Lời mở đầu
Viễn thông là một ngành kinh tế kỹ thuật dịch vụ thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế, Viễn thông đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo an ninh quốc phòng. Trong thời gian qua Viễn thông Việt Nam đã có những bước tiến bộ vượt bậc, đáp ứng nhu cầu xã hội, đi trước và tạo điều kiện cho sự lớn mạnh của nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội khác. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Viễn thông Việt Nam vẫn chưa tương xứ
101 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1305 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ Viễn thông giai đoạn 2005-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng với tiềm năng phát triển và còn thua kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân chính của những hạn chế này là do thiếu vốn và công nghệ.
Trong thời gian thực tập tại Phòng Dịch vụ, Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, em đã được tham khảo và tìm hiểu các thông tin, kiến thức liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ Viễn thông. Đầu tư nước ngoài đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển và tiến bộ của Viễn thông Việt Nam. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Viễn thông hiện nay còn rất hạn chế. Viễn thông Việt Nam đang lãng phí một nguồn lực quý báu có thể đẩy nhanh sự lớn mạnh của mình. Xuất phát từ thực tế trên, em quyết định viết chuyên đề thực tập mang tên: “Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ Viễn thông giai đoạn 2005-2010”. Em đã phát triển chuyên đề thực tập này thành luận văn tốt nghiệp.
Luận văn của em gồm ba phần chính:
Chương 1: Vai trò của dịch vụ Viễn thông và sự cần thiết phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ Viễn thông.
Chương 2: Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ Viễn thông tại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào dịch vụ Viễn thông giai đoạn 2005-2010
Em xin gửi lời cảm ơn đến thầy giáo PGS.TS Phạm Văn Vận đã hướng dẫn và giúp đỡ em tận tình trong quá trình viết và hoàn thành luận văn.
Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ-chuyên viên làm việc tại Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đặc biệt là bác Hoàng Văn Hưng và anh Nguyễn Văn Hoàng đã cung cấp tài liệu và có những ý kiến đóng góp quý báu cho nội dung của luận văn này.
Chương 1
Vai trò của dịch vụ viễn thông và sự cần thiết phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào lĩnh vực dịch vụ Viễn thông
I.Khái quát về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment- FDI)
Trên thế giới có nhiều cách diễn giải về khái niệm FDI, tùy theo góc độ tiếp cận của các nhà kinh tế. Tuy nhiên, cách định nghĩa được sử dụng rộng rãi hơn cả là do quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra. Theo IMF: “FDI là số vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư mong muốn tìm được chỗ đứng trong quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường”. Khái niệm này nhấn mạnh vào hai yếu tố chính là tính lâu dài của hoạt động đầu tư và động cơ đầu tư là dành quyền kiểm soát trực tiếp hoạt động quản lý doanh nghiệp.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh, hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo qui định của luật này”.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã sửa lại khái niệm trên: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo qui định của luật này”. Khái niệm này nhấn mạnh chủ đầu tư là người nước ngoài, tư bản được chuyển dịch trong FDI nhất thiết phải vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia.
1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định của dự án đạt mức tối thiểu tùy theo luật đầu tư của từng nước quy định.
Chủ đầu tư nước ngoài được tham gia trực tiếp vào các quan hệ sản xuất kinh doanh, được tự mình quản lý kinh doanh trên phần góp vốn góp của mình khi đầu tư vào nước nhận đầu tư.
Quan hệ đầu tư FDI là quan hệ có mục đích kinh doanh rõ ràng, lợi nhuận là mục tiêu cao nhất và cuối cùng của nhà đầu tư. Lợi nhuận mà nhà đầu tư được phân chia sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn vào vốn pháp định.
FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
Đầu tư FDI thường đi kèm với hoạt động chuyển giao công nghệ. Đặc điểm này khiến các nước đang phát triển ngày càng thu hút nhiều FDI. Ngoài ra, FDI có thể tạo hướng phát triển cho nhiều ngành nghề mới, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên nó có thể chi phối ở một mức độ nhất định nền kinh tế nước nhận đầu tư. Chính vì vậy mà phải có những chính sách hợp lý, một mặt vừa phát huy sức mạnh của đầu tư nước ngoài, mặt khác phải có những biện pháp đúng đắn để ngăn chặn sự chi phối này, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế lâu dài.
1.3. Các hình thức FDI
Theo pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
1.3.1. Hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
a. Khái niệm:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới.
b. Đặc điểm:
- Các Bên hợp doanh tiến hành hoạt động kinh doanh mà không cần lập ra một pháp nhân mới tách biệt với các Bên hợp doanh, tức là không cho ra đời một công ty, xí nghiệp mới.
- Trong quá trình kinh doanh, nếu xét thấy cần thiết, các Bên hợp doanh có thể thoả thuận thành lập Ban điều phối để thực hiện Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ban điều phối không phải là cơ quan lãnh đạo của các Bên hợp doanh.
- Bên hợp doanh nước ngoài thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo Luật Đầu tư nước ngoài. Bên hợp doanh Việt Nam thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước.
c. Thuận lợi khi áp dụng:
- Do không thành lập pháp nhân mới nên thủ tục đăng ký không phức tạp như các hình thức khác. Các Bên có thể linh hoạt trong quá trình thoả thuận, từ xác định thời hạn hợp đồng đến việc quản lý hoạt động kinh doanh.
- Ban điều phối được thành lập tạo điều kiện giám sát và quản lý việc hợp tác đầu tư một cách công khai và có hiệu quả hơn, giảm bớt các tranh chấp có thể có trong quá trình phân chia kết quả kinh doanh.
- Mỗi Bên tham gia thực hiện nghĩa vụ và các nghĩa vụ tài chính khác một cách riêng biệt.
- Bên hợp doanh nước ngoài không bị khống chế tỷ lệ góp vốn pháp định tối thiểu là 30% như Bên nước ngoài trong hình thức liên doanh.
d. Khó khăn khi áp dụng:
- Không tồn tại một thực thể pháp lý riêng biệt ở Việt Nam và không mang tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn, điều này gây nên sự khó khăn trong việc tuyển dụng lao động và ký kết các hợp đồng với các đối tác để thực hiện dự án đầu tư.
- Bên hợp doanh nước ngoài trong nhiều trường hợp đóng góp phần lớn vốn đầu tư, trang thiết bị... nhưng không được phân chia lợi nhuận tương ứng với tỷ lệ vốn góp, thậm chí không có nhiều ảnh hưởng lắm trong quá trình điều hành và quản lý hoạt động kinh doanh.
- Không được tự do lựa chọn lĩnh vực đầu tư và không có nhiều ưu đãi về miễn giảm thuế như các hình thức đầu tư khác.
1.3.2. Hình thức Doanh nghiệp liên doanh.
a. Khái niệm:
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở Hợp đồng liên doanh ký giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt, Doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên cơ sở Hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước khác.
b. Đặc điểm:
- Doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới hình thức Công ty TNHH, mang tư cách pháp nhân Việt Nam. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn cam kết góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp.
- Vốn pháp định của Doanh nghiệp liên doanh ít nhất bằng 30% vốn đầu tư.
- Tỷ lệ góp vốn của Bên hoặc các Bên liên doanh nước ngoài do các Bên liên doanh thoả thuận, nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của Doanh nghiệp liên doanh. Trong một vài trường hợp cụ thể, tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không dưới 20% vốn pháp định.
- Lợi nhuận và rủi ro được phân chia theo tỷ lệ góp vốn. Công ty liên doanh không được giảm vốn trong quá trình liên doanh, nếu tăng vốn phải làm bản giải trình nộp lên Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xem xét giải quyết.
c. Thuận lợi khi áp dụng:
- Không bị hạn chế về lĩnh vực đầu tư.
- Doanh nghiệp liên doanh được phép chuyển nhượng vốn sau khi đăng ký việc chuyển nhượng với Cơ quan cấp Giấy phép đầu tư.
- Dễ tìm kiếm đất để xây dựng công trình do bên Việt Nam thường góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
- Rủi ro được chia sẻ giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài.
- Bên Việt Nam có thể hỗ trợ trong hoạt động của liên doanh, tuyển dụng lao động, tìm kiếm các nguồn nguyên liệu ở trong nước cung cấp cho liên doanh hoặc tiêu thụ hàng hoá tại thị trường trong nước. Bên nước ngoài có thể chủ động hơn trong quá trình điều hành hoạt động kinh doanh, áp dụng và phát huy các công nghệ mới, các kinh nghiệm quản lý có hiệu quả của mình tại Việt Nam.
d. Khó khăn khi áp dụng:
- Khả năng góp vốn bằng tiền mặt và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của Việt Nam rất hạn chế, điều này dẫn đến một số thiệt thòi của Bên Việt Nam trong việc đưa ra các quyết định về quản lý điều hành kinh doanh cũng như trong việc hưởng lợi nhuận.
- Rủi ro cao, thu hồi vốn chậm. Đặc biệt đã xảy ra trường hợp, do phía Việt Nam sau một thời gian không thể chịu đựng các tổn thất từ việc thua lỗ của liên doanh nên đã rút lui khỏi liên doanh, khiến các công ty này sau đó đã chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài.
1.3.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
a. Khái niệm:
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà đầu tư nước ngoài, do Nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
b. Đặc điểm:
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức Công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
- Vốn pháp định của Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư.
- Nhà đầu tư nước ngoài tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
c. Thuận lợi khi áp dụng:
- Độc lập về tổ chức và điều hành hoạt động của doanh nghiệp và không phải chia sẻ lợi nhuận.
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài cũng được phép chuyển nhượng vốn sau khi đăng ký việc chuyển nhượng với Cơ quan cấp Giấy phép đầu tư.
d. Khó khăn khi áp dụng:
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không được phép đầu tư vào một sỗ lĩnh vực như: khai thác, chế biến dầu khí, khoáng sản, du lịch lữ hành, văn hoá, trồng rừng, đường sắt, đường biển, vận tải hành khách công cộng...
- Không có sự hỗ trợ của bên Việt Nam trong việc thành lập, hoạt động của doanh nghiệp cũng như tìm đối tác trong nước.
- Hoàn toàn chịu mọi rủi ro nếu hoạt động kinh doanh kém hiệu quả.
1.4. Tác động của FDI
FDI là một đặc trưng nổi bật của nền kinh tế thế giới hiện đại, một yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá. FDI mang lại lợi ích và cả rủi ro cho cả nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư.
1.4.1. Đối với nước đầu tư:
Tác động tích cực:
- Thứ nhất, thông qua FDI, các nước chủ đầu tư khai thác những lợi thế so sánh của nơi tiếp nhận đầu tư, giúp giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, đồng thời giảm bớt rủi ro đầu tư so với nếu chỉ tập trung vào thị trường trong nước.
- Thứ hai, FDI giúp các nước chủ đầu tư xây dựng thêm được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng.
- Thứ ba, FDI giúp các nước chủ đầu tư tăng thêm sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế. Thông qua xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, các nước chủ đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ở các nước.
Tác động tiêu cực:
- Thứ nhất, nếu chính phủ không có các chính sách phù hợp sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầu tư ở trong nước. Khi đó các doanh nghiệp lao mạnh ra nước ngoài đầu tư để thu lợi, và các quốc gia chủ nhà có xu hướng bị suy thoái, tụt hậu.
- Thứ hai, nếu không nắm vững và xử lý tốt các thông tin thị trường và luật pháp nước sở tại, thì chủ đầu tư có thể gặp rủi ro trong quá trình đầu tư với mức độ thậm chí cao hơn nếu chỉ đầu tư vào thị trường trong nước mình.
1.4.2. Đối với nước nhận đầu tư
Tác động tích cực
- Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn cho sự phát triển. Trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, các nước đang phát triển đều bị thiếu vốn đầu tư do tích luỹ nội bộ thấp hoặc không có tích luỹ nên rất cần nguồn vốn từ bên ngoài bổ sung cho vốn đầu tư phát triển. Nguồn vốn FDI có thể hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống KT-XH và thường là vốn đầu tư dài hạn, do các nhà đầu tư nước ngoài tự quản lý, nên rất có hiệu quả.
- Thứ hai, FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài.
- Thứ ba, FDI sẽ cho phép các nước tiếp nhận đầu tư tận dụng và phát huy các lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lý và nguồn lao động.v.v... của mình. Đặc biệt nhờ các kênh tiêu thụ sẵn có của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện tiếp cận, mở mang thị trường quốc tế, tăng kim ngạch xuất khẩu.
- Thứ tư, FDI giải quyết một phần tình trạng thất nghiệp và giúp gia tăng thu nhập, tạo phong cách và tư duy lao động mới ở các nước đang phát triển.
Tóm lại, FDI giữ vai trò to lớn và khá toàn diện với sự phát triển KT-XH của các nước tiếp nhận đầu tư. Với những ưu điểm nổi bật đó thì việc thu hút ngày càng nhiều FDI trở thành một chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, thu hút tới mức nào thì còn phụ thuộc vào điều kiện, nhu cầu vốn để phát triển kinh tế mỗi nước bởi lẽ bên cạnh các tác động tích cực, FDI cũng có thể tạo ra những ảnh hưởng không tốt tới nền kinh tế.
