MỤC LỤC
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.......................................................................................................... 3
I.Lý luận chung về vốn nước ngoài .................................................................. 3
1.Khái niệm về vốn nước ngoài ................
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua Thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
...................................................... 3
2.Phân loại vốn nước ngoài ............................................................................ 4
2.1 Phân loại dựa trên hình thức tồn tại của từng loại vốn........................... 4
2.2 Phân loại vốn theo hình thức di chuyển ................................................. 5
II. Lý luận về nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán
(FPI) ................................................................................................................ 7
1. Khái niệm .................................................................................................... 7
2. Đặc điểm..................................................................................................... 8
3. Vai trò của nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán ... 10
3.1. Vai trò chung của nguồn vốn nước ngoài: .......................................... 10
3.2.Vai trò riêng nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng
khoán ................................................................................................. 11
III. Kinh nghiệm thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán một số nước......................................................................... 12
1. Kinh nghiệm của Indonesia....................................................................... 13
2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc ...................................................................... 15
3. Kinh nghiệm một số nước khác ................................................................ 15
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ...................................................................................... 17
I. Tổng quan tình hình nền kinh tế Việt Nam .................................................. 17
1.Tình hình kinh tế vĩ mô .............................................................................. 17
1.1. Các thành tựu ..................................................................................... 17
1.2.Một số tồn tại ....................................................................................... 19
2.Tình hình cải cách cơ cấu nền kinh tế ....................................................... 21
2.1. Tình hình cải cách doanh nghiệp nhà nước- cổ phần hoá .................. 21
2.2. Cải cách hệ thống ngân hàng, tài chính.............................................. 24
II. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam ...................................... 24
1. Sự ra đời của Thị trường chứng khoán Việt Nam .................................... 24
2. Mô hình tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam.................................. 25
3. Hoạt động giao dịch chứng khoán: .......................................................... 30
3.1. Từ 7/2000 đến 7/2001......................................................................... 30
3.2.Từ 7/2001 đến 3/2002.......................................................................... 32
3.3. Từ tháng 3/2002 đến nay .................................................................... 34
4. Đánh giá hoạt động của TTCK Việt Nam.................................................. 35
4.1.Những ưu điểm .................................................................................... 35
4.2. Những hạn chế ................................................................................... 36
III. Thực trạng đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam . 38
1.Hành lang pháp lý về đầu tư nước ngoài qua TTCK Việt Nam hiện nay ... 38
1.1.Các loại công ty được phép đầu tư ...................................................... 39
1.2. Vốn điều lệ và vốn cổ phần................................................................. 40
1.3. Cổ phần .............................................................................................. 40
1.4. Đầu tư nước ngoài .............................................................................. 41
1.5. Bán cổ phần cho nhà Đầu tư nước ngoài ........................................... 41
2. Qui mô nguồn vốn ĐTNN qua TTCK (FPI) trong tổng nguồn vốn vào
Việt Nam .................................................................................................. 42
3. Tình hình nắm giữ cổ phiếu của người nước ngoài................................. 43
4. Tình hình giao dịch của người nước ngoài trên TTCK ............................. 48
5. Đánh giá chung tình hình đầu tư nước ngoài qua Thị trường Chứng
khoán Việt Nam........................................................................................ 51
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM .............................................................. 53
I. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam......................... 53
1. Quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam ... 54
2. Định hướng phát triển thị trường Việt Nam .............................................. 54
3. Một số giải pháp thực hiện........................................................................ 55
II. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong thu hút vốn
đầu tư nước ngoài qua TTCK..................................................................... 59
1. Những điều kiện thuận lợi......................................................................... 59
1.1 Điều kiện chính trị ổn định ................................................................... 59
1.2. Tình hình kinh tế phát triển ................................................................. 59
1.3. Cải cách cơ cấu được chú trọng ......................................................... 59
1.4. Chính sách đối với người đầu tư nước ngoài đã rõ ràng..................... 60
2. Khó khăn................................................................................................... 61
2.1.Về mặt vĩ mô........................................................................................ 61
2.2. Thị trường chứng khoán còn nhỏ bé về quy mô ................................. 62
2.3. Thiếu thông tin .................................................................................... 62
2.4. Chính sách của Việt Nam chưa nhất quán và chưa thông thoáng...... 63
2.5 Chi phí đầu tư cao ............................................................................... 63
III. Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua TTCK Việt Nam ... 64
1. Mục tiêu và nguyên tắc ............................................................................. 64
2. Một số giải pháp ....................................................................................... 65
2.1. Cải thiện môi trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.......................... 65
2.2. Phát triển thị trường về quy mô, tăng số công ty niêm yết .................. 66
2.3. Cải thiện việc cung cấp thông tin và quyền tiếp cận thông tin ............ 67
2.4 . Mở rộng lĩnh vực cho phép đầu tư nước ngoài .................................. 68
2.5. Thực hiện công bằng trong việc mua lại cổ phần ............................... 68
2.6. Tăng lượng giao dịch trên thị trường chứng khoán ............................. 69
2.7. Thực hiện ưu đãi về thuế .................................................................... 69
2.8. Cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường cạnh tranh để giảm chi
phí giao dịch cho người nước ngoài................................................... 70
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN CHÂU Á
DNNN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
FDI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
FPI ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI- ĐẦU TƯ DANH MỤC CHỨNG KHOÁN
GDP TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI IMF QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ NHTM NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
ODA HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC
TTCK THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TTGDCK TRUNG TÂM GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
UBCKNN UỶ BAN CHỨNG KHOÁN NHÀ NƯỚC
USD ĐÔ LA MỸ
WB NGÂN HÀNG THẾ GIỚI
LỜI NÓI ĐẦU
MỘT TRONG NHỮNG MỤC TIÊU CHỦ YẾU CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA KHI XÂY DỰNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN LÀ NHẰM TẠO RA MỘT KỆNH HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN MỚI NHẰM PHỤC VỤ CHO CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HOÁ- HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC, TRONG MỤC TIÊU ĐÓ BAO GỒM CẢ VIỆC HUY ĐỘNG VỐN TỪ BÊN NGOÀI. KINH NGHIỆM Ở NHIỀU NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN CHO THẤY THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ĐÃ ĐÓNG GÓP MỘT VAI TRÒ LỚN TRONG VIỆC THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TỪ BÊN NGOÀI, GÓP MỘT PHẦN QUAN TRỌNG VÀO NHỊP ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VỪA MỚI ĐƯỢC THÀNH LẬP, QUY MÔ CÒN NHỎ BÉ, CƠ CHẾ VẬN HÀNH VÀ VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN CÒN NHIỀU BẤT CẬP, MỨC ĐỘ QUAN TÂM VÀ HIỂU BIẾT CỦA NGƯỜI ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CŨNG NHƯ TRONG NƯỚC CÒN NHIỀU HẠN CHẾ. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG HƠN 3 NĂM QUA CHO THẤY NGUỒN VỐN VÀ SỐ LƯỢNG NGƯỜI ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CHƯA NHIỀU, CHƯA CÓ CÓ TÁC ĐỘNG THỰC SỰ TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐẤT NƯỚC. VÌ VẬY CẦN PHẢI CÓ CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT ĐƯỢC NHIỀU HƠN NỮA NGUỒN VỐN NÀY.
CÙNG VỚI CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM NÓI CHUNG, VIỆC THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CŨNG LÀ MỘT VIỆC LÀM QUAN TRỌNG, NÓ CÓ Ý NGHĨA LỚN TRONG CHIẾN LƯỢC TRANH THỦ TỐI ĐA CÁC NGUỒN LỰC BÊN NGOÀI ĐỂ ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA. CHÍNH VÌ LÝ DO ĐÓ MÀ EM CHỌN ĐỀ TÀI: " MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM".
DO KIẾN THỨC TÍCH LUỸ ĐƯỢC CÒN HẠN CHẾ, KHOÁ LUẬN KHÔNG TRÁNH KHỎI NHIỀU SAI SÓT, RẤT MONG SẼ NHẬN ĐƯỢC Ý KIẾN VÀ ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC THẦY CÔ.
EM CŨNG XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN CÔ GIÁO – TIẾN SĨ NGUYỄN HOÀNG ÁNH ĐÃ NHIỆT TÌNH GIÚP ĐỠ EM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN KHOÁ LUẬN NÀY.
NỘI DUNG CỦA KHOÁ LUẬN GỒM BA CHƯƠNG:
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I.LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN NƯỚC NGOÀI
1.Khái niệm về vốn nước ngoài
Trong lịch sử giao lưu kinh tế giữa các vùng kinh tế khác nhau đã diễn ra nhiều hình thức trao đổi và di chuyển các nguồn lực. Ban đầu hình thức tương đối đơn giản - đơn giản cả về đối tượng và hình thức di chuyển. Trong thời kỳ nô lệ, hình thức di chuyển sức lao động của nông lô là điển hình. Do nhu cầu về sức lao động rất lớn ở các vùng có nền nông nghiệp phát triển nên nô tì được mua về từ các vùng khác nhau để làm việc tại các vùng
này.
Trong thời kỳ phong kiến, hiện tượng di chuyển các nguồn lực vẫn diễn ra. Thời kỳ này đối tượng di chuyển không chỉ còn là sức lao động mà còn kèm theo sự di chuyển về nguyên vật liệu cho sản xuất.
Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, các hình thức di chuyển và trao đổi các nguồn lực được thực hiện một cách đa dạng và phong phú hơn. Thời kỳ đầu, xu hướng di chuyển các nguồn lực được thực hiện một chiều từ các nước bị đô hộ tới các nước đi đô hộ. Các nước đi đô hộ vơ vét, tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của các nước bị đô hộ để thực hiện công cuộc phát triển của chính mình. Trong thời kỳ này, đối tượng di chuyển chủ yếu là tài nguyên, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất và đời sống, hình thức di chuyển hầu hết mang tính “ bóc lột”.
Khi chủ nghĩa đế quốc sụp đổ, sự đô hộ của các nước đế quốc đối với các nước thuộc địa không còn nữa, hình thức và đối tượng di chuyển của các nguồn lực cũng có sự thay đổi. Nguồn lực di chuyển ở đây cũng phong phú hơn, nó không chỉ dừng lại ở sức lao động và nguyên nhiên vật liệu mà còn có công cụ sản xuất và kĩ thuật sản xuất. Hình thức di chuyển các nguồn lực chủ yếu dưới dạng đầu tư nước ngoài - đầu tư giữa các quốc gia, khu vực với nhau. Xu hướng di chuyển các nguồn lực cũng không còn theo một chiều từ các nước bị đô hộ sang các nước đô hộ nữa mà đã xuất hiện chiều ngược lại từ các nước tư bản phát triển sang các nước trước đây là thuộc địa, giữa các nước tư bản phát triển với nhau.
Sự di chuyển nguồn lực phục vụ cho sản xuất kinh doanh nói riêng và phát triển nền kinh tế nói chung diễn ra ngày càng sâu sắc; đa dạng về hình thức di chuyển, phong phú về đối tượng di chuyển và đa phương về xu hướng di chuyển. Các hình thức di chuyển được thực hiện thông qua đầu tư quốc tế, viện trợ và hỗ trợ quốc tế, liên kết kinh doanh. Đối tượng di chuyển là sức lao động, nguồn lực tài chính và đặc biệt là kĩ thuật, công nghệ sản xuất, quản lý kinh doanh. Xu hướng di chuyển được thực hiện giữa các nước phát triển với
các nước đang phát triển và ngược lại, giữa các nước phát triển và phát triển, giữa các nước
đang phát triển với nhau.
Như vậy, trong suốt quá trình lịch sử phát triển kinh tế của loài người luôn diễn ra hiện tượng di chuyển nguồn lực giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới. Xét trên phương diện một quốc gia, thì sự di chuyển các nguồn lực từ bên ngoài vào quốc gia đó gọi là nguồn lực bên ngoài hay nguồn vốn nước ngoài. Như vậy, chúng ta có thể hiểu nguồn lực bên ngoài hay nguồn vốn nước ngoài là tất cả những nguồn lực nằm bên ngoài phạm vi địa lý của một quốc gia được huy động vào quốc gia đó.
Do có sự phát triển của sản xuất, nguồn vốn nước ngoài cũng phong phú dần lên. Ban đầu, do nền sản xuất chủ yếu là chăn nuôi và trồng chọt do vậy chỉ xuất hiện nhu cầu về sức lao động, hơn nữa, do có sự thiếu hụt và dư thừa sức lao động ở các vùng khác nhau nên nguồn vốn nước ngoài được di chuyển chỉ đơn thuần là sức lao động.
Khi nền sản xuất phát triển hơn, nhu cầu không chỉ dừng lại ở sức lao động mà còn có thêm nhu cầu về nguyên nhiên liệu, mặt khác, do sự phân bố tài nguyên ở các vùng khác nhau là khác nhau dẫn đến sự thiếu hụt và dư thừa nguyên nhiên vật liệu sản xuất, do vậy nguồn vốn nước ngoài lúc này bao gồm sức lao động và nguyên, nhiên vật liệu.
