Một số giải pháp thu hút đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đến năm 2015 ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế như hiện nay, đặc biệt là khi Việt Nam đã ra nhập WTO thì việc phát triển cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ, đạt trình độ tiên tiến, tiêu chuẩn hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, vừa là điều kiện vừa là một nội dung cơ bản của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và tạo cơ sở quan trọng cho sự nghiệp đổi mới và phát triển bền vững nền kinh tế đất nước. Nó là động lực để phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế và rút

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thu hút đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đến năm 2015 ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngắn khoảng cách với bên ngoài. Hệ thống cơ sở hạ tầng tiên tiến và đồng bộ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, làm giảm sự chênh lệch về mức sống và dân trí giữa các khu vực dân cư. Như chúng ta đã biết, tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng, dân số đô thị cũng tăng lên với tốc độ chóng mặt, điều này sẽ đồng nghĩa với sự gia tăng các nhu cầu về các dịch vụ cơ sở hạ tầng tại các lĩnh vực trọng yếu, trong đó có lĩnh vực cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị . Do vậy, vấn đề về vốn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là rất lớn, nhưng khi mà các nguồn vốn Ngân sách nhà nước, nguồn vốn ưu đãi quốc tế như ODA có xu hướng giảm thì việc đẩy mạnh thu hút đầu tư tư nhân đang ngày càng trở nên có vai trò quan trọng hơn. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay thì việc thu hút vốn đầu tư tư nhân còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Vì vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để thu hút đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị? Và đó cũng là lý do vì sao em chọn đề tài : “Một số giải pháp thu hút đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đến năm 2015 ở Việt Nam ”. 2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở Việt Nam, trên cơ sở đánh giá, phân tích và đưa ra các giải pháp thu hút vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đến năm 2015 3. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp chủ đạo trong đề tài là sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, thu thập, thống kê, khái quát hóa trong quá trình nghiên cứu. 4. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đến năm 2015, xuất phát từ thực trạng đầu tư, đầu tư tư nhân từ đó đưa ra những giải pháp nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở Việt Nam. 5. Kết cấu của đề tài. Đề tài được trình bày trong 3 chương : Chương I. Đầu tư và đầu tư tư nhân vào phát triển Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Chương II. Thực trạng đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở Việt Nam Chương III. Giải pháp thu hút đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tâng cấp nước đô thị Chương 1 : Đầu tư và đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 1.1. Cơ sở hạ tầng và cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 1.1.1. Cơ sở hạ tầng và phân loại cơ sở hạ tầng 1.1.1.1. Khái niệm chung về cơ sở hạ tầng. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, năng lực sản xuất hay sức sản xuất được quyết định bởi lực lượng sản xuất. Đến lượt mình, toàn bộ lực lượng sản xuất chỉ có thể hoạt động bình thường trên chỉ có thể hoạt động bình thường trên cơ sở nền tảng hoàn chỉnh hay có đầy đủ các điều kiện. Nó bao gồm bản thân người lao động, tư liệu lao động, tư liệu sản xuất và công nghệ. Trong tư liệu sản xuất, có một bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất với tính cách là những cơ sở, phương diện chung mà nếu thiếu nó thì quá trình sản xuất và những dịch vụ trong sản xuất sẽ trở nên khó khăn hay không thể diễn ra được. Tòan bộ những phương diện đó được đúc kết trong khái niệm cơ sở hạ tầng. Nói đến cơ sở hạ tầng, có rất nhiều khái niệm được đưa ra, trước hết, chúng ta đề cập tới thuật ngữ “ Cơ sở hạ tầng” ( trong tiếng anh là infrastructure) được hiểu với quan điểm sau: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những hệ thống cấu trúc, thiết bị và các công trình vật chất, kỹ thuật được tạo lập tồn tại và phát huy tác dụng trong mỗi quốc gia, khu vực hay vùng lãnh thổ, nó đóng vai trò là nền tảng và điều kiện chung cho các hoạt động kinh tế - xã hội, cho quá trình sản xuất và nâng cao đời sống dân cư. Thuật ngữ cơ sở hạ tầng ngày càng được sử dụng nhiều, tuy nhiên ngay cả thuật ngữ này cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, chúng ta có thể thấy có hai loại ý kiến khác nhau xuất phát từ hai quan niệm theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp về cơ sở hạ tầng. Theo nghĩa hẹp, cơ sở hạ tầng được hiểu là tập hợp các ngành phi sản xuất vật chất thuộc lĩnh vực lưu thông bao gồm các công trình vật chất kỹ thuật phi sản xuất và các tổ chức dịch vụ có chức năng bảo đảm những điều kiện chung cho sản xuất, phục vụ những yêu cầu phổ biến của sản xuất và đời sống xã hội, theo cách hiểu này cơ sở hạ tầng chỉ bao gồm các công trình giao thông, cấp thoát nước, cung ứng điện, hệ thống thông tin liên lạc…và các đơn vị bảo đảm duy trì các công trình này. Tuy nhiên, quan niệm cơ sở hạ tầng theo nghĩa hẹp không cho chúng ta thấy mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận vốn không cùng tính chất nhưng lại có mối liên quan mật thiết với nhau trong một hệ thống thống nhất. Theo nghĩa rộng, cơ sở hạ tầng là tổng thể các công trình và nội dung hoạt động có chức năng đảm bảo những điều kiện “ bên ngoài” cho việc sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Cơ sở hạ tầng là một phạm trù gần nghĩa với “môi trường kinh tế” bao gồm các phân hệ : Phân hệ kỹ thuật (đường, giao thông, cầu cảng, sân bay, năng lượng, bưu chính viễn thông…), phân hệ tài chính ( hệ thống tài chính, tín dụng…), phân hệ thiết chế ( pháp luật…), phân hệ xã hội ( giáo dục, y tế…). Theo cách hiểu này thì cơ sở hạ tầng rất rộng, nó bao gồm toàn bộ khu vực dịch vụ. Theo nghĩa rộng thì cơ sở hạ tầng không có sự đồng nghĩa và lẫn lộn giữa phạm trù “ khu vực dịch vụ” hoặc là “ môi trường kinh tế” bởi cơ sở hạ tang tạo điều kiện cho các khu vực kinh tế khác nhau phát triển. Như vậy, cơ sở hạ tầng là tổng hợp các công trình vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp cho sản xuất và đời sống của nhân dân, được bố trí trên phạm vi lãnh thổ nhất định. Các công trình vật chất kỹ thuật ở đây rất đa dạng như các công trình giao thông vận tải (đường xá, cầu cống, sân bay…); các công trình của ngành bưu chính - viễn thông (hệ thống đường cáp quang, các trạm, vệ tinh…) hay các công trình của ngành điện (đường dây, nhà máy phát điện…)… Các công trình này có vị trí hết sức quan trọng, nó phục vụ trực tiếp và gián tiếp cho các hoạt động của xã hội. Xét ở góc độ nào thì cơ sở hạ tầng cũng là một yếu tố, một chỉ số của sự phát triển. Hiện nay, xu thế hội nhập đang diễn ta mạnh mẽ thì tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng ngày càng tăng lên, cơ sở hạ tầng là nền tảng trong đó diễn ra các quá trình phát triển mà thiếu hệ thống thông tin viễn thông hiện đại, hệ thống giao thông vận tải, văn hóa, xã hội… thì sự phát triển đó khó có thể diễn ra được. Chính vì điều đó mà việc xây dựng cơ sở hạ tầng trở thành một nội dung quyết định của sự phát triển, nó đem lại sự thay đổi lớn về điều kiện vật chất của toàn bộ sinh hoạt trong kinh tế xã hội. 1.1.1.2. Phân loại cơ sở hạ tầng Để có thể nhận biết và có biện pháp tạo lập vốn phù hợp đối với từng loại sơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển cơ sở hạ tầng. Có thể phân chia cơ sở hạ tầng theo nhiều tiêu thức khác nhau: Phân chia theo tiêu thức ngành kinh tế quốc dân: Dựa vào tiêu thức phân loại này, cơ sở hạ tầng được chia thành : Cơ sở hạ tầng của công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông…( Cơ sở hạ tâng kinh tế); giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao...( Cơ sở hạ tầng xã hội) Cơ sở hạ tầng phục vụ lĩnh vực kinh tế (Cơ sở hạ tầng kinh tế): Đó là hệ thống vật chất kỹ thuật cho sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh tế như cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp, nông nghiệp, hệ thống giao thông vận tải; mạng lưới chuyên tải và phân phối năng lượng điện; hệ thống công trình và phương tiện thông tin liên lạc, bưu điện, viễn thông, cấp thoát nước… Cơ sở hạ tầng phục vụ lĩnh vực xã hội ( Cơ sở hạ tầng xã hội) : Đó là toàn bộ hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ cho các hoạt động văn hoá, xã hội đảm bảo cho việc thoả mãn và nâng cao trình độ dân trí, văn hoá tinh thần cho dân cư, cho quá trình tái sản xuất sức lao động của xã hội như các cơ sở, thiết bị và công trình phục vụ giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, các cơ sỏ y tế phục vụ chăm sóc sức khỏe…nó thường gắn với đời sống của các điểm dân cư, góp phần ổn định nâng cao đời sống dân cư trên lãnh thổ Sự phân chia này chỉ là tương đối vì trên thực tế, ít loại cơ sở hạ tầng nào hoàn toàn chỉ phục vụ kinh tế mà không phục vụ hoạt động xã hội và ngược lại. Chẳng hạn như hệ thống mạng lưới điện mở rộng đến nông thôn, đến vùng sâu, vùng xa giúp cho việc phát triển sản xuất nhưng đồng thời nó còn phục vụ cho đời sống, ở những nơi có điện, người dân có thể sử dụng các phương tiện hiện đại như đài, ti vi… để tiếp cận với những thông tin văn hóa xã hôi, nâng cao trình độ dân trí. Sự phân chia này cho phép chúng ta xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng ngành cụ thể, đồng thời xác lập mối quan hệ liên kết và phối hợp đồng bộ giữa các ngành trong quá trình xây dựng kế hoạch huy động vốn đầu tư một cách cân đối và hợp lý. Phân chia theo khu vực lãnh thổ: Cơ sở hạ tầng ở mỗi ngành , mỗi lĩnh vực hoặc liên ngành, liên lĩnh vực hợp thành một tổng thể hoạt động, phối hợp hài hòa nhằm phục vụ sự phát triển của tổng thế kinh tế - xã hội-an ninh - quốc phòng trên từng vùng và cả nước. Sự phát triển kinh tế - xã hội và cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội trên một vùng lãnh thổ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mà mỗi vùng lãnh thổ riêng biệt lại có cơ sở hạ tầng riêng biệt, do đó phải có cơ sở hạ tầng phù hợp. Theo tiêu thức phân loại này, Cơ sở hạ tầng được phân chia thành: Cơ sở hạ tầng đô thị và Cơ sở hạ tầng nông thôn. Phân loại theo cấp quản lý và đối tượng quản lý Căn cứ vào tiêu chí này, Cơ sở hạ tầng được chia thành : Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội do trung ương quản lý, hệ thống cơ sở hạ tầng do địa phương quản lý Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội do trung ương quản lý bao gồm những tài sản quan trọng, có giá trị lớn, có chiến lược quốc gia gồm : hệ thống đường quốc lộ, đường sắt, sân bay, bưu chính viễn thông, điện, các trung tâm y tế, giáo dục lớn … Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội do địa phương quản lý, đó là những tài sản được nhà nước giao cho địa phương quản lý như : đường giao thông liên tỉnh, các trạm bơm tưới tiêu, hệ thống cơ sở vật chất các ngành giáo dục, y tế, văn hoá xã hội của địa phương. Cách phân loại này cho phép chúng ta xác định rõ trách nhiệm của từng cấp chính quyền trong việc quản lý, khai thác và sử dụng các công trình cơ sở hạ tầng. Trên cơ sở đó để xây dựng kế hoạch huy động các nguồn vốn đầu tư theo quy hoạch, kế hoach đã đề ra. 1.1.2. Cơ sở hạ tầng đô thị và phân loại cơ sở hạ tầng đô thị 1.1.2.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng đô thị Đô thị là một điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước của một vùng lãnh thổ, một tỉnh, một huyện hay một vùng trong tỉnh, trong huyện. Cơ sở hạ tầng đô thị là một bộ phận của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng đô thị là những tài sản vật chất và các hoạt động hạ tầng có liên quan dùng để phục vụ các nhu cầu kinh tế - xã hội của cộng đồng dân cư đô thị. Nó chính là tiêu chuẩn để phân biệt đô thị với nông thôn. Cơ sở hạ tầng đô thị bao gồm toàn bộ các công trình giao thông vận tải, bưu điện, thông tin- liên lạc, dịch vụ xã hội như : đường sá, cấp thoát nước, sân bay, nhà ga, xe lửa, y tế, dịch vụ ăn uống công cộng, nghỉ ngơi, du lịch, vui chơi giải trí…phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho dân cư khu vực đô thị. 1.1.2.2. Phân loại cơ sở hạ tầng đô thị Dựa vào các tiêu chí khác nhau, chúng ta có thể phân chia cơ sở hạ tầng đô thị thành nhiều loại khác nhau, nhưng phân loại theo tính chất ngành là thông dụng nhất và có ý nghĩa nhiều nhất đối với công tác quy hoạch và phát triển đô thị. Theo tính chất này, cơ sở hạ tầng đô thị được phân chia thành: cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị: đây là hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh tế trong nền kinh tế quốc dân bao gồm : hệ thống giao thông vận tải, cầu cống, sân bay, bến cảng, cấp thoát nước…Hệ thống cung ứng vật tư kỹ thuật, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và đời sống; cơ sở hạ tầng môi trường phục vụ cho việc bảo vệ, giữ gìn và cải tạo môi trường sinh thái của đất nước và môi trường sống của con người… Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội : Bao gồm toàn bộ các công trình như nhà xưởng, kho bãi, khách sạn, khu thương mại (chơ, siêu thị..), trụ sở làm việc của các cơ quan hành chính, kinh tế và các tổ chức xã hội… Cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội : Đó là toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động văn hóa, xã hội, bảo đảm cho việc thỏa mãn và nâng cao trình độ lao động của người lao động, hệ thống này bao gồm các cơ sở thiết bị và các công trình phục vụ cho giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, các cơ sở y tế, văn nghệ, thể dục- thể thao… 1.1.3. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 1.1.3.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Trước hết, để hiểu được khái niệm về cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, cần có một khái niệm chung nhất về cơ sở hạ tầng cấp nước. Theo khái niệm chung nhất, cơ sở hạ tầng cấp nước là một bộ phận cấu thành cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm một hệ thống các công trình kiến trúc và các phương tiện vật chất kỹ thuật mang tính nền móng cho sự phát triển của cơ sở hạ tầng cấp nước, có chức năng phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của xã hội bao gồm hệ thống ống dẫn, các trạm bơm, các nhà máy nước…cùng với các cơ sở vật chất khác phục vụ cho người dân. Xét về phạm vi lãnh thổ, nó gồm có cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị và cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn. Từ khái niệm cơ sở hạ tầng cấp nước trên, chúng ta có thể định nghĩa cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như sau : Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một bộ phận cấu thành nên cơ sở hạ tầng cấp nước. Nó bao gồm một hệ thống các công trình, nhà máy, đường ống, hệ thống ống dẫn, các trạm bơm…cùng những cơ sở vật chất khác ( hệ thống máy đếm nước…) phục vụ và đảm bảo cho các đối tượng dân cư đô thị tham gia vào hệ thống cấp nước đô thị hoạt động một cách an toàn, thông suốt và liên tục. 1.1.3.2. Vai trò của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Việt Nam hiện nay có 708 đô thị với dân số 21,59 triệu người ( chiếm 26,3% dân số toàn quốc). Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đô thị. Trước hết để biết được vai trò của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, ta tìm hiểu thế nào là nước sạch cũng như vai trò của nước sạch trong đời sống và trong sản xuất. Nước sạch là nước phải trong, không có màu, không có mùi vị, không chứa các mầm bệnh và các chất độc hại. Chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt phải đảm bảo theo quy chuẩn vệ sinh nước ăn uống do Bộ trưởng Bộ Y Tế ban hành( Theo quyết định số 1329/2002/BYT/QĐ ngày 18/04/2002 của Bộ trưởng Bộ Y Tế). Nước sạch phải đảm bảo chất lượng theo quy định trên toàn hệ thống từ sau công trình xử lý đến người trực tiếp sử dụng Như chúng ta đã biết, trong đời sống sinh hoạt cũng như trong sản xuất, nước sạch có vai trò vô cùng quan trọng * Trong đời sống sinh hoạt: Nước là tài nguyên, là tư liệu thiết yếu cho cuộc sống con người. Không có nước thì không có sự sống. Chúng ta cần nước cho sinh hoạt, bảo vệ sức khoẻ và vệ sinh. Nước sạch có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống của con người. Nó đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người : ăn, uống. Trong cơ thể con người chiếm tới 70% là nước, chúng ta có thể không ăn trong một tuần nhưng không thể sống không quá ba ngày mà không có nước. Hàng ngày mỗi người cần tối thiểu 60 – 80 lít, tối đa tới 150 – 200 lít nước dùng cho sinh hoạt ; riêng lượng nước ăn uống vào cơ thể ít nhất cũng tới 1,5-2 lít mỗi ngày. Ngoài ra, nước dưới đất còn chứa 60 nguyên tố đa lượng, vi lượng rất cần thiết cho sự sống. * Trong sản xuất: Nước sạch không chỉ dùng trong ăn uống, sinh hoạt cho con người mà nó càn rất cần cho sản xuất nông nghiệp (đảm bảo tưới tiêu nước đi đôi với cải tạo đất lầy thụt, chua phèn, nhiễm mặn, bạc mầu, phục vụ thâm canh, tăng vụ), thuỷ sản, công nghiệp (góp phần quan trọng, bảo đảm các điều kiện để phát triển ngành công nghiệp với nhịp độ cao, mở rộng quy mô và phân bố lại các lĩnh vực sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại), du lịch và các ngành kinh tế khác. Nước còn cần cho phát triển thuỷ điện và giao thông thuỷ. Thực tế cho chúng ta thấy, dân cư đô thị có nhu cầu chất lượng cao hơn những vùng khác. Sở dĩ có những điều đó là do dân cư đô thị có mức sống cao hơn so với dân cư khu vực nông thôn, do đó đòi hỏi về nước sạch cũng như mức độ sẵn sàng chi trả cho dịch vụ nước sạch của dân cư đô thị so với dân cư nông thôn cũng cao hơn. Tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng nhanh, theo cùng tốc độ đó thì dân cư đô thị ngày một tăng lên. Mặc dù tốc độ tăng dân số tự nhiên ở các vùng đô thị thấp hơn so với ở nông thôn nhưng tốc độ tăng dân số cơ học của các vùng đô thị lại cao hơn, do một bộ phận dân số chuyển từ các vùng nông thôn ra thành thị tìm việc làm. Do đó đòi hỏi nhu cầu về hệ thống cấp nước ngày càng cấp thiết. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là điều kiện cho quá trình hình thành và phát triển đô thị. Nó là một trong những yếu tố cấu thành cơ sở hạ tầng đô thị , cung cấp những dịch vụ cơ bản, thiết yếu nhất cho các đô thị và phản ánh trình độ phát triển của từng đô thị, trình độ văn minh của đô thị Có thể nói, đối với các đô thị thì cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn được coi là bộ mặt của đô thị, hơn thế nữa nó còn là bộ mặt của đất nước. Do vậy chúng ta không thể không quan tâm đến cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một trong những cơ sở hạ tầng rất quan trọng, đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống hàng ngày, quyết định việc đảm bảo chất lượng vệ sinh môi trường sống cho người dân và góp phần tích cực phát triển và hiện đại hoá đô thị. 1.2. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 1.2.1. Một số quan niệm về đầu tư và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 1.2.1.1. Khái niệm về đầu tư phát triển Đầu tư là một hoạt động cơ bản tồn tại tất yếu và nó có vai trò quan trọng trong bất kì nền kinh tế xã hội nào. Nói về khái niệm đầu tư, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Theo nghĩa rộng, đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động hay công nghệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm của các tài sản tài chính ( tiền vốn ); tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác…); tài sản trí tuệ ( trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn cho xã hội Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó. Như vậy, xét theo bản chất có thể chia hoạt động đầu tư trong nền kinh tế ra làm 3 loại : Đầu tư tài chính ( là hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận trực tiếp cho người bỏ tiền ra để cho vay hay mua bán các chứng chỉ có gia mà không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế). Đầu tư thương mại (đây là hình thức mà nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán). Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động ( còn gọi là đầu tư phát triển ), khác với hai hình thức trên, đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó các nhà đầu tư bỏ tiền và tài sản để tiến hành các hoạt động nhằm duy trì và tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên việc làm, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Trong đầu tư tài sản vật chất, có đầu tư các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc, thông tin, dịch vụ tài chính, tạo nền tảng cho các hoạt động kinh tế - xã hội ; đầu tư sức lao động bao gồm đầu tư công sức và đầu tư trí tuệ của người lao động. Hoạt động đầu tư bao gồm 3 yếu tố cơ bản : Đầu tư phát triển là một chuỗi các hoạt động chi tiêu, hao phí các nguồn lực : nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất (đất đai, máy móc, thiết bị, nguyên nhiện vật liệu…), nguồn lực lao động và trí tuệ. Phương thức tiến hành các hoạt động đầu tư : xây dựng mới, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng. mua sắm máy móc thiết bị và lắp đặt…, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực… Kết quả đầu tư : hoạt động đầu tư không chỉ mang lại lợi ích cho chủ đầu tư nói riêng ( doanh thu, lợi nhuận…) mà còn đem lại lợi ích cho toàn xã hội ( tạo thêm việc làm…). Đầu tư được tiến hành trong hiện tại và kết quả của nó được thu về trong tương lai. Hay có thể nói, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội là bỏ ra một lượng tiền vào việc tạo mới hay tăng cường cơ sở vật chất, các điều kiện kỹ thuật, phương tiện, thiết chế, tổ chức làm nền tảng cho kinh tế - xã hội phát triển 1.2.1.2. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Vì đầu tư phát triển là rất rộng, do hạn chế của đề tài nên ở đây em xin tập trung đi sâu vào nghiên cứu việc đầu tư về vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là hình thức đầu tư cho việc khôi phục, nâng cấp, bảo dưỡng hay xây dựng mới các nhà máy nước, hệ thống đường ống và năng lực cấp nước cho người dân nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất cho người dân ở khu vực đô thị Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một hoạt đồng đầu tư phát triển của Nhà nước, của các đơn vị kinh tế tư nhân hay của các địa phương vào các công trình cấp nước Như vậy đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị bao gồm: - Đầu tư xây dựng cơ bản: là các khỏan đầu tư làm mới, mở rộng, cải tạo và nâng cấp các nhà máy nước, hệ thống đường ống… khoản đầu tư này làm tăng năng lực cấp nước cho người dân đô thị. - Đầu tư (chi) thường xuyên : là đầu tư cho công tác duy trì, bảo dưỡng hệ thống cấp nước… tuy không làm gia tăng năng lực cấp nước nhưng nó giúp phục hồi năng lực đã mất do tình trạng xuống cấp của hệ thống ống dẫn… 1.2.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nói riêng là ngành sản xuất đặc biệt, do nó có những đặc điểm khác với các ngành sản xuất vật chất khác. Đó là : Vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi chậm: Đầu tư phát triển hệ thống cấp nước đô thị có đặc điểm là vốn đầu tư lớn và thời gian thu hồi vốn chậm. Mỗi nhà máy nước được xây dựng có thể phục vụ cho một số lượng lớn người sử dụng, đi kèm với các nhà máy lại phải có một hệ thống ống nước dẫn từ nhà máy tới các hộ tiêu dùng. Thường thì hệ thống ống dẫn nước lại chạy ngầm dưới đất nên vẫn đề đầu tư ở đây rất tốn kém. Mà, mỗi hộ dân đấu nối sẽ cần phải có đồng hồ đo nước để tính phí nước. Do vậy, có thể thấy đầu tư cho hệ thống nước là một hoạt động đầu tư đòi hỏi vốn lớn. Mang tính xã hội hóa cao: Hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị mang tính xã hội hóa cao, nó đem lại lợi ích cho nền kinh tế xã hội, mục tiêu của đầu tư không phải vì mục đích kinh doanh đơn thuần để thu lợi nhuận mà quan trọng hơn cả là nó đáp ứng nhu cầu nước sạch cho sinh hoạt và sản xuất của người dân trong xã hội. Nguồn vốn cho đầu tư chủ yếu là vốn ODA : Đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một lĩnh vực đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn, nó gíup cải thiện điều kiện sống cho người dân, chính vì vậy việc đầu tư phát triển vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thu hút được đầu tư của các nhà tài trợ quốc tế. Nhận thức được điều này, song vì điều kiện ngân sách hạn hẹp chúng ta không đủ ngân sách để tự đầu tư phát triển hệ thống cấp nước đô thị. Vì vậy, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA hiện nay vẫn đang là nguồn chủ yếu cho đầu tư phát triển hệ thống cấp nước đô thị. Công tác quy hoạch đóng vai trò hêt sức quan trọng: Việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị liên quan mật thiết đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị phải luôn đi kèm với đầu tư cho hệ thống cấp nước. Bên cạnh đó, hệ thống đường ống lại liên quan tới việc đào đường, san lấp mặt đường, ảnh hưởng không chỉ tới mỹ quan đô thị mà còn tới an toàn giao thông.... Do đó, khi đầu tư phát triển hệ thống cấp nước mới cần thiết phải nghiên cứu kỹ lưỡng các quy hoạch, phối hợp với hoạt động của các cơ quan liên quan để nhằm đảm bảo đạt được hiệu quả cao nhất. 1.2.3. Nguồn vốn đầu tư trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Như chúng ta đã biết, trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nói riêng thì vốn đầu tư đóng vai trò đặc biệt quan trọng vì các dự án, các công trình cấp nước đô thị đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, hơn nữa việc cải tạo, nâng cấp, khôi phục các công trình là thường xuyên, liên tục cho nên yêu cầu về vốn luôn được đặt lên hàng đầu với các chủ thể đầu tư. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, vốn đầu tư được khai thác từ nhiều nguồn vốn khác nhau, có cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngòai. Đối với cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị mà nói, vốn đầu tư bao gồm từ những nguồn vốn chủ yếu sau : vốn ngân sách Nhà nước, vốn ODA, vốn tín dụng đầu tư phát triển và các nguồn vốn khác ( Doanh nghiệp tư nhân…) 1.2.3.1. Vốn Ngân sách Nhà nước Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được coi là một lĩnh vực đầu tư công ích. Do đó, nguồn vốn Ngân sách Nhà nước có ý nghĩa quan trọng. Nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước là tất cả các khoản Ngân sách dùng để làm tăng thêm tài sản quốc gia, đối với hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thì đó là các khoản đầu tư cho việc xây dựng mới, mở rộng, nâng cấp các nhà máy nước sạch và các hệ thống đường ống dẫn nước… Nguồn vốn đầu tư Ngân sách nhà nước này phần lớn là các khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp được thực hiện theo quy định cụ thể của pháp luật. Nguồn vốn này chính là số thu Ngân sách còn lại sau khi đã chi cho các nhu cầu chi thường xuyên, nó do Nhà nước sở hữu và trực tiếp quản lý, sử dụng trong các mục tiêu kinh tế, xã hội mang tính chất công cộng nên nó có tính chất xã hội rất lớn. Qúa trình sử dụng nguồn vốn này đòi hỏi phải theo kế hoạch và gắn với các chương trình, dự án của Nhà nước và bị chi phối bởi các quy định của các Nhà nước. Ở các nước đang phát triển như nước ta, nguồn vốn này có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia nói chung và cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nói riêng. Nó có tác dụng làm đòn bảy phát triển kinh tế và là nguồn vốn đối ứng để thu hút các nguồn vốn đầu tư khác. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước bao gồm : Vốn ngân sách Trung ương và Vốn ngân sách địa phương Theo Luật ngân sách hiện nay, việc cung cấp tài chính cho các hệ thống cấp nước đô thị thuộc trách nhiệm của các Uỷ ban nhân dân tỉnh. Tuy nhiên, trong thực tế thì ngân sách tỉnh không đủ để đáp ứng những nhu cầu nâng cấp cần thiết, do đó chính phủ trung ương phải hỗ trợ cung cấp vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. 1.2.3.2. Vốn ODA Vốn ODA là vốn hỗ trợ phát triển của các đối tác tài trợ nước ngoài dành cho các nước nhận viện trợ, thường là các nước đang phát triển. Vốn ODA giữ vai trò rất quan trọng trong việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, nó là nguồn chủ yếu cho đầu tư phát triển hệ thống cấp nước đô thị. Vốn ODA bao gồm tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi ( cho vay với lãi suất thấp…). Một khoản vay được coi là vốn ODA khi nó thỏa mãn các tiêu thức sau : một là, nó phải do chính phủ hoặc các tổ chức điều hành trực thuộc chính phủ cung cấp. Hai là, mục tiêu chủ yếu là thúc đẩy phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội các nước đang phát triển. Ba là, với hình thức ODA cho vay ưu đãi phải có thành phần viện trợ không hoàn lại không dưới 25 % giá trị khoản vay. Việc huy động vốn ODA cho đầu tư phát triển chịu ảnh hưởng của những nhân tố như : quan hệ song phương và đa phương giữa Việt Nam và các bên tài trợ, việc thực hiện các điều kiện ràng buộc như giải ngân… Các nhà cung cấp ODA cho cấp nước đô thị là Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), các tổ chức DANIDA, JICA… 1.2.3.3. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước Tín dụng nhà nước về thực chất có thể coi như một khoản chi của ngân sách nhà nước, vì cho vay theo lãi suất ưu đãi, tức lãi suất cho vay thường thấp hơn lãi suất trên thị trường tín dụng, nên Nhà nước phải dành ra một phần ngân sách trợ cấp bù lãi suất. Song tín dụng nhà nước có những ưu thế riêng, phát triển hoạt động tín dụng nhà nước là đi liền với giảm bao cấp về chi ngân sách nhà nước trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người sử dụng vốn.  Cơ chế của tín dụng là đi vay có hoàn trả kèm lãi suất, nên dưới áp lực này buộc các đối tượng vay vốn phải tăng cường hạch toán kinh tế, giám sát chặt chẽ việc sử dụng các khoản vay để bảo đảm khả năng thanh toán nợ. Bên cạnh đó, khả năng điều tiết nền kinh tế của Nhà nước sẽ ngày càng được cải thiện khi các khoản vay được hoàn trả thay vì việc cấp phát không hoàn lại như trước đây, cho nên đầu tư của Nhà nước vào các ngành then chốt, các vùng trọng điểm, các vùng khó khăn...tăng lên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của toàn bộ nền kinh tế. 1.2.3.4. Vốn từ các doanh nghiệp, tư nhân và các nguồn khác. Bên cạnh nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển và nguồn vốn ODA thì vốn từ các doanh nghiệp, tư nhân và các nguồn khác cũng đóng một vai trò rất lớn vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Nguồn vốn này có một tiềm năng rất lớn nó bao gồm vốn của dân cư, vốn của các doanh nghiệp, tổ chức... trong nước cũng như là Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hiện nay nó cũng góp phần rất lớn vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. 