Tác động tiêu cực
- Thứ nhất, do chủ đầu tư trực tiếp sở hữu và quản lý vốn và vì các mục tiêu của mình nên họ thường đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực nhiều khi không trùng khớp với mong muốn của nước sở tại. Nếu không có những quy hoạch và cơ chế quản lý FDI có hiệu quả, sẽ có thể dẫn đến tình trạng đầu tư tràn lan, cơ cấu kinh tế bị sai lệch, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức, nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng...
- Thứ hai, nước sở tại phải đương đầu với các chủ đầu tư quốc tế giàu kinh nghiệm trong kinh doanh, nên trong nhiều trường hợp dễ bị thua thiệt hoặc chịu sức ép từ họ trên các lĩnh vực như: giá cả, kỹ thuật, phương thức quản lý.v.v...
- Thứ ba, trong quá trình tiếp nhận đầu tư, nước đầu tư có khả năng sẽ du nhập những công nghệ lạc hậu với giá đắt đỏ, gây ra những chi phí lớn cho sự dỡ bỏ, thay thế hoặc khắc phục hậu quả về sau.
- Thứ tư, FDI có thể gây ra thâm hụt cán cân thanh toán và về lâu về dài làm cho tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tư nội địa giảm. Sự lấn át của các doanh nghiệp có vốn FDI sẽ làm tăng sự phá sản của các cơ sở kinh tế và các ngành nghề truyền thống, làm tăng tâm lý sùng bái hàng ngoại.
Trên đây là những tác động mặt trái có thể có của FDI tới nền kinh tế của nước sở tại với các mức độ nặng nhẹ khác nhau. Từ những tác động này đòi hỏi các nước phải có định hướng, chính sách quản lý và sử dụng FDI có hiệu quả, làm sao vừa thu hút được FDI để phục vụ việc phát triển kinh tế vừa giảm thiểu các tác hại mà quá trình thu hút FDI mang lại.
Kết luận:
Với những ưu điểm của mình, FDI là một nguồn lực không thể thiếu trong qúa trình tăng trưởng và phát triển của mọi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Thông qua rất nhiều hình thức khác nhau, các nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận thị trường, khai thác và tận dụng những lợi thế của nước sở tại đem lại lợi ích cho cả hai phía, đầu tư và nhận đầu tư. Quốc gia nào có chính sách thích hợp và đúng đắn thì sẽ vừa có thể tăng cường thu hút FDI mà vẫn kiểm soát được nó, vẫn đảm được chủ quyền dân tộc.
Sau khi đưa ra những cơ sở lý luận liên quan đến FDI, phần tiếp theo của chuyên đề xin được trình bày về Viễn thông và sự cần thiết phải của FDI trong lĩnh vực này để từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm thu hút FDI có hiệu quả hơn.
II. Vai trò của dịch vụ Viễn thông và sự cần thiết phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này.
2.1. Khái niệm và đặc điểm kinh tế-kỹ thuật của dịch vụ Viễn thông
2.1.1. Khái niệm và phân loại
Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 43/2002/PL ngày 25 tháng 5 năm 2002 về Bưu chính, Viễn thông và Nghị định số 60/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông về Viễn thông, đã đưa ra khái niệm và cách phân loại Dịch vụ Viễn thông như sau:
Khái niệm:
Dịch vụ Viễn thông: là dịch vụ truyền ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh hoặc các dạng khác của thông tin giữa các điểm kết cuối của mạng Viễn thông.
Phân loại dịch vụ Viễn thông:
1. Dịch vụ Viễn thông cơ bản là dịch vụ truyền đưa tức thời thông tin của người sử dụng dưới dạng ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh thông qua mạng Viễn thông hoặc Internet mà không làm thay đổi loại hình hoặc nội dung thông tin được gửi và nhận qua mạng.
Dịch vụ Viễn thông cơ bản bao gồm:
a) Dịch vụ Viễn thông cố định
Dịch vụ điện thoại (nội hạt, điện thoại nội tỉnh, điện thoại liên tỉnh, điện thoại quốc tế)
+ Dịch vụ điện thoại nội hạt: là dịch vụ phục vụ nhu cầu đàm thoại của khách hàng trong phạm vi địa danh theo quy định hành chính là nội thành, nội thị, nội huyện của một tỉnh thông qua mạng lưới viễn thông nội hạt.
+ Dịch vụ điện thoại nội tỉnh: là dịch vụ cho phép các cuộc gọi điện thoại được thiết lập giữa thành phố, thị xã với các huyện, và ngược lại thông qua mạng lưới Viễn thông nội tỉnh.
+ Dịch vụ điện thoại liên tỉnh: là dịch vụ cho phép các cuộc gọi điện thoại được thiết lập giữa một máy điện thoại thuộc một tỉnh hoặc thành phố này đến một máy điện thoại thuộc một tỉnh, thành phố khác và ngược lại thông qua mạng lưới Viễn thông liên tỉnh.
+ Dịch vụ điện thoại quốc tế: là dịch vụ cho phép các cuộc gọi điện thoại được thiết lập giữa một máy điện thoại ở Việt Nam đến một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ khác và ngược lại thông qua mạng Viễn thông quốc tế.
Dịch vụ truyền số liệu
Là dịch vụ mà khách hàng sử dụng để đảm bảo việc truyền số liệu giữa máy tính với máy tính; giữa máy tính với mạng máy tính (mạng LAN); giữa máy tính (hoặc mạng máy tính) với các cơ sở lưu trữ dữ liệu (database) để truy tìm tin tức.
Dịch vụ truyền dẫn tín hiệu truyền hình
Dịch vụ thuê kênh riêng
Là dịch vụ thông tin cho do doanh nghiệp Bưu chính, Viễn thông cung cấp cho các khách hàng là các cơ quan, tổ chức, đoàn thể hoặc các doanh nghiệp các kênh thông tin riêng để họ sử dụng cho mục đích thông tin nội bộ như: truyền thoại, số liệu, ...trong phạm vi những kênh thông tin thuê riêng đó.
Dịch vụ telex
Là dịch vụ thông tin truyền chữ trao đổi giữa các máy Telex thông qua các máy Telex đầu cuối đấu vào trung tâm chuyển mạch. Máy Telex là thiết bị đầu cuối đặt tại nhà thuê bao, hoặc các cơ sở bưu điện được đấu vào tổng đài trong mạng Telex.
Dịch vụ điện báo
Là sự truyền đưa tin tức bằng chữ từ nơi này đến nơi khác thông qua hệ thống thiết bị kỹ thuật viễn thông của bưu điện. Điện báo gồm các loại sau: điện báo trong nước, điện báo quốc tế, điện báo đến có nhiều địa chỉ, điện báo có cước trả lời, điện chúc mừng, điện chia buồn.
Dịch vụ Fax (Facsimile)
Là dịch vụ dùng để truyền đưa nguyên bản các tin tức có sẵn trên giấy như sơ đồ, biểu mẫu, hình ảnh, chữ viết,... qua mạng Viễn thông trong nước hoặc quốc tế. Tuỳ theo đặc điểm sử dụng Fax bao gồm Fax công cộng và Fax thuê bao.
b) Dịch vụ Viễn thông di động (nội vùng, toàn quốc)
Dịch vụ thông tin di động mặt đất;
Dịch vụ điện thoại trung kế vô tuyến;
Dịch vụ nhắn tin;
c) Dịch vụ Viễn thông cố định vệ tinh;
d) Dịch vụ Viễn thông di động vệ tinh;
đ) Dịch vụ vô tuyến điện hàng hải;
e) Các dịch vụ cơ bản khác do Bộ Bưu chính, Viễn thông quy định
2. Dịch vụ cộng thêm là dịch vụ được cung cấp thêm đồng thời cùng với dịch vụ cơ bản, làm phong phú và hoàn thiện thêm dịch vụ cơ bản, trên cơ sở các tính năng kỹ thuật của thiết bị hoặc khả năng phục vụ của Doanh nghiệp Viễn thông. Doanh nghiệp Viễn thông quy định và công bố các dịch vụ cộng thêm do mình cung cấp.
3. Dịch vụ giá trị gia tăng là dịch vụ làm tăng thêm giá trị sử dụng thông tin của người sử dụng bằng cách hoàn thiện loại hình hoặc nội dung thông tin, hoặc cung cấp khả năng lưu trữ, khôi phục thông tin đó trên cơ sở sử dụng mạng Viễn thông hoặc Internet. Dịch vụ giá trị gia tăng bao gồm:
a) Dịch vụ thư điện tử (e-mail)
b) Dịch vụt thư thoại (voice mail)
c) Dịch vụ truy cập dữ liệu và thông tin trên mạng
d) Dịch vụ trao đổi dữ liệu điện tử
e) Dịch vụ chuyển đổi mã và giao thức
g) Dịch vụ xử lý dữ liệu và thông tin trên mạng
h) Các dịch vụ giá trị gia tăng khác do Bộ Bưu Chính, Viễn thông quy định.
4. Dịch vụ Internet bao gồm:
a) Dịch vụ kết nối Internet
b) Dịch vụ truy cập Internet trong Viễn thông
c) Dịch vụ ứng dụng Internet trong Viễn thông
2.1.2. Đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của dịch vụ Viễn thông
Viễn thông là ngành kết cấu hạ tầng của nền kinh tế đồng thời cũng là ngành sản xuất, dịch vụ. Sản phẩm của Viễn thông không phải là sản phẩm vật chất mới, không phải là hàng hoá cụ thể mà là hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức từ người gửi đến người nhận và được thể hiện dưới dạng dịch vụ do đó dịch vụ Viễn thông có những đặc điểm kinh tế – kỹ thuật sau:
2.1.2.1. Quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm
Trong hoạt động của Viễn thông, quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến các sản phẩm Viễn thông không thể thu hồi lại được và không thể thay thế các dịch vụ vi phạm chỉ tiêu chất lượng. Toàn bộ sản phẩm Viễn thông có chất lượng đảm bảo hay không đảm bảo sẽ được chuyển đến cho người sử dụng. Do tính chất không tách rời được quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ Viễn thông dẫn đến có những yêu cầu cao hơn đối với tính nguyên vẹn của tin tức trong hệ thống liên lạc, độ tin cậy của tin tức được truyền đưa.
Do đặc điểm này của dịch vụ Viễn thông dẫn đến để kích thích và thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng, mạng lưới thông tin cần được phát triển rộng khắp, đảm bảo sự tiên lợi nhất cho khách hàng trong việc truyền đưa tin tức.
2.1.2.2. Khối lượng dịch vụ Viễn thông cung cấp phụ thuộc trực tiếp vào mức độ và đặc tính của nhu cầu sử dụng
Dịch vụ Viễn thông được tạo ra trong việc thoả mãn các nhu cầu của khách hàng khi truyền đưa tin tức. Trong khi đó, nhu cầu truyền đưa tin tức của khách hàng lại rất đa dạng, phong phú, xuất hiện không đồng đều theo thời gian (giờ trong ngày, ngày trong tuần, tháng và mùa trong năm) cũng như theo không gian. Tính không đồng đều về thời gian và không gian của nhu cầu sử dụng, tức là tải trọng không đồng đều trong các đơn vị Viễn thông buộc các đơn vị này phải có những biện pháp để san bằng trọng tải vào những giờ cao điểm bằng cách giảm giá cước cho khách hàng sử dụng ngoài giờ cao điểm để sử dụng tốt hơn năng lực mạng lưới.
2.1.2.3. Khả năng thay thế của các dịch vụ Viễn thông
Các dịch vụ Viễn thông có khả năng thay thế lẫn nhau. Đặc biệt trong thời gian qua nhờ đạt được nhứng thành tựu khoa học kỹ thuật to lớn trong lĩnh vực công nghệ thông tin, các công nghệ Viễn thông liên tục được đổi mới và cho ra đời hàng loạt các dịch vụ thông tin mới. Nhiều dịch vụ mới này có khả năng thay thế các dịch vụ cũ bởi chúng có những tính năng mới, có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên của khách hàng. Bên cạnh đó khách hàng cũng có xu hướng muốn tiếp cận các dịch vụ mới.
2.12.4. Tính vô hình của dịch vụ Viễn thông
Dịch vụ Viễn thông mang tính vô hình, nó không phải là một sản phẩm vật chất cụ thể. Đây cũng là đặc điểm cơ bản của các loại hình dịch vụ. Tính vô hình của dịch vụ gây nhiều khó khăn cho người quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ, hoạt động Marketing dịch vụ và việc nhận biết dịch vụ. Để nhận biết được dịch vụ thông thường phải tìm hiểu qua những đầu mối vật chất trong môi trường hoạt động dịch vụ như các thiết bị Viễn thông, nơi cung cấp dịch vụ, người cung cấp dịch vụ... Cũng do tính vô hình của dịch vụ, trong kết cấu chi phí của dịch vụ Viễn thông không có phần chi phí nguyên vật liệu chính.
2.1.2.5. Quá trình sản xuất ra dịch vụ viễn thông mang tính dây truyền
Để tạo ra một dịch vụ Viễn thông hoàn chỉnh thường không phải một mà là hai hay nhiều đơn vị Viễn thông cùng tham gia vào quá trình truyền đưa tin tức. Các đơn vị này được bố trí ở các làng, xã, quận, huyện, tỉnh, thành phố hoặc các quốc gia khác nhau.