Khi chủ nghĩa tư bản phát triển, kèm theo nó là sự phát triển rất nhanh của khoa học kĩ thuật làm cho nền sản xuất phát triển đạt đến trình độ cao hơn. Khoa học kĩ thuật được áp dụng nhiều hơn vào sản xuất. Nhiều công nghệ sản xuất, quản lý mới ra đời và nó trở thành yếu tố không thể thiếu trong sản xuất kinh doanh. Lúc này, nguồn lực bên ngoài không chỉ gồm sức lao động và nguyên nhiên vật liệu mà còn có thêm cả yếu tố kĩ thuật, công nghệ, nguồn lực tài chính phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Sản xuất càng phát triển, nguồn vốn nước ngoài di chuyển giữa các nước, các khu vực khác nhau ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Hầu hết các yếu tố phục vụ cho sản xuất đều có thể trở thành yếu tố được di chuyển trên thế giới. Và nó trở thành nguồn vốn nước ngoài cho quốc gia tiếp nhận nó.
Như vậy, nguồn vốn nước ngoài không chỉ bao gồm các yếu tố hữu hình như vốn, máy móc thiết bị, nguyên nhiên liệu,... mà còn bao gồm cả yếu tố vô hình như công nghệ; kĩ thuật; bí quyết; danh tiếng, tác phong kinh doanh... .
Nguồn vốn nước ngoài tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau. Do vậy, để có những phân tích sâu hơn về đặc điểm và vai trò của nó chúng ta sẽ phân chia nguồn vốn nước ngoài ra thành từng loại khác nhau.
2.Phân loại vốn nước ngoài
2.1 Phân loại dựa trên hình thức tồn tại của từng loại vốn
Theo hình thức tồn tại nguồn vốn nước ngoài bao gồm hai loại chính: hữu hình và vô
hình.
a) Vốn nước ngoài tồn tại hữu hình
Vốn nước ngoài tồn tại hữu hình là tất cả các nguồn lực hữu hình bên ngoài được huy động vào một quốc gia. Bao gồm:
- Vốn nước ngoài là các nguồn lực tài chính tồn tại dưới dạng các loại tín dụng ( bao gồm tín dụng bằng tiền, hoặc tín dụng thương mại, lại vốn này có thể là tiền mặt hoặc có thể là hàng hoá).
- Vốn nước ngoài là máy móc thiết bị và các công cụ phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
- Vốn nước ngoài là nguyên, nhiên liệu phụ cho sản xuất:
b) Nguồn vốn nước ngoài tồn tại vô hình
Nguồn vốn nước ngoài tồn tại vô hình là tất cả các nguồn lực vô hình bên ngoài huy
động vào một quốc gia. Bao gồm:
- Vốn nước ngoài là công nghệ sản xuất, quản lý, khoa học kĩ thuật, bí quyết sản xuất kinh doanh.
- Danh tiếng, nhãn mác thương mại, uy tín kinh doanh ... : là các yếu tố đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá của mình thông qua đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Vốn nước ngoài dưới dạng sức lao động, chất xám được huy động từ bên ngoài vào công cuộc phát triển của một quốc gia: Kèm theo các dự án sản xuất kinh doanh, kèm theo các chương trình phát triển của nước cung cấp vốn nước ngoài là một đội ngũ chuyên gia, công nhân kĩ thuật cao ... sang làm việc trực tiếp tại nước nhận, nước tiếp nhận nó có thể sử dụng nguồn lực này cho công cuộc phát triển của mình.
2.2 Phân loại vốn theo hình thức di chuyển
Nguồn vốn nước ngoài có thể chảy vào một quốc gia dưới nhiều hình thức khác nhau và có xu hướng tạo ra những ảnh hưởng khác nhau tới nền kinh tế.
Căn cứ theo hình thức di chuyển và tác động đến nền kinh tế của từng loại, hiện nay có nhiều cách phân loại vốn nước ngoài khác nhau. Ví dụ như theo IMF, họ sử dụng khái niệm “các nguồn tài chính bên ngoài ” đối với các nước đang phát triển (external financial resources to developing countries) và chia thành hai loại:
- Các khoản viện trợ, giúp đỡ : bao gồm các khoản viện trợ song phương, các khoản viện trợ đa phương (bao gồm cả các tổ chức tình nguyện tư nhân) và các khoản hỗ trợ phát triển chính thức khác..
- Dòng vốn đầu tư tư nhân: bao gồm đầu tư trực tiếp, đầu tư chứng khoán, tín dụng xuất khẩu tư nhân, vay ngân hàng.
Căn cứ theo cách phân chia của các nhà kinh tế Việt Nam và để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, trong phạm vi khoá luận này xin phân chia nguồn vốn nước ngoài thành các loại chính sau :
- Vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI)
Vốn nước ngoài dưới dạng đầu tư trực tiếp là tất cả các nguồn lực được đầu tư vào một quốc gia và chịu sự chi phối và quản lý trực tiếp từ các chủ đầu tư nước ngoài. Đây là loại vốn nước ngoài được đầu tư trực tiếp từ bên ngoài vào nước nhận vốn. Nó thường tồn tại dưới dạng đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào nước tiếp nhận. Các nguồn vốn nước ngoài được sử dụng trực tiếp tại nước tiếp nhận dưới sự quản lý của chủ đầu tư. Đây là bộ phận quan trọng trong các luồng vốn vào, nó có tính chất dài hạn, không rằng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nước tiếp nhận, thường đi kèm với chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, …
- Tín dụng thương mại:
Đây là hình thức bên nước ngoài cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay, bên nước ngoài chủ yếu các ngân hàng nước ngoài nên nguồn vốn này còn được gọi là vốn vay ngân hàng. Ngoài ra còn có một phần nhỏ khác là tín dụng xuất khẩu tư nhân (bên nước ngoài khi xuất khẩu cho chịu tiền hàng một thời gian). Đối với loại vốn này, bên nước ngoài không tham gia vào hoạt động của bên đi vay và bên vay vốn có toàn quyền sử dụng khoản vốn này, bên chủ đầu tư nước ngoài chỉ thu lợi nhuận qua lãi suất ngân hàng cố định theo khế ước vay độc lập với kết quả kinh doanh.
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và khoản tài trợ có hoàn lại (cho vay dài hạn với một số số thời gian ân hạn và lãi suất thấp) của chính phủ, các hệ thống của tổ chức Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế (như Ngân hàng thế giới WB, Ngân hàng phát triển châu Á – ADB, Quỹ tiền tệ quốc tế – IMF…) dành cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ. Các cơ quan và tổ chức hỗ trợ phát triển nêu trên được gọi chung là đối tác viện trợ nước ngoài. Hình thức này luôn được các chính phủ quan tâm vì tính chất của nó: cho không, cho vay ưu đãi, thời gian ân hạn và đáo hạn dài, có cả chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý. Hạn chế của hình thức này là các điều kiện áp đặt của các nhà tài trợ, tính hiệu quả và bền vững của khoản vốn, có thể gây gánh nặng nợ nần cho tương lai nếu không sử dụng có hiệu quả, có thể kèm các yếu tố chính trị, hối lộ…
Các hình thức chủ yếu của nguồn vốn ODA gồm hỗ trợ dự án, hỗ trợ phi dự án, hỗ
trợ cán cân thanh toán và tín dụng thương mại (là những khoản tín dụng dành cho chính
phủ các nước sở tại với các điều khoản “mềm” về lãi suất, thời gian ấn hạn, thời hạn trả dài nhưng có những rằng buộc nhất định).
- Vốn nước ngoài dưới dạng đầu tư danh mục chứng khoán (FPI)
Đây là dạng đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư nước ngoài bỏ tiền ra mua chứng khoán (gồm cổ phiếu, trái phiếu, và các chứng từ phái sinh) để thu lợi nhuận thông qua cổ tức, trái tức hoặc chênh lệch giá nhờ đầu cơ chứng khoán. Nguồn vốn này đã và đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong hầu khắp các nền kinh tế, trên thực tế nhiều các quốc gia đã sử dụng kênh này để huy động nguồn tài trợ từ bên ngoài một cách có hiệu quả.
Ngoài ra vốn nước ngoài còn có các nguồn vốn khác như kiều hối, các khoản quà tặng, quà biếu, thừa kế, chuyển tiền từ nước ngoài … cũng đáng lưu tâm, đặc biệt là các quốc gia có số lượng công dân sống và làm việc ở nước ngoài lớn. Tuy nhiên nếu xét về tổng thể thì các nguồn này thường là nhỏ và không có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế vĩ mô. Ta có thể bỏ qua các khoản này.
Để phục vụ mục đích nghiên cứu của khoá luận, ta có thể khái quát cơ cấu nguồn vốn vào một quốc gia thành 4 nguồn vốn nước ngoài chính:
- Vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI)
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
- Tín dụng thương mại
- Đầu tư danh mục chứng khoán (FPI)
II. LÝ LUẬN VỀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (FPI)
1. Khái niệm
Như đã nói ở trên, đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là một trong những nguồn vốn nước ngoài chính và nó ngày càng trở nên quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu vốn nước ngoài.
Thị trường chứng khoán đã ra đời từ rất sớm, bản thân nó là một kênh huy động vốn trực tiếp trong nền kinh tế quốc dân. Đó là nơi mà các nhà đầu tư tìm kiếm, thay đổi cơ hội và lĩnh vực đầu tư của mình. Nếu khung pháp lý cho hoạt động này chỉ bó hẹp đối với các nhà đầu tư trong nước thì thị trường chứng khoán chỉ đơn thuần là một kênh huy động vốn trong nước. Nhưng nếu khung pháp lý mở rộng ra cho các nhà đầu tư nước ngoài thì đây lại là một kênh huy động vốn nước ngoài cho nền kinh tế. Trên thực tế, do những ưu điểm nổi bật của thị trường chứng khoán, do xu hướng tự do hoá tài chính, hầu hết các quốc gia có thị trường chứng khoán đều cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép
tham gia vào thị trường chứng khoán. Những nước này, ở một chừng mực nào đó, đã thành công trong việc thu hút vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán.
Đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là việc nhà đầu tư nước ngoài (có thể là cá nhân hoặc tổ chức) bỏ tiền ra mua chứng khoán của một tổ chức hay của nhà nước được phát hành trên thị trường chứng khoán nhằm kiếm lời từ thu nhập cổ tức hay trái tức hoặc từ chênh lệch giá do kinh doanh chứng khoán đem lại.
2. Đặc điểm
Đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán hay đầu tư danh mục chứng khoán (FPI) là một bộ phận cấu thành của tổng luồng vốn chu chuyển chu chuyển vào và ra một quốc gia. Xét về mặt bản chất, đầu tư danh mục chứng khoán FPI rất gần với đầu tư trực tiếp FDI, vì nó đều là những khoản đầu tư trực tiếp vào doanh nghiệp và trực tiếp hưởng lợi từ kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Điều khác nhau lớn nhất giữa FDI và FPI chính là ở chỗ nhà đầu tư nước ngoài có hay không tham gia quản lý doanh nghiệp. Chính vì vậy mà tại nhiều nước FDI và FPI được điều chỉnh chung trong một bộ luật và thường lấy một tỷ lệ nhất định về nắm giữa của bên nước ngoài để phân định giữa FDI và FPI (ví dụ Nhật là 10%, New Zealand là 25%). Đây là một đặc điểm đáng lưu ý trong quan niệm về FDI và FPI. Thứ nhất: FPI là loại hình đầu tư không tham gia quản lý, không chuyển giao công nghệ và dễ đột biến, nhưng khi “lượng” FPI đạt đến một mức độ nhất định thì sẽ biến về “chất”: tham gia quản lý, chuyển giao công nghệ và ít đột biến hớn. Thứ hai: điểm để lượng FPI biến thành FDI có thể khác nhau do các nhà hoạch định chính sách ở từng nước ấn định, dựa vào điều kiện cụ thể về kinh tế, trình độ quản lý, tập quán kinh doanh ở nước đó.
Các quốc gia huy động vốn nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán thường thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty và cổ phiếu của các doanh nghiệp cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Do tính chất của trái phiếu và cổ phiếu rất khác nhau do vậy vốn nước ngoài huy động bằng trái phiếu và cổ phiếu cũng rất khác nhau. Ngoài đặc điểm chung là đầu tư với mục đích lợi nhuận và có tính đầu cơ, nguồn vốn đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán còn có các đặc điểm khác nhau tuỳ thuộc vào việc nó là vốn huy động từ cổ phiếu hay trái phiếu.
a) Đặc điểm về vốn đầu tư nước ngoài huy động thông qua việc phát hành trái phiếu.
Chính phủ và hầu hết các công ty phát hành trái phiếu đều với mục đích thu được nguồn vốn sử dụng cho mục tiêu dài hạn vì vậy nguồn vốn dạng này có một số đặc điểm sau:
- Thời hạn sử dụng khá dài, thời hạn của nguồn vốn thu từ việc bán trái phiếu chính phủ
thường dài hơn so với doanh nghiệp.