1.3. Sự cần thiết của đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 1.3.1. Đặc điểm của sản phẩm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Cơ sở hạ tầng cấp nước đô ._.thị tuy không trực tiếp tham gia trong việc tạo ra sản phẩm nhưng nó là một nhân tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có hai thuộc tính : Thứ nhất, nó có giá trị bởi trên thực tế, các cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị không tự nhiên sinh ra, mà nó phải trải qua quá trình đầu tư phát triển với một kinh phí rất lớn trong một thời gian dài. Thứ hai, nó cũng có giá trị sử dụng theo đúng mục đích với khi quyết định đầu tư. Bên cạnh đó, sản phẩm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn sẵn sàng tham gia trao đổi trên thị trường nên sản phẩm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thỏa mãn trở thành hàng hóa. Không những thế, khác với những loại hàng hóa thông thường, sản phẩm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn được coi là hàng hóa công cộng vì nó có hai đặc tính quan trọng: Thứ nhất là nó không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng, đối với hàng hóa cá nhân là những hàng hóa cá nhân là những hàng hóa có tính cạnh tranh, tức là việc tiêu dùng của người này sẽ loại trừ việc tiêu dùng của người kia, vì vậy chi phí tiêu dùng cận biên cao. Còn đối với hàng hóa nước sạch thì khi có thêm một người tiêu dùng sử dụng sẽ không làm giảm lợi ích tiêu dùng của những người đang tiêu dùng hiện có. Ví dụ : Các vòi nước công cộng không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng, chúng có thể được rất nhiều người cùng sử dụng một lúc. Việc ai đó mở hay tắt vòi nước đều không ảnh hưởng đến mức độ tiêu dùng của người khác. Thứ hai, nó không có tính loại trừ trong tiêu dùng có nghĩa là không thể loại trừ hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân từ chối không chịu trả tiền cho việc tiêu dùng của mình. Chẳng hạn không có ai có thể ngăn cản những người không chịu trả tiền (đóng thuế) cho việc duy trì các vòi nước công cộng khỏi việc hưởng thụ những lợi ích do vòi nước mang lại. 1.3.2. Chủ trương đa dạng hóa nguồn lực cho đầu tư phát triển cơ sơ hạ tầng cấp nước đô thị. Đa dạng hóa nguồn lực cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là chủ trương được triển khai dựa trên những căn cứ khoa học và khách quan. Điều đó được phân tích dựa trên những góc độ sau: Xét dưới góc độ sở hữu : Ta có thể nhận thấy, dưới thời bao cấp cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đều do nhà nước đầu tư, xã hội nói chung và từng cơ sở kinh tế nói riêng cứ vậy mà thụ hưởng, đó là các công trình , các vòi nước công cộng. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, nhà nước chủ trương xã hội hóa mọi nguồn lực, đã xuất hiện nhiều tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, vấn đề đặt ra là sở hữu, sở hữu ở đây xuất phát từ nguồn vốn được chảy ra từ thành phần kinh tế nào, từ đó việc chuyển giao, mua bán chuyển nhượng đã xuất hiện. Như trên đã trình bày, sản phẩm của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là hàng hóa công cộng. Mà hàng hóa công cộng cũng như hàng hoá thông thường, hàng hóa công cộng cũng có thể tách ra thành quá trình sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên hàng hóa công cộng khác hàng hóa thông thường ở chỗ, hàng hóa thông thường được sản xuất để cá nhân tiêu dùng, còn hàng hóa công cộng được sản xuất ra cho cả cộng đồng sử dụng. Hàng hóa thông thường được sản xuất ra sau đó đem bán ra thị trường trao đổi nhằm kiếm lợi nhuận, phần lợi nhuận này lại được dùng để quay vòng sản xuất hay tái sản xuất mở rộng. Còn với hàng hóa công cộng, không thể bán ngay được mà để phục vụ chung cho cộng đồng. Chính vì vậy, nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị chủ yếu là từ nguồn tài chính công và từ sự đóng góp của xã hội hay nói cách khác là sự đa dạng hóa nguồn vốn trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Xét dưới góc độ sử dụng: Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có đặc điểm là được sử dụng chung, phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của người dân khu vực đô thị. Do vậy, dẫn đến mâu thuẫn đó là: Ai là việc khơi mào đầu tư, bỏ vốn, sửa chữa, quản lý... điều đó sẽ phức tạp nếu không giải thoát bằng một biện pháp có tính nguyên tắc đó là : cả xã hội tham gia đầu tư và cộng đồng sử dụng. Xét về khả năng huy động vốn : Trong năm 2005, trong số vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị th 30% nguồn vốn Ngân sách và gần 40% vốn ODA còn lại là một lượng lớn nguồn vốn được huy động từ các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp trong nước và ngoài nước, như vậy trên thực tế cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đã thu hút được toàn xã hội tham gia. Cho dù tiếp cận theo cách nào đi chăng nữa thì cũng có thể khẳng định rằng, muốn xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị một cách nhanh chóng thì phải có sự góp sức của cả xã hội Xét về nghĩa vụ và quyền lợi của người dân: Trong thời gian vừa qua, việc xây dựng và hưởng thụ cơ sở hạ tầng cấp nước ở hai khu vực đô thị và nông thôn có sự khác biệt rất lớn. Các cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được xây dựng với quy mô lớn, hiện đại, ở nông thôn thì các công trình này thường có quy mô nhỏ hơn đặc biệt là các vùng miền núi. Nguồn vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thường là vốn Ngân sách nhà nước, còn cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn thì thường được huy động từ người dân, người dân ở khu vực thành thị thường không phải đóng góp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước mà họ chỉ việc đóng góp cho khối lượng nước mà mình sử dụng, người dân ở khu vực nông thôn ngoài việc đóng góp cho khối lượng nước mà mình sử dụng phải bỏ ra tiền bạc, công sức để xây dựng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là việc huy động vốn và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước phải đảm bảo được sự công bằng xã hội 1.3.3.Yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngành nước. Từ thực tế cho thấy, trước kia các cơ quan Nhà nước cung cấp và quản lý cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thường là độc quyền, thiếu sự công khai và chỉ chịu trách nhiệm trước chính quyền và bộ máy hành chính chứ không phải trực tiếp trước người dân, những người sử dụng hay khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, đặc biệt xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, một yêu cầu đặt ra là làm cho các tổ chức này hoạt động có hiệu quả hơn, khi kinh tế tư nhân tham gia vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có thể hoạt động tích cực, hiệu quả hơn. Mục tiêu của các thành phần kinh tế tư nhân khi tham gia và đây chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận cho những đầu tư của mình. Do khả năng tiếp cận các nguồn tài chính và năng lực quan lý hiệu qủa hơn nên họ có thể đóng một vai trò trong việc cung cấp tài chính, dịch vụ, điều hành, bảo dưỡng, quản lý tốt hơn. Khi cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi quốc tế như ODA có xu hướng giảm thì việc đẩy mạnh thu hút đầu tư tư nhân đang ngày càng trở nên có vai trò quan trọng hơn. Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư từ khu vực tư nhân thường cao hơn so với khu vực Nhà nước do sự quản lý vốn của khu vực này thường chặt chẽ, nhạy cảm hơn với những chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư của Nhà nước. Đây có thể coi là những ưu điểm dễ nắm bắt để khai thác. Đứng trước nhu cầu ngày càng gia tăng về cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc hạn chế về Ngân sách và Việt Nam sắp hết hạn hưởng các nguồn tài trợ ưu đãi ( ODA) đồng nghĩa với việc Việt Nam phải tìm kiếm các nguồn cung cấp dịch vụ đa dạng hơn để đáp ứng được nhu cầu về cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như kế hoạch và đạt được các mục tiêu đề ra, không còn nghi ngờ gì nữa, sự tham gia của khu vực tư nhân vào lĩnh vực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị sẽ là một phần quan trọng trong việc đáp ứng các nhu cầu về cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nói riêng và cơ sở hạ tầng cấp nước nói riêng. Việc tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị cũng sẽ góp phần vào việc chống tham nhũng lãng phí, bởi nguồn vốn của tư nhân luôn được quản lý chặt chẽ nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Đồng thời khi đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị sẽ giảm được sức ép về nhu cầu vốn đầu tư và làm tăng thêm thu nhập cho Chính Phủ. Khả năng tiếp cận đến các nguồn vốn tài chính tư nhân nhất là khi các nguồn vốn đó có được từ việc bán các tài sản hiện có sẽ giúp Chính Phủ không phải thực hiện chi tiêu công cộng và vay nợ vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nữa mà tập trung vào các mục tiêu xã hội và y tế. Đồng thời với sự tham gia của đầu tư tư nhân sẽ mang lại một số lượng việc làm nhất định cho xã hội nhằm phục vụ cho việc xây dựng nhà mấy mới cũng như nâng cấp các nhà máy cũ, ngòai ra nó còn mang lại việc làm cho số nhân công trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư. Như vậy, với việc tham gia của đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đã mang lại hiệu quả giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng không nhỏ nhân công Một tác dụng nữa của đầu tư tư nhân trong cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đó là nó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành phụ trợ cho nó, ví dụ như chế tạo ống dẫn, xây dựng...và như thế thì càng thu hút thêm lượng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Kết luận : Theo như trên đã trình bày, đã thấy được cơ bản về sự cần thiết của hoạt động đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, cũng như thấy được sự cần thiết của đầu tư tư nhân nói riêng vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Muốn đưa ra các biện pháp nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, tiếp theo ta xem xét thực trạng đầu tư vào cơ sở hạ tầng nói chung và thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nói riêng. Chương II: Thực trạng đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở Việt Nam 2.1. Tổng quan về vốn đầu tư và các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Trong những năm qua, tình hình cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở nước ta đã được cải thiện đáng kể. Hầu hết các thành phố, thị xã trong toàn quốc đều đã có được các dự án đầu tư cải tạo mở rộng và xây dựng mới các hệ thồng cấp nước. Kể từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã đầu tư xây dựng khoảng 1 tỷ USD để phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị với mức độ đầu tư khác nhau, tính tổng cộng trên toàn quốc có khoảng 240 nhà máy nước. Hầu hết các thành phố, thị xã trong toàn quốc đều đã có được các dự án đầu tư cải tạo mở rộng và xây dựng mới các hệ thống cấp nước. Các dự án cấp nước được đầu tư chủ yếu từ nguồn vốn Ngân sách nhà nước, vốn ODA, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ các doanh nghiệp. Chất lượng và số lượng cấp nước được thực hiện bởi các dự án này đã đáp ứng phần nào nhu cầu nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt của người. 2.1.1.Thực trạng vốn đầu tư trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị *Quy mô và tốc độ tăng của nguồn vốn đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: Để không ngừng nâng cao chất lượng và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nước sạch ở đô thị, ngành kinh doanh nước sạch đô thị đã chú trọng quan tâm đặc biệt đến việc huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư. Kết quả thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được phản ánh ở bảng sau: Bảng 2.1 : Vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2002-2007 Đơn vị : Tỷ đồng,% 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Vốn ĐTPT CSHTĐT Quy mô 24498 33887 44474 55606 69500 79600 Tốc độ tăng liên hoàn 16,78 16,33 18,73 21,82 17,46 14,53 Vốn ĐTPT CSHTCNĐT Quy mô 2198 2631 3200 4500 3900 4600 Tốc độ tăng liên hoàn 17,91 19,69 21,62 40,62 -13,33 17,94 Tỷ trọng vốn ĐTPT CSHTCNĐT/ vốn ĐTPT CSHTĐT 8,97 7,76 7,19 8,09 5,61 5,80 Nguồn : Vụ tài chính - tiền tệ, Bộ kế hoạch và đầu tư Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển của đất nước, cơ sở hạ tầng đô thị có những bước phát triển đáng kể đóng góp vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Trong giai đoạn 2002 – 2007, nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng đô thị có tốc độ tăng dần qua các năm, tốc độ tăng bình quân vốn đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng đô thị đạt 17,5%, năm 2002 vốn đầu tư vào đây là 24498 tỷ đồng nhưng đến năm 2007 đã lên đến 79600 tỷ đồng, tức là tăng 55102 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng thêm là 224,92%, sở dĩ nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng đô thị tăng nhanh chóng như vậy là do tốc độ đô thị hóa đang diễn ra ngày càng mạnh, do đó nhu cầu về cơ sở hạ tầng cấp cũng ngày càng tăng, chính vì vậy mà lượng vốn cần cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô thị cũng ngày càng tăng. Từ số liệu thống kê ở bảng 1 cũng cho thấy, nhìn chung vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có xu hướng tăng dần qua các năm, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2002-2007 về nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 7,23%. Năm 2004, vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 3200 tỷ đồng, so với năm 2002 tăng 1002 tỷ đồng, tương ứng với tăng 45,58%. Năm 2005 tăng 2302 tỷ đồng so với năm 2002, tức là tăng 104,73% so với năm 2002. Năm 2007 số vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 4600 tỷ đồng, so với năm 2002 tăng 2402 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng là 10,92%. Tốc độ tăng số vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tương đối đều, tuy nhiên so với năm 2005 thì năm 2006 tốc độ này lại có xu hướng giảm, năm 2006, tổng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 3900 tỷ đồng, giảm 700 tỷ đồng so với năm 2005 hay là giảm 13,33% so với năm 2005. Việc mở rộng quy mô và gia tăng thêm tốc độ của vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là do kết qủa đa dạng hóa các nguồn vốn. Điều này được thể hiện ở bảng 2: Bảng 2.2: Quy mô và tốc độ tăng của nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2007 Đơn vị : tỷ đồng, % Nguồn vốn Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số 1864 2198 2631 3200 4500 3900 4600 Vốn Ngân sách Nhà nước Quy mô 423 509 610 658 600 350 690 Tốc độ tăng Định gốc - 20.33 44.21 55.56 41.84 -17.26 63,12 Liên hoàn - 20.33 19.84 7.87 -8.18 -41.67 97,14 Vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước Quy mô 23 87 195 417 878 1138 1860 Tốc độ tăng Định gốc - 278.26 747.83 1713.04 3717.39 4847.83 7986,95 Liên hoàn - 278.26 124.14 113.85 110.55 29.61 63,44 Vốn ODA Quy mô 1332 1338 1434 1611 1722 1698 1360 Tốc độ tăng Định gốc - 0.45 7.66 20.95 29.28 27.48 2,11 Liên hoàn - 0.45 7.17 12.34 6.89 -1.39 -19.9 Các nguồn vốn khác (DN, tư nhân...) Quy mô 86 264 392 514 1300 714 690 Tốc độ tăng Định gốc - 206.98 355.81 497.67 1411.63 730.23 702.3 Liên hoàn - 206.98 48.48 31.12 152.92 -45.08 -3,36 Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị Qua bảng số liệu trên, ta có thể rút ra nhận xét. Trong 4 năm từ năm 2001 đến năm 2004, hầu như có sự gia tăng đồng thời của các nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, nhưng đến giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2007 lại có sự biến động khác nhau giữa các nguồn vốn (có nguồn vốn tiếp tục tăng song có nguồn vốn lại giảm đi, cụ thể như sau: Trong 4 năm 2001- 2004, quy mô của 4 nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đều tăng, vốn ngân sách nhà nước tăng từ 423 tỷ đồng vào năm 2001 và tăng lên đến 658 tỷ đông vào năm 