Lời mở đầu
Trong công cuộc CNH - HĐH đất nước hiện nay, Nhà nước ta khẳng định phải dựa vào nội lực là chính, tuy nhiên xuất phát từ điều kiện của nước ta là một nước có nền kinh tế yếu kém, điểm xuất phát thấp cơ sở hạ tầng lạc hậu, thu nhập quốc dân và thu nhập dân cư thấp. Vì vậy nguồn vốn để CNH-HĐH trước mắt phụ thuộc nhiều từ nước ngoài mà chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để thu hút đầu tư nước ngoài cho công cuộc phát triển của quốc gia, khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX)
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thu hút đầu tư cho nước ngoài vào các Khu công nghiệp - Khu chế xuất của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được đánh giá là một nhân tố quan trọng. Vì ở đó các công trình hạ tầng cơ sở được tập trung, đầu tư nhanh với chất lượng cao, hình thành các dịch vụ cần thiết và các thủ tục đơn giản đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. Nhiều nước đã thành công trong công cuộc CNH-HĐH như xây dựng những KCN, KCX như vậy.
ở Việt Nam hiện nay KCN, KCX đã trở thành những thực thể kinh tế - xã hội không thể thiếu trong nền kinh tế. KCN, KCX đã góp phần tăng sản lượng công nghiệp, tăng xuất khẩu, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập người dân hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, ... có được sự thành công này là do chính sách rộng mở của Nhà nước ta nhằm thu hút FDI cho phát triển KCN, KCX. Và trên thực tế lượng vốn FDI chiếm tỷ lệ rất cao trong KCN, KCX.
Như vậy, để tiếp tục phát triển KCN, KCX ở Việt Nam chúng ta cần thu hút nhiều hơn nữa các nguồn vốn vào KCN, KCX đặc biệt là FDI. Và trong khuôn khổ đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu về : “Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoaì vào các khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam”.
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX
Chương II: Thực trạng đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam thời gian qua
Chương III: Quan điểm và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển các KCN, KCX ở Việt nam
Đây là vấn đề rất phức tạp và bức xúc, mang tầm vĩ mô. Vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót mong được sự góp ý của các độc giả.
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và KCN, KCX
1. tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài:
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá với qui mô và tốc độ này càng lớn, tạo ra một nền kinh tế sôi động mà ở đó tính phụ thuộc giữa các nước các quốc gia ngày càng tăng. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và cách mạng thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế tạo nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia. Đặc biệt là nhu cầu vốn đầu tư đầu tư phát triển để công nghiệp hoá hiện đại hoá của các nước phát triển rất lớn. Mặt khác các nước phát triển dồi dào vốn và công nghệmuốn tìm kiếm những nơi thuận lợi, chi phí thấp để hạ giá thành sản phẩm và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ. Chính vì vậy tạo nên một sự thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài và đặc biệt phổ biến nhất vẫn là hình thức đầu tư trực tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền đều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm sau:
-Đây là hình thức đầu tư bằng vốn cuả các nhà đầu tư họ tự quyết đinh đầu tư tự quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả cao
-Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp hoạt động tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình
-Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lý là các mục tiêu mà các hình thức khác không giải quyết được.
-Nguồn vốn hày không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như đầu tư từ lợi nhuận thu được.
1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Hơn 10 năm kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thnàh một bộ phận không thể thiếu được có tốc độ phát triển nhanh nhất trong các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta đóng góp tích cực và ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là một nhân tố góp phần vào thành công của công cuộc đổi mưói kinh tế
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang phạm vi quốc tế. Nó mang lại lợi ích cho cả hai bên và đồng vốn đầu tư bỏ ra rất hiệu quả.
Đặc biệt là ở các nước đang phát triển nó giải quyết được các vấn đề :
-FDI tăng cường vốn đầu tư bù đắp sự thiếu hụt về ngoại tệ góp phần tăng khả năng cạnh tranh và tăng xuất khẩu, bù đắp cán cân thanh toán
-FDI góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động tạo điều kiện tích luỹ trong nước
-FDI sẽ chuyển giao công nghệ kĩ thuật hiện đại, kĩ xảo chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến cho nước nhận đầu tư. Xét về lâu dài diều này sẽ góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thúc đẩy các ngành nghề mới đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao như điện tử tin học... Chính vì vậy nó có tác dụng lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng trưởng nhanh của nước nhận đầu tư.
Từ sự chuyển giao này cũng giúp cho các nước chủ nhà có được kĩ thuật tiên tiến, kinh nghiệm trong quản lý, đội ngũ cán bộ lao động được bồi dưỡng đào tạo nhiều mặt.
-FDI giúp các nước nhận đầu tư trực tiếp tiếp cận được với thị trường thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trong xu hướng khu vực hoá toàn cầu hoá.
Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một tất yếu khách quan trong điều kiện quốc tế háo nên sản xuất lưu thông. Các quốc gia trên thế giới dù có thể chế chính trị khác nhau đều cần đến vốn đầu tư nước ngoài và coi đó là một nguồn lực cần khai thác.
Bên cạnh đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có một số ít hạn chế càn được khắc phục như :việc quản lý vốn do chủ đầu tư có kinh nghiệm về tranh sự quản lý của nước chủ nhà. Còn nước chủ nhà nhưa có nhiều kinh nghiệm, còn sơ hở trong quản lý hoạt động các cơ sở có vốn nước ngoài. Tình trạng gian lận thuế, buôn lậu, ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra. Để nhằm khắc phục những hạn chế phát huy tính tích cực Nhà nước ta đã đưa ra nhiều các chính sách nhằm xác định các địa bàn dự án lĩnh vực ưu tiên khuyến khích đầu tư giành lại chữ "tín " của cộng đồng đầu tư nước ngoài nhằm thu hút nhiều hơn nữa FDI vào Việt nam .
1.3. Các hình thức FDI trong thực tiễn:
Trong thực tiễn FDI có nhiều hình thức thường được áp dụng là:
*Hợp đồng hợp tác kinh doanh theo qui định điếu 7 nghị định 12/CP'Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết quả hai bên hay nhiều bên qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt nam mà không cần thành lập pháp nhân.
Hình thức này có đặc điểm:
-Không ra đời một pháp nhân mới
-Cơ sở của hình thức này là hợp đồng hpợp tác kinh doanh. Trong hợp đồng nội dung chính phản ánh trách nhiệm quyền lợi giữa các bên với nhau (không cần đề cập đến việc góp vốn).
-Thời hạn cần thiết của hợp đồng do các bên thoả thuận phù hợp với tính chất mục tiêu kinh doanh và được các cơ quan cấp giấy phép kinh doanh chuẩn y.
-Hợp đồng phải do đại diện có thẩm quyền của các bên kí. Trong quá trình hợp tác kinh doanh các bên giữ nguyên tư cách pháp nhân của mình.
*Doanh nghiệp liên doanh:
Theo khoản 2 diều 2 luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam qui định "Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hay nhiều bên hợp tác thành lập tại VN trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định kí giữa Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam và chính phủ nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Hình thức này có đặc điểm:
-Thành lập pháp nhân mới hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Các bên chịu trách nhiệm về phần vốn của mình .
-Phần góp vốn của bên hoặc các bên nước ngoài không hạn chế mức tối đa nhưng tối thiểu không được dưới 30% vốn pháp định và trong qúa trình hoạt động không giảm vốn pháp định.
-Cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh là hội đồng quản trị mà thành viên của nó do mỗi bên chỉ định tương ứng với tỷ lệ góp vốn của các bên nhưng ít nhất phải là 2 người, Hội đồng quản trị có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp theo nguyên tắc nhất trí.
-Các bên tham gia liên doanh phân chia lợi nhuận và phân chia rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong vốn pháp định hoặc theo thoả thuận giữa các bên.
-Thời hạn hoạt động không quá 50 năm trong trường hợp đặc biệt được kéo dài thêm nhưng không quá 20 năm.
*Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài :
Theo điều 26 nghị định 12/CP qui định :"Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh "Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam. Thời hạn hoạt động không quá 50 năm kể từ ngày được cấp giấy phép.