Không chỉ các quốc gia đang phát triển mà ngay cả các quốc gia phát triển cũng có lúc cần phải huy động nguồn vốn nước ngoài bằng việc phát hành trái phiếu. Khoản vốn này được dùng cho các chương trình, dự án hoặc để bù đắp tạm thời ngân sách bị thiếu hụt. Thời hạn của các khoản vay này thường rất dài vì mục đích sử dụng nguồn vốn này hầu hết dành cho các dự án lớn, lâu dài của chính phủ. Đối với các công ty, khi cần mở rộng kinh doanh, nâng cao trình độ kĩ thuật công nghệ hoặc thực hiện chiến lược đầu tư lâu dài của mình cũng cần phải có một lượng vốn khá lớn trong khoảng thời gian dài.
- Lãi suất của loại này thường cao hơn so với lãi suất vay bằng ODA.
Vì mục đích của nhà đầu tư là thu lợi nhuận thông qua khoản lãi suất được hưởng từ việc mua trái phiếu, nên các nhà đầu tư luôn đặt yêu cầu lãi suất lên hàng đầu. Do vậy, công ty hoặc chính phủ khi phát hành trái phiếu luôn phải định ra mức lãi suất đủ cao để thu hút nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí lãi suất loại này còn cao hơn cả lãi suất trung bình trên thế giới bởi vì lãi suất loại này còn tính đến cả yếu tố rủi ro lạm phát và một số rủi ro khác.
- Không kèm theo bất kỳ một điều kiện gì hay một sự rằng buộc nào từ phía bên cung cấp vốn.
Đây là một ưu điểm nổi bật so với vốn ODA của loại vốn này, nó rất có lợi cho bên tiếp nhận vốn vì sẽ không phải chịu các điều kiện bất lợi khác từ phía bên cung cấp.
- Không bị hạn chế về mục đích sử dụng và chịu sự giám sát trong việc sử dụng vốn.
Đây là một ưu điểm nữa so với nguồn vốn ODA, vì nền kinh tế không phải chịu sự chi phối về mục đích sử dụng của nhà đầu tư. Chính vì vậy mà nền kinh tế có thể tận dụng tối đa tác dụng của vốn, sử dụng phục vụ cho đúng mục đích phát triển của mình.
- Phát sinh nợ cho bên tiếp nhận.
Thực chất đây là một khoản vốn vay dài hạn của bên phát hành trái phiếu với nhà đầu tư, trái phiếu luôn có một khoảng thời gian nợ xác định trước và việc trả nợ được đảm bảo bằng cam kết của chính phủ và các doanh nghiệp.
b) Đặc điểm về vốn đầu tư nước ngoài huy động thông qua việc phát hành cổ
phiếu của doanh nghiệp.
Tuỳ thuộc vào khung pháp lý của nước huy động qui định về tính chất của cổ phiếu mà nguồn vốn nước ngoài huy động từ cổ phiếu có khác nhau. Nhưng chủ yếu là có các đặc điểm sau:
- Thời hạn sử dụng dài và phụ thuộc vào (tại Việt Nam) doanh nghiệp nhận vốn .
- Lãi suất rất cao, nó tương đương với mức lợi nhuận được chia mà các doanh nghiệp trong nước tạo ra.
Đặc điểm của cổ phiếu là: các nhà đầu tư sở hữu hợp pháp cổ phiếu đó sẽ được hưởng một khoản lãi suất tính trên cơ sở kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Mặt khác, kết quả kinh doanh thường cao hơn rất nhiều so với lãi suất tiền gửi thông thường. Do vậy lãi suất của cổ phiếu thường cao hơn lãi suất thông thường.
- Việc sử dụng nguồn vốn này có thể hoặc không phụ thuộc vào bên cung cấp vốn tuỳ theo qui định pháp lý về việc tỷ lệ mua cổ phiếu của bên nước ngoài đối với doanh nghiệp trong nước.
Khi cho ra đời thị trường chứng khoán, các nước đang phát triển có nền kinh tế đang cần được bảo hộ ở mức cao luôn phải cân nhắc vấn đề nên hay không nên cho phép bên nước ngoài mua cổ phiếu của các công ty trong nước, và nếu cho phép thì tỷ lệ mua này là bao nhiêu. Thường thì các nước này luôn chọn giải pháp cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của các công ty trong nước nhưng với tỷ lệ không quá một mức độ nào đó để họ không có quyền thâu tóm công ty. Và như vậy, nước tiếp nhận vốn vẫn có thể huy động được nguồn vốn nước ngoài mà không bị lệ thuộc vào nhà đầu tư ở mức cao.
- Không làm phát sinh nợ cho nước tiếp nhận.
- Không bị rằng buộc bởi bất cứ điều kiện nào từ phía cung cấp vốn.
Đặc điểm này có được là vì khi quyết định đầu tư bằng việc mua cổ phiếu, các nhà đầu tư nước ngoài luôn phải tính toán cân nhắc rất kỹ lưỡng, và khi đã đầu tư vào thì không được phép nêu ra bất kỳ một rằng buộc hay điều kiện gì. Như vậy, việc đầu tư hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, không được phép có thêm một điều kiện gì.
3. Vai trò của nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán
Thu hút nguồn vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán để bổ sung cho các nguồn vốn khác trong và ngoài nước nhằm phát triển kinh tế là một chủ trương lớn của Đảng và chính phủ.
3.1. Vai trò chung của nguồn vốn nước ngoài:
Các nước đang phát triển là những nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế một cách toàn diện và sâu sắc. Nhu cầu về vốn trong giai đoạn này là rất lớn; vốn phục vụ cho việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, vốn cho việc xây dựng và cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, vốn cho việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp mới mang tính chủ đạo, vốn cho việc giải quyết các vấn đề kinh tế nảy sinh trong thời kỳ chuyển đổi như thất
nghiệp, trình độ lao động…, vốn cho việc nhập khẩu công nghệ máy móc hiện đại đáp ứng yêu cầu đổi mới và cạnh trên trường quốc tế.Chính vì vậy việc huy động thêm các nguồn lực từ bên ngoài trong giai đoạn này là thực sự cần thiết.
Trong tình trạng ._.nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu dựa vào nông nghiệp và công nghiệp chế biến thô sơ, tích luỹ từ bản thân nền kinh tế còn quá thấp. Hơn nữa, cũng từ việc sản xuất kém phát triển dẫn đến thu nhập của người dân thấp từ đó làm cho tiết kiệm trong dân rất ít. Tích luỹ (mức độ tái đầu tư trích từ lợi nhuận) của nền kinh tế thấp, tiết kiệm trong dân thấp dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho đổi mới. Vì vậy nguồn vốn nước ngoài có vai trò bổ sung nguồn vốn đầu tư, tăng tốc độ tái đầu tư, cần thiết cho một tiến trình tăng tốc nhanh.
3.2.Vai trò riêng nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán
Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán có những đặc điểm riêng do vậy nó cũng có những vai trò riêng đối với sự phát triển kinh tế của nước tiếp nhận.
- Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán có vai trò cung cấp, bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp mở rộng qui mô sản xuất. Trong bối cảnh việc huy động nguồn vốn trung và dài hạn trong nước còn nhiều khó khăn, nhất là ở Việt Nam phải sử dụng cả các khoản tiền gửi ngắn hạn tại các ngân hàng để tài trợ, thì việc thu hút sử dụng vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán là cần thiết.
- Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán chủ yếu là dưới dạng tiền tệ, do vậy nó cũng giúp chính phủ bù đắp phần nào cán cân thanh toán, từ đó giảm bớt áp lực về cầu ngoại tệ. Các nước đang phát triển đều ra sức thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế, cần phải nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, công nghệ… và các yếu tố sản xuất khác từ bên ngoài, do vậy rất cần ngoại tệ để có thể nhập khẩu. Các nước này thường xảy ra tình trạng thiếu ngoại tệ, ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh toán. Thu hút vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán cũng là một biện pháp để điều chỉnh sự thiếu hụt của cán cân thanh toán.
- Vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán còn có vai trò tăng khả năng thanh toán và hiệu suất của thị trường vốn nội địa. Và một thị trường vốn với khả năng thanh toán và hiệu suất cao sẽ cho phép các nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Khi có một lượng vốn gián tiếp chảy vào theo hình thức đầu tư qua Thị trường chứng khoán, dung lượng vốn của thị trường chứng khoán sẽ cao hơn, khả năng thanh khoản sẽ cao hơn, thúc đẩy các nhà đầu tư tiến hành nghiên cứu, rót thêm vốn vào nền kinh tế, làm cho thị trường vốn phát triển. Khi thị trường vốn phát triển, tính thanh khoản tăng, rủi ro thanh toán cũng giảm xuống, các khoản đầu tư dài hạn cũng hấp dẫn hơn, cho phép các nhà
đầu tư lựa chọn đầu tư chứng khoán như là một hình thức hấp dẫn hơn gửi tiết kiệm ở ngân hàng, từ đó vốn cho nền kinh tế được tăng cường với mức chi phí thấp hơn và năng lực sản xuất theo đó cũng được phát triển. Đó là chưa kể các tác động khác khi Thị trường chứng khoán phát triển như: tăng cường tính minh bạch và khả năng quản trị của công ty, cung cấp các phương tiện bảo hiểm cho các tổ chức tài chính, giảm tính bất ổn định của ngoại
hối…
- Dòng vốn vượt qua biên giới này cũng đạt ra yêu cầu tạo điều kiện tăng cường chất lượng hoạt động của các trung gian tài chính. Các định chế tài chính nước ngoài có thể mang các kỹ thuật quản lý, các giáo trình đào tạo, công nghệ, sản phẩm mới vào thị trường trong nước. Sức ép cạnh tranh mà các định chế tài chính nước ngoài tạo ra buộc các tổ chức trong nước phải cải cách hoạt động hiệu quả hơn, linh hoạt hơn với chi phí thấp hơn. Nó cũng thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức phụ trợ trên thị trường như định mức tín nhiệm, kế toán, kiểm toán, các đơn vị chuyên thu thập và cung cấp tin tức.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán cũng yêu cầu nền kinh tế phát triển lành mạnh, duy trì một hệ thống chính sách tốt, có khả năng kiểm soát dự đoán trước, minh bạch, công bằng. tạo tâm lý tin cậy cho nhà đầu tư trong và ngoài nước. Vì nguồn vốn này có tính dễ đột biến, nếu không tạo được tâm lý tin cậy cho các nhà đầu tư, rất dễ xảy ra tình trạng đào tháo vốn là một trong nguyên nhân gây nên khủng hoảng.
III. KINH NGHIỆM THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN MỘT SỐ NƯỚC
TRONG KỶ NGUYÊN TOÀN CẦU HOÁ CÁC NỀN KINH TẾ HIỆN NAY, NỀN KINH TẾ CỦA MỘT QUỐC GIA NÓI CHUNG VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NÓI RIÊNG KHÔNG THỂ TỒN TẠI NHƯ MỘT ỐC ĐẢO RIÊNG BIỆT. SỰ THAM GIA, THÂM NHẬP CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI (BAO GỒM CẢ NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN VÀ NHÀ ĐẦU TƯ CÓ TỔ CHỨC) VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA MỘT NƯỚC LÀ ĐIỀU ĐƯƠNG NHIÊN VÀ HIỆN NAY TRÊN THẾ GIỚI THẬM CHÍ ĐANG CÓ XU HƯỚNG NHẤT THỂ HOÁ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA NHIỀU QUỐC GIA TRONG KHU VỰC.
MÔ HÌNH PHÂN TÍCH NGUỒN FPI HIỆN ĐANG ĐƯỢC CÁC NHÀ KINH TẾ VÀ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC SỬ DỤNG LÀ MÔ HÌNH ĐẦU TƯ- HAY MÔ HÌNH “KÉO”. CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI LUÔN ĐÁNH GIÁ CÁC CƠ HỘI ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC CŨNG NHƯ NGOÀI NƯỚC, VÀ KHI HỌ THẤY RẰNG CƠ HỘI CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TẠO RA LỢI TỨC CAO HƠN THÌ HỌ SẼ QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ. YẾU TỐ THU HÚT CÁC NHÀ ĐẦU
TƯ LÀ CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA THỊ TRƯỜNG NƯỚC TIẾP NHẬN, HAY TRIỂN VỌNG TĂNG TRƯỞNG CAO LÀ TIỀN ĐỀ VÀ DẪN TỚI ĐẦU TƯ VỐN. MUỐN THU HÚT VÀ GIỮ LẠI VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI THÌ PHẢI TIẾN HÀNH CẢI CÁCH NỀN KINH TẾ NHẰM CẢI THIỆN CƠ CẤU, TĂNG KHẢ NĂNG TĂNG TRƯỞNG CAO, GIẢM CÁC RỦI RO TRONG MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRÊN NHƯ : TỰ DO HOÁ THỊ TRƯỜNG, CẢI TỔ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG, TÀI CHÍNH, THUẾ, QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP, KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ, TƯ NHÂN HOÁ.
TRONG SUỐT MẤY THẬP KỶ TRƯỚC KHI DIỄN RA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ, CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á NHỜ NHỮNG CHÍNH SÁCH MỞ CỬA, DUY TRÌ ĐƯỢC MỨC TĂNG TRƯỞNG CAO, ĐÃ TẠO RA ĐƯỢC CÁC YẾU TỐ “KÉO” ĐẦY HẤP DẪN, THU HÚT ĐƯỢC MỘT KHỐI LƯỢNG VỐN KHỔNG LỒ, GÓP PHẦN KHÔNG NHỎ VÀO SỰ PHÁT TRIỂN NHANH CHÓNG CỦA CÁC NƯỚC NÀY.