Do đó để đảm bảo chất lượng dịch vụ các đơn vị Viễn thông cần phải có những quy định thống nhất về thể lệ, thủ tục khai thác dịch vụ, quy trình bảo dưỡng, khai thác các thiết bị thông tin, đầu tư phát triển mạng một cách đồng bộ. Ngoài ra do có sự tham gia của nhiều đơn vị Viễn thông vào một quá trình truyền đưa tin tức nên cần thiết phải có sự phân chia lại doanh thu giữa các đơn vị đó.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển ngành dịch vụ Viễn thông
Trong các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của Viễn thông, quan trọng phải kể đến các yếu tố là: môi trường chính trị, hệ thống chính sách, pháp luật; sự phát triển kinh tế; khoa học công nghệ và yếu tố con người.
2.2.1. Môi trường chính trị, hệ thống luật pháp.
Mạng lưới Viễn thông là huyết mạch thông tin của đất nước. Hệ thống chính trị trong và ngoài nước ảnh hưởng tới sự phát triển của Viễn thông.
Các thiết bị Viễn thông sử dụng công nghệ cao, giá thành lớn, các nước tư bản có chính sách cấm không cho xuất khẩu các thiết bị sang các quốc gia có xu hướng chính trị đối lập. Trong một thời gian dài trước đây, các nước XHCN hoàn toàn cách biệt với công nghệ Viễn thông phương Tây.
Mạng lưới mỗi quốc gia khi hoà vào mạng lưới toàn cầu phải có những thoả thuận giữa các nước trong khuôn khổ của Liên minh Viễn thông thế giới. Quan hệ chính trị đối lập cũng là nguyên nhân dẫn tới một số chính phủ một số nước không cho phép cơ quan bưu điện của mình được mở liên lạc trực tiếp với quốc gia nào đó. Liên lạc trực tiếp Mỹ – Việt Nam chỉ được chính phủ Mỹ cho mở từ tháng 11/1992.
Chính sách ưu tiên phát triển viễn thông của chính phủ là điều kiện quan trọng nhất nhằm đẩy mạnh phát triển Viễn thông ở các nước. Theo thống kế của ITU, nước nào dành đầu tư cho Viễn thông dưới 2% tổng đầu tư thì nước đó chưa phát triển và Viễn thông không đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. ITU cũng chia các nước thành 5 nhóm theo tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người và tỷ lệ đầu tư vào Viễn thông so với tổng đầu tư.
Bảng thể hiện mối quan hệ giữa thu nhập và đầu tư cho Viễn thông
Nhóm
GDP/người (USD)
ĐTVT/GDP (%)
ĐTVT/TĐT (%)
1
60-311
0.25
0.75
2
339-1153
0.39
1.96
3
1163-9816
0.68
2.72
4
4061-8809
0.74
3.18
5
9467-17055
0.62
3.15
(Nguồn: ITU – Liên minh Viễn thông quốc tế)
Thống kế trên cho thấy mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa thu nhập và tỷ lệ đầu tư cho Viễn thông so với tổng sản phẩm quốc nội và tổng đầu tư, trừ nhóm cuối cùng là các nước phát triển do thị trường đã có phần bão hoà.
Chính sách phát triển Viễn thông mở cửa hay khép kín ảnh hưởng trực tiếp tới tính cạnh tranh trong thị trường Viễn thông và sự tham gia của các đối tác nước ngoài trong thị trường này. Xu hướng của thời đại ngày nay là mở cửa có giới hạn để vừa có thể tận dụng được nguồn lực bên ngoài, kích thích cạnh tranh vừa có thể đảm bảo lợi ích cho đất nước, bảo vệ an ninh quốc phòng.
2.2.2. Sự phát triển của nền kinh tế
Sự phát triển của nền kinh tế nói chung là nguyên nhân, động lực của việc phát triển Viễn thông. Kinh tế càng phát triển thì Viễn thông càng được chú trọng đầu tư hơn. Loại hình dịch vụ và cường độ sử dụng các dịch vụ hoàn toàn phụ thuộc vào nền kinh tế, vào thu nhập của người dân. ở các nước nghèo, người dân không thể hàng ngày gọi điện hỏi thăm người quen ở xa trong nước hay nước ngoài kể cả khi có điện thoại. Hơn nữa, khi nền kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy sự ra đời của nhiều loại hình dịch vụ. Lượng thông tin trao đổi không chỉ có tiếng nói mà bao gồm tổng hợp cả tiếng nói, âm thanh, hình ảnh, số liệu với dung lượng lớn. Sự phát triển của các công ty đa quốc gia đòi hỏi xây dựng các mạng truyền số liệu tốc độ lớn, độ an toàn cao nối liền các chi nhánh của các công ty trên khắp các quốc gia để có thể quản lý điều hành.
2.2.3. Sự tiến bộ của khoa học công nghệ
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm thay đổi tận gốc công nghệ Viễn thông. Các thiết bị kỹ thuật số cho phép thay đổi quan niệm về mạng Viễn thông, dịch vụ Viễn thông và các tác nhân tham gia vào quá trình phát triển Viễn thông. Công nghệ quang học cho phép xây dựng các tuyến sợi cáp quang có khả năng truyền hàng trăm ngàn cuộc đàm thoại trên một đôi sợi thuỷ tinh nhỏ như hai sợi tóc. Công nghệ bán dẫn, tin học và các tổng đài kỹ thuật số cho phép truyền các loại tín hiệu âm thanh, số liệu, văn bản, hình ảnh trên mạng lưới đa dịch vụ và đa dịch vụ băng rộng. Các tổng đài có khả năng xử lý hàng trăm ngàn thuê bao với nhiều tính năng khác nhau phục vụ nhu cầu ngày càng đa dạng và khắt khe của khách hàng. Công nghệ vũ trụ cho phép chế tạo các vệ tinh quỹ đạo động thực hiện truyền đưa thông tin toàn cầu. Rõ ràng rằng, quốc gia nào có nền khoa học công nghệ càng hiện đại thì càng có điều kiện phát triển viễn thông.
2.2.4. Yếu tố con người
Viễn thông là một ngành đặc biệt sử dụng nhiều lao động chất xám của con người. Lực lượng lao động trong ngành Viễn thông phần lớn phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao mới có thể lắp đặt và vận hành các thiết bị máy móc, tận dụng tối đa năng lực hoạt động của mạng lưới Viễn thông.
Ngoài ra, người dân cũng chính là đối tượng phục vụ của các dịch vụ Viễn thông. Trong đất nước có nền dân trí cao thì lưu lượng sử dụng các dịch vụ Viễn thông cũng lớn hơn, đòi hỏi chất lượng dịch vụ cao và đa dạng các loại hình. Các nhà đầu tư sẽ căn cứ vào dân số, vào trình độ v._.à năng lực của người dân để đầu tư cho Viễn thông sao cho hợp lý. Như vậy yếu tố con người vừa là chủ thể tạo nên sự phát triển cho viễn thông vừa là động lực cho ngành này tiến bộ hơn.
2.3. Vai trò của dịch vụ Viễn thông trong nền kinh tế quốc dân
Viễn thông được ví như "xương sống" của cơ sở hạ tầng một nước. Không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung, Viễn thông cũng không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3.1.Xét trên phạm vi quốc gia
Viễn thông làm tăng thu nhập quốc dân
Viễn thông là ngành kinh tế kỹ thuật thuộc cơ sở hạ tầng của một quốc gia, sự phát triển của ngành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác tăng trưởng và phát triển, từ đó tăng thu nhập quốc dân.
Theo báo cáo của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) hàng năm các dịch vụ Viễn thông đóng góp ít nhất 1,5% GDP của mỗi nước. Trung bình đầu tư 1 USD vào Viễn thông sẽ sinh ra 3 USD trong các khu vực kinh tế khác, đầu tư lắp đặt một đường dây điện thoại sẽ thu được lợi nhuận khoảng 40%. Theo báo cáo của tổ chức Viễn thông châu á - Thái Bình Dương (APT), qua thống kê 30 nước thì cứ tăng mật độ máy điện thoại/100 dân lên 1 máy thì sau 7 năm, tổng thu nhập bình quân đầu người do nhân tố Viễn thông tác động có thể tăng lên 3%.
Bảng thể hiện sự đóng góp của Viễn thông cho GDP
Tên nước
Tổng doanh thu(triệu USD)
Doanh thu Viễn thông/đầu người
Doanh thu/1 máy(USD/máy)
% đóng góp cho GDP
A. Các nước phát triển
1
USA
246,362.0
911.3
1,378.0
2.9
2
Canada
16,919.4
558.4
881.0
2.7
3
Anh
36,990.9
627.5
1,128.0
2.5
4
Đức
50,008.5
609.6
1,075.0
2.2
5
Nhật
84,027.2
664.3
1,322.0
2.1
6
Italia
26,990.9
451.4
1,002.0
2.0
7
Pháp
27,403.1
459.2
806.0
1.9
B. Các nước đang phát triển khu vực Châu á
1
Nam Triều Tiên
10,703.3
230.50
533.00
3.10
2
Đài Loan
7,032.5
320.70
612.00
2.40
3
Trung Quốc
20,533.8
16.40
235.00
1.90
4
ấn Độ
5,651.1
5.30
284.00
1.20
C. Các nước ASEAN
1
Singapore
2,915.9
921.7
1,640.0
3.5
2
Việt Nam
826.0
10.8
520.0
3.5
3
Malaysia
2,492.1
112.3
568.0
3.3
4
Philippines
1,208.7
16.7
582.0
1.5
5
Thailand
1,621.8
26.9
322.0
1.4
6
Brunei Daussalam
58.7
186.5
756.0
1.3
7
Lao PDR
217.0
4.2
764.0
1.3
8
Indonesia
2,531.1
12.6
508.0
1.2
9
Campuchia
222.0
2.4
268.0
0.7
10
Myanmar
519.0
11.7
2,264.0
0.3
(Nguồn: Liên minh Viễn thông quốc tế ITU)
Qua bảng ta thấy, đa số các nước đều có tỷ lệ đóng góp của Viễn thông cho GDP lớn hớn 2%. Trên thực tế, Viễn thông còn hỗ trợ các ngành khác phát triển, tức là gián tiếp đóng góp nhiều hơn nữa cho thu nhập quốc dân. ở Việt Nam Viễn thông làm nên 3,5% tổng sản phẩm quốc nội. Khi so sánh với các nước trên khu vực và thế giới, thì tỷ lệ này đang chiếm vị trí đứng đầu. Điều này khẳng định vai trò trung tâm của Viễn thông trong nền kinh tế Việt Nam.
Phát triển Viễn thông nâng cao trình độ khoa học công nghệ cho đất nước
Một đặc điểm của ngành Viễn thông là luôn phải cập nhập những công nghệ mới, trang thiết bị hiện đại. Hệ thống Viễn thông của một quốc gia phản ánh khá rõ trình độ khoa học công nghệ của quốc gia đó. Vì vậy đầu tư cho Viễn thông đồng thời là quá trình phát triển khoa học công nghệ cho đất nước. Bên cạnh đó, Viễn thông tạo điều kiện thúc đẩy các ngành công nghệ cao khác như: tin học, phát thanh truyền hình, điện tử... Đầu tư nước ngoài vào ngành song song với quá trình chuyển giao các công nghệ tiên tiến nhất.
Viễn thông là công cụ đắc lực cho các nhà quản lý Nhà nước, các nhà lãnh đạo, các cấp chính quyền địa phương thực hiện chức năng quản lý của mình, bảo đảm an ninh quốc phòng...
Viễn thông góp phần nâng cao trình độ dân trí và văn minh xã hội. Người dân có điều kiện tiếp xúc với những thông tin kiến thức ở khắp mọi nơi thông qua các thiết bị và dịch vụ Viễn thông khác nhau, nhờ đó đời sống tinh thần phong phú hơn.
2.3.2. Xét trong doanh nghiệp
Tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp
Dịch vụ Viễn thông giúp các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất. Trước hết là tiết kiệm chi phí đi lại, chi phí lưu kho hàng hoá. Đây là các khoản chi phí rất tốn kém ở nhiều doanh nghiệp. Ngoài ra Viễn thông còn góp phần tiết kiệm chi phí quản lý, tiết kiệm thời gian trong quá trình làm việc. Hiệu quả công việc tăng lên rõ rệt nếu hệ thống Viễn thông phát triển.
Tăng khả năng tiếp xúc với khách hàng trong và ngoài nước, tăng giao dịch thương mại trong quan hệ quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Một cuộc điều tra về tầm quan trọng của các dịch vụ Viễn thông trong các doanh nghiệp thuộc các ngành, lĩnh vực kinh tế khác nhau đã cho kết quả như sau:
Dịch vụ Viễn thông
Tất cả các doanh nghiệp
Ngân hàng
Dịch vụ
Sản xuất
Điện thoại cố định
1.24
1.10
1.22
1.08
Truy cập Internet
1.48
1.67
1.50
1.50
Điện thoại di động
1.52
1.78
1.45
1.23
Truy cập Internet ADSL
1.87
2.00
1.86
3.09
Thuê kênh riêng
3.39
2.75
3.2
3.78
Truyền dữ liệu
3.44
2.22
3.05
4.00
Gọi điện qua Internet
3.95
3.89
3.84
4.33
Frame relay
4.14
3.25
4.56
3.90
WiFi
4.15
4.71
4.31
4.00
Dịch vụ 1800
4.16
4.17
4.24
3.50
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp về Viễn thông Việt Nam của VNCI)
Con số trong bảng dữ liệu trên thể hiện tầm quan trọng của từng dịch vụ đối với từng ngành theo thứ tự là:
1 = Rất quan trọng (sử dụng rất thường xuyên )
2 = Quan trọng (sử dụng tương đối thường xuyên)
3 = Bình thường (sử dụng với mức độ bình thường)
4 = Kém quan trọng (ít khi sử dụng)
5 = Không quan trọng (gần như không bao giờ dùng)
Qua bảng trên ta thấy, các dịch vụ viễn thông đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các dịch vụ được sử dụng nhiều hơn cả vẫn là các dịch vụ truyền thống như: điện thoại cố định, điện thoại di dộng và Internet. Các dịch vụ hiện đại với chức năng đa dạng hơn như Frame relay, WiFi, 1800...thì ít được chú ý.
Khi được hỏi về lý do, các doanh nghiệp đưa ra ba nguyên nhân chính là:
- Một số dịch vụ chưa được cung cấp rộng rãi.
- Chưa biết cách sử dụng một số dịch vụ sao cho có hiệu quả.
- Giá của các dịch vụ còn cao.
Trong ba nguyên nhân trên, nổi bật nhất là nguyên nhân do giá. Chi phí cho viễn thông trung bình chiếm hơn 5% tổng chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Đối với các ngân hàng hay doanh nghiệp khác thuộc lĩnh vực tài chính thì tỷ lệ này cao hơn nhiều, giao động từ 5%-10%. ở các doanh nghiệp sản xuất thì con số này dưới 5%. Biểu đồ sau sẽ thể hiện rõ hơn.
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp về viễn thông Việt Nam của VNCI)
Ghi chú:
1
Chi phí cho viễn thông/ Tổng chi phí < 5%
2
5% < Chí phí cho viễn thông/ Tổng chi phí < 10%
3
10% < Chí phí cho viễn thông/ Tổng chi phí < 15%
4
Chi phí cho viễn thông/ Tổng chi phí > 15%
Các doanh nghiệp được hỏi về tác động có thể xảy ra đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của họ nếu dịch vụ Viễn thông được cải thiện đáng kể (nghĩa là họ sẽ nhận được các điều kiện tốt nhất về chất lượng, giá cả và dịch vụ sẵn có). Kết quả điều tra cho thấy sẽ có sự gia tăng đáng kể về doanh thu, năng suất lao động, lợi nhuận và tốc độ đổi mới công nghệ.
Tác động của việc cải thiện dịch vụ đối với doanh nghiệp
Tất cả các doanh nghiệp
Ngân hàng
Dịch vụ
Sản xuất
Tăng doanh thu
6.0%
6.5%
4.0%
5.5%
Tăng năng suất lao động
7.5%
6.0%
7.0%
7.0%
Giảm chi phí
4.0%
4.0%
4.0%
4.0%
Tăng lợi nhuận
6.0%
6.0%
5.0%
4.0%
Tốc độ đổi mới công nghệ
7.5%
8.5%
5.5%
6.5%
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp về Viễn thông Việt Nam của VNCI)
Tóm lại, xét trên phạm vi quốc gia hay chỉ riêng với doanh nghiệp thì Viễn thông cũng khẳng định vai trò nòng cốt của mình. Do đó tất yếu phải đầu tư phát triển Viễn thông.
2.4. Sự cần thiết phải thu hút vốn FDI trong việc phát triển dịch vụ Viễn thông
2.4.1. Do nhu cầu về vốn
Viễn thông đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng do đó tất yếu phải đầu tư vào ngành này. Tuy nhiên đặc điểm của viễn thông là không chỉ đầu tư ở một khu vực nhất định mà phải đầu tư rộng khắp trên quy mô quốc gia, hơn nữa chi phí đầu tư xây dựng, lắp đặt, vận hành, duy trì, bảo dưỡng trong viễn thông đều lớn. Bên cạnh đó, yêu cầu phải đổi mới công nghệ trong ngành này là rất nhanh chóng, tức là đầu tư rồi lại tái đầu tư bổ sung. Do những nguyên nhân chủ yếu trên mà Viễn thông đặc biệt cần nhiều vốn đầu tư. Đồ thị sau sẽ phản ánh mức đầu tư của các quốc gia vào lĩnh vực Viễn thông.
Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực viễn thông của các nước châu á Thái Bình Dương các năm 1993-2001
Nguồn: FDI trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông ở Châu á - Nghiên cứu chuyên đề chính sách cấp cao về các dịch vụ có FDI và tính cạnh tranh trong Châu á của Trường đại học Ritsumekan, Kyoto ngày mùng 2 đến mùng 4 tháng 3 năm 2004.
Nhìn vào đồ thị trên có thể dễ dàng nhận ra Việt Nam đang ở nhóm có mức đầu tư thấp nhất. Năm 1996, đầu tư của Nhật Bản đạt kỷ lục là 37500 triệu USD, sau đó giảm xuống nhưng vẫn ở mức rất cao trong khu vực, tới 25000 triệu USD. Năm 2001,Trung Quốc đầu tư 32500 triệu USD, Hàn Quốc 8000 triệu USD, Singapore 2500 triệu USD, Thái Lan 1300 triệu...Trong khi đó, tổng vốn đầu tư cho Viễn thông của Việt Nam năm 2001 chỉ đạt 400 triệu USD.Việt Nam đang thiếu một nguồn vốn lớn để đầu tư cho lĩnh vực này.
Giai đoạn 2005-2010, vốn đầu tư dự tính cần có cho Viễn thông là 75 nghìn tỷ đồng (tương đương khoảng 5000 triệu USD). Tuy nhiên, vì tất cả các doanh nghiệp Viễn thông Việt Nam đến nay đều chưa được cổ phần hoá và quá trình cổ phần hoá nếu có thực hiện thì cũng mất nhiều thời gian, do đó vốn đầu tư trong nước chủ yếu là từ ngân sách. Nhưng nếu chỉ dựa vào vốn trong nước thì chắc chắn chúng ta không thể đủ vốn đầu tư cho Viễn thông, nhất là khi đất nước còn quá nhiều khoản chi khác phải dựa vào ngân sách. Vì vậy, một trong nhứng cách thức huy động vốn có hiệu quả là khuyến khích sự đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. FDI sẽ là nguồn vốn vô cùng quan trọng và không thể thiếu cho phát triển Viễn thông Việt Nam.
2.4.2. Do yêu cầu về công nghệ
Viễn thông là một ngành sử dụng công nghệ hiện đại và luôn đòi hỏi phải cập nhật những công nghệ mới. Tuy nhiên không phải quốc gia nào cũng có đủ khả năng tự nghiên cứu khoa học, tự sáng chế và áp dụng những công nghệ tân tiến nhất. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, các nước nghèo và lạc hậu phải tận dụng con đường chuyển giao công nghệ để hiện đại hoá đất nước. Một phương thức thực hiện chuyển giao công nghệ hiệu quả nhất là thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thu hút đầu tư nước ngoài vào Viễn thông sẽ là cách duy nhất để các nước lạc hậu tiếp nhận các công nghệ mới mà trong nước không có.
Là một quốc gia nghèo và lạc hậu, nền khoa học công nghệ của Việt Nam còn thua kém nhiều so với thế giới. Theo xếp loại của Worldbank thì chỉ số công nghệ của Việt Nam chỉ đứng thứ 80 trên tổng số 102 nước được điều tra. Do đó, để xây dựng và phát triển một ngành dịch vụ Viễn thông hiện đại nhất thiết Việt Nam phải cần sự đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, cái lợi của Việt Nam không chỉ là tiếp nhận được máy móc, trang thiết bị tối tân mà còn là học hỏi kinh nghiệm quản lý trong kinh doanh Viễn thông, luyện tập kỹ năng vận hành bảo dưỡng những công nghệ hiện đại.
2.4.3. Do yêu cầu phải nâng cao tính cạnh tranh trong thị trường Viễn thông
Viễn thông là một ngành có lợi nhuận cao, hơn nữa nó còn liên quan đến vấn đề an ninh quốc phòng nên chính phủ một số nước muốn duy trì sự độc quyền trong khai thác Viễn thông cho các doanh nghiệp trong nước. Chính điều này dẫn đến sự ỷ lại của các doanh nghiệp trong nước vào sự bảo hộ của chính phủ. Doanh nghiệp trong nước chậm cải tiến công nghệ, chất lượng dịch vụ thấp mà giá thành cao. Cho phép doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường Viễn thông sẽ bắt buộc các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh thực sự.
Trong bảng xếp hạng về tính cạnh tranh của lĩnh vực viễn thông, Việt Nam đứng thứ 85 trong số 102 nước. Doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước chiếm vị trí độc tôn trên thị trường Viễn thông Việt Nam, chiếm hơn 95% thị phần. Thực tế này đã và đang tạo ra nhiều cản trở cho sự phát triển ngành dịch vụ Viễn thông. Do đó thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Viễn thông là hết sức cần thiết để nâng cao tính cạnh tranh, giảm bớt sự độc quyền. Trước tiềm lực về vốn, công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp Viễn thông trong nước sẽ phải tự tìm con đuờng đi cho mình, không thể chỉ dựa vào nhà nước.
2.4.4. Do yêu cầu phải mở cửa nền kinh tế
Xu hướng thế giới ngày nay là mở cửa nền kinh tế, là hợp tác, là toàn cầu hoá. Một quốc gia đi ngược lại với xu hướng này đồng nghĩa quốc gia đó tự cô lập mình và không thể phát triển đi lên. Có một số ngành trước đây luôn được xem là độc quyền của một nước, không cho phép sự có mặt của nước ngoài, thì nay cũng dần mở cửa đón nhận đầu tư nước ngoài. Viễn thông là một ngành như thế. Những cam kết về Viễn thông của các nước khi tham gia vào các tổ chức quốc tế thể hiện rất rõ điều này. Ví dụ điển hình là để trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tất cả các quốc gia đều phải đàm phán và chấp thuận các vấn đề liên quan lượng vốn đầu tư, hình thức, lĩnh vực, phạm vi đầu tư... của các nhà đầu tư nước ngoài khi muốn đầu tư vào Viễn thông.
2.4.5. Xu hướng hợp tác trong viễn thông của toàn cầu
Liên minh Viễn thông thế giới gọi tắt theo tiếng Anh là ITU (International Telecommunication Union) là tổ chức của Liên hợp quốc có lịch sử từ năm 1865 khi các nước Châu âu thiết lập tổ chức Liên minh điện báo thế giới hiện nay gồm 183 quốc gia thành viên khắp các châu lục. Mục đích ra đời của tổ chức này là phối hợp quan hệ giữa các cơ quan Viễn thông các nước để thiết lập các cuộc liên lạc với nhau. Điều đó phần nào nói lên tính quốc tế của Viễn thông. Vai trò của Viễn thông trong nền kinh tế càng trở nên quan trọng, nền kinh tế thế giới vận động theo hướng toàn cầu hoá đã tác động sâu sắc tới Viễn thông của mỗi quốc gia nói riêng và đối với Viễn thông toàn cầu nói chung. Trước đây, chức năng chủ yếu của ITU là xây dựng, thống nhất giữa các nước thành viên các quy trình khai thác, đầu mối liên lạc quốc tế, ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như những khuyến nghị trong xây dựng và khai thác mạng lưới Viễn thông. Ngày nay, để theo kịp với xu hướng toàn cầu hoá, vai trò của ITU cũng thay đổi. Cuối năm 1992, tại Hội nghị toàn quyền bổ sung Giơnevơ, ITU đã thông qua hiến chương và điều lệ mới với động cơ thực hiện vai trò “chất xúc tác” trong việc điều phối phát triển Viễn thông trên toàn thế giới.
Bổ trợ cho tổ chức quốc tế này là các tổ chức liên chính phủ về Viễn thông của các khu vực như Tổ chức Viễn thông châu á Thái Bình Dương APT (Asia Pacific Telecommunication). Tổ chức này được thành lập từ năm 1979 với chức năng hỗ trợ các nước thành viên trong việc phát triển viễn thông ở nước mình đồng thời thúc đẩy hợp tác về kỹ thuật, phát triển nhân lực và phát triển mạng lưới Viễn thông trong khu vực.
Như vậy, xu hướng của Viễn thông thế giới là hợp tác khăng khít với nhau. Sự gắn kết trong Viễn thông không chỉ ở chiều rộng, mà còn ở chiều sâu, không chỉ trong khu vực mà là toàn thế giới. Một quốc gia khó thể tự phát triển Viễn thông của mình nếu nó nó đứng ngoài các liên minh, liên kết với quốc gia khác. Do đó, mở cửa đón nhận sự đầu tư nước ngoài để cùng hợp tác, cùng phát triển Viễn thông là vô cùng cần thiết.