Ngoài 3 hình thức chủ yếu trên còn có các hình thức:
*Hợp đồng xây dựng -kinh doanh- chuyển giao(BOT):
Theo điều 12 khoản 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam :"Hợp đồng xây dựng -kinh doanh- chuyển giao là văn bản kí giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài đề xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt nam"
*Hợp đồng xây dựng -chuyển giao -kinh doanh là văn bản kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt nam. Chính phủ Việt nam dành cho nhà đầu tư kinh doanh trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý .
*Hợp đồng xây dựng -chuyển giao(BT):
Theo khoản 13 điều 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam "Hợp đồng xây dựng chuyển giao là hợp đồng kí kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kết cấu hạ tầng. Sau khi xây xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt nam. Chính phủ Việt nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý".
2. KCN - KCX và vai trò của nó đối với thu hút fdi.
2.1. Khái niệm, đặc điểm KCN, KCX:
a. Khu chế xuất:
Theo điều 2 khoản 2 qui chế KCN, KCX"Khu chế xuất là khu tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu có ranh giới địa lý xác định không có dân cư sinh sống được chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ quyết định thành lập".
Mặc dù qui chế KCX ở từng nước là khác nhau nhưng đặc trưng sau đây được coi là đặc điểm của một khu chề xuất điển hình :
-Nhập khẩu miễn thuế nguyên vật liệu và thủ tục đơn giản... MCX không phải nộp thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên những hàng hoá sản xuất trong khu chế xuất cũng có thể bán trong thị trường nội địa nếu thị trường nội địa có nhu cầu.
-Những doanh nghiệp trong khu chế xuất được hưởng mức thuế lợi tức là 10% là mức thuế thấp nhất và được miễn thuế thu nhập công ty trong 4 năm kề từ khi kinh doanh có lãi và giảm tiếp 50% trong 4 năm tiếp theo.
-Những doanh nghiệp trong KCX thường được cung cấp thủ tục hải quan nhanh chóng cho việc nhập khẩu vật liệu và xuất khẩu hàng hoá .
-Những doanh nghiệp trong KCX được sử dụng cơ sở hạ tàng tốt như đường xá, điện thoại, điện tín...
b. Khu công nghiệp
Theo khoản 1 điều 2 qui định "KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ quyết định. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. Trong KCN có các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, doanh nghiệp dịch vụ khu công nghiệp.
Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp được hưởng một số ưu đãi theo qui định cho từng loại doanh nghiệp.
c. Sự khác nhau giữa KCN và KCX
-KCX được xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm xuất khẩu, còn KCN được mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp. KCN, KCX kể cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước do vậy KCN có thể bao gồm KCX .
-Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp sẽ được hưởng một số ưu đãi nhất định trong đó đặc biệt ưu đãi vỡi những hãng sản xuất hàng xuất khẩu do đó những hãng này mà nằm trong khu công nghiệp sẽ được hưởng những ưu đãi như trong khu chế xuất và cũng được hưởng những ưu đãi như trong KCN.
Việc lựa chọn vị trí đề xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất là rất quan trọngđòi hỏi phát huy được thế mạnh tiềm năng kinh tế của từng vùng.
2.2.Vai trò của KCN -KCX đối với thu hút FDI
Từ đầu những năm 90 đến nay sau khi xuất hiện những khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt nam và kiểm nghiệm lại kinh nghiệm của một số nước đang phát triển đi trước chúng ta khẳng định được vai trò quan trọng của KCN, KCX. Việc tập trung các doanh nghiệp chế biến nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư trong nước đưa nhanh kĩ thuật mới vào sản xuất thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng các ngành mũi nhọn nâng cao vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững, phát triển công nghiệp chế biến nông lâm hải sản hỗ trợ các ngành này và phục vụ xuất khẩu phân bố lại các khu vực sản xuất và sinh hoạt thực hiện đô thị hoá nông thôn chuyển dời các cơ sở sản xuất từ nội đô ra ngoại vi, cải tạo môi trường sống cho dân cư đô thị, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động thành phố và nông thôn.