TUY NHIÊN, FPI LÀ NGUỒN VỐN CÓ ĐỘ NHẠY CẢM CAO, TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU, ĐỂ ĐẢM BẢO TÍNH ỔN ĐỊNH VÀ BỀN VỮNG CỦA THỊ TRƯỜNG, TRÁNH ĐƯỢC NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC TỪ BÊN NGOÀI, HẦU HẾT CÁC NƯỚC ĐỀU CÓ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ VÀ HẠN CHẾ SỰ THAM GIA CỦA NƯỚC NGOÀI VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. SAU ĐÓ KHI THỊ TRƯỜNG PHÁT TRIỂN, CÁC QUY ĐỊNH HẠN CHẾ NÀY SẼ ĐƯỢC DẦN NỚI LỎNG HOẶC BÃI
BỎ.
DƯỚI ĐÂY LÀ KINH NGHIỆM CỦA INDONESISA VÀ HÀN QUỐC, NHỮNG NƯỚC MÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ĐÃ PHÁT TRIỂN TRƯỚC VIỆT NAM VÀ ĐÃ TRẢI QUA CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ GIỐNG VIỆT NAM NGÀY NAY.
1. Kinh nghiệm của Indonesia
Indonesisa đã đạt được mức tăng tăng trưởng kinh tế cao trong giai đoạn 1970- 1997 trước khi khủng hoảng bùng nổ, trong thời gian đó tăng trưởng GDP của Indonesia trung bình đạt 6,8% năm, tình trạng nghèo đói giảm và lạm phát được giữ ở mức vừa phải.
Trong giai đoạn phát triển ban đầu, Indonesia tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng của đất nước, đây là quá trình được đầu tư dài hạn. Trong khi tiết kiệm trong nước còn ít, nguồn đầu tư được lấy từ các tổ chức quốc tế đa phương, các chính phủ nước ngoài và các nhà cho vay tư nhân quốc tế. Tăng trưởng nhanh trong hoạt động của khu vực tư nhân cũng làm tăng dòng vốn đổ vào. Đầu tư vào khu vực tư nhân có thời gian đáo hạn ngắn hơn, dẫn
đến nợ ngắn hạn tăng nhanh,. Sự tăng vọt của các khoản đầu tư ngắn hạn làm tăng rủi ro các dòng vốn đổ vào, góp phần gây nên cuộc khủng hoảng 1997.
Vào khoảng thập kỷ 70 và 80, hầu hết dòng vốn vào dưới hình thức ODA. Từ cuối những năm 80 đến nay, cơ cấu dòng vốn đã chuyển theo hướng tỷ trọng vốn tư nhân ngày càng tăng tương ứng với vai trò ngày càng tăng của khu vực tư nhân trong nền kinh tế Indonesia. Dòng vốn đổ vào Indonesia đã tăng nhanh trong giai đoạn từ 1990 đến 1996, do xuất hiện những khoản vay không chính thức trên cơ sở nới lỏng xoá bỏ những hạn chế đối với các khoản vay thương mại, được sử dụng công cụ swap và lãi suất trong nước tăng cao so với lãi xuất bên ngoài. Số dư các khoản vay tư nhân đã thay đổi từ mức cho vay 0,1 tỷ USD năm 1989 sang mức đi vay 0,5 tỷ USD năm 1990, và con số này tăng lên đến 2,6 tỷ USD vào năm 1996.
Đầu tư gián tiếp FPI tăng từ 0,4 tỷ USD trong 2 năm 1989 lên mức 2 tỷ đô la năm
1990, nhưng sau đó giảm xuống 1 tỷ USD trong hai năm 1991 và 1992. Đầu tư gián tiếp có xu hương gia tăng nhờ những biện pháp chính sách khuyến khích của chính phủ đối với thị trường vốn và nhờ có lãi suất tăng lên. Trong giai đoạn đầu, đầu tư gián tiếp tăng lên vào năm 1990 chủ yếu là nhờ sự điều chỉnh các văn bản pháp quy thị trường vốn. Sau năm
1992 dòng vốn gián tiếp vào Indonesia không ngừng tăng lên đạt mức tối đa vào cuối năm
1996 trước khi đi xuống vào năm 1997. Năm 1997, sau những biến động lớn trên Sở giao dịch chứng khoán Jakarta, dòng vốn đầu tư gián tiếp đã suy giảm hết sức nhanh chóng do các nhà đầu tư nước ngoài đã bán tống bán tháo các tài sản của mình.
Có thể rút ra kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997 của Indonesia, cuộc khủng hoảng có một nguyên nhân quan trọng là do không quản lý được nguồn vốn đầu tư gián tiếp FPI. Việc phân bổ nguồn vốn này kém hiệu quả do sự yếu kém của hệ thống giám sát các công ty niêm yết, quản trị công ty kém, các thông tin sai lệch ảnh hưởng đến quyết định của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Indonesia. Chính phủ Indonesia lại không duy trì được cơ cấu hợp lý các nguồn vốn, tỷ trọng nguồn vốn vay ngắn hạn và nguồn vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán FPI chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn vào, đây là hai dòng vốn có nguy cơ rủi ro cao nhất nên khi khủng hoảng xảy ra đã dẫn đến tình trạng dào thoát nhanh chóng của các nguồn vốn này. Trong điều kiện nền kinh tế Indonesia đã mở cửa tương đối thông thoáng và ngày càng phụ thuộc vào bên ngoài, nguồn vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn đầu tư, tác động của cuộc khủng hoảng lại càng trầm trọng hơn.
2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Kinh nghiệm Hàn Quốc cho thấy, trong thời gian đầu chỉ cho phép người đầu tư nước ngoài đầu tư gián tiếp thông qua các quỹ đầu tư, quỹ tín thác, sau đó mới cho phép đầu tư trực tiếp nhưng dưới một mức trần nhất định. Mức trần này có thể được nâng lên, hoặc bãi bỏ trừ đối với một số ngành kinh tế quan trọng như bưu chính viễn thông, điện lực, hàng không...
Các quy định về quản lý đầu tư nước ngoài ở Hàn Quốc được thay đổi gắn liền với tiến trình phát triển của thị trường và thông qua những quyết sách của Chính phủ đối với nền kinh tế qua các giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau:
- 1981: Chính phủ cho phép đầu tư nước ngoài thông qua các quỹ.
- 1985: Chính phủ cho phép phát hành trái phiếu chuyển đổi ra nước ngoài;
- 1990: Chính phủ cho phép phát hành chứng chỉ lưu ký ra nước ngoài;
- 1991: Chính phủ cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài mở chi nhánh tại Hàn Quốc và cho phép một số công ty chứng khoán nước ngoài trở thành thành viên của Sở giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc;
- 1992: Chính phủ cho phép đầu tư trực tiếp nhưng với mức trần là 10%, tỷ lệ này
được nâng dần lên 55%;
1998: bãi bỏ mức trần này (do Chính phủ Hàn Quốc muốn tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài và do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Châu á).
Mức trần đối với cá nhân nước ngoài ở Hàn Quốc tăng chậm, từ 3% lên 6%. Đối với tổ chức nước ngoài thì mức này tăng nhanh hơn từ 10% lên 26%. Tuy nhiên trong thực tế, giới hạn trần đối với từng cá nhân đầu tư nước ngoài có thể bị phá vỡ trong trường hợp các quỹ đầu tư thông nhau.
3. Kinh nghiệm một số nước khác
ở Đài Loan, luật pháp quy định nhà đầu tư là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài có đủ năng lực để có thể mua tới 15% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của bất kỳ một công ty niêm yết nào. Nhưng tổng số vốn cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ không quá 30% vốn cổ phần của một công ty.
ở Thái Lan, các cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài có thể sở hữu tổng cộng không quá 49% cổ phiếu của một công ty và 25% cổ phiếu của một tổ chức tài chính. Riêng với Trung Quốc thì chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một loại cổ phiếu riêng biệt (cổ phiếu B) để dễ bề quản lý.
Ngay tại Mỹ, không phải chứng khoán của công ty bất kỳ nào cũng có thể tham gia vào bảng định giá của NYSE. Đối với các công ty nước ngoài, điều kiện còn chặt chẽ hơn.
Các công ty này phải có một số các chỉ tiêu về số lượng tiền mặt đáng kể. Hơn nữa, ngoài việc trả lệ phí bước đầu và các khoản tiền khác, công ty phải có nghĩa vụ cung cấp bảng thông báo có đăng ký về tình hình tài chính 3 tháng một lần, phải chấp nhận việc không được bán cổ phần nếu không được sự cho phép của thị trường chứng khoán New York, duy trì đại lý chuyển giao để xử lý các văn bản của các cổ đông... Đây là những tiêu chuẩn căn bản mà nếu không đáp ứng được, công ty có thể bị loại ra khỏi danh sách.
Riêng Luật chứng khoán Thái Lan có quy định rất rộng rãi với phía nước ngoài. Người nước ngoài có thể sở hữu 49% vốn của một Công ty, ngành ngân hàng, tài chính là
25%. Một phần nào đó vì lý do này mà khi cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á nổ ra, các nhà đầu tư gián tiếp ồ ạt rút vốn khỏi thị trường làm thị trường chứng khoán Thái Lan sụp đổ, càng làm cho tốc độ khủng hoảng nền kinh tế tăng cao.
Như vậy, việc quản lý và hạn chế sự tham gia của nước ngoài vào thị trường chứng khoán trong giai đoạn đầu, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển là hết sức cần thiết nhằm tránh khả năng thao túng và gây rối loạn thị trường trong khi kinh nghiệm quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, mặc dù nó sẽ làm giảm mức hấp dẫn của thị trường đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1.Tình hình kinh tế vĩ mô
1.1. Các thành tựu
1.1.1.Lạm phát kiềm chế dưới một con số
Trong suốt một thập kỷ trước khi cuộc khủng hoảng Chấu Á xảy ra, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong tiến trình phát triển kinh tế. Tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân một năm trong giai đoạn 1989-1996 là 8,2%. Lạm phát giảm từ mức độ 3 con số trong những năm 80 xuống còn 1 con số trong gần hết các năm thập kỷ 90.
Biểu đồ 1: Tình hình kinh tế vĩ mô
Nguồn: Báo cáo của GSO(1999, trang 31) và IMF (200, trang 3) về tình hình kinh tế
Việt Nam.
1.1.2. GDP tăng trưởng ở mức cao
Bức tranh nền kinh tế của Việt Nam đã được cải thiện đang kể trong vòng 5 năm qua, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997. Sự cải thiện này là nhờ một loạt các chính sách và quy chế đưa nền kinh tế vào một quỹ đạo tăng trưởng trung hạn ở tầm cao hơn, kể cả trong điều kiện môi trường bên ngoài còn chưa thuận lợi. Niềm tin trong khu vực tư nhân được củng cố do chương trình cải cách theo giai đoạn chi tiết đã được thông qua vào năm 2001, số doanh nghiệp tư nhân mới tăng rất nhanh. Năm 2002,
tăng trưởng GDP thực tế là 7%. Những nền tảng căn bản tốt trong ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện cải cách cơ cấu, đi kèm với niềm tin ngày càng được nâng cao trong nền kinh tế, đó chính là những lý do căn bản dẫn đến tăng trưởng GDP nhanh hơn.
1.1.2. Mức tiêu dùng tăng
Mức tăng trưởng được duy trì ở con số cao như vậy là do có sự gia tăng về tổng cầu trong nước. Tỷ lệ tăng tổng mức bán lẻ hàng hoá đã được phục hồi trở lại mức chưa từng có kể từ khi nên kinh tế bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng Đông Á năm 1997. Sản xuất hàng tiêu dùng lâu bền như vật liệu xây dựng nhà, ô tô, xe máy, và ti-vi khẳng định rằng mức tiêu dùng đã tăng nhanh trong giai đoạn này.
Biểu đồ 2: Tỷ lệ tổng mức bán lẻ
Nguồn : Tổng cục thống kê (2002) và ước tính của Ngân hàng thế giới (WB).
1.1.4. Đầu tư phát triển tăng
Việc nhiều doanh nghiệp mới được thành lập và niềm tin vững chắc của các nhà đầu tư đã thúc đẩy việc đầu tư vốn và đưa con số những doanh nghiệp đăng ký mới lên trên 50.000 trong vòng 2 năm qua. Đến tháng 7-2002, vốn đầu tư từ những doanh nghiệp mới đã tăng 45% so với cùng kỳ năm trước. Riêng đầu tư của những doanh nghiệp mới vừa và nhỏ trong khu vực kinh tế chính thức đạt 40 nghìn tỷ đồng ( tương đương với khoảng 2,7 tỷ USD) trong năm
2003, tức là gần 9% GDP. Tổng đầu tư của khu vực nhà nước, kể cả từ nguồn ngân sách và vốn của doanh nghiệp vào khoảng mức 18% GDP năm 2002.
1.1.5. Cơ cấu nền kinh tế dịch chuyển theo hướng kinh tế thị trường
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước tiếp tục dẫn đầu về tăng trưởng. Ngành chế biến tiếp tục tăng mạnh với khu vực tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài đạt tỷ lệ
tăng sản lượng lần lượt là 19% và 15%. Nguyên nhân của xu hướng này là tỷ lệ doanh nghiệp mới được thành lập đạt mức cao trong năm 2002. Với mức tăng sản lượng 12% năm sau so với năm trước, sản xuất công nghiệp của khu vực nhà nước có khiêm tốn hơn. Điều này phản ánh sự chuyển dịch dần dần của Việt Nam sang kinh tế thị trường, nhiều doanh nghiệp nhà nước ngày càng phải đứng trước áp lực cạnh tranh và việc hạn chế ngân sách cứng rắn hơn. Giá trị gia tăng trong khu vực tư nhân đã vượt khu vực nhà nước, ít nhất kể từ năm 1997.
1.2.Một số tồn tại
Tóm lại là sau cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á, tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam có giảm nhưng đã hồi phục trở lại kể từ năm 2000. Tuy nhiên, về lâu về dài thì nền kinh tế của Việt Nam cũng còn có những vấn đề tồn tại cần phải được quan tâm:
1.2.1. Tỷ lệ chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư còn khá lớn
Điều này cho thấy nền kinh tế phát triển phụ thuộc khá nhiều vào vốn vay nước ngoài. Tỷ lệ tiết kiệm dù có gia tăng nhanh chóng nhưng còn thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ tiết kiệm tại một số quốc gia láng giềng trong khu vực (xem biểu đồ 4). Mức tăng trưởng tiết kiệm quốc gia tăng kỷ lục trong năm 1999 có thể sẽ không duy trì được. Lý do là sự lo lắng về mức tăng trưởng kinh tế sau cuộc khủng hoảng Châu Á khiến cho người dân tiết kiệm nhiều hơn trong năm 1999; nhưng những dự đoán về khả năng hồi phục mạnh từ năm
2000 sẽ khiến mức tiết kiệm của dân chúng giảm đi. Hơn nữa, các số liệu về tiết kiệm trong năm 1999 cũng chỉ là số liệu sơ bộ và có thể còn được điều chỉnh. Theo số liệu của ADB thì tỷ lệ tiết kiệm của Việt Nam năm 1999 là 22%. Mặc dầu vậy, để duy trì tỷ lệ tăng trưởng cao bền vững trong dài hạn thì mức đầu tư trong nền kinh tế cần phải tăng cao.
Biểu đồ 3: Tiết kiệm và đầu tư của Việt Nam
Nguồn : Báo cáo của GSO (1999) và IMF(2000).
Biểu đồ 4:
Tiết kiệm và tăng trưởng năm 1997 một số nước trong khu vực.
Nguồn : Báo cáo của ADB (2000).
1.2.2. Các luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam không ổn định
Hình thức chính của các luồng vốn nước ngoàI này là FDI đã giảm đáng kể sau khi cuộc hủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, do đó làm giảm đáng kể tổng mức đầu tư của Việt Nam từ 29% GDP năm 1997 xuống còn 27% GDP năm 1999. Cho tới trước 1997, vốn đầu tư nước ngoài trung bình hàng năm đạt 2 tỷ USD thì năm 1998 giảm xuống còn
800 triệu USD và còn 600 triệu USD năm 1999.
1.2.3. Các doanh nghiệp còn phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay ngân hàng
Nguyên nhân chủ yếu là do Thị trường chứng khoán còn hoạt động chưa có hiệu quả. Khu vực ngân hàng phải đáp ứng cả nhu cầu cho vay trung và dài hạn cho các doanh nghiệp trong khi phần lớn nguồn huy động của các ngân hàng lại là ngắn hạn. Chính vì vậy trên bảng cân đối luôn có nợ quá hạn, và đây chính là một yếu tố làm giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế chung (Xem biểu đồ 5).
Biểu đồ 5: Nợ quá hạn ngân hàng trên tổng dư nợ.
Nguồn: Báo cáo ADB (2000)
1.2.4. Quá trình cổ phẩn hoá đã diễn ra quá chậm chạm,
Điều này một phần là do chưa có một thị trường cổ phiếu hiệu quả. Chính phủ đã có kế hoạch cổ phần hoá được khoảng 2500 Doanh nghiệp nhà nước đến hết hết năm 2000 nhưng đến nay mới chỉ có khoảng 900 doanh nghiệp hoàn tất cổ phần hoá. Kết quả là khối Doanh nghiệp nhà nước vẫn còn khá lớn và gặp nhiều khó khăn.
2.Tình hình cải cách cơ cấu nền kinh tế
2.1. Tình hình cải cách doanh nghiệp nhà nước- cổ phần hoá
2.1.1. Gánh nặng doanh nghiệp nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân
Doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn đóng góp khoảng 38% vào tổng GDP của Việt Nam. Do các Doanh nghiệp nhà nước thường hoạt động trong những ngành sử dụng nhiều vốn nên chiếm một tỷ trọng lớn khác thường trong tổng các yếu tố sản xuất của đất nước. Với 1,7 triệu lao động , những doanh nghiệp này chỉ thu hút khoảng 4-5% tổng lực lượng lao động. Con số này chỉ tương đương số người mới gia nhập thị trường lao động trong vòng một năm rưỡi. Do trình độ giáo dục liên tục tăng nên không phải tất cả 1,7 triệu người lao động này có tay nghề cao hơn những người lao động mới. Xét từ góc độ này, các Doanh nghiệp nhà nước quả là gánh nặng lớn cho nền kinh tế.
Mặt khác, tỷ trọng sử dụng vốn của khu vực nhà nước là khá lớn. Khó có thể có được một ước tính chính xác vì việc tính toán lượng vốn trong một nền kinh tế đang chuyển đổi không phải là dễ thực hiện. Một cách đánh giá gián tiếp tỷ trọng vốn mà khu vực nhà nước thu nhận là xem xét tỷ trọng tín dụng trong nước của khu vực này. Nợ ngân hàng tồn đọng của các doanh nghiệp nhà nước lên đến 90 nghìn tỷ đồng, tức là khoảng 6 tỷ USD. Con số này tương đương với 40% tổng tín dụng trong nước.
Nhiều khoản vay mà các Ngân hàng thương mại quốc doanh cấp cho các doanh nghiệp nhà nước có thể sẽ không bao giờ thu hồi được. Trong khi khó có thể ước tính được chính xác giá trị của các khoản vay không sinh lời này, thực trạng này sẽ ảnh hưởng đến việc tích luỹ vốn sau này của khu vực nhà nước. Tuy tỷ trọng tín dụng dành cho các doanh nghiệp nhà nước đang giảm nhưng vẫn chiếm 25% số cho vay mới trong năm 2002.
2.1.2. Các biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước
Cải cách doanh nghiệp nhà nước mà công cụ chính của nó là cổ phần hoá đã được áp dụng vào năm 1992 và sau đó được điều chỉnh vào năm 1996, được lập luận là không hoàn toàn giống với tư nhân hoá. Cổ phần hoá là một quá trình trong đó một phần hoặc toàn bộ vốn của nhà nước trong doanh nghiệp được bán dưới hình thức cổ phiếu với giá dựa trên
giá trị sổ sách. Lãnh đạo và người lao động trong doanh nghiệp được ưu đãi mua cổ phần và thường mua hết. Cá nhân có thể mua tối đa 30% cổ phần. Cổ phiếu không được phép mua bán trong giai đoạn 3 năm đầu, trừ khi có giấy phép đặc biệt. Trên thực tế, cổ phần hoá sẽ khó thực hiện nếu không có sự nhất trí của lãnh đạo và đa số người lao động trong doanh nghiệp. Cổ phần hoá sẽ đưa doanh nghiệp sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
Ngoài cổ phần hó, các cơ chế khác cũng được dùng để cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam. Các doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ có thể đem bán, cho thuê hoặc khoán cho người lao động theo mức giá thoả thuận, hoặc thậm chí cho không. Những doanh nghiệp không có khả năng tồn tại sẽ được giải thể. Những doanh nghiệp khác có thể được sát nhập với những đơn vị lớn hơn. Toàn bộ kế hoạch cải cách dự tính khoảng 17000 doanh nghiệp sẽ được chuyển thể cho đến năm 2005. Mặt khác những doanh nghiệp nằm trong danh sách của những ngành được coi là “chiến lược” sẽ được cơ cấu lại nhưng vẫn giữ trong tay nhà nước. Toàn bộ quá trình được thực hiện theo cách tương đối phân cấp, do một doanh nghiệp trực thuộc các bộ chủ quản, một số khác lại trực thuộc chính quyền các tỉnh và địa phương, và một số thuộc vào Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91.
2.1.2. Kết quả cải cách doanh nghiệp nhà nước
Quy mô của khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn tương đối lớn mặc dù đã giảm. Xu hướng giảm là rất rõ rệt, khi xem xét tỷ trọng của nó trong sản lượng công nghiệp. Xong theo tỷ trọng trong GDP thì vẫn còn đáng kể. Một biểu hiện nổi bật trong quá trình cải cách là tổng số Doanh nghiệp nhà nước. Sau khi dã giảm từ trên 12.000 doanh nghiệp năm 1990 xuống còn 6.300 doanh nghiệp năm 1992, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, đã có lúc từ năm 1993 đến 1997, quá trình cải cách đã gần như dừng lại. Từ năm 1997 trở đi, với việc áp dụng cơ chế cổ phần hoá, quá trình này đã lấy lại được đà. Nhưng đến nay lại có xu hướng chững lại. Vài trăm Doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi hoặc giải thể trong vòng 5 năm trước khi diễn ra Đại hội Đảng IX năm 2001. Sau một sự khởi đầu khiêm tốn, chỉ có 10 doanh nghiệp được được cổ phần hoá năm 1992, con số này đã tăng lên tới hàng trăm và mục tiêu đặt ra là chuyển thể 400 doanh nghiệp trong năm đầu của kế hoạch hành động. Những doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh/ thành phố quản lý được đặt vào trọng tâm của quá trình này, chiếm 57% tổng số doanh nghiệp được chuyển đổi. Từ đầu năm 2001, khoảng 70% số doanh nghiệp cổ phần hoá đã bán trên 65% cổ phần cho các cổ đông thuộc khu vực nhà nước. (Xem bảng 1)
Bảng 1: Tình hình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước
(Đơn vị: số doanh nghiệp)
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số chuyển đổi
288
139
Theo loại hình chuyển đổi
Cổ phần hoá
102
242
211
200
116
Bán
17
5
Khoán
41
13
Giải thể
30
5
Theo cơ quan chủ
quản
Bộ chủ quản
25
30
Tỉnh/thành phố
255
96
Tổng công ty
8
13
Tổng số DNNN mới thành lập
87
94
74
43
8
Theo cơ quan chủ
quản
Bộ chủ quản
14
28
35
19
Tỉnh/thành phố
66
52
31
45
Tổng công ty
7
14
8
9
Nguồn: Tổng hợp từ Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp, Viện Quản lí kinh tế trung
ương.
Qui mô của những Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá và chuyển đổi lại
tương đối nhỏ. Số lao động trung bình khoảng 250 công nhân và vốn điều lệ khoảng 5,7 tỷ đồng tương đương với 380.000 USD. Tính trung bình, nợ của mỗi doanh nghiệp này khoảng 5,6 tỷ đồng (gần 380.000 USD) . Tuy nhiên cũng cần nhìn nhận rằng việc chuyển đổi này đã làm giảm bớt một gánh nợ đáng kể cho khu vực nhà nước nói chung.
Mặt khác, một số lượng đáng kể Doanh nghiệp nhà nước được thành lập mới trong cùng một thời gian. Không phải mọi doanh nghiệp mới đều hình thành từ vốn đầu tư mới. Việc đăng ký những đơn vị hiện đang hoạt động – chủ yếu là trong các ngành công ích – thành doanh nghiệp nhà nước đã làm cho số liệu về doanh nghiệp mới thành lập là khá lớn và thu hút nhiều dư luận xã hội. Tương tự, một số doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá đã thành lập một công ty theo Luật Doanh nghiệp từ Doanh nghiệp nhà nước trước đây và hiện vẫn còn hoạt động. Ước tính chỉ có hoảng từ 30% đến 40% số Doanh nghiệp nhà nước mới thành lập trong những năm 1998 –2001 là triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh mới. Phần lớn các Doanh nghiệp nhà nước mới thành lập có quy mô rất nhỏ.
Quá trình thành lập Doanh nghiệp nhà nước mới gần như đã bị đình lại vào giữa năm
2001. Từ thời điểm này việc thành lập mới các Doanh nghiệp nhà nước phải được Thủ tướng phê duyệt. Hiện nay, việc thành lập mới các Doanh nghiệp nhà nước được kiểm soát nghiêm ngặt. Việc giảm số Doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ và phát triển những doanh nghiệp lớn và thành đạt hơn có nghĩa là quy mô tuyệt đối của khu vực nhà nước đã tăng lên. Tuy nhiên việc cải cách này diễn ra song song với việc tăng trưởng nhanh của khu vực tư nhân, điều này giải thích tại sao quy mô tương đối khu vực nhà nước, tức là tỷ trọng của nó trong nền kinh tế Việt Nam, lại đang giảm dần.