2.5. Kinh nghiệm thế giới về thu hút FDI vào lĩnh vực Viễn thông
Bởi vì Viễn thông là ngành có lợi nhuận cao, lại liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia nên ban đầu đa số các Chính phủ đều muốn hoàn toàn độc quyền trong ngành này và không ưa thích sự có mặt của nước ngoài. Trước những năm 80, hầu hết các công ty kinh doanh khai thác Viễn thông đều hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước. Nhưng cùng với quá trình phát triển kinh tế và hợp tác quốc tế, khoảng giữa thập kỷ 80, liên tiếp các nước bắt đầu thực hiện cải tổ Viễn thông. Nhà nước không còn là chủ nhân duy nhất mà đã dần xuất hiện các tư nhân, các nhà đầu tư nước ngoài cũng tham gia vào thị trường. FDI dần trở thành một nguồn vốn không thể thiếu cho phát triển Viễn thông ở nhiều nước. Những chính sách hạn chế đầu tư nước ngoài vào Viễn thông ngày càng giảm bớt, thay vào đó là sự cởi mở và đón nhận. Lấy ví dụ khu vực Châu á, ta có bảng sau:
Bảng thể hiện sự mở cửa của các quốc gia đối với Viễn thông
Quốc gia
Hạn chế FDI
Chú thích
Australia
Hoàn toàn không
FDI có thể chiếm tới 35% trong số 49% cổ phần của Telstra
Trung Quốc
49%
FDI có thể lên tới 50% trong lĩnh vực dịch vụ giá trị gia tăng
Hồng Kông, Trung Quốc
Hoàn toàn không
Hoàn thành tự do hoá từ năm 2003
ấn Độ
49%
Mọi thị trường đều mở
Nhật Bản
Hoàn toàn không
FDI chiếm 33% của Tập đoàn Viễn thông Nhật Bản (NTT)
Hàn Quốc
49%
Nhà đầu tư nước ngoài có thể chiếm cổ phần lớn hơn trong Công ty Viễn thông Hàn Quốc KT
Malaysia
30%
Cho phép FDI>50% nhưng phải giảm sau 3 năm
Philippines
40%
Mở cửa mọi thị trường
Singapore
49%
49% áp dụng cho việc cung cấp dịch vụ dựa trên cở sở hạ tầng mạng đã có
Đài Loan
49%
Chuẩn bị tự do hoá 100% đầu tư trực tiếp nước ngoài
Indonesia
49%
Các dịch vụ địa phương được cung cấp bởi KOS
(Nguồn: FDI in Telecommunication Services in Asia trên trang web:
ở Châu á, chỉ còn một số ít các nước vẫn duy trì sự độc quyền của công ty thuộc vốn sở hữu nhà nước, trong đó có Việt Nam.
Quốc gia
Hạn chế FDI
Chú thích
Papua New Guinea
Hạn chế do có sự độc quyền của Công ty thuộc vốn sở hữu nhà nước
Đang trong quá trình xem xét cho phép FDI vào Viễn thông
Lào
Hạn chế do có sự độc quyền của Công ty thuộc vốn sở hữu nhà nước
Đầu tư nước ngoài qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh được khuyến khích
Myarmar
Hạn chế do có sự độc quyền của Công ty thuộc vốn sở hữu nhà nước
FDI được đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ giá trị gia tăng
Brunei Darussalam
Hạn chế do có sự độc quyền của Công ty thuộc vốn sở hữu nhà nước
FDI được phép đầu tư vào các dịch vụ bán lại
Việt Nam
Hạn chế do có sự độc quyền của Công ty thuộc vốn sở hữu nhà nước
FDI được cho phép dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
(Nguồn: FDI in Telecommunication Services in Asia trên trang web:
Như vậy, kinh nghiệm chung của các nước về thu hút FDI trong viễn thông đó là xoá bỏ sự độc quyền hoàn toàn của công ty thuộc sở hữu nhà nước, tạo cạnh tranh trên thị trường, tháo rỡ bớt rào cản và mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Hình thức đầu tư có thể là mua cổ phần của các công ty hoặc không chỉ dừng ở mức hợp đồng hợp tác kinh doanh mà có thể thành lập liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài và công ty liên doanh trong nước. Với những chính sách thích hợp trong việc thu hút FDI vào Viễn thông, đa số các nước đều đạt được những thành công nhất định. Để minh chứng cho điều này, ta quan sát bảng sau:
Bảng thể hiện FDI trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông các nước năm 2003
(đơn vị: Triệu USD)
Một số nước Châu á
Một số nước thuộc ASEAN
Trung Quốc
120000
Indonesia
1000
Nhật Bản
10000
Philippin
700
Hàn Quốc
4000
Singapore
1000
Australia
2000
Thái Lan
600
Đài Loan
2000
Malaysia
550
ấn Độ
1500
Việt Nam
250
(Nguồn: FDI in Telecommunication Services in Asia trên trang
web:
Nhìn vào bảng trên, ta thấy lượng FDI trong Viễn thông của Việt Nam còn quá ít ỏi so với các nước. Việc học tập kinh nghiệm của các nước trong vấn đề này là rất cần thiết. Sau đây, xin được nói rõ hơn về giải pháp thu hút FDI vào phát triển Viễn thông của hai quốc gia điển hình thuộc hai nhóm trình bày trong bảng.
Trung Quốc:
Chính sách thu hút FDI vào Viễn thông thể hiện rõ nhất trong cam kết của nước này với WTO.
Trung Quốc đã cam kết cho nước ngoài hoạt động trong một lĩnh vực trước đây không được phép. Hơn nữa, đây là lĩnh vực do Công ty Viễn thông Trung Quốc chi phối cho tới năm 2001. Trung Quốc cam kết tuân thủ văn bản tham chiếu về khuôn khổ pháp lý với Viễn thông (WTO 1996). Mục tiêu của văn bản này là đảm bảo môi trường cạnh tranh thuận lợi cho sự liên kết giữa hệ thống và duy trì các điều kiện hợp lý. Văn bản này cũng đòi hỏi thành lập cơ quan điều hành độc lập với bên cung cấp dịch vụ và thiết lập các tiêu chuẩn về gia nhập thị trường và phân bổ các hàng hoá khan hiếm như điện thoại di động.
- Trung Quốc thực hiện các nguyên tắc điều tiết theo hướng ủng hộ cạnh tranh đã được nêu trong Hiệp định Viễn thông cơ bản (bao gồm quyền kết nối và thẩm quyền điều tiết độc lập) và sẽ cho phép các nhà cung cấp nước ngoài sử dụng bất cứ công nghệ nào mà họ chọ để cung cấp dịch vụ Viễn thông.
- Trung Quốc chia giai đoạn giảm dần các hạn chế địa lý cho tất cả các dịch vụ truyền tín hiệu (Paging) và giá trị gia tăng trong vòng 2 năm, các dịch vụ trong nước và quốc tế trong vòng 6 năm.
- Trung Quốc sẽ cho phép các công ty nước ngoài được sở hữu 50% cổ phần đối với các dịch vụ giá trị gia tăng và truyền tín hiệu 2 năm sau khi gia nhập, 49% cổ phần đối với các dịch vụ âm thanh và dữ liệu di động trong nước và quốc tế 6 năm sau khi gia nhập.
Indonesia
Có hai nhân tố thúc đẩy Indonesia tiến hành mở cửa thị trường viễn thông. Một là hiệp định về các dịch vụ Viễn thông cơ bản của Indonesia với Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, hai là cam kết với quỹ tiền tệ quốc tế IMF.
Ban đầu Indonesia dự định: độc quyền đối với điện thoại đường dài trong nước là tới năm 2006, đối với điện thoại đường dài quốc tế là tới năm 2005. Nhưng do có hiệp định ký kết khi gia nhập WTO và các điều kiện trong Biên bản Ghi nhớ gửi cho IMF về cam kết của Indonesia trong lĩnh vực Viễn thông, Viễn thông Indonesia đã có những thay đổi lớn.
Indonêsia đã chấm dứt độc quyền của Telkom, Indosat và Satelindo (3 hãng Viễn thông lớn nhất của Indonesia) sớm hơn dự định. Chính phủ đã ra Nghị định vào tháng 8 năm 2000 quy định việc chấm dứt độc quyền về điện thoại nội hạt vào tháng 8 năm 2002, còn điện thoại đường dài trong nước và quốc tế là vào tháng 8 năm 2003.
Như vậy, mỗi quốc gia tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể của mình sẽ đưa ra những chính sách, giải pháp khác nhau. Việt Nam hiện nay vẫn bị đánh giá là một quốc gia chưa thu hút được nhiều FDI vào Viễn thông do muốn duy trì chế độ độc quyền trong nước và bó hẹp hình thức tham gia đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Để hiểu rõ hơn thực tế ngành dịch vụ Viễn thông Việt Nam, sự phát triển của nó và FDI trong ngành này hiện nay ra sao, ta chuyển sang chương II nói về “Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài nước ngoài trong lĩnh vực Dịch vụ Viễn thông”.
Chương 2
Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ Viễn thông tại Việt Nam
I. Tình hình phát triển lĩnh vực dịch vụ Viễn thông thời gian qua.
1.1. Tổng quan về lĩnh vực dịch vụ Viễn thông
Lĩnh vực dịch vụ viễn thông của Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong khoảng mười năm trở lại đây. Nhiều công nghệ mới được chọn lọc và sử dụng. Hạ tầng mạng ngày càng hoàn chỉnh và hiện đại hơn. Toàn bộ hệ thống chuyển mạch đã được số hoá. Ngoài các dịch vụ Viễn thông cơ bản, các dịch vụ mới, dịch vụ giá trị gia tăng cũng phát triển mạnh. Năm 1995 thuê bao điện thoại của Việt Nam có gần 0.8 triệu máy, đạt mật độ 0,4 máy/100 dân thì đến cuối năm 2004 đã có trên 10,1 triệu thuê bao điện thoại, đạt mật độ 12,34 máy/100 dân, tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm là 25%. Đây là một trong số những tỷ lệ cao nhất của thế giới, thậm chí còn cao hơn cả Trung Quốc.
(Nguồn: Niên giám thống kê phát triển kinh tế – xã hội năm 2003
và trang web của VNPT: www.vnpt.com.vn)
Dịch vụ điện thoại cố định có số lượng thuê bao liên tục tăng trưởng mạnh với tốc độ hàng năm cao. Theo ITU, chỉ tiêu này đạt mức 20,3%, cao nhất ASEAN, gấp 3 lần so với mức trung bình của ASEAN là 8,9%. Năm 1995 có khoảng 23.500 máy điện thoại cố định thì đến cuối năm 2003 con số này là 5.458.641 máy đạt mật độ 5,63 máy/100 dân. Đến hết năm 2004 có 8.752/8.977 xã trên toàn quốc có máy điện thoại, đạt tỷ lệ 97,5% số xã có máy điện thoại.
Dịch vụ điện thoại di động được đưa vào khai thác năm 1995, đã nhanh chóng khẳng định được vị trí trên thị trường, tạo nên một bước phát triển mạnh đối với Viễn thông Việt Nam. Năm 1995, có khoảng 23.500 thuê bao điện thoại di động thì đến cuối năm 2004 đã tăng lên tới 4.766.258 thuê bao điện thoại di động, đạt mật độ 5,1 máy /100 dân. Dịch vụ di động đã phủ sóng 64/64 tỉnh, thành phố.
Cuối năm 2004 đã có 10.703 trạm điện thoại công cộng sử dụng thẻ, góp phần phổ cập dịch vụ. Năm 2004, sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành tiền kim loại, các trạm điện thoại công cộng sử dụng tiền kim loại đã được triển khai, đáp ứng nhu cầu xã hội. Dịch vụ đường dài quốc tế giá rẻ sử dụng công nghệ VoIP phát triển mạnh, giảm chi phí sử dụng dịch vụ.
Đến tháng 2/2005, đã có 2.199.312 thuê bao Internet, trong đó có trên 13.000 thuê bao băng rộng ADSL, và khoảng 6 triệu người thường xuyên sử dụng Internet. Tổng số tên miền .vn là 9616. Các dịch vụ truyền số liệu (truyền số liệu qua mạng điện thoại công cộng, truyền số liệu chuyển mạch gói X25), dịch vụ Frame Relay, VPN, dịch vụ kêng thuê riêng, dịch vụ điện báo... vẫn đang tiếp tục được cung ứng với chất lượng tương đối tốt.
Liên minh Viễn thông quốc tế đã thể hiện sự tăng trưởng của các dịch vụ Viễn thông Việt Nam qua sơ đồ sau:
(Nguồn: ITU – Liên minh viễn thông quốc tế )
* Chú thích: Fixed - Điện thoại cố định
Cellular - Điện thoại di động
Internet – Dịch vụ Internet
Trục tung thể hiện số người sử dụng/100 dân.
Bên cạnh đó, giá cước dịch vụ Viễn thông của Việt Nam đã giảm đáng kể trong vòng 4 năm gần đây, đặc biệt giá các dịch vụ liên quan đến mạng Internet đến nay đã thấp hơn so với mức trung bình của các nước ASEAN.
Tính cạnh tranh trong thị trường viễn thông cũng được cải thiện, dù chỉ ở mức độ nhỏ. Do có những điều chỉnh chính sách của nhà nước, vai trò thống trị của doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước VNPT đang bị ảnh hưởng vì có sự xuất hiện của một số doanh nghiệp nhà nước khác. Các công ty tư nhân bắt đầu tham gia vào thị trường kinh doanh các dịch vụ giá trị gia tăng. Đặc biệt, đã có sự đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực này. Mặc dù vậy, thị trường Viễn thông Việt Nam còn có tính độc quyền quá lớn. VNPT chiếm tới hơn 90% thị phần đang là rào cản lớn cho việc hoạt động cũng như tham gia thị trường của các doanh nghiệp khác. ở Việt Nam vẫn chưa có một công ty Viễn thông nhà nước nào được cổ phần hoá. Sự hạn chế về hình thức đầu tư đang gây ra nhiều cản trở cho nhà đầu tư nước ngoài có mong muốn đầu tư kinh doanh khai thác Viễn thông.