Việc thành lập khu chế xuất, khu công nghiệp là tạo ra các khu vực thuận lợi hơn cho việc phát triển kinh tế thu hút đầu tư. Chính vì vai trò to lớn của KCN, KCX rất cần thiết ở nước ta. Chỉ có KCX, KCN mới tạo ra được bước nhẩy vọt, tạo ra nền kinh tế phát triển bền vững. Chọn được địa điểm vị trí và qui hoạch KCN, KCX cùng các đối tác hợp lý sẽ tạo ra cho nước ta một bộ mặt mới.
3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển KCN- KCX
KCN đầu tiên của thế giới thành lập ở Anh vào năm1896. Người ta sớm nhận ra ưu điểm của hình thức tổ chức này do đó số lượng của khu công nghiệp được xây ngày càng tăng trên khắp thế giới .
Việt nam là nước đi sau để thực hiện được mục tiêu "đi tắt đón đầu"trong phát triển kinh tế đòi hỏi chúng ta phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để tiến hành phát triển KCN, KCX cho phù hợp với điều kiện phát triển của Việt nam .
3.1. Kinh nghiệm của Thái lan
Vào những năm 60 , luật KCN được ban hành từ đó cho đến nay có 40 khu công nghiệp hoạt động. Nhà nước Thái lan qui hoạch phát triển KCN dựa trên qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Những KCN do nhà nước bảo trợ tuy bị lỗ nhưng vẫn xây dựng để đảm bảo cho phát triển như khu công nghiệp Bắc Thái Lan, có khoảng 11 KCN được xây dựng tại những vùng không nằm trong khu qui hoạch miễn là họ có thị trường .
Diện tích KCN, mặt bằng KCN có thể được mở rộng hơn so với diện tích được duyệt nếu được thoả thuận của người có đất mà mình được dùng. Về quản lý do cục quản lý KCN Thái lan , ngoài ra Cục Quản lý KCN còn có chức năng kinh doanh.
Về chính sách đối với xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, Nhà nước không ưu đãi cho vay vốn, tuy nhiên Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các công ty nhà nước vay mà không phải thế chấp. Mọi ưu tiên đều dành hết cho các khu công nghiệp trong nước. Mọi khách hàng muốn đầu tư vào khu công nghiệp họ sẽ được tạo điều kiện cần thiết để biết về KCN, mạng lưới KCN .
3.2. Kinh nghiệm của Đài loan
Đài loan là một trong những quốc gia thành công trong việc phát triển KCN, KCX. Từ cuối những thập kỷ 50, Đài loan đã nhận định được vị thế kinh tế của mình là loại hình kinh tế hải đảo có đặc tính đất chật người đông, tài nguyên nghèo nàn kinh tế phụ thuộc rất lớn vào thị trường nước ngoài vì vậy Đài loan chỉ phát triển những ngành công nghiệp nhỏ sử dụng nhiều lao động. Các xí nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện rất nhiều trong KCN, KCX và các doanh nghiệp này được hưởng cơ sở hạ tầng thuận lợi cùng một số ưu đãi khác.
Hiện nay Đài loan có 3KCX, 30KCN, 2KCNC. Trung ương quản lý12 KCN có tầm quan trọng nhất nằm trong qui hoạch được chích quyền tư phê duyệt. Các khu công nghiệp còn lại do địa phương hoặc tư nhân quản lý .
Các KCN ở Đài loan phân bố khắp nước hầu như huyện nào cũng có khu công nghiệp, mỗi khu công nghiệp là một hạt nhân để phát triển vùng .
Đây là những kinh nghiệm quí báu để cho nhà nước Việt nam đánh giá lại tiềm năng, năng lực định vị lại vị thế của mình để phát triển khu công nghiệp một cách hợp lý .
chương II
Thực trạng đầu tư nước ngoài trong các KCN, KCX ở Việt nam thời gian qua .