2004 tương ứng với tốc độ tăng là 55,56%, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có quy mô vốn 23 tỷ đồng ở năm 2001, đến năm 2004 thì quy mô nguồn vốn này là 878 tỷ đồng, tức là tăng 3717,39% so với năm 2001… Đến năm 2005, riêng chỉ có quy mô nguồn vốn Ngân sách nhà nước là giảm so với năm 2004, nguồn vốn này giảm từ 658 tỷ đồng vào năm 2004 xuống chỉ còn 600 tỷ đồng vào năm 2005, tương ứng với giảm 8,18% . Còn các nguồn vốn khác vẫn tiếp tục tăng, nên tổng nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị vẫn tiếp tục tăng. Tiếp đến năm 2006, ta thấy quy mô và tốc độ tăng của nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị lại giảm xuống chỉ còn 3900 tỷ đồng, tức là giảm 600 tỷ đồng so với năm 2005, tương ứng với tốc độ giảm là 13,33%. Sở dĩ trong năm 2006 quy mô và tốc độ tăng vốn có xu hướng chậm lại là do chủ trương đa dạng hóa các nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, nên khi mà cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đã đạt đến một trình độ nhất định thì vấn đề đặt ra là cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn, vì hiện nay cở sở hạ tầng cấp nước nông thôn còn lạc hậu và thiếu thốn nhiều mà đến năm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đã thu hút được nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tư nhân… vì vậy sau năm 2005, sau khi ra một loạt các nghị định, văn bản mới thì nguồn vốn Ngân sách nhà nước và vốn ODA có chuyển dịch sang cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn. Nhưng hai nguồn vốn này lại chiếm tỷ trọng nguồn vốn rất cao, nó cao hơn nhiều so với nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển và nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tư nhân. Do đó khi hai nguồn vốn này chuyển sang cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn thì sự giảm đi về tổng nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là điều dễ hiều. ` Nhưng đến năm 2007, do chính sách huy động của Nhà nước trong việc thu hút của Nhà nước đã phát huy hiệu quả, nên nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển tăng với quy mô và tốc độ rất cao, do đó nó đóng góp lớn vào việc tăng quy mô tổng nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Trong giai đoạn 2001- 2007 nhìn chung quy mô các nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đều tăng, nhưng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển là có tốc độ tăng cao nhất. So với năm 2001, năm 2002 tốc độ tăng là 278,26%, năm 2007 tốc độ tăng là 7986,95%. Tiếp đến là đến tốc độ tăng của vốn đầu tư tư nhân. So với năm 2001, thì đến năm 2002 tốc độ tăng là 206,98%, đến năm 2005 tốc độ tăng còn đạt đến 1411,63%. Sau đó là đến tốc độ tăng của vốn Ngân sách nhà nước và vốn ODA. Điều này cũng đi đúng chủ trương, chính sách của Nhà nước trong việc đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị . 2.1.2. Tình hình thực hiện các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nói chung cũng như đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nói thường được thực hiện qua các dự án. Thời gian vừa qua, các dự án cấp nước đô thị được phản ánh ở bảng sau: Bảng 2.3 : Quy mô và cơ cấu dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2001- 2007 Tổng Dự án nhóm A Dự án nhóm B Dự án nhóm C Số lượng Tỷ trọng (%) Số lượng Tỷ trọng (%) Số lượng Tỷ trọng (%) Số lượng Tỷ trọng (%) Tổng dự án 703 100 85 100 190 100 431 100 Các dự án khởi công mới 290 41,25 39 45,89 75 39,47 179 41,53 Các dự án hoàn thành 245 34,85 27 31,76 66 34,74 152 35,27 Các dự án chuyển tiếp 168 23,90 19 22,53 49 25,79 100 23,20 Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị Qua bảng số liệu trên, ta thấy các dự án nhóm C là chiếm số lượng dự án lớn nhất, với số lượng là 431 dự án và chiếm 61,3% tổng số dự án, dẫn đầu về cả các dự án khởi công mới, các dự án hoàn thành cũng như các dự án chuyển tiếp. Dự án nhóm A có số lượng các dự án nhỏ hơn, chỉ có 85 dự án, chiếm tỷ trọng 12,09% tổng số dự án. Tổng số dự án nhóm B có số lượng 190 dự án, tương ứng với tỷ trọng 26,61% trong số tổng số dự án. Như vậy so với số dự án nhóm C và dự án nhóm A thì dự án nhóm C đứng vị trí thứ 2 về số lượng. Điều này cũng dễ hiểu vì đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo các dự án nhóm C thì số vốn đầu tư là nhỏ hơn, thường là dưới 20 tỷ đồng, mà thời gian triển khai là ngắn hơn, đó cũng là lý do tại sao mà con số dự án nhóm C đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước là nhiều hơn cả. Trong khi đó, dự án nhóm A với số vốn cần đầu tư là lớn hơn 200 tỷ đồng nên việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo các dự nhóm nhóm A thường ít hơn. Với dự án nhóm B, thì số vốn đầu tư vào là từ 20 tỷ đồng đến 200 tỷ đồng, do vậy mà việc đầu tư cho các dự án này chiếm vị trí thứ 2 trong số 3 loại dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Nhìn vào bảng ta cũng nhận thấy, số các dự án khởi công mới ở cả các dự án nhóm A, B, C đều chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giai đoạn 2001-2007. Năm 2007, chiếm tỷ trọng là 41,25% , tiếp theo là số các dự án hoàn thành chiếm tỷ trọng 34,85%, đứng ở vị trí thứ hai. Số dự án chuyển tiếp sang kỳ sau chiếm tỷ trọng nhỏ nhất khoảng 23,90% tổng số dự án. Số các dự án chuyển tiếp này là các dự án mới triển khai trong giai đoạn nhưng chưa kịp hoàn thành trong cùng kỳ nên phải chuyển sang giai đoạn sau Qua phân tích ở trên đã phần nào sơ lược thực trạng vốn đầu tư và các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị hiện nay, qua đó cũng cho thấy phần nào sự đóng góp của vốn đầu tư tư nhân vào tổng số vốn đầu tư chung, vậy cụ thể thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như thế nào? 2.2. Thực trạng đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. 2.2.1. Thực trạng quy mô và tốc độ tăng của vốn đầu tư tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Dựa vào bảng 2 ta thấy nguồn vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nhìn chung là tăng dần lên qua các năm, năm 2001 nguồn vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn rất thấp, mới chỉ đầu tư 86 tỷ đồng, năm 2002 tăng lên 264 tỷ đồng tức là tăng 178 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng 206,98% so với năm 2001, và số vốn này liên tục tăng vào các năm 2003, năm 2004. Đến năm 2005, số vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đạt mức 1300 tỷ đồng, tức là gấp gần 15 lần so với năm 2001, và tăng 786 tỷ đồng so với năm 2004, tương ứng với mức tăng 152,925%, sở dĩ có sự tăng nhanh vậy là do trong năm này chính sách xã hội hóa đầu tư được triển khai khá tốt, mở rộng về quy mô các kênh như phát hành trái phiếu, việc phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khóan vì vậy đã thu hút được một nguồn lực đáng kể cho đầu tư, đã có một số dự án lớn đã được triển khai như dự án cấp nước của nhà máy nước Bình An, nhà máy nước Thủ Đức… Tuy nhiên, đến năm 2006, nguồn vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị lại giảm, so với năm 2005 số vốn đầu tư tư nhân giảm xuống chỉ còn 714 tỷ đồng, tức là giảm 45, 08 % so với năm 2005. Và đến năm 2007 nguồn vốn này lại giảm so với năm 2006 là 3,36%. Nguyên nhân có sự giảm xuống của nguồn vốn này là do việc đa dạng hóa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị mới bắt đầu thực hiện, do đó có một số hạn chế trong việc thực thi, và đó cũng là nguyên nhân có sự giảm đi của nguồn vốn này. Tuy trong 2006 và năm 2007, nguồn vốn này có xu hướng giảm đi, nhưng cũng không thể khẳng định là xu hướng trong thời gian tới nguồn vốn này lại tiếp tục giảm xuống tiếp vì với những chính sách mà Chính phủ đưa ra như việc chuyển bớt đầu tư bằng vốn Ngân sách nhà nước cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị sang cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn, đồng