Tóm lại, những tiến bộ của ngành Viễn thông Việt Nam là rất đáng ghi nhận, góp phần to lớn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của người dân. Tuy nhiên, so sánh với khu vực và thế giới thì quy mô của ngành Viễn thông Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé. Điều này thể hiện rõ trong bảng sau:
Bảng thống kê về dịch vụ Viễn thông các nước trong khu vực năm 2003
Quốc gia
Số điện thoại cố định /100 dân
Số điện thoại di động / 100 dân
Số ngời sử dụng Internet / 100 dân
Brunây
25.6
40.1
10.2
Cămpuchia
0.3
2.8
0.2
Indonesia
3.7
5.5
3.8
Lào
1.1
1.0
0.3
Maylaysia
18.8
44.2
34.5
Myanmar
0.7
0.1
0.1
Philippin
4.2
19.1
4.4
Singapore
46.3
79.6
50.4
Thailand
10.6
26.0
9.6
Việt Nam
5.6
3.4
4.9
Trung bình ASEAN
11.2
22.5
11.4
Trung bình châu á
12.0
13.1
6.2
(Nguồn: Liên minh Viễn thông quốc tế ITU – năm 2003)
So sánh trong khu vực ASEAN, Việt Nam đứng thứ 5 về số điện thoại cố định trên 100 dân, thứ 7 về điện thoại di động và thứ 5 về số người sử dụng Internet trên 100 dân. Các chỉ tiêu này so với mức trung bình của Châu á đều thấp hơn.
Tóm lại, dù đã có những bước phát triển vượt bậc trong thời gian gần đây, nhưng nhìn chung Viễn thông của Việt Nam vẫn còn tụt lại đằng sau so với nhiều nước trong khu vực. Cơ sở hạ tầng Viễn thông cần được củng cố và trang bị thêm, cần sử dụng các công nghệ tiên tiến hơn để tăng chất lượng dịch vụ và giảm giá cước. Đặc biệt cần nâng cao tính cạnh tranh, giảm độc quyền trong thị trường Viễn thông. Để làm được điều này Việt Nam phải trả lời rất nhiều câu hỏi mà trước hết là: Phải huy động nguồn vốn trong và ngoài nước như thế nào để đầu tư cho Viễn thông? Cần có những cơ chế chính sách như thế nào tăng tính cạnh tranh, để mở cửa thị trường?.v.v...
1.2. Hạ tầng mạng
Đến nay Việt Nam đã cơ bản có được một mạng tryền thông đa phương tiện tương đối hiện đại và rộng khắp. Mạng lưới sợi cáp quang, vi sóng, hệ thống vệ tinh đã bao trùm cả nước và kết nối với quốc tế. Mạng Viễn thông Việt Nam đã được số hoá từ năm 90 và bắt đầu chuyển sang mạng thế hệ mới (Next Generation Networks – NGN). Độ an toàn mạng cao, dung lượng dự phòng đạt khoảng 30%. Những nhân tố chính của hạ tầng mạng đã phát triển như sau:
- Dịch vụ dữ liệu: Có một số lượng lớn các mạng truyền dữ liệu ở Việt Nam ví dụ như: Varnet, Netnam, Toolnet, HCMnet và Vianet. Đa số các mạng này đều đã được kết nối vào mạng Internet.
- PSDN (Packet Switched Data Network): Mạng truyền dữ liệu chuyển mạng gói (PSDN) được thành lập ở tất cả các tỉnh, thành phố.
- Công nghệ thông tin di động: Việt Nam là một quốc gia sớm sử dụng công nghệ thông tin di động GSM. Từ năm 2002, đã có thêm mạng thông tin di động sử dụng công nghệ CDMA.
- Viễn thông địa phương: Mạng viễn thông mở rộng đến tất cả các địa phương. Mạng truyền dẫn liên tỉnh đã được cáp quang hoá 58/64 tỉnh, thành phố. Đến đầu năm 2004 đã có 552/590 huyện được cáp quang hoá. Các tuyến cáp quang đường trục sử dụng công nghệ WDM.
- Viễn thông quốc tế: Mạng viễn thông quốc tế được phát triển và mở rộng. Hiện nay, Việt Nam có ba cổng và tám vệ tinh Intersputnik và vệ tinh Intersat, với khả năng truyền mạch tới gần 30 quốc gia khác. Ba trung tâm viễn thông quốc tế được lắp đặt tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Sông Bé. Hệ thống VSAT (hệ thống đầu cuối ăng ten nhỏ) cho phép các vùng núi và hải đảo tham gia vào mạng Viễn thông. Kết quả là, viễn thông ở các._.
Tránh được quá trình ra quyết định quản lý trùng lặp
Giá dịch vụ cho khách hàng thấp hơn
Thu hút đầu tư nhiều hơn
Thúc đẩy việc áp dụng các sản phẩm và công nghệ mới (ví dụ: thương mại điện tử) để đáp ứng nhu cầu của khách hàng
Về tổng thể, tạo ra nhiều thu nhập hơn, cung cấp vốn cho tái đầu tư ở Việt Nam
Tạo ra nhiều doanh thu hơn
Tạo ra các cơ hội xuất khẩu dịch vụ (ví dụ: thông qua việc thành lập trung tâm điện thoại khu vực của đối tác nước ngoài trong công ty liên doanh ở Việt Nam)
Đối với nhà đầu tư nước ngoài
Có nhiều động cơ hơn để có những cam kết lâu dài và có lợi cho các bên
Có quyền kiểm soát quản lý đối với một số chức năng
Sử dụng ưu thế tốt nhất của các bên một cách hiệu quả hơn
Dễ huy động vốn hơn
Tận dung kỹ năng nhiều hơn
Có thể hoà nhập với các hoạt động kinh doanh trong khu vực.
4.2. Đẩy nhanh việc gia nhập WTO, thực hiện Hiệp định thương mại Việt Mỹ và Hiệp định tự do, khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam - Nhật Bản
4.2.1. Gia nhập WTO
Để gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải đàm phán và ký kết một số điều khoản liên quan đến mở việc mở cửa các ngành dịch vụ, trong đó có Viễn thông. Nếu tuân theo các cam kết này, Việt Nam sẽ phải thực hiện các nguyên tắc điều tiết Viễn thông theo hướng ủng hộ cạnh tranh, tức là các nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng những điều kiện đầu tư thuận lợi hơn hiện nay. Với dân số hơn 80 triệu dân và nhu cầu sử dụng các dịch vụ Viễn thông đang ngày càng tăng, Việt Nam chắc chắn sẽ là điểm thu hút đối với các nhà đầu tư trong lĩnh vực này.
Nếu Việt Nam đi theo kinh nghiệm của Trung quốc, tức là: cho phép các công ty nước ngoài sở hữu 50% cổ phần đối với các dịch vụ giá trị gia tăng và truyền tín hiệu sau hai năm gia nhập; 49% cổ phần với các dịch vụ âm thanh và dữ liệu di động trong nước và quốc tế 6 năm sau khi gia nhập... thì dự đoán thị trường Viễn thông sẽ rất sôi động từ năm 2008 (giả thiết Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2005). Lúc này, lượng vốn FDI vào lĩnh vực Viễn thông khả năng sẽ tăng lên đáng kể.
4.2.2. Hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA)
Việt Nam đã nhất trí trong BTA với Mỹ về lịch trình cho phép thành lập các liên doanh với Mỹ trong lĩnh vực Viễn thông. Trong Phụ lục G, những cam kết của Việt Nam về việc mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông được đưa ra theo 3 nhóm với lịch trình cho phép liên doanh với tỷ lệ góp vốn nhất định. Bảng dưới đây trình bày các cam kết của Việt Nam trong 3 nhóm này.
Nhóm
Cam kết
Dịch vụ giá trị gia tăng bao gồm: email, voice-mail, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), dịch vụ chuyển fax giá trị gia tăng, chuyển mã và giao thức, và xử lý dữ liệu và thông tin trực tuyến.
10/12/2003 đối với liên doanh với tối đa 50% vốn góp từ Mỹ.
10/12/2004 cho các dịch vụ Internet đối với các liên doanh có tối đa 50% vốn góp của Mỹ.
Các dịch vụ Viễn thông cơ bản bao gồm: chuyển bó, chuyển mạch, telex, telegraph, fax, mạch thuê riêng, các divh vụ dựa trên vô tuyến bao gồm dạng ô, di động, vệ tinh.
10/12/2005 đối với liên doanh có tối đa 49% vốn góp của Mỹ.
Các dịch vụ điện thoại tiếng bao gồm nội hạt, đường dài, quốc tế.
10/12/2007 đối với các liên doanh có tối đa 49% vốn góp của Mỹ.
(Nguồn: Hiệp định thương mại Việt Mỹ-Cục Đầu tư nước ngoài)
Có thể cam kết tương tự cũng có thể được thực hiện với các nước khác trong lộ trình gia nhập WTO. Một số nước có thể sẵn sàng hưởng cùng một lịch trình như vậy do các điều khoản Tối Huệ quốc trong thương mại và các hiệp định về đầu tư với Việt Nam. Trong mọi trường hợp, cuối cùng, có thể Chính phủ Việt Nam sẽ ban hành các quy định cho phép các nhà đầu tư từ tất cả các nước tham gia liên doanh trong lĩnh vực Viễn thông theo lịch trình tương tự như lịch trình đối với các nhà đầu tư Mỹ.
4.2.3. Hiệp định tự do, khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam - Nhật Bản
Trong việc kinh doanh lĩnh vực dịch vụ Viễn thông, Hiệp định này liên quan đến các dịch vụ Viễn thông sau:
“Các dịch vụ viễn thông cơ bản, gồm:
- Dịch vụ truyền số liệu chuyển mạch gói
- Dịch vụ truyền số liệu chuyển mạch kênh
- Dịch vụ điện báo
- Dịch vụ fax
- Dịch vụ thuê kênh riêng
- Các dịch vụ thông tin vô tuyến (bao gồm cellular, mobile và vệ tinh)
Các dịch vụ điện thoại cố định bao gồm nội hạt, đường dài trong nước và quốc tế”
Hiệp định này nêu rõ:
“Đối tác Nhật Bản chỉ thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông.
Liên doạnh giữa đối tác Nhật Bản với Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông không chậm hơn ngày mà liên doanh giữa đối tác Việt Nam với bất kỳ nước thứ ba nào thực hiện, hoặc ngày mà cam kết của Việt Nam với bất kỳ nước thứ ba nào về vấn đề này có hiệu lực, căn cứ và việc nào diễn ra trước. Phần góp vốn của phía Nhật Bản không quá 49% vốn pháp định của liên doanh
Các doanh nghiệp không được phép xây dựng mạng đường trục và kênh truyền quốc tế riêng mà phải thuê chúng từ các công ty khai thác dịch vụ Việt Nam.”
Điều này có nghĩa là nếu có sự thành lập liên doanh trong kinh doanh khai thác dịch vụ Viễn thông giữa Mỹ và Việt Nam thì các nhà đầu tư Nhật Bản cũng được phép thành lập liên doanh với số vốn không quá 49% vốn pháp định.
4.3. Từng bước xây dựng thị trường Viễn thông cạnh tranh lành mạnh
4.3.1. Xây dựng Bộ Bưu chính Viễn thông trở thành một cơ quan quản lý độc lập hơn
Theo WTO, cơ quan quản lý là độc lập nếu nó tách biệt khỏi và không chịu trách nhiệm với bất kỳ một nhà cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản nào. Các quyết định và thủ tục được sử dụng bởi cơ quan quản lý công bằng với tất cả các bên tham gia thị trường.
Theo ITU, cơ quan quản lý độc lập nếu nó độc lập về tài chính, cơ cấu và ra quyết định. Định nghĩa “độc lập” bao gồm 3 yếu tố sau:
(1) Độc lập với các bên tham gia thị trường: Các cơ quan quản lý là những nhà trọng tài công bằng và trung lập trên thị trường mà họ giám sát. Bản thân họ không được tham gia thị trường đó hay nghiêng về phía bất kỳ doanh nghiệp nào. Ngay cả khi chính phủ sở hữu cổ phần đáng kể trong doanh nghiệp có thị phần khống chế thì cũng không nên thiên vị doanh nghiệp có thị phần khống chế đó. Các đối thủ cạnh tranh và các nhà đầu tư tiềm tàng phải chắc chắn rằng họ sẽ thấy sự công bằng và không phân biệt khi tham gia vào một thị trường Viễn thông nào đó.
(2) Độc lập khỏi sự kiểm soát và ảnh hưởng chính trị: Cơ quan quản lý sẽ thực hiện nhiệm vụ của họ theo uỷ nhiệm của luật pháp và các mục tiêu quản lý Viễn thông thích hợp (vẫn đảm bảo an ninh quốc phòng) và không phục vụ lợi ích của bất kỳ đảng phái chính trị hoặc cá nhân có quyền lực nào.
(3) Độc lập dựa trên sự tín nhiệm và năng lực: Cơ quan quản lý phải tạo dựng và duy trì sự tín nhiệm của mình trong khu vực tư nhân và các bên lợi ích của chính phải thông qua việc ra quyết định hợp lý, minh bạch và công bằng. Cơ quan quản lý phải đứng sau các hành động của mình và có thể bảo vệ chúng trước toà án hoặc các diễn đàn của chính phủ và phi chính phủ khác. Cơ quan quản lý cần có các nguồn lực tài chính và nhân lực đủ để thực hiện nhiệm vụ của mình, và phải tránh những hạn chế trong quản lý với khả năng xây dựng một cơ quan độc lập nắm bắt và thấu hiểu mọi vấn đề.
