Một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay

Lời mở đầu Thông tin gần đây cho thấy: thế giới đang ở giai đoạn khủng hoảng về việc làm. Người ta ước tính có khoảng 820 triệu người hiện lâm vào tình trạng thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp. Ngay cả với nhiều nước phát triển, tỷ lệ thất nghiệp cũng khá cao- dao động từ 6% đến 21%. ở các nước nghèo, tình hình còn bi đát hơn. Làn sóng di dân nông thôn- đô thị đang làm đau đầu nhiều nhà quản lý xã hội và Việt Nam cũng không nằm ngoài các nước đó. Như vậy, giải quyết việc làm là đề tài có tính to

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1428 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àn cầu, là một thách thức còn khá lâu dài với toàn thể nhân loại. Riêng ở các nước đang phát triển như nước ta, nơi nguồn lao động đang còn rất dồi dào và chủ yếu tập trung ở các vùng nông thôn, thì tạo việc làm ở đó bao giờ cũng là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ. Hiện nay, nông thôn nước ta có khoảng 10 triệu hộ gia đình sống trong 50.000 thôn, xóm, ấp, bản của 8.500 xã. Là khu vực đông dân nhất, chiếm 80% dân số và 76,88% lực lượng lao động xã hội. Hàng năm, khu vực này được bổ sung thêm khoảng 67 vạn lao động. Hơn nữa, đặc điểm kinh tế xã hội cũng như điều kiện tự nhiên ở mỗi vùng là khác nhau. Do vậy, không phải cứ ở nông thôn thì người lao động phải tham gia vào ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Tuy nước ta là một nước đi lên từ nông nghiệp hay nói cách khác nông nghiệp là một thế mạnh nhưng sản xuất ở ngành này mang tính thời vụ nên nhiều lao động ở ngành này vẫn có nhiều thời gian rảnh rỗi. Điều đó cho ta thấy tình trạng thiếu việc làm của người lao động ở nông thôn đang rất lớn và có nguy cơ tiếp tục gia tăng. Vì vậy, một trong những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước đến năm 2010: “giải quyết việc làm, nâng cao mức sống cho người lao động. Muốn vậy, phải phấn đấu đến năm 2010: giảm tỷ lệ tăng dân số từ 1,4% hiện nay xuống còn 1,1%; xoá hộ đói và về cơ bản không còn hộ nghèo; nâng cao tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn lên 80-85%; nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%”. (Văn kiện Đại hội IX của Đảng). Để đạt được mục tiêu này trước hết cần làm rõ thực trạng sử dụng lao động, thực trạng tạo việc làm cho lao động nông thôn trong thời gian qua đồng thời chỉ ra những thách thức, giới hạn cũng như khả năng tạo mở việc làm ở nông thôn trong thời gian tới. Đây cũng là mục đích khi em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay”. Ngoài phần mở bài và kết luận nội dung của luận văn gồm 3 phần: Phần I: Những lý luận cơ bản về việc làm và tạo việc làm cho người lao động. Phần II: Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay. Phần III: Một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động nông thôn trong giai đoạn hiện nay. Để hoàn thành luận văn này, em đã nhận được sự giúp đỡ dạy bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn, T.S Trần Xuân Cầu . Do thời gian nghiên cứu và trình độ lý luận còn hạn chế nên luận văn của em chưa thật được hoàn thiện. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy giáo, cô giáo và các bạn sinh viên. Em xin chân thành cảm ơn. Phần I: Những lý luận cơ bản về việc làm và tạo việc làm cho người lao động I. Việc làm và sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động 1. Các khái niệm về việc làm và tạo việc làm 1.1 Việc làm Khái niệm Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Như vậy, có thể nói: “ con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Song con người chỉ trở thành động lực cho sự phát triển khi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập của họ không bị cấm và được thừa nhận là việc làm”. Thật ra, khái niệm việc làm không phải là vấn đề mới xong mỗi thời điểm khác nhau, mỗi không gian khác nhau người ta lại có quan điểm khác nhau về việc làm. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm công việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực nhà nước và kinh tế tập thể. Trong cơ chế đó, nhà nước bố trí việc làm cho người lao động. Do đó, ngay cả những người thiếu việc làm hay việc làm không đầy đủ cũng không được thừa nhận. Quan điểm xem xét việc làm như là một tế bào, một đơn vị nhỏ nhất phân chia từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cho rằng: việc làm là một phạm trù chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc những phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật. Việc làm theo quy định của Bộ luật lao động là những hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập và không bị pháp luật cấm. Theo khái niệm này việc làm được thể hiện dưới các dạng sau: + Làm những công việc mà người lao động nhận được tiền lương, tiền công bằng tiền hoặc hiện vật cho công việc đó. + Làm những công việc mà người lao động thu được lợi nhuận cho bản thân (người lao động có quyền sử dụng quản lý hoặc sở hữu tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân để sản xuất sản phẩm). + Làm công việc cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó (do chủ gia đình làm chủ sản xuất). Phân loại việc làm Phân loại việc làm dựa theo mức độ đầu tư thời gian cho việc làm. + Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác. + Việc làm phụ: là những việc làm mà người lao động dành nhiều thời gian nhất sau việc làm chính. Phân loại dựa theo mức độ sử dụng thời gian lao động, năng suất và thu nhập + Việc làm đầy đủ: Những nhà khoa học khi nghiên cứu về lao động và việc làm đã có kết luận: bao giờ cũng có một số lượng người lao động trong độ tuổi không có khả năng lao động. Trong nền kinh tế hàng hoá luôn có sự biến động về lao động, do đó làm cho người lao động bị dôi dư. Có thể gọi đó là những người thất nghiệp. Tỷ lệ người thất nghiệp phải được duy trì ở mức độ thích hợp tránh gây ra những biến động về chính trị xã hội và đảm bảo tốc độ tăng trưởng, hiệu quả năng suất của nền kinh tế. Việc làm đầy đủ là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm cho bất kỳ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía cạnh chủ yếu là mức độ sử dụng thời gian lao động, mức năng suất và thu nhập. Một việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động làm việc theo chế độ (độ dài thời gian lao động ở Việt Nam hiện nay là 8 giