian nhất định, hỗ trợ quỹ đất, miễn giảm tiền sử dụng đất đối với diện tích đất dùng để xây nhà ở cho công nhân… Hoặc các doanh nghiệp này hợp đồng với các tổ chức, cá nhân kinh doanh nhà trọ nhằm giải quyết tốt vấn đề chỗ ở cho công nhân theo nguyên tắc cộng đồng cùng chịu trách nhiệm và cùng có lợi.
Bên cạnh việc đầu tư của Nhà nước, bằng các đòn bẩy kinh tế tạo thuận lợi cho nhân dân xây dựng nhà cho thuê, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho công nhân thuê với giá thấp hoặc bán trả góp.
3.4.4. Tăng cường công tác vận động xúc tiến các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các KCN, KCX của vùng ĐBSCL
Vận động xúc tiến đầu tư là một trong những nội dung quan trọng giữ vai trò quyết định sự thành công của các KCN, KCX trong thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút FDI. Đây là một hình thức chủ động trong hoạt động thu hút đầu tư. Nó sẽ mang lại hiệu quả cao hơn so với trạng thái thu hút FDI bị động. Do đó, để tăng cường công tác vận động và xúc tiến FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL trong thời gian tới thì cần phải tập trung vào những vấn đề sau:
Thứ nhất, giải quyết, xử lý, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đang xây dựng và đang sản xuất kinh doanh, đây là một biện pháp xúc tiến vận động đầu tư mang lại hiệu quả cao. Sự thành công của những doanh nghiệp này là minh chứng đầy thuyết phục đối với các nhà đầu tư nước ngoài khác đang có ý định đầu tư vào các KCN, KCX của vùng.
Thứ hai, chính quyền địa phương cần phối hợp với các Bộ, ngành trong công tác vận động và xúc tiến đầu tư; xây dựng rõ các danh mục dự án kêu gọi đầu tư và làm cơ sở cho việc vận động và xúc tiến đầu tư.
Thứ ba, đổi mới về nội dung vận động, xúc tiến đầu tư. Tiếp xúc trực tiếp với các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế có tiềm lực tài chính mạnh để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng, đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút các công ty trực thuộc hoặc các công ty hoặc các công ty có quan hệ với tập đoàn đầu tư vào các KCN, KCX của vùng. Kết hợp với các ngân hàng trong vùng để vận động các khách hàng của họ thực hiện đầu tư tai các KCN, KCX của vùng. Thường xuyên tiếp xúc với cộng đồng các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, kịp thời cung cấp những thông tin về các dự án đang cần mời gọi đầu tư, các chính sách ưu đãi mới đối với đầu tư nước ngoài trong các KCN, KCX. Thông qua những cuộc tiếp xúc, chính quyền các cấp sẽ thấy được những khó khăn, vướng mắc của các chủ đầu tư, từ đó có biện pháp kịp thời giải quyết, tạo nên hình ảnh tốt đẹp, tạo sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, tăng cường bộ phận xúc tiến đầu tư tại các cơ quan đại diện của Việt Nam ở một số nước và địa bàn trọng điểm để chủ động vận động, xúc tiến đầu tư đối với từng dự án, từng nhà đầu tư có tiềm năng, đặc biệt đối với các nhà đầu tư châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản. Xây dựng hoặc kết hợp với các cơ quan đại diện, chi nhánh của các đơn vị kinh tế tại nước ngoài thành lập những trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư. Khai thác những quan hệ của Việt Kiều tại các quốc gia có tiềm lực tài chính trong việc mời gọi các đối tác đầu tư, tạo nên những đầu nối cho hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX trong vùng.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình thu hút FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL trong thời gian vừa qua, em xin có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, vùng ĐBSCL cần phải tích cực trong khâu quảng bá hình ảnh của vùng, của địa phương mình, chỉ ra được những thế mạnh, những tiềm năng của vùng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tận dụng được những cơ hội để phát triển kinh tế - xã hội của vùng, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, thu hút FDI vào các KCN, KCX trong vùng, bên cạnh việc đa dạng hóa các ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ cũng cần chú ý phát huy tiềm năng thế mạnh về nông – thủy sản của vùng, các doanh nghiệp trong KCN, KCX chính là thị trường đầu ra của các sản phẩm nông nghiệp thủy sản, đồng thời giúp hoàn thiện hơn nữa dây chuyền công nghệ khai thác/nuôi trồng – chế biến – xuất khẩu nông – thủy sản, góp phần vào công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn.
Thứ ba, chính quyền cấp Trung ương và địa phương cần phải quan tâm hơn nữa tới đầu tư CSHT cho vùng. Đây là vùng có nhiều tiềm năng, xong do địa hình nhiều sông ngòi chia cắt, giao thông vận tải chưa thuận tiện nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội thu hút đầu tư. Hoàn thiện CSHT của vùng là một trong những yếu tố quan trọng nhất để thu hút đầu tư nói chung và thu hút FDI nói riêng.
Thứ tư, việc đào tạo đội ngũ lao động và nâng cao trình độ dân trí cũng là một vấn đề rất cần được quan tâm của các cấp chính quyền. Xây dựng trường học các cấp, đồng thời phải tuyên truyền, giải thích tầm quan trọng của việc học tập cho người dân biết. Tích cực hợp tác giữa các doanh nghiệp với các trường đại học, trung cấp, trung tâm dạy nghề để có kế hoạch đào tạo theo nhu cầu lao động của các doanh nghiệp, tránh tình trạng “vừa thiếu vừa thừa” lao động.
KẾT LUẬN
Là một vùng quan trọng đối với cả nước trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, ĐBSCL cần phải phát huy được những thế mạnh của mình để phát triển tương xứng với tiềm năng mà vùng có được. Việc phát triển các KCN, KCX cần phải tính toán sao cho có thể hỗ trợ cho sự phát triển các tiềm năng thế mạnh của vùng, đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quá trình thu hút FDI vào các KCN, KCX đã mang lại những bài học kinh nghiệm quý giá cho sự phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN, KCX của vùng, làm cơ sở cho Chính phủ hoạch định và hoàn chỉnh chính sách phát triển KCN, KCX nói riêng và chính sách thu hút FDI nói chung.
Các KCN, KCX trên địa bàn đã thực sự bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo thêm năng lực sản xuất mới đáp ứng phần nào nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, tạo tiền đề cho nhiều ngành công nghiệp mới ra dời.
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thu hút FDI vào các KCN, KCX vủa vùng cũng bộc lộ những bất cập về công tác quy hoạch, kinh doanh CSHT trong và ngoài KCN, KCX; vấn đề đất đai, giải phóng mặt bằng;…
Để phát triển các KCN, KCX của vùng, cần phải tiến hành những giải pháp đồng bộ từ các cấp chính quyền, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo quy hoạch và đáp ứng xu thế hội nhập quốc tế, như vậy thì các KCN, KCX mới thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để thu hút FDI nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Gs. Ts Vũ Thị Ngọc Phùng_chủ biên (2006), “Giáo trình Kinh tế phát triển”, Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tr.248-251, Nhà xuất bản lao động – xã hội.
Bộ Kế hoạch và đầu tư (2008), Đề án “Rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển các KCN, KCX đến năm 2020”.
Viện chiến lược phát triển (2008), Đề án “ Dự báo tác động của hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng đến phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL đến năm 2020”.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, bộ môn Kinh tế đầu tư, “Giáo trình Kinh tế đầu tư”.
Bộ Kế hoạch và đầu tư, Viện chiến lược phát triển(2006), Báo cáo “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL đến năm 2020”.
…
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22079.doc