Theo kinh nghiệm của thế giới thì quá trình làm cho một cơ quan quản lý trở nên độc lập chia thành 2 giai đoạn chính. Giai đoạn thứ nhất là tách việc cung cấp dịch vụ/hoạt động mạng khỏi chức năng quản lý và chính sách. Giai đoạn thứ hai là tách biệt các chức năng quản lý và phát triển chính sách.
Đối với Bộ Bưu chính Viễn thông của Việt Nam, giai đoạn thứ nhất đã được hoàn thành. Nhưng giai đoạn hai vẫn chưa được thực hiện.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng dù giai đoạn hai có được hoàn tất thì Bộ bưu chính Viễn thông của Việt Nam cũng không thể là một cơ quan hoàn toàn độc lập theo thông lệ quốc tế do Việt Nam có những đặc điểm về chính trị và kinh tế riêng biệt. Nhưng, việc làm cho Bộ Bưu chính Viễn thông công bằng hơn và minh bạch hơn trong quá trình quản lý thì có thể làm được bằng một số biện pháp sau:
Hoàn thiện website của Bộ Bưu chính Viễn thông để cho phép giao tiếp nhiều hơn với công chúng và các bên tham gia thị trường. Điều này đặc biệt cần thiết trong việc ban hành các chính sách, luật và quy chế mới. Bộ BCVT nên tạo điều kiện tranh luận và lấy ý kiến công khai rộng rãi hơn về quá trình soạn thảo các quy định của mình, bằng cách đăng các quy chế dự thảo lên website của Bộ vào thời điểm thích hợp. Ví dụ, website của Bộ Thương mại có mục “Các quy định đang soạn thảo”, như vậy, công chúng được thông báo về những gì đang diễn ra.
Bộ Bưu chính Viễn thông nên tạo ấn tượng là Bộ chủ động hơn trong vấn đề VNPT, ví dụ Bộ nên chủ động hướng dẫn VNPT tính toán cước kết nối và xây dựng hợp đồng kết nối chính chứ không phải chờ VNPT trình lên.
Bộ nên nâng cao năng lực và trình độ cán bộ của mình trong những vấn đề then chốt có ảnh hưởng đến cạnh tranh
Bộ nên sớm công khai công bố các kế hoạch hành động của mình để các doanh nghiệp có thể chuẩn bị tốt cho hoạt động và điều chỉnh của họ.
Bộ có thể xây dựng cơ chế để cho phép sự tham gia và góp ý nhiều hơn của công chúng, ví dụ bằng cách lập các Hội đồng tư vấn hoặc các uỷ ban đặc biệt để giải quyết các vấn đề nan giải như cấp phép cho các dịch vụ mới hoặc các doanh nghiệp mới, giải quyết tranh chấp các hợp đồng...
Bộ nên xem xét việc tạo cơ hội và hỗ trợ hơn nữa cho cac thành phần tư nhân trong và ngoài nước tham gia khai thác dựa trên cơ sở vật chất/ cơ sở hạ tầng mạng, cũng như tăng cường cạnh tranh trong thị trường.
4.3.2. Tái cơ cấu VNPT
Vì VNPT hiện đang là doanh nghiệp gần như độc quyền hoàn toàn trên Thị trường Viễn thông Việt Nam nên để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn, nhất thiết phải tái cơ cấu VNPT. Cụ thể hoá điều này, ngày 23/3/2005, Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định 58/2005/QĐ-TTg phê duyệt đề án Tập đoàn Bưu chính Viễn thông theo đề nghị của Bộ Bưu chính Viễn thông và Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
a) Các đặc trưng cơ bản của Tập đoàn
Theo đề nghị của Bộ Bưu chính Viễn thông thì Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam là tập đoàn có quy mô lớn, kinh doanh đa ngành, trong đó bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin là ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao, có sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước; chuyển liên kết theo kiểu hành chính với cơ chế giao vốn hiện nay sang liên kết theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông sẽ là một tổ hợp kinh tế bao gồm các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, đa sở hữu trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo có sự tham gia của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Các thành viên liên kết với nhau theo mô hình công ty mẹ - công ty con thông qua quan hệ sở hữu về vốn là chủ yếu, đồng thời có sự gắn kết về công nghệ, thị trường, nghiệp vụ…
Tập đoàn được quản lý toàn bộ bởi Hội đồng quản trị, điều hành Tập đoàn là Tổng Giám đốc và có các Giám đốc phụ trách lĩnh vực là người đứng đầu các cơ quan điều phối. Cơ quan giúp việc quản lý điều hành và tư vấn chuyên môn nghiệp vụ cho lãnh đạo Tập đoàn là Ban kiểm soát, Văn phòng và các ban chuyên môn của Công ty mẹ.
b) Các bộ phận của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông có liên quan đến hoạt động quản lý, kinh doanh Viễn thông
1. Công ty mẹ:
Công ty mẹ là công ty Nhà nước được tổ chức quản lý hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 và mang tên là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
Công ty mẹ sẽ bao gồm bộ phận quản lý đường trục (được hình thành trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại các Công ty Viễn thông Quốc tế - VTI, Công ty Viễn thông liên tỉnh - VTN); bộ phận quản lý, đầu tư và kinh doanh vốn (được hình thành trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại Công ty tài chính Bưu điện) và cơ quan quản lý điều phối (gồm các ban chức năng giúp việc).
Theo đề án, Công ty mẹ có nhiệm vụ thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với phần vốn nhà nước đầu tư vào các công ty con, giữ quyền chi phối các công ty con thông qua vốn, công nghệ, thương hiệu và thị trường.
Công ty mẹ đầu tư vào công ty con thông qua cơ quan điều phối và người đại diện phần vốn Nhà nước đầu tư vào các công ty con; điều hành thống nhất mạng lưới; thực hiện các hoạt động công ích. Công ty mẹ trực tiếp quản lý kinh doanh mạng lưới viễn thông đường trục. Việc kinh doanh mạng lưới đường trục phải hạch toán riêng theo quy định của Nhà nước về giá cước và quản lý kết nối để tránh sự phân biệt đối xử với các doanh nghiệp ngoài Tập đoàn khi sử dụng các dịch vụ trên mạng thông tin đường trục quốc gia.
2. Các công ty con do Công ty mẹ sở hữu 100% vốn gồm:
Các công ty viễn thông vùng: các công ty viễn thông vùng được thành lập trên cơ sở sát nhập các công ty quản lý mạng viễn thông tại các bưu điện tỉnh, thành phố, các đơn vị sự nghiệp có thu trong lĩnh vực đào tạo nghề. Có 3 tổng công ty viễn thông vùng miền trên cả nước. Tổng công ty Viễn thông I (từ Quảng Bình trở ra), Tổng công ty Viễn thông II (từ Bình Thuận trở vào) và Tổng công ty Viễn thông III (từ Quảng Trị với Ninh Thuận và các tỉnh Tây Nguyên). Các Tổng công ty này được hình thành trên cơ sở sáp nhập các công ty quản lý và khai thác mạng viễn thông của Bưu điện các tỉnh, thành phố hiện nay.
3. Công ty con 100% vốn nhà nước và hoạt động độc lập trực thuộc công ty mẹ là Công ty Phần mềm và Truyền thông (VASC) và Công ty Điện toán và Truyền số liệu (VDC).
4. Các công ty mà công ty mẹ sở hữu trên 50% vốn sẽ bao gồm 2 công ty thông tin di động sẽ được cổ phần hoá là Công ty Thông tin (VMS - MobiFone); Công ty dịch vụ Viễn thông (GPC -Vinaphone). Ngoài ra còn có Công ty dịch vụ Tài chính; các công ty Tư vấn chuyên ngành; các công ty dịch vụ Internet.
5. Các công ty do Công ty mẹ sở hữu dưới 50% vốn gồm các công ty sản xuất thiết bị, các công ty công nghiệp phần mềm, xây lắp, thương mại, các công ty cung cấp dịch vụ gia tăng, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện, Du lịch Bưu điện, các công ty liên doanh với nước ngoài về viễn thông và công nghệ thông tin
c) Tác động của việc hình thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
- Hình thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam sẽ chấm dứt sự liên kết theo kiểu hành chính giữa các thành viên thuộc VNPT như hiện nay. Không còn cơ chế cấp vốn nữa mà sẽ chuyển sang đầu tư vốn theo mô hình công ty mẹ-công ty con. Có nghĩa là với mô hình tập đoàn, công ty mẹ sẽ đầu tư vốn cho công ty con, công ty con sẽ phải bảo toàn và phát triển nguồn vốn đó. Cơ chế hạch toán độc lập khiến các công ty con phải tự tìm lấy con đường đi riêng, phải cạnh tranh nhau trên thị trường.
- Có sự phân định rõ cấu trúc sở hữu - phân định các loại hình thành viên: doanh nghiệp 100 vốn nhà nước, doanh nghiệp cổ phần hoá trong đó Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn hoặc dưới 50% vốn và các công ty liên kết dưới hình thức công ty cổ phần, liên doanh... Điều này có ba tác động lớn. Thứ nhất, tạo sự phong phú các loại hình doanh nghiệp trong ngành Viễn thông. Thứ hai, đẩy mạnh tính cạnh tranh trong thị trường nhưng doanh nghiệp Nhà nước vẫn có thể chiếm ưu thế và nắm quyền kiểm soát. Thứ ba, việc cho phép hình thành công ty liên doanh về Viễn thông Nhà nước giữ dưới 50% cổ phần là cơ hội lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
- Xây dựng tập đoàn sẽ tách rõ hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp Viễn thông đều có nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ công ích thông qua cơ chế hoạt động của Quỹ dịch vụ Viễn thông công ích Việt Nam. Như vậy, việc thực hiện cung cấp dịch vụ công ích vẫn được đảm bảo mà hoạt động kinh doanh lại hiệu quả hơn.
- Công ty mẹ bao gồm hai bộ phận là: bộ phận quản lý đường trục; bộ phận quản lý, đầu tư và kinh doanh vốn và cơ quan quản lý điều phối. Cấu trúc này sẽ giảm bớt chồng chéo, hạn chế những bất cập trong quản lý và khai thác hệ thống đường trục. Trong đề án thành lập Tập đoàn còn nêu rõ: “Việc kinh doanh mạng lưới đường trục phải hạch toán riêng theo quy định của Nhà nước về giá cước và quản lý kết nối để tránh sự phân biệt đối xử với các doanh nghiệp ngoài Tập đoàn khi sử dụng các dịch vụ trên mạng thông tin đường trục quốc gia.” Với quy định này, nhà đầu tư nước ngoài sẽ bớt khó khăn hơn trong việc thuê kênh, sử dụng mạng đường trục và thực hiện kết nối.
4.3.3. Thành lập cơ quan chống độc quyền Viễn thông
Theo kinh nghiệm của các nước và theo sự khuyến nghị của WTO, Viễn thông Việt Nam cần có một cơ quan giám sát độc lập với Chính phủ và Bộ chủ quản để có thể quản lý các vấn đề cạnh tranh. Vừa qua, Bộ Bưu chính Viễn thông đã đề nghị thành lập Cục quản lý Viễn thông có nhiệm vụ chính là thúc đẩy cạnh tranh, thực thi các chính sách của Bộ Bưu chính Viễn thông, đặc biệt xử lý khiếu nại của doanh nghiệp liên quan đến vấn đề kết nối.
Một số vụ thuộc Bộ Bưu chính Viễn thông như: Vụ Kế hoạch Tài chính Viễn thông hiện nay vừa ban hành, vừa thực thi chính sách khiến công việc nhiều khi chậm, lại không công bằng. Việc ra đời Cục quản lý Viễn thông sẽ tách bạch chức năng hoạch định và thực thi chính sách của Bộ trong các vấn đề liên quan đến Viễn thông. Điều này rõ ràng sẽ làm thúc đẩy tính cạnh tranh, giảm độc quyền trong Viễn thông.
4.4. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý, chính sách liên quan đến Viễn thông.
Một trong những nhân tố quan trọng nhất để tạo môi trường cạnh tranh, để tạo sự hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài là sự hoàn thiện, minh bạch của hệ thống chính sách, pháp luật.
Vấn đề bức thiết trong Viễn thông hiện nay là bổ sung, xây dựng, minh bạch hoá các văn bản pháp luật, các chính sách của Nhà nước. Trong Chiến lược phát triển Bưu chính Viễn thông đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 nêu rõ, “ Đẩy nhanh việc xây dựng Pháp lệnh, Luật Bưu chinh-Viễn thông cùng hệ thống các văn bản pháp quy khác tạo điều kiện chuyển mạnh bưu chính, viễn thông sang thị trường cạnh tranh, chủ động thực hiện lộ trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.”
Tuy nhiên, tiến trình này đang diễn ra tương đối chậm chạp. Khi trả lời phỏng vấn của VnExpress, Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Mai Liêm Trực đã nói, “Chúng tôi thừa nhận năng lực quản lý của Bộ còn nhiều hạn chế, hệ thống văn bản pháp lý còn thiếu, chẳng hạn, Pháp lệnh Viễn thông đã có và cho phép các công ty tư nhân được tham gia kinh doanh dịch vụ không có hạ tầng mạng song việc cấp phép rất chậm vì quy định hướng dẫn cụ thể chưa có. Cấp phép kết nối còn lung tung vì những quy định về mẫu, tiêu chuẩn cho doanh nghiệp xin kết nối còn thiếu.... Bản thân tôi cũng cho rằng duy trì doanh nghiệp chiếm thị phần khống chế lâu không có lợi cho cạnh tranh và phát triển. Trong hệ thống văn bản pháp luật tới đây, Bộ sẽ ban hành các quy định làm tăng thêm thẩm quyền cho các doanh nghiệp chiếm thị phần không khống chế...”.