1. Giới thiệu vài nét về các KCN-KCX
Trong quá trình đổi mới hội nhập kinh tế cùng thế giới Nhà nước Việt Nam đã sớm nhận biết được tầm quan trọng của KCN, KCX đối với sự phát triển kinh tế cũng như thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy từ những năm 80 Nhà nước đã có chủ trương cho phép thành lập KCN, KCX. Mở đầu cho sự phát triển khu kinh tế ở Việt Nam là sự ra đời của khu công nghiệp, khu chế xuất Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh liên doanh với Đài loan vào tháng 11/1990. Cho đến nay số lượng KCN, KCX đã tăng khá nhanh chóng trên phạm vi cả nước. Tính đến năm 2000 cả nước có 67 KCN và 3 KCX
Biểu: Thời điểm thành lập KCN, KCX từ 1991 đến 9 tháng đầu năm 2000.
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999 2000
Số KCN, KCX
1
2
1
4
5
16
20
14
3 4
Như vậy từ năm 1991 đến 9 tháng đầu năm 2000 tốc độ phát triển của các KCN, KCX tăng đặc biệt nhanh vào các năm 1996, 1997, 1998. Các KCN nằm hầu hết ở phía Nam với 41 khu, miền Bắc 15 khu miền Trung 13 khu.
Về loại hình khu công nghiệp có 17 KCN thuộc loại khu công nghiệp được thành lập trên cơ sở có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động. 11 khu công nghiệp phục vụ di dời các khu công nghiệp từ mọi độ lớn, 22 khu công nghiệp có qui mô nhỏ ở các tỉnh đồng bằng bắc bộ, duyên hải miền trung và đồng bằng sông Cửu long phục vụ chế biến nông lâm thuỷ sản. Có 10 khu công nghiệp mới, hiện đại trong đó có 13 khu công nghiệp hợp tác với nước ngoài để phát triển cơ sở hạ tầng thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Diện tích chiếm đất của 70 KCN trên 1 vạn ha (không kể KCN Dung Quất) bình quân 1 khu là 160 ha. Có 1/3 số khu công nghiệp là có diện tích 100 ha.
Về ngành nghề KCN gồm công nghiệp nhẹ, hoá chất điện tử, chế biến thực phẩm nông sản thuỷ sản phục vụ sản xuất nông nghiệp phục vụ xuất khẩu công nghiệp nặng gắn với cảng nước sâu ở các vùng kinh tế trọng điểm (tam giác phát triển vùng phía Bắc, phía Nam và miền Trung có khu Dung Quất Đà Nẵng với công nghiệp hoá chất công nghệ chế biến có khu Bà Rịa Vũng Tàu). Cơ cấu ngành nghề được gắn với lợi thế của từng vùng tránh triệt tiêu lẫn nhau.
Như vậy các khu công nghiệp Việt nam rất đa dạng về loại hình, diện tích đất ngành nghề đối tượng thu hút đầu tư, không gian hoạt động và thời gian thành lập. Nó quyết định chất lượng, kết quả hoạt động của khu công nghiệp trong thời gian qua.
Quá trình hình thành và phát triển khu công nghiệp đã "Hình thành mạng lưới khu công nghiệp, phân bố rộng khắp trên các vùng của đất nước phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế trên các vùng của đất nước".
2. Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong
các KCN, KCX ở Việt Nam
Số doanh nghiệp
Vốn đăng ký
Doanh nghiệp trong nước
307
1, 38 Tỷ USD
Doanh nghiệp ngoài nước
543
6, 1 Tỷ USD
Tổng
850
7, 48 Tỷ USD
Nguồn: Ban quản lý KCN Việt Nam tính đến tháng 9 năm 2000.
Tính đến tháng 9 năm 2000 đã có 850 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động trong các khu công nghiệp với tổng số vốn đăng kí 7, 48 tỷ USD trong đó có 543 doanh nghiệp nước ngoài vốn đăng kí 6, 7 tỷ USD và 307 doanh nghiệp trong nước vốn đăng kí 16, 998 tỷ đồng. Vốn đã thực hiện khoảng 40% tổng vốn đăng kí.
Đã có 24 nước, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào khu công nghiệp. Phần lớn các đối tác nước ngoài đầu tư vào khu công nghiệp thuộc các nước Đông á và Đông Nam Châu á. Các công ty của Nhật bản đã thực hiện các dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến và giá trị xuất khẩu lớn như dự án sản xuất các thiết bị vi điện tử như công ty FUJILTSU, động cơ nhỏ MABUCHI, người máy rorzerobotech... Các công ty của Đài loan, Hàn quốc quan tâm đến công nghiệp điện tử, giầy da, dệt, chế biến nông sản phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các đối tác châu âu và Mỹ có các dự án đầu tư gắn liền với công nghiệp chế biến dầu khí và công nghiệp hoá chất. Các KCN phía nam thực hiện đa dạng hoá các dự án đầu tư trong khi các khu công nghiệp ở Hà nội và Hải phòng tập trung vào hai đối tác là Nhật bản và Hàn Quốc.
Nếu như những năm trước đây, đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ cao trong khu công nghiệp (chiếm khoảng 50% vốn đầu tư phát triển hạ tầng, gần 90% số dự án đầu tư và 93% vốn đầu tư của doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp) thì từ năm 1998 đến nay hình thức đầu tư trong nước nhích dần. Đây là một biểu hiện tốt, riêng 9 tháng đầu năm 2000 các KCN đã thu hút được 183 dự án, tăng 55% so với năm 1998. Với tổng vốn đăng kí là 632 triệu USD, tăng 54% so với năm 1998, trong đó có 75 dự án đầu tư nước ngoài vốn đăng kí là 425 triệu USD. Đầu tư trong nước có 108 dự án, vốn đăng kí 2. 887 tỷ đồng Việt Nam, tăng 4 lần so với năm 1998. Như vậy tình hình thu hút vốn đầu tư FDI vào các KCN, KCX của Việt Nam mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á nhưng vẫn có các dấu hiệu khả quan.
3. Những thành quả và tồn tại trong KCN, KCX ở Việt Nam.
3.1. Những thành quả.
Hoạt động KCN đạt được kết quả tăng nhanh hơn so với nền kinh tế nói chung, ngành công nghiệp và KCN nói riêng.
Kết quả đạt được trong KCN, KCX( Triệu USD ).
Năm
Chỉ Tiêu
Giá trị sản lượng
Đóng góp xuất khẩu
1997
1. 155
848
1998
1. 871
1. 300
1999
1. 700
1. 170
2000
1.751
1.230
Năm 1997 đạt giá trị sản lượng 1. 155 triệu USD, chiếm 12% giá trị sản xuất CN. Đóng góp cho xuất khẩu 848 triệu USD, gần bằng 7% giá trị xuất khẩu của cả nước, 47% giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng 2 lần so với năm 1996.
Năm 1998 các KCN đạt giá trị sản lượng 1. 871 Triệu USD chiếm gần 16% giá trị sản xuất CN, đóng góp cho xuất khẩu 1. 300 triệu USD, bằng 12% giá trị xuất khẩu cả nước, 65% giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng 50% so với năm 1997.
Trong 9 tháng năm 1999 các KCN có giá trị sản lượng 1,5 tỷ USD chiếm 17% giá trị sản lượng CN của cả nước, trong đó xuất khẩu đạt 1,17 tỷ USD chiếm 13% giá trị xuất khẩu của cả nước. Cả 2 chỉ tiêu này tăng 30% so với cùng kì năm 1998.
Trong năm 2000, các KCN có giá trị sản lượng 1,7tỷ USD chiếm 18% giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước.
Các KCN đã thu hút 13, 7 vạn lao động, tạo ra sức mua cho xã hội khoảng 1000 tỷ đồng/năm.
Ngoài số lao động trực tiếp làm việc trong KCN, KCX, đã tạo việc làm cho hàng vạn lao động làm việc trong ngành dịch vụ, xây dựng cơ bản phục vụ cho các KCN.
Tay nghề công nhân, trình độ cán bộ quản lý được nâng lên. Mức lương và thu nhập của người dân cao hơn. Nhiều KCN đã trả lương người lao động với mức 1 triệu đồng/tháng. Công nhân làm việc trong KCN tại Bình Dương có mức lương trung bình là 680. 000 đồng/tháng.
KCN tác động đến phát triển các cơ sở nguyên liệu, dịch vụ cho nông nghiệp, nâng cao giá trị nông sản, mở rộng thị trường, hình thành các đô thị vệ tinh. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và góp phần xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gắn với văn minh tiến bộ và công bằng xã hội.
Đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển KCN, ngược lại KCN là địa bàn thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Những năm gần đây số dự án và số vốn đăng kí tăng nhanh. Nhiều dự án đầu tư đi vào hoạt động ổn định góp phần tạo ra nhiều sản phẩm công nghiệp với số lượng lớn, chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Chính yếu tố này đã tạo nên tốc độ ổn định về giá trị xuất khẩu của cả nước trong những năm gần đây. Nhất là năm 1999 tốc độ tăng trưởng 23% gấp 3 lần kế hoạch.
Các doanh nghiệp không những thúc đẩy nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao và tương đối ổn định mà còn tạo tiền đề và điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
3.2. Những tồn tại.
+ Chưa thống nhất trong nhận thức và vận dụng phát triển KCN.
Sau hơn 9 năm hoạt động, vai trò của KCN, KCX đối với sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận. Nhưng trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn tồn tại nhận thức cho rằng KCN chỉ là “một túi đựng các doanh nghiệp công nghiệp” nên vẫn còn trường hợp thực thi chính sách, tổ chức quản lý KCN như các doanh nghiệp riêng rẽ. Nói cách khác trong tư duy vẫn chưa coi KCN là thực thể kinh tế- xã hội, từ đó xuất hiện những biểu hiện bàng quan đứng ngoài, thậm chí có tư tưởng phủ định vai trò của KCN cho rằng phát triển KCN trong thời gian qua là theo phong trào, thay vì phải cùng hợp lực để phát huy vai trò, hiệu quả của nó vì lợi ích của ngành, của địa phương và của nền kinh tế. Có địa phương cho rằng: KCN là của trung ương và khoán trắng cho ban quản lý KCN và công ty phát triển hạ tầng.
+ Luật pháp chưa đồng bộ, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển.
Vẫn còn sự khác biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài trong hoạt động KCN. Do vẫn còn duy trì chính sách bảo hộ doanh nghiệp trong nước nên đến nay vẫn chưa tạo được một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp, tạo sự cạnh tranh trong một môi trường pháp lý công bằng và minh bạch.
Công tác quy hoạch và phát triển KCN dựa trên cơ sở các đề nghị của UBND tỉnh, chưa thực sự gắn quy hoạch ngành nghề kết hợp với lãnh thổ trên cơ sở quy hoạch tổng thể. Danh mục các KCN mới nêu tên, địa điểm và diện tích đất, chưa có nội dung kinh tế-kỹ thuật, nên khi xem xét không đủ thông tin, căn cứ để ra quyết định chính xác KCN nào làm trước, KCN nào cho phép triển khai sau.
Đối với các doanh nghiệp trong nước chưa có quy định khuyến khích nhiều cho các doanh nghiệp trong KCN nên các doanh nghiệp trong nước vẫn còn thực hiện đầu tư ngoài KCN, chưa mặn mà đầu tư vào KCN dẫn đến khó khăn khi thực hiện quy hoạch phát triển.
Chậm thực hiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực, nên việc cung cấp lao động cho KCN đang xuất hiện nghịch lý: thừa lao động giản đơn nhưng thiếu lao động kỹ thuật. Trong số 12 vạn lao động đang làm việc tại KCN có không ít lao động tuyển từ ngoài tỉnh, trong khi đó tỉnh vẫn còn hàng vạn lao động vẫn còn chờ việc làm. Nguyên nhân chủ yếu là do lao động địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc như chưa có tay nghề cao hoặc chưa có đủ điều kiện về trình độ học vấn để học nghề.