thời sự giảm đi của nguồn vốn ODA, xu hướng nguồn vốn đầu tư tư nhân có thể sẽ tăng lên, có thể nó còn vượt xa con số 1300 tỷ đồng của năm 2005. Tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân trong tổng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như thế nào ta xem xét bảng sau: 2.2.2.Tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân trong tổng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Như trên đã nói, nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị gồm có 4 loại vốn: vốn ngân sách Nhà nước, vốn ODA, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, và các nguồn vốn khác (doanh nghiệp, cổ phần…). Để xét xem tỷ trọng các nguồn vốn đó như thế nào cũng như xem xét sự biến động của các nguồn vốn đó ra sao, chúng ta xem xét qua bảng sau: Bảng 2.4: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2001 – 2007 Đơn vị : % Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 Vốn Ngân sách Nhà nước 22,69 23,61 23,19 20,56 13,33 8,97 15 Vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước 1,24 3,96 7,41 13,04 19,51 29,18 40,43 Vốn ODA 71,46 60,87 54,50 50,34 38,27 43,54 29.57 Các nguồn vốn khác ( DN, cổ phần) 4,61 12,01 14,90 16,06 28,89 18,31 15 Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư Qua các năm, chúng ta xem xét xu hướng biến động của các nguồn vốn này dựa vào hình: Hình 2.1 : Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị qua các năm từ 2001 – 2007: Nguồn : Vụ kết cấu hạ tâng và đô thị. Bộ kế hoạch và đầu tư Qua bảng số liệu về cơ cấu nguồn vốn đầu tư qua các năm từ năm 2001 đến năm 2007, vốn đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 22893 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ODA chiếm tỷ trọng cao nhất là 45,85 %, vốn Ngân sách Nhà nước là 20.08%, vốn tín dụng đầu tư phát triển là 17,29%, vốn đầu tư tư nhân là 16,68%. Cụ thể tỷ trọng số vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là : Trong 4 năm đầu từ năm 2001 đến năm 2004 hai nguồn vốn Ngân sách Nhà nước và vốn ODA là hai nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn, còn hai nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp, tư nhân …chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nhưng đến mấy năm gần đây từ năm 2005 đến năm 2007, hai nguồn vốn này giảm dần, ngược lại hai nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp, tư nhân… có xu hướng tăng dần. Như vậy có thể thấy được sự chuyển biến về cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Cụ thể sự chuyển biến thế nào, ta xem xét qua phân tích cụ thể sau: Qua bảng và qua biểu đồ trên ta quan sát thấy tỷ trọng của vốn ODA ngày càng giảm dần, năm 2001 nguồn vốn này chiếm 71,46% về tỷ trọng nhưng đến năm 2007 nó giảm rất nhanh xuống còn 29,57%. Nguồn vốn ngân sách cũng giảm nhanh, từ 22,69% vào năm 2001, giảm xuống còn 15% vào năm 2007. Nhưng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp tư nhân thì lại khác. Năm 2001, tổng hai nguồn vốn nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp, tư nhân là 109 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 5,68%, tỷ trọng này rất nhỏ. Nhưng đến năm 2007 tổng hai nguồn vốn này đã lên tới 2550 tỷ đồng chiếm 55,43% tổng số vốn. Có thể dự đoán xu hướng hai nguồn vốn này còn tiếp tục tăng nữa do chính sách xã hội hóa đầu tư, cùng với việc chuyển dịch vốn Ngân sách và vốn ODA về cho vùng nông thôn. Dựa vào bảng và hình trên, ta thấy nhìn chung tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân so với tổng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có xu hướng tăng, năm 2002 tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân trong tổng số vốn đầu tư là 12,01%, đến năm 2004 tỷ trọng này lại tăng lên chiếm tới 16,06% tổng vốn và tăng cao nhất vào năm 2005, chiếm tới 28,89%. Nhưng lại giảm dần liên tục 2 năm 2006 và năm 2007. Đến năm 2006, tỷ trọng vốn chỉ còn chiếm 18,3%, tức là giảm 10,59% so với năm 2005, đến năm 2007 tỷ trọng lại giảm xuống mức 15%, so với năm 2006 thì giảm đi là 3,3%. Nguyên nhân có sự biến động đó như ở trên đã phân tích, đó là do sự kém hiệu quả của các văn bản, chính sách của Nhà nước trong việc thu hút đầu tư tư nhân. Việc đầu tư của tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, mỗi hình thức thì hiệu quả thu được là khác nhau, tiếp theo ta xem xét xem thực trạng thu hút vốn đầu tư tư nhân ra sao? và hiệu quả đạt được từ việc thu hút thêm vốn đầu tư tư nhân như thế nào? 2.2.3. Thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo các hình thức đầu tư. 2.2.3.1. Thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo các dự án. Trong những năm qua, việc đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thường được thực hiện qua các dự án, cụ thể tình hình thực hiện qua các dự án được thể hiện ở bảng 5: Bảng 2.5 : Số dự án và cơ cấu dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị phân theo nguồn vốn giai đoạn 2001- 2007 Đơn vị :Số dự án, % Dự án nhóm A Dự án nhómB Dự án nhóm C Tổng Tổng số 85 190 431 703 Tỷ trọng 100 100 100 100 1. Vốn NSNN - 21 55 76 Tỷ trọng - 11,05 12,76 10,81 2. Vốn tín dụng ĐTPT 35 62 121 218 Tỷ trọng 41,17 32,63 28,07 31,01 3. Vốn ODA 41 68 126 235 Tỷ trọng 48,23 35,79 29,23 33,03 4. Vốn khác ( doanh nghiệp, tư nhân….) 9 39 129 177 Tỷ trọng 10,50 20,52 29,94 25,15 Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị Như vậy, qua bảng trên ta có thể thấy trong giai đoạn 2001-2007 không có một dự án nhóm A nào được đầu tư bởi nguồn vốn Ngân sách Nhà nước, nguồn vốn này chủ yếu đầu tư cho các dự án thuộc nhóm B, C. Số dự án được đầu tư bằng vốn này cũng ít, chỉ có 76 dự án chiếm 10,81% tổng số dự án trong giai đoạn này. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước vào các dự án cấp nước đô thị chiếm tỷ trọng cũng lớn, có 218 dự án, chiếm khoảng 31,01% tổng số dự án. Nguồn vốn này được đầu tư cho các dự án nhóm A là lớn nhất, tiếp theo đó là nhóm B và nhóm C. Nguồn vốn ODA đầu tư cho dự án là nhiều nhất, trong thời kỳ này nguồn vốn đã đầu tư 235 dự án, chiếm 33,03 % tổng số dự án. Vốn dự án đầu tư cho các dự án thuộc nhóm A chiếm 48,23% tổng số dự án, dự án nhóm B chiếm 35,79% và dự án nhóm C chiếm 29,23%. Có 177 dự án được đầu tư bằng các nguồn vốn tư nhân, chiếm tỷ trọng 25,15% tổng số dự án. Nguồn vốn này đầu tư chủ yếu cho các dự án thuộc nhóm C, vì các dự án loại này thì quy mô vốn nhỏ hơn, phù hợp hơn với các doanh nghiệp tư nhân. 2.2.3.2. Đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo hình thức BOT Khái niệm và đặc điểm : Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (hợp đồng BOT- building operation transfer) là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, mở rộng, nâng cấp, khai thác công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định ( thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý ) sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nhà nước để tiếp tục quản lý và sử dụng . Hầu hết các dự án BOT đều được thực hiện Chính phủ đề nghị. Thông qua các danh sách được đề xuất công bố, Chính phủ sẽ gọi thầu cho một số dự án cụ thể được thực hiện trên cơ sở BOT. Các dự án này được tài trợ trên cơ sở bảo lãnh có hạn chế và được xây dựng, vận hành như là một doanh nghiệp tư nhân theo một thoả thuận dự án với Chính phủ. Sau khi kết thúc thời hạn hợp đồng thì chương trình đó được chuyển giao không bồi hòan cho Nhà nước để tiếp tục quản lý và sử . Tính chất của việc đầu tư theo dự án BOT là một nhà đầu tư được giao quyền đầu tư để xây dựng, khai thác và kinh doanh một công trình theo phương án đã được duyệt trong một thời gian cụ thể. Sau đó đến thời hạn thì quyền sở hữu công trình lại được chuyển giao cho cơ quan nhà nước, kết quả cuối cùng của dự án BOT là sẽ xây dựng nên được một công trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28529.doc
Tài liệu liên quan