Như vậy, hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến Viễn thông còn thiếu và còn một vài điểm chưa phù hợp. Thực tế này khiến các nhà đầu tư nước ngoài vừa e ngại vừa khó thực hiện đầu tư vào Viễn thông Việt Nam.
Nếu có thể, cần sớm chuẩn bị những văn bản pháp lý tạo điều kiện cho thành lập doanh nghiệp liên doanh về kinh doanh dịch vụ Viễn thông. Sớm cho ra đời Luật chống độc quyền, Luật chống cạnh tranh.
4.4. Lựa chọn công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
Một trong những mục tiêu của thu hút FDI không chỉ là lợi dụng nguồn vốn mà còn nhằm lựa chọn công nghệ hiện đại, phù hợp. Để làm được điều này phải trước hết hú ý đến việc chọn lựa nhà thầu, chính là những nhà đầu tư nhận xây dựng các cơ sở hạ tầng mạng hay cung cấp các dịch vụ mà doanh nghiệp Việt Nam không thể đảm nhiệm.
Trên thế giới hiện nay tồn tại hai nhóm nhà thầu chính:
Nhóm 1: các nhà đầu tư có công nghệ Viễn thông, ví dụ: Teltra, NTT
Nhóm 2: các nhà đầu tư có rất nhiều vốn và dùng lượng vốn đó mua lại công nghệ, ví dụ: Hutchison Telecom.
Xu hướng hiện nay là lựa chọn các nhà đầu tư thuộc nhóm hai. Các nhà đầu tư này thường có nhiều kinh nghiệm kinh doanh hơn, mục đích của họ không phải là nghiên cứu phát triển công nghệ mà dùng tiềm lực về vốn để mua những công nghệ mới nhất. Còn các nhà đầu tư thuộc nhóm 1 có khả năng sẽ sáng tạo những bí quyết công nghệ riêng, nên có thể gây sức ép cho phía Việt Nam trong tương lai.
Bên cạnh đó, trong quá trình lựa chọn công nghệ cần tìm kiếm các công nghệ, thiết bị đồng bộ và tương thích. Một trong những hạn chế của hạ tầng mạng Viễn thông Việt Nam hiện nay là sử dụng thiết bị thuộc nhiều hãng khác nhau. Các công nghệ này không đồng bộ đã làm giảm năng suất của toàn bộ hệ thống.
IV. Kiến nghị với nhà nước
- Sớm đưa ra những quyết định tạo điều kiện cho việc chuyển các dự án BCC thành công ty cổ phần và cho phép bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài.
- Sửa đổi Luật để có thể hình thành các công ty liên doanh trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông.
- Xây dựng Bộ Bưu chính Viễn thông trở thành một cơ quan quản lý độc lập hơn trong lĩnh vực Viễn thông.
- Đẩy nhanh quá trình tạo lập Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, song song đó có những biện pháp kiểm soát tính độc quyền của Tập đoàn này bằng một số biện pháp như ban hành Luật cạnh tranh, Luật chống độc quyền...
- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến Viễn thông
- Tạo điều kiện hơn nữa cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc tham gia đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông Việt Nam.
Kết luận
Với cấu trúc gồm ba chương chính, luận văn của em tập trung phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ Viễn thông Việt Nam, từ đó em đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư này.
Ngành Viễn thông Việt Nam thời gian qua đã gặt hái được rất nhiều thành công, trong đó phải kể đến sự đóng góp to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ bổ sung nguồn lực về vốn mà còn trang bị cho Viễn thông Việt Nam những công nghệ, thiết bị hiện đại, làm đa dạng hoá các hình thức dịch vụ và nâng cao chất lượng cung cấp. Tuy nhiên do những hạn chế về hình thức đầu tư, về môi trường đầu tư nên lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ Viễn thông của Việt Nam còn ít. Mặc dù Viễn thông Việt Nam đã có những bứt phá trong quá trình phát triển, nhưng nếu so sánh với các nước trên khu vực và thế giới thì Viễn thông Việt Nam vẫn nhỏ bé. Vì vậy trong các năm tới đây, Viễn thông Việt Nam cần một lượng đầu tư vốn và công nghệ rất lớn. Để đáp ứng yêu cầu cấp bách này, nhất thiết Việt Nam phải tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các biện pháp chủ yếu là chuyển đổi hình thức đầu tư, giảm bớt tính độc quyền của các doanh nghiệp Viễn thông thuộc vốn sở hữu nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản pháp luật. Ngoài ra trong quá trình tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Viễn thông một vấn đề đáng lưu ý là phải lựa chọn những công nghệ hiện đại, đồng bộ và tương thích.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Phạm Văn Vận đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ-chuyên viên làm việc tại Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đặc biệt là bác Hoàng Văn Hưng và anh Nguyễn Sỹ Hoàng đã cung cấp tài liệu và có những ý kiến đóng góp quý báu cho nội dung của luận văn.
phụ lục
Phụ lục 1. Các doanh nghiệp viễn thông phân chia theo lĩnh vực hoạt động
Thiết lập và cung cấp dịch vụ Viễn thông cố định – 5 doanh nghiệp
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT)
Công ty Thông tin Viễn thông điện lực (ETC)
Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL)
Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT)
Công ty cổ phần Viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom)
Thiết lập mạng và cung cấp các dịch vụ Viễn thông quốc tế – 3 doanh nghiệp
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT)
Công ty Thông tin Viễn thông điện lực (ETC)
Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL)
Cung cấp các dịch vụ điện thoại đường dài trong nước và quốc tế sử dụng giao thức IP – 6 doanh nghiệp
Tổng công ty Bưu chínhh Viễn thông Việt Nam (VNPT)
Công ty Thông tin Viễn thông điện lực (ETC)
Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL)
Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT)
Công ty cổ phần Viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom)
Công ty Thông tin điện tử Hàng Hải (Vishipel)
Cung cấp dịch vụ thông tin di động – 5 doanh nghiệp
Tổng công ty Bưu chínhh Viễn thông Việt Nam (VNPT) – 2 Giấy phép (VinaFone và MobiFone)
Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL)
Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT)
Công ty cổ phần Viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom)
Doanh nghiệp IXP – 6 doanh nghiệp
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT)
Công ty Thông tin Viễn thông điện lực (ETC)
Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL)
Công ty Đầu tư phát triển công nghệ (FPT)
Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT)
Công ty cổ phần Viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom)
Doanh nghiệp OSP – 11 doanh nghiệp
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT)
Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL)
Công ty Cổ phần dịch vụ Internet (OCI)
Công ty Đầu tư phát triển công nghệ (FPT)
Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT)
Công ty cổ phần Viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom)
Công ty Điện tử quận 10 (TIENET)
Công ty Điện tử Hoá chất Bộ quốc phòng (ELINCO)
Công ty Cổ phần công nghệ mạng (QTNET)
Công ty Netnam (NETNAM)
Công ty Cổ phần Thanh Tâm
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy cập Internet – 15 doanh nghiệp
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT)
Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL)
Công ty Cổ phần dịch vụ Internet (OCI)
Công ty Đầu tư phát triển công nghệ (FPT)
Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT)
Công ty cổ phần Viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom)
Công ty Điện tử quận 10 (TIENET)
Công ty Điện tử Hoá chất Bộ quốc phòng (ELINCO)
Công ty Cổ phần công nghệ mạng (QTNET)
Công ty Viễn thông điện lực (ETC)
Công ty Netnam (NETNAM)
Công ty Cổ phần Thanh Tâm
Công ty Đầu tư kỹ nghệ (TECHCOM)
Công ty Thông tin điện tử Hàng Hải (Vishipel)
Công ty Việt Khang (XVNET)
Phụ lục 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2004
(tính tới ngày 31/12/2004 – chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
STT
Chuyên ngành
Số dự án
TVĐT (USD)
Vốn pháp định (USD)
Đầu tư thực hiện (USD)
I
Công nghiệp
3,437
26,762,115,232
11,669,102,425
18,460,919,156
CN Dầu khí
27
1,898,083,340
1,391,083,340
4,434,731,733
CN Nhẹ
1,411
7,215,575,345
320,342,063
3,362,256,910
CN Nặng
1,476
10,918,972,875
4,362,763,693
6,587,910,389
CN Thực phẩm
230
2,847,373,620
1,290,626,211
2,038,019,276
Xây dựng
293
3,882,140,052
1,394,287,118
2,038,000,848
II
Nông, lâm nghiệp
700
3,493,909,297
1,513,110,165
1,698,176,359
Nông - Lâm nghiệp
595
3,151,083,781
1,385,374,784
1,584,608,715
Thuỷ sản
105
288,825,516
127,735,381
149,567,644
III
Dịch vụ
993
15,715,442,495
7,108,869,362
6,613,638,580
GTVT - Bưu điện
144
1,568,742,979
1,990,665,939
918,460,555
Khách sạn - Du lịch
166
3,604,989,648
1,250,534,053
2,198,828,995
Tài chính - Ngân hàng
56
738,550,000
714,585,000
632,430,077
Văn hoá- Y tế - Giáo dục
179
665,893,808
294,784,219
342,039,836
XD đô thị mới
3
2,466,674,000
675,183,000
51,294,598
XD Văn phòng - Căn hộ
104
3,635,640,377
1,260,108,962
1,611,942,035
XD hạ tầng KCX - KCN
20
986,099,546
379,519,597
521,371,777
Dịch vụ khác
321
1,048,852,137
453,478,592
337,270,707
Tổng số
5,130
45,917,467,024
20,201,081,952
26,772,734,095
(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Danh mục tài liệu tham khảo
Tài liệu tiếng Việt
TS. Nguyễn Xuân Vinh: Kinh tế Viễn thông, Nhà xuất bản Bưu điện, Hà Nội 2003
Nguyễn Minh Sơn, Trịnh Thông, Triệu Minh Long, Phạm Thị Bích Loan: Nghiên cứu tổng quan Viễn thông Việt Nam
-Tập 1: Tổng quan hiện trạng Viễn thông Việt Nam
-Tập 3: Các kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng mạng lưới và khuyến nghị.
-Tập 4: Quản lý Viễn thông trong môi trường cạnh tranh
-Tập 5: Phụ lục và các vấn đề hỗ trợ cho việc lập kế hoạch
Nhà xuất bản Bưu điện, Hà Nội năm 2002
TS. Nguyễn Xuân Vinh: Quản lý Viễn thông, phát thanh và truyền hình, Nhà xuất bản Bưu điện, Hà Nội tháng 3 năm 2003
TS. Bùi Quốc Việt: Marketing dịch vụ Viễn thông trong hội nhập và cạnh tranh. Nhà xuất bản Bưu điện tháng 10 năm 2002
TS. Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Thị Minh Huyền: Phát triển Internet – Kinh nghiệm và chính sách của 1 số quốc gia trong khu vực, Nhà xuất bản Bưu điện tháng 9 năm 2003.
Mai Thế Nhượng và nhóm chuyên viên Viện Kinh tế Bưu điện: Cạnh tranh trong Viễn thông. Nhà xuất bản Bưư điện, Hà Nội tháng 12 năm 2001
TS. Nguyễn Xuân Vinh. T.S Nguyễn Thị Tuyết Thanh, Ths. Lê Xuân Phong: Các phương pháp dự báo trong Bưu chính Viễn thông. Nhà xuất bản Bưu pđiện, Hà Nội tháng 11 năm 2002.
Ngân hàng thế giới. Người dịch: Ths. Vũ Cương, Nguyễn Quỳnh Hoa, Lê Đồng Tâm, Nhữ Lê Thu Hương: Báo cáo phát triển thế giới năm 2005 – Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người. Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin.
Kathie Krumm và Honi Kharas. Người dịch: TS. Nguyễn Minh Vũ, TS Lưu Minh Hiền, Ths. Triệu Thành Nam, TS. Lê Tuấn: Đông á hội nhập – Lộ trình chính sách thương mại hướng đến mục tiêu tăng trưởng chung. Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin.
Supuchai Panitchpakdi và Mark.L. Cliford: Trung Quốc và WTO. Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội năm 2002
Đỗ Tiến Sâm, Lê Văn Sang: Trung Quốc gia nhập WTO và tác động đối với Đông Nam á. Nhà xuất bản Khoa học và Xã hội, Hà Nội năm 2002
Nguyễn Thanh Hà, Tư vấn, Trung tâm Tư vấn Đầu tư và Công nghệ VietBid; Phạm Quang Thành, Cộng tác viên của Vietbid: Báo cáo tổng hợp về Viễn thông Việt Nam năm 2004 - Nghiên cứu tình hình cạnh tranh trong lĩnh vực Viễn thông ở Việt Nam
Quy hoạch phát triển Viễn thông Việt Nam giai đoạn 2004-2010 (bản dự thảo)
Tài liệu tiếng Anh:
FDI in Telecom Serivices in Asia – High level Policy Seminar on Services FDI and Competitiveness in Asia UNCTD and ASEAN, Ritsumeikan University, Kyoto,2-4 March 2004
Vietnam telecom market report
Master Telecom Report 9 November ( Foreign Investment Agency)
Trang web tham khảo:
mục lục
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3053.doc