2.2. Cải cách hệ thống ngân hàng, tài chính
Kể từ cuối những năm 80, những thay đổi quan trọng đã được tiến hành trong cơ cấu, quy chế và hoạt động của khu vực ngân hàng Việt Nam. Bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn vẫn chiếm 70% tổng tài sản của toàn hệ thông. Nhưng hiện đã có thêm một số ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh và các chi nhánh, văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài. Trong thập kỷ qua, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn đã phát triển từ những kênh cho váy chính sách chuyên biệt sang thành những trung gian tài chính định hướng thương mại nhiều hơn. (theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, 2002).
Thập kỷ qua cũng đã chứng khiến sự phát triển nhanh chóng về mức độ tiền tệ hoá của nền kinh tế Việt Nam. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng được thể hiện ở chỉ số tín dụng ngân hàng trên GDP, chỉ số này đã tăng 13% năm 1990 lên 27% năm 1995 và 44% năm 2000. Sự tăng trưởng của khu vực tài chính phi ngân hàng cũng rất đáng ghi nhân, đặc biệt là sự hoạt động kinh doanh bảo hiểm mặc dù quy mô còn nhỏ.
II. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1. Sự ra đời của Thị trường chứng khoán Việt Nam
Ngay từ ban đầu khi thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đảng và Nhà nước đã có chính sách về việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Trên cơ sở về mặt pháp lý này, đã có nhiều loại cổ phiếu và trái phiếu được phát hành trên thị trường thu hút được khá nhiều nguồn vốn nhàn rỗi từ dân chúng. Đây chính là hình thức sơ khai của thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên vào thời điểm này, cổ phiếu và trái phiếu mới chỉ dừng lại ở thị trường phát hành, hầu hết là loại chứng khoán ngắn hạn và trung hạn. Các tổ chức môi giới và kinh doanh chứng khoán chưa tồn tại, hệ thống các văn bản pháp lý còn thiếu, chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Thị trường vốn Việt Nam lúc này còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế. Vì vậy việc phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta là một nhu cầu cấp thiết.
Đến tháng 4 năm 1997 Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đi vào hoạt động trên cơ sở Nghị định số 7/CP ngày 28/11/1996 của Chính phủ về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán nhà nước, chủ động thúc đẩy việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam và đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của nó ngay từ khi mới thành
lập.
Sau một thời gian chuẩn bị, nghị định số 58/1998/NĐCP ngày 11/7/1998 của chính phủ về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán được ban hành, làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Đến tháng 7/2002, Trung tâm giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh khai trương và hoạt động theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 127/1998/QĐ-Ttg ngày 11/7/1998. Thị trường Chứng khoán Việt Nam chính thức mở của.
Việc thị trường chứng khoán Việt Nam ra đã tạo thêm một kênh dẫn vốn mới thu hút vốn đầu tư phục vụ công cuộc phát triển đất nước, góp phần hoàn thiện hệ thống các thị trường tài chính và tạo lập đồng bộ các yếu tố của một nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời, ngoài việc phát huy nội lực tạo thêm một kênh huy động vốn trung và dài hạn để bổ sung vào thị trường vốn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước; nó còn giúp các doanh nghiệp xây dựng chiến lược tài chính , có điều kiện tạo vốn và sử dụng vốn thông qua kênh phát hành các loại chứng khoán trên thị trường, tạo thói quen công khai hoá thông tin và báo cáo tài chính, cải tiến đổi mới phương thức quản lý, tự làn._. được tham gia góp vốn gồm: ngành dệt may, sản xuất giày dép, chế biến da, sản xuất chế biến nông lâm thuỷ sản, ngành sản xuất hàng tiêu dùng khác, ngành xây dựng và vật liệu xây dựng, ngành vận tải đường bộ, đường thuỷ nội địa, vận tải hàng hoá bằng Container, ngành sản xuất đồ dùng học tập, ngành sản xuất đồ chơi trẻ em, ngành thương mại dịch vụ khách sạn, ngành sản xuất cơ khí, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thuộc các ngành hàng quy định trên.
- Mức tối đa người nước ngoài được nắm giữ cổ phiếu đang lưu hành của một tổ
chức phát hành (từ 20% nay vừa mới nâng lên 30%).
- Quy định qui trình thủ tục đầu tư và quản lý ngoại hối. Với các quy định hiện hành, việc đầu tư của người nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam được mô tả như sau: người nước ngoài muốn đầu tư vào TTCK Việt Nam phải mở một tài khoản giao dịch tại một thành viên lưu ký nước ngoài (một ngân hàng thương mại nước ngoài được công nhân là thành viên lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán). Thành viên lưu ký nước ngoài liên hệ với Trung tâm giao dịch chứng khoán để xin mã số giao dịch, đồng thời là người đại diện cho người đầu tư đặt lệnh giao dịch thông qua công ty chứng khoán. Số ngoại tệ do người đầu tư chuyển vào để đầu tư chứng khoán được thành viên lưu ký mua lại. Khi người đầu tư muốn chuyển lợi nhuận về nước, thành viên lưu ký bán lại ngoại tệ cho người đầu tư và thực hiện chuyển tiền về nước sau khi người đầu tư thực hiện xong các nghĩa vụ về thuế, phí theo quy định.
- Các loại thuế, phí người nước ngoài có nghĩa vụ phải nộp khi đầu tư và rút vốn. Hiện nay, thuế lợi nhuận do đầu tư chứng khoán của cá nhân đầu tư nước ngoài đang được miễn như đối với cá nhân đầu tư trong nước, còn phí chuyển lợi nhuận và vốn về nước đang được áp dụng ở mức 5% như đối với các giao dịch ngoại hối thông thường khác.
Có thể nói rằng quy định như trên là rõ ràng, người nước ngoài hiểu rõ được “luật chơi”, nhưng còn nhiều hạn chế và bất cập trong quá trình thực hiện mà chúng ta phải phân tích ở phần tiếp theo.
2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên, việc thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam còn có nhiều khó khăn và hạn chế cần phải được khắc phục từng bước. Có thể phân chia những khó khăn và hạn chế này theo các nhóm vấn đề.
2.1.Về mặt vĩ mô
Bên cạnh những tiến bộ đã đạt được, người đầu tư nước ngoài nói chung vẫn lo ngại về tình hình cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính rườm ra và nạn tham nhũng lan tràn ở Việt Nam. Nhiều người cho rằng, những hạn chế nêu trên ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư nói chung. Đặc biệt nạn tham nhũng cộng với việc ban quản lý doanh nghiệp không công bố thông tin đầy đủ và kịp thời cho cổ đông đã làm ảnh hưởng đến lòng tin của công chúng đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài còn e ngại việc Ban lãnh đạo công ty có thể sử dụng đồng vốn đầu tư của họ và lợi nhuận của công ty vào những mục đích không bình thường.
2.2. Thị trường chứng khoán còn nhỏ bé về quy mô
Cho đến nay thị trường mới có 22 công ty niêm yết với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết là gần 1,1 nghìn tỷ đồng tính theo mệnh giá, trong đó cổ phiếu do nhà nước nắm giữ chiếm gần 1/3. Trong tương lai gần, số công ty niêm yết sẽ tăng do tốc độ cổ phần hoá được đẩy mạnh và có thêm thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng quy mô của thị trường chưa thể tăng nhanh và mạnh trong tương lai gần và chưa thực sự có ảnh hưởng tới nền kinh tế. Bên cạnh đó, chính sách của Chính phủ cũng chưa thể mở cửa hoàn toàn cho người đầu tư nước ngoài do điều kiện và trình độ quản lý vĩ mô chưa theo kịp. Vì những lý do trên “khoảng sân” dành cho đầu tư nước ngoài chưa thật lớn và còn thiếu sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư lớn, nhất là các quỹ đầu tư có quy mô toàn cầu.
2.3. Thiếu thông tin
Mặc dù mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, nhưng việc tìm kiếm thông tin về thị trường chứng khoán Việt Nam của người nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn và bất cập vì một số lý do sau:
- Thiếu thông tin bằng tiếng nước ngoài. Các công ty niêm yết và chưa niêm yết thông thường chỉ chuẩn bị tài liệu bằng tiếng Anh để phục vụ cho việc giới thiệu, quảng cáo, chào hàng, chưa nhằm mục đích thu hút cổ đông nước ngoài. Các bản cáo bạch, báo cáo định kỳ và đột xuất gửi Trung tâm Giao dịch chứng khoán và Uỷ ban Chứng khoán nhà nước chưa được dịch sang tiếng Anh phục vụ công chúng đầu tư nước ngoài. Bản thân Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch Chứng khoán cũng chưa tổ chức cung cấp các thông tin nêu trên qua trang Web. Hệ thống dịch vụ thông tin chuyên nghiệp chưa phát triển. Trong bối cảnh đó, người nước ngoài muốn có thông tin về thị trường chứng khoán Việt Nam hoặc tìm hiểu về một công ty để đầu tư phải đến Việt Nam trực tiếp tìm hiểu hoặc mua thông tin qua một số công ty đầu tư đang có hoạt động tại Việt Nam. Chi phí tìm kiếm thông tin cao làm ảnh hưởng đến mức độ quan tâm của người đầu tư nước ngoài, nhất là nhà đầu tư cá thể.
- Hệ thống và chế độ kế toán Việt Nam còn có nhiều điểm khác với hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tê (IAS) và thường không được giải thích cặn kẽ trong các báo cáo tài chính của các công ty, do đó còn khó hiểu đối với người nước ngoài, nhất là những người chưa có hiểu biết nhiều về hệ thống kế toán Việt Nam.
- Lòng tin của công chúng đầu tư nước ngoài về nguồn số liệu do công ty hoặc cơ
quan quản lý Việt Nam cung cấp cũng cần được xem xét. Trên thực tế, nhiều số liệu về
kinh tế vĩ mô của Việt Nam do Chính phủ và các tổ chức quốc tế đưa ra rất khác nhau, nhất là các số liệu liên quan đến mức tăng trưởng GDP, đầu tư trực tiếp của nước ngoài, xuất nhập khẩu… Các hành vi trốn thuế, lậu thuế, tham nhũng ở các công ty của Việt Nam cũng tương đối nghiêm trọng. Vì vậy, nhiều người nước ngoài tỏ ra không tin tưởng vào các thông tin thị trường do công ty Việt Nam cung cấp và từ bỏ ý định đầu tư vào Việt Nam, hoặc có tâm lý chỉ đầu tư theo các nhà đầu tư có tổ chức có kinh nghiệm và bộ máy nghiên cứu về tình hình thị trường Việt Nam.
2.4. Chính sách của Việt Nam chưa nhất quán và chưa thông thoáng
Sự thiếu nhất quán và thiếu thông thoáng trong chính sách của Việt Nam liên quan
đến đầu tư của người nước ngoài trên TTCK Việt Nam thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất, theo Luật đầu tư nước ngoài thì bên người đầu tư nước ngoài có thể sở hữu đến 100% vốn, nhưng cổ phần của các bên không được tự do mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán, trong khi cổ phần của người nước ngoài ở các doanh nghiệp niêm yết được mua bán tự do nhưng bị khống chế bởi tỷ lệ nắm giữ thấp. Điều đó có nghĩa là một người đầu tư trực tiếp khi muốn rút bớt vốn đầu tư để trở thành một nhà đầu tư danh mục chứng khoán (đầu tư FPI) sẽ khó thực hiện, vì họ phải tìm người đầu tư nước ngoài thay thế và chuyển nhượng cổ phần trên cơ sở có sự thoả thuận của đối tác và cơ quan quản lý Việt Nam. Ngược lại, một nhà đầu tư danh mục chứng khoán muốn trở thành người đầu tư trực tiếp để tham gia quản lý doanh nghiệp cũng khó khăn do bị khống chế bởi tỷ lệ nắm giữ, và do chưa có chế định rõ ràng liên quan. Trong trường hợp của Việt Nam, xử lý được vấn đề này đòi hỏi phải có thời gian vì liên quan đến việc chỉnh sửa luật và các cơ chế giám sát, quản lý liên quan, nhưng là vấn đề cần được xem xét để giải quyết khi điều kiện cho phép.
- Thứ hai, các quy định về mua cổ phần khi cổ phần hoá doanh nghiệp còn nhiều điểm chưa thống nhất với các quy định về mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Cách quy định không thống nhất đã dẫn tới tình trạng hiểu nhầm hoặc diễn giải một cách khác nhau, đồng thời gây lên một số khó khăn, nhất là khi một doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu của người nước ngoài lớn tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán.
2.5 Chi phí đầu tư cao
Trong khi quy mô thị trường còn nhỏ hẹp và cơ hội giành cho người đầu tư nước ngoài chưa nhiều thì chi phí đầu tư cao sẽ tác động hạn chế đầu tư của người nước ngoài. Hiện nay chi phí đầu tư của người nước ngoài vào thị trường còn cao so với thông lệ quốc tế vì một số lý do sau:
- Việt Nam chưa triển khai giao dịch từ xa qua mạng điện tử cho người nước ngoài.
- Chi phí tiếp cận và phân tích thông tin cao.
- Giao dịch qua thành viên lưu ký nước ngoài phải chịu mức phí cao.
Cho đến nay, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã cấp phép cho 3 thành viên lưu ký nước ngoài, tuy nhiên tính độc quyền cùng với chính sách sàng lọc lựa chọn khách hàng trong hoạt động phục vu đầu tư nước ngoài vào TTCK đã dấn đến thành viên lưu ký thu các loại phí cao.
Tóm lại, bên cạnh những thuận lợi, việc thu hút và quản lý vồn đầu tư nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Nguyên nhân của những khó khăn hạn chế còn nhiều, nhưng chủ yếu vẫn là do thị trường mới hoạt động, còn nhỏ bé do đó còn chứa nhiều điều mâu thuẫn, chồng chéo và bất cập trong chính sách lẫn tổ chức vận hành. Việc khắc phục những hạn chế để tạo môi trường thông thoáng cho đầu tư vào cũng như kiểm soát tốt dòng vốn đòi hỏi phải có nhiều thời gian và bước đi thích hợp.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA TTCK VIỆT NAM
1. Mục tiêu và nguyên tắc
Từ những bài học kinh nghiệm ở các nước trong khu vực và điều kiện thực tế của Việt Nam có thể thấy rằng việc thu hút nguồn vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán là một yêu cầu khách quan và phải được thực hiện theo một số nguyên tắc nhất định:
- Việc thu hút và quản lý vốn nước ngoài qua thị trường chứng khoán phải luôn bám sát mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, nhằm góp phần tăng cường nguồn vốn đầu tư để bổ sung cho các nguồn khác đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội. Cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, nguồn FPI phải trở thành một bộ phận không thể tách rời trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam và có sự gắn kết chặt chẽ với nguồn đầu tư FDI.
- Nguồn FPI phải được hướng vào một số ngành nghề ưu tiên theo định hướng của Chính phủ. Ngoài những ngành nghề hiện nay người nước ngoài được phép mua cổ phiếu như dịch vụ, công nghiệp nhẹ… đầu tư FPI còn được mở rộng sang những ngành nghề mới mang tính đột phá, sử dụng công nghệ khoa học ký thuật mới.
- Chính sách thu hút, quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán phải từng bước hướng tới thông lệ quốc tế, đảm bảo tính hiệu quả và tạo tiền đề để hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Thu hút cũng phải đi đôi với quản lý vốn. Bài học khủng hoảng của các nước trong khu vực cho thấy việc quản lý để đảm bảo được quy mô nguồn vốn vào và cơ cấu nguồn vốn ra là hết sức quan trọng và nếu không có chính sách thích hợp thì đến một lúc nào đó việc chu chuyển vốn thông qua biên giới sẽ trở thành nguyên nhân gây khủng hoảng tài chính. Nguồn vốn vào phải phục vụ cho các mục đích phát triển và giảm thiểu các tác động tiêu cực tới việc huy động nguồn vốn trong nước, tắc động đến tỷ giá và phải đảm bảo có cơ cấu hợp lý trong tương qua với các nguồn vốn nước ngoài khác như vay thương mại và FDI. Đồng thời bên cạnh việc thu hút phải đặc biệt chú trọng đến các biện pháp đối phó với khả năng chuyển vốn ra nhanh và đột ngột của các nhà đầu tư nước ngoài. Khi tình hình trong nước gặp khó khăn, các nhà lập chính sách chủ động trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, giảm tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn và chủ động trong việc giám sát các dòng vốn một cách có hiệu quả.
2. Một số giải pháp
Trên cơ sở điều kiện thực trạng nền kinh tế Việt Nam cũng như rút kinh nghiệm từ các bài học của các nước trong khu vực, một số giải pháp sau đây có thể được xem xét áp dụng.
2.1. Cải thiện môi trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Đây là giải pháp mang tầm vĩ mô nằm trong chiến lược chung về phát triển kinh tế và có tác dụng không những chỉ đối với nhà đầu tư FPI mà còn đối với việc thu hút các nguồn vốn khác như FDI và vay thương mại. Giải pháp này vừa mang tính cấp bánh vừa mang tính lâu dài với một số nội dung chính là:
- Ổn định và cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô thông qua các chính sách duy trì tăng trưởng kinh tế, cam kết với chính sách mở cửa và cải cách cơ cấu, đồng thời cải tiến các thủ tục hành chính, chống tham nhũng. Các biện pháp, chính sách này đã làm cho người đầu tư nước ngoài tin tưởng hơn vào khả năng sinh lời và an toàn khi đầu tư vào Việt Nam.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán nói chung và các quy định về đầu tư nước ngoài nói riêng. Đây là giải pháp vừa phục vụ mục đích phát triển thị trường về lâu dài, nhưng đồng thời có tác dụng làm tăng lòng tin tưởng của công chúng đầu tư nước ngoài. Bên cạnh việc sửa đổi việc sửa đổi Nghị định
48/1998/NĐ-CP đang tiến hành, Việt Nam cần có những động thái bắt tay vào xây dựng Luật chứng khoán như thành lập Ban soạn thảo, chuẩn bị tài liệu, kêu gọi sự giúp đỡ của quốc tế trong việc xây dựng Luật chứng khoán…
2.2. Phát triển thị trường về quy mô, tăng số công ty niêm yết
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các Công ty niêm yết hấp dẫn hơn nhiều nhờ có độ an toàn và minh trong quản trị công ty cao hơn hẳn đối với các công ty chưa niêm yết. Độ an toàn lại càng quan trọng hơn trong một môi trường kinh doanh còn non trẻ như ở Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài đã quen với những TTCK có quy chế chặt chẽ thường muốn đầu tư vào những công ty Việt Nam được niêm yết hơn là những công ty chưa niêm yết trên TTCK. Lý do là ở những công ty này giám đốc có trách nhiệm lớn hơn, chế độ báo cáo tài chính và kiểm toán chặt chẽ hơn nhiều.
Muốn mở rộng cơ cấu có sức hấp dẫn này cần có những ưu đãi thực sự để các công ty muốn được niêm yết, hoặc phải mở rộng các quy định về trách nhiệm để áp dụng cho các công ty chưa niêm yết. Hiện nay, nhiều công ty chưa niêm yết không muốn niêm yết vì không phải chịu các quy định chặt chẽ về quản trị doanh nghiệp và chế độ báo cáo áp dụng cho các Công ty niêm yết, hoạt động của họ dễ dàng hơn rất nhiều. Sự khác biệt giữa các quy định áp dụng cho 2 loại công ty này là một yếu tố đáng kể.
Thêm vào đó, các công ty còn phải đáp ứng nhiều tiêu chí nữa trước khi có thể phát hành cổ phiếu ra công chúng trên TTCK. Có thể kể ra một số tiêu chí như có số vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỉ VND (tương đương 660.000 USD); kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất; các thành viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc có kinh nghiệm; có kế hoạch khả thi để sử dụng tiền thu từ việc phát hành cổ phiếu; ít nhất 20% vốn cổ phần bán ra cho hơn 100 nhà đầu tư bên ngoài; các cổ đông sáng lập giữ tối thiểu 20% vốn cổ phần trong ít nhất 3 năm kể từ ngày chấm dứt phát hành; và phải có bên bảo lãnh phát hành khi mệnh giá cổ phiếu phát hành vượt quá 10 tỉ VND . (Điều 6 Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày
11/7/1998 của Chính phủ về Chứng khoán và thị trường chứng khoán).
Một số tiêu chí trên đây đã trở thành trở ngại làm các công ty không muốn niêm yết. Một giải pháp để thu hút thêm đầu tư là cải thiện và mở rộng phạm vi TTCK bằng cách thu hút và tạo điều kiện để các công ty chưa niêm yết niêm yết trên thị trường. Ví dụ như một số công ty có thể có vốn cổ phần khá lớn nhưng vẫn chưa đáp ứng được mức vốn điều lệ cần có để đăng ký, nếu thay đổi tiêu chí này để tính đến vốn cổ phần của công ty thì sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn niêm yết. Thay đổi quy định về tiêu chí niêm yết có thể khuyến khích nhiều công ty xin niêm yết, qua đó làm tăng thêm sự quan tâm của các nhà đầu tư vào thị trường.
Nói tóm lại,như đã phân tích ở các phần trước, quy mô của thị trường càng lớn thì “sân chơi” dành cho các nhà đầu tư càng rộng, người đầu tư càng nhiều thì thị trường càng trở nên hấp dẫn. Nói cách khác nếu các điều kiện chính sách không thay đổi thì quy mô
đầu tư vào thị trường chứng khoán tỷ lệ thuận với quy mô của thị trường.Việc mở rộng quy mô của thị trường có thể được thực hiện thông qua các chiến dịch khuyến khích các công ty có đủ điều kiện ra niêm yết và thực hiện có chọn lọc chương trình niêm yết bắt buộc, thực hiện thí điểm và nhân rộng việc cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để niêm yết, mở rộng thị trường giao dịch cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời có cơ chế khuyến khích người đầu tư nước ngoài tham gia mua cổ phần của các công ty chưa niêm yết và doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Thực hiện được giải pháp này thì thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ phát triển theo đúng định hướng, đồng thời đầu tư của nước ngoài cũng sẽ tăng mạnh.
2.3. Cải thiện việc cung cấp thông tin và quyền tiếp cận thông tin
Đây là giải pháp cơ bản, vừa cấp bách vừa mang ý nghĩa lâu dài và sâu rộng để thu hút sự chú ý của người đầu tư nước ngoài và khuyến khích họ đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Giải pháp này có thể thực hiện thông qua một số nội dung cụ thể:
- Khuyến khích các công ty niêm yết cung cấp thông tin tiếng Anh cho người nước ngoài, nhất là các tài liệu gửi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán như bản cáo bạch, báo cáo định kỳ và đột xuất và hoạt động tiếp xúc của Ban lãnh đạo công ty và nhân viên công bố thông tin. Các báo cáo tài chính của công ty cần được diễn giải rõ ràng, có sự so sánh với các tiêu chuẩn kế toán quốc tế để người nước ngoài có thể hiểu được một cách dễ dàng.
- Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Giao dịch chứng khoán cần xây dựng và phát triển trang Web điện tử có thể cung cấp thông tin chính thức về tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam và tình hình tài chính và hoạt động của các công ty niêm yết. Trang Web phải bao gồm các loại thông tin như đã nêu ở trên, đồng thời có sự hướng dẫn về quy trình thủ tục và các điều kiện đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Trang Web này sẽ giảm thiểu được chi phí tiếp cận thông tin thị trường Việt Nam của những người nước ngoài quan tâm nhưng chưa có điều kiện tìm hiểu thực tế, từ đó thu hút được sự quan tâm của công chúng đầu tư nước ngoài.
- Cải thiện quyền tiếp cận thông tin của cổ đông. Hiện nay hành lang pháp lý về đầu tư vào công ty cổ phần còn thiếu những nghĩa vụ buộc các công ty phải cung cấp các thông tin quan trọng của cổ đông, luật không cho phép các cổ đông được quyền tiếp cận biên bản họp cổ đông và họp ban giám đốc cũng như các thông tin tài chính cơ bản của công ty. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ vẫn giữ mối hoài nghi về thị trường nếu họ không được tiếp cận các hồ sơ của các công ty. Nhà đầu tư nước ngoài sẽ cảm thấy tin cậy hơn
vào thị trường Việt Nam nếu tất cả các Công ty cổ phần Việt Nam có chế độ báo cáo hoàn chỉnh hơn.
- Tăng cường tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế về đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam để tạo ra diễn đàn trao đổi lý luận và kinh nghiệm thực tế, chia sẻ thông
tin.
Việc thực hiện các nội dung trên sẽ làm cho thông tin về thị trường chứng khoán Việt Nam đến với đông đảo công chúng đầu tư nước ngoài, thu hút được sự quan tâm nhiều hơn và tăng được lòng tin vào chất lượng thông tin. Đây là một trong những yếu tố cơ bản quyết định dòng vốn của nước ngoài vào đầu tư vào thị trường chứng khoán.
2.4 . Mở rộng lĩnh vực cho phép đầu tư nước ngoài
Hiện nay các công ty Việt Nam chỉ có thể pháp hành cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài nếu họ đang hoạt động tại một trong 35 lĩnh vực ( điều 4, Quyết định 36/2003/QĐ- TTg ngày 11/3/2003 của Thủ tướng chính phủ). Mặc dù thông thường nước nào cũng đặt ra hạn chế về số lượng đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là trong các lĩnh vực nhạy cảm, nhưng cách quy định 35 lĩnh vực này không khuyên khích được các nhà đầu tư nước ngoài. Một cách khác để quy định các lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư là : Chính phủ cho phép đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực trừ những lĩnh vực mà Chính phủ cho là ngoại lệ. Điều này sẽ giúp Chính phủ vừa bảo hộ được một số lĩnh vực cụ thể vừa khuyến khích đầu tư nước ngoài ở mức tối đa. Đây sẽ là một sự khuyến khích mà các nhà đầu tư nước ngoài nghĩ đến bên cạnh việc lựa chọn loại hình đầu tư họ muốn thực hiện tại Việt Nam.
2.5. Thực hiện công bằng trong việc mua lại cổ phần
Theo Luật doanh nghiệp, các công ty Việt Nam có quyền mua lại tối đa 30% số cổ phiếu thông thường và mua lại một phần hoặc toàn bộ các loại cổ phiếu khác (điều 35). Một điều đáng lưu ý là trong 22 công ty niêm yết cho đến nay chỉ có 5 công ty phát hành cổ phiếu mới ra thị trường trong khi nhiều công ty khác đã mua lại cổ phiếu của chính mình đề giữ làm cổ phiếu quỹ với ý định để mai sau bán lại hoặc huỷ bỏ.
Tuy nhiên, Công ty niêm yết lại có toàn quyền lựa chọn mua lại cổ phần của bất kỳ cổ đông nào, không hề có quy định nào yêu cầu công ty phải đề nghị mua lại cổ phẩn của cổ đông theo tỷ lệ phần trăm nắm giữ cổ phần của họ. Điều này là không công bằng, vì nó có thể làm thay đổi tỷ lệ và khối lượng nắm giữ cổ phần của các cổ đông theo hướng có lợi cho một số người.
Nhà đầu tư nước ngoài sẽ rất dè dặt khi đầu tư vào một hệ thống cho phép đối xử bất bình đẳng đối với cổ đông. Sự bình đằng trong nắm giữ cổ phần có thể dễ dàng đạt được bằng quy định của pháp luật rằng công ty phải mua lại cổ phiếu của mọi cổ đông theo tỷ lệ tương ứng. Sửa đổi này sẽ khích lệ nhà đầu tư nước ngoài bởi lẽ tỷ lệ nắm giữa cổ phần của họ được đảm bảo tốt hơn.
2.6. Tăng lượng giao dịch trên thị trường chứng khoán
Việc mới chỉ có một số ít công ty sử dụng TTCK làm cơ chế huy động vốn đã hạn chế một cách nghiêm trọng đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam. Cho đến nay chỉ có 5 công ty phát hành cổ phiếu mới để tăng vốn điều lệ mới mức huy động rất nhỏ là 155,4 tỷ đồng.
Hai lý do dẫn tới tình trạng này là: Thứ nhất, do việc phát hành cổ phiếu ra công chúng của các Công ty cổ phần chưa niêm yết chưa được điều chỉnh nên dễ huy động vốn hơn khi đã niêm yết vì không bị rằng buộc bởi các tiêu chuẩn tối thiểu hoặc các yêu cầu cung cấp thông tin. Thứ hai, đã có nhiều thông tin cho thấy có hiện tượng tiêu cực xảy ra,
một vài vị giám đốc của các công t1y giao dịch trên “chợ xám”(1) và là ứng cử viên sắp
được niêm yết đã nhận tiền hoa hồng khi họ đồng ý để công ty phát hành các cổ phiếu mới cho một nhà đầu tư mới, vì họ khó có thể tiếp tục làm ăn kiểu này sau khi công ty được niêm yết, nên chừng nào công ty còn chưa được niêm yết thì vẫn còn động cơ để cố gắng huy động vốn.
Nếu Việt Nam muốn khuyến khích đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán cần phải giải quyết các vấn đề trên bằng cách giảm bớt quyền lợi khi giao dịch với tư cách là một công ty chưa niêm yết (nhất là việc dễ dàng bán cổ phần mà không cần kiểm tra đối chiếu) và hoặc tăng quyền lợi khi giao dịch với tư cách là một công ty niêm yết.
2.7. Thực hiện ưu đãi về thuế
Tại Việt Nam, trong khi có một vài ưu đãi hấp đẫn về thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp trong nước ít được khuyến khích. Việt Nam còn áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp cao đối với doanh nghiệp trong nước khi so sánh với các nước khác trong khu vực Đông Á,
(1) Thuật ngữ “chợ xám” (grey market) đề cập tới hành vi “che giấu” quy mô và giá trị thực tế của công ty bằng việc không nhận các hoá đơn mua nguyên vật liệu và cũng không phát hành hoá đơn cho khách hàng, thường với mục đích trốn thuế phải nộp cho các giao dịch đó.
mức thuế của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài thường thấp hơn thuế của các doanh nghiệp trong nước 7%.
Các mức thuế cao này khiến cho nhà đầu tư nước ngoài tính đến chuyện đầu tư tiền của họ ở các dự án có vốn đầu tư nước ngoài hoặc ở các nơi khác. Các chế độ ưu đãi về thuế cần được cân nhắc kỹ lưỡng có thể khuyến thích tốt hơn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.8. Cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường cạnh tranh để giảm chi phí giao dịch cho người nước ngoài
Hiện nay người nước ngoài vẫn còn đang phải chịu chi phí giao dịch cao, một phần do tình trạng độc quyền phục vụ của thành viên lưu ký nước ngoài. Việc giảm chi phí giao dịch để khuyến khích đầu tư nước ngoài có thể thực hiện được thông qua cải cách một số thủ tục hành chính trong quy trình đầu tư:
- Quy định các thành viên lưu ký nước ngoài đã được cấp giấy phép phải tổ chức khai trương hoạt động phục vụ khách hàng, thành viên nào đã được cấp giấy phép mà không khai trương hoạt động trong một thời gian dài thì nên thu hồi giấy phép. Việc có nhiều thành viên lưu ký nước ngoài hoạt động sẽ tạo môi trường cạnh tranh và nhiều sự lựa chon hơn cho người đầu tư nước ngoài.
- Cho phép người đầu tư nước ngoài được mở tài khoản giao dịch tại công ty chứng khoán trong nước để giảm bớt khâu trung gian. Đây có thể coi là một giải pháp mang tính đột phá vì người đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng mức phí phục vụ thấp của các công ty trong nước, tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự. Để thực hiện giải pháp này đòi hỏi phải sửa đổi lại các quy định hiện hành về giao dịch, thanh toán bù trừ, quản lý ngoại hối… liên quan đến đầu tư nước ngoài, và phải có cơ chế phối hợp giữa Công ty chứng khoán với Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ trong việc xử lý nguồn tiền vào và ra của người nước ngoài.
Huy động vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán là một chủ trương trong chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, nhằm bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển. Điểm cốt yếu để khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Thị trường chứng khoán Việt Nam là làm sao để Thị trường chứng khoán Việt Nam trở nên thực sự hấp dẫn. Ngoài các yếu tố khả năng sinh lời cao và các ưu đãi khuyến khích đầu tư của TTCK, nền tảng của một thị trường hấp dẫn là quyền lợi được đối xử công bằng, được bảo hộ thích đáng. Để đạt được các mục đích này, cùng với các biện pháp phát triển quy mô thị trường chúng ta cần phải có những đổi mới cơ bản trong hành hang
pháp lý đối với các Công ty cổ phần và Thị trường chứng khoán. Nhất định Thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ dần dần phát triển, sẽ thể hiện được hết vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân, trở thành một kênh dẫn các nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển trong đó bao gồm cả nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
KẾT LUẬN
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG HƠN 3 NĂM QUA CHO THẤY NGUỒN VỐN VÀ SỐ LƯỢNG NGƯỜI ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CHƯA NHIỀU, CHƯA CÓ CÓ TÁC ĐỘNG THỰC SỰ TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐẤT NƯỚC.TUY NHIÊN, CÙNG VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH NÓI CHUNG VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NÓI RIÊNG, THÌ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN SẼ TĂNG LÊN VÀ CHIẾM MỘT TỶ TRỌNG NHẤT ĐỊNH TRONG CƠ CẤU VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI BỔ SUNG CHO CÁC NGUỒN KHÁC ĐÁP ỨNG NHU CẦU VỐN ĐẦU TƯ TOÀN XÃ HỘI.
VIỆC THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN LÀ CẦN THIẾT VÀ ĐỂ LÀM ĐƯỢC ĐIỀU ĐÓ CHÚNG TA PHẢI TẠO RA ĐƯỢC MỘT THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN HẤP DẪN VỚI CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI. NỀN TẢNG CỦA MỘT THỊ TRƯỜNG HẤP DẪN LÀ QUYỀN LỢI ĐƯỢC ĐỐI XỬ CÔNG BẰNG VÀ ĐƯỢC BẢO HỘ THÍCH ĐÁNG, CHÚNG TA CẦN PHẢI CÓ NHỮNG ĐỔI MỚI CƠ BẢN TRONG HÀNH HANG PHÁP LÝ ĐỐI VỚI CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ĐỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC ĐIỀU NÀY.
KHI CÁC ĐIỀU KIỆN CHÍNH SÁCH KHÔNG THAY ĐỔI THÌ QUY MÔ ĐẦU TƯ TỶ LỆ THUẬN VỚI QUY MÔ CỦA THỊ TRƯỜNG, VIỆC THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN KHÔNG THỂ TÁCH RỜI VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM. CHÚNG TA CẦN PHẢI VỪA CÓ CÁC BIỆN PHÁP ƯU ĐÃI KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN, VỪA
PHẢI THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN QUY MÔ CỦA THỊ TRƯỜNG,NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA HÀNG HOÁ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.
VỚI THỜI GIAN HẠN CHẾ VÀ KIẾN THỨC BẢN THÂN CÓ HẠN NÊN CHẮC CHẮN LUẬN VĂN CÒN NHIỀU RẤT NHIỀU THIẾU XÓT, CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ĐƯA RA CÓ THỂ KHÔNG ĐẦY ĐỦ HOẶC SAI LẦM, NHƯNG TÔI CŨNG HY VỌNG NHỮNG GIẢI PHÁP ĐÓ ĐƯỢC THAM KHẢO ĐỂ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.
TÔI XIN CẢM ƠN CÁC THẦY CÔ GIÁO DẠY TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG ĐÃ GIẢNG DẠY ĐỂ GIÚP TÔI CÓ KIẾN THỨC NGHIÊN CỨU MÔN HỌC NÀY. TÔI XIN ĐẶC BIỆT CẢM ƠN CÔ GIÁO- TIẾN SĨ HOÀNG ÁNH ĐÃ TẬN TÌNH GIÚP ĐỠ, CHỈ BẢO ĐỂ TÔI CÓ THỂ HOÀN THÀNH KHOÁ LUẬN NÀY.
HÀ NỘI NGÀY 20 THÁNG 12 NĂM 2003
SINH VIÊN: VŨ NGỌC DƯƠNG LỚP A6-K38B-KTNT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VIII.
2. LUẬT DOANH NGHIỆP (QUỐC HỘI THÔNG QUA NGÀY 12/6/1999).
3. LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM (QUỐC HỘI THÔNG QUA NGÀY 12/11/2000)
4. LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI (CÓ HIỆU LỰC TỪ NGÀY 1/7/2000) VÀ NGHỊ ĐỊNH 24 HƯỚNG DẪN THI HÀNH LUẬT NÀY.
5. NGHỊ ĐỊNH SỐ 75/CP NGÀY 28/11/1996 VỀ VIỆC THÀNH LẬP UBCKNN.
6. NGHỊ ĐỊNH 44/CP NGÀY 29/6/1998 VỀ VIỆC CHUYỂN CÁC DN NHÀ NƯỚC THÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN.
7. QUYẾT ĐỊNH 127 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ (11/7/1998) VỀ VIỆC THÀNH LẬP TTCK VIỆT NAM.
8. NGHỊ ĐỊNH 48/CP NGÀY 11/7/1998 VÀ CÁC THÔNG TƯ, QUY CHẾ
HƯỚNG DẪN VỀ CK VÀ TTCK.
9. QUYẾT ĐỊNH 146 CỦA CHÍNH PHỦ NGÀY 17/7/2003 VỀ TỶ LỆ THAM GIA CỦA BÊN NƯỚC NGOÀI VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
10. QUYẾT ĐỊNH 36 CỦA CHÍNH PHỦ NGÀY 11/3/2003 BAN HÀNH QUY CHẾ GÓP VỐN, MUA CỔ PHẦN CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
II. SÁCH BÁO - TÀI LIỆU
1. GIÁO TRÌNH "THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN" - TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CỦA PGS.NGƯT ĐINH XUÂN TRÌNH VÀ PTS. NGUYỄN THỊ QUY (NXBGD).
2. SÁCH "THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN" CỦA PGS.TS LÊ VĂN TƯ - LÊ TÙNG VÂN (NXB THỐNG KÊ), 1997.
3. NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - TÀI LIỆU TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ CHỨNG KHOÁN - UBCKNN (01/2000).
4. ĐỀ TÀI UỶ BAN CHỨNG KHOÁN NHÀ NƯỚC " MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN" - MÃ SỐ UB.02.14 (VỤ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN).
5. ĐỀ TÀI UỶ BAN CHỨNG KHOÁN NHÀ NƯỚC " XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN"- MÃ SỐ CK.09.99 (PHÒNG PHÁP CHẾ UỶ BAN CHỨNG KHOÁN NHÀ NƯỚC).
6. SÁCH "THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG VÀ KINH DOANH" - NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ HÀ NỘI 10/1996
7. CÁC BẢN BÁO CÁO THÔNG TIN VỀ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN DO TTGDCK TP.HỒ CHÍ MINH PHÁT HÀNH.
8. BÁO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN – UỶ BAN CHỨNG KHOÁN NHÀ NƯỚC – CÁC SỐ 3,7,8,9,11 NẮM 2003.
9. TRANG WEB “
10. TRANG WEB “”
11. TRANG WEB ""
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8340.doc