Việc đền bù giải quyết phóng mặt bằng đang là một vấn đề nổi cộm, làm chậm quá trình phát triển KCN gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong xây dựng hạ tầng, thành lập các doanh nghiệp trong KCN. Công tác giải phóng mặt bằng nhanh cũng phải mất cả năm, ở các tỉnh miền Bắc còn dài hơn. Thủ tục hành chính về đất rất phức tạp, qua nhiều cửa, kéo dài thời gian thực hiện, chủ đầu tư thiếu vốn để đền bù, ở các tỉnh miền Nam để có đất làm các chủ đầu tư phải bỏ tiền ra mua đất của nông dân, sau đó phải trả tiền thuê đất cho Nhà nước. Nếu không có sự chỉ đạo thường xuyên của các cơ quan chính quyền địa phương trong vận động giải thích, thuyết phục di dời để lấy đất làm KCN thì việc đền bù giải phóng mặt bằng vẫn là khó khăn lớn nhất đối với công ty phát triển hạ tầng KCN trong giai đoạn đầu phát triển KCN.
Vấn đề môi trường chúng ta chưa có một chiến lược chung về bảo vệ môi trường phù hợp với đối tượng là các KCN. Sự phối hợp giữa Bộ, Ngành, Trung ương, các Sở và Ban quản lý KCN chưa chặt chẽ. Tình trạng những dòng kênh vẫn tiếp tục hứng chịu các loại chất thải không được xử lý, cũng như nhiều cư dân đô thị vẫn tiếp tục hứng chịu khói, bụi, tiếng ồn từ các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm. Kế hoạch di dời các cơ sở gây ô nhiễm chưa cụ thể. Trên chỉ đạo xuống dưới, dưới chưa có đủ cơ sở kỹ thuật để lập “bản đồ hiện trạng”. Sống chung với ô nhiễm là sự trả giá cho sự phát triển không đồng bộ.
Vấn đề tổ chức còn nhiều vướng mắc: ở Trung ương vẫn chưa thực hiện cơ chế một đầu mối giải quyết vấn đề liên quan đến KCN, nên tình trạng đùn đẩy, sợ trách nhiệm kéo dài thời gian xử lý hoặc rơi vào im lặng. Nhiều khi cần ý kiến của cơ quan chủ quản thì không biết ai là cơ quan chủ quản. Các ban quản lý cấp tỉnh hoạt động còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm, quan hệ giữa một số ban quản lý KCN cấp tỉnh với một số ban ngành còn vướng mắc.
Vấn đề giá các dịch vụ ở nước ta hiện nay tuy đã có chủ trương nhưng việc thực hiện cơ chế một giá đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn còn tình trạng thu ép giá đối với người nước ngoài. Giá thuê đất ở nước ta còn cao hơn các nước trong khu vực, điều đó làm giảm mức thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách thuế ở nước ta chưa đồng bộ, vẫn còn tình trạng chồng chéo và gian lận trong thương mại như: trốn thuế, hàng giả, hàng lậu...
Trong mấy năm gần đây ở Việt Nam xuất hiện tình trạng chuyển giá. Đây là hình thức các tập đoàn lớn lợi dụng các liên doanh ở các nước sở tại trong đó có Việt Nam để chuyển giá, lợi nhuận và các khoản tài chính khác nhằm mục đích trốn thuế. Vì thế các liên doanh trở thành con bài giao dịch của các tập đoàn kinh tế lớn. Các liên doanh chỉ việc làm theo kế hoạch của các tập đoàn chứ không quan tâm đến việc làm ăn lỗ lãi tại nước sở tại. Điều này rất tai hại cho chiến lược phát triển của các nước sở tại trong đó có Việt Nam.
Vấn đề “Một cửa tại chỗ” tuy đã có nêu ra nhưng việc thực thi chưa có hiệu quả, vẫn còn tình trạng thủ tục hành chính rườm rà, qua nhiều cửa nhiều cấp rất phức tạp gây nhiều khó khăn phiền hà cho các nhà đầu tư.
Như vậy sau 10 năm đi vào hoạt động, KCN Viêt Nam đã trở thành một động lực kinh tế không thể thiếu được ở nước ta. Nhìn lại ta thấy được nhiều thành quả, bên cạnh đó vẫn tồn tại những vướng mắc. Điều đó buộc Nhà nước Việt Nam phải nhanh chóng phát huy những kết quả đạt được và khắc phục tồn tại để phát triển hơn nữa các KCN, KCX ở Việt Nam
Chương III
Quan điểm và._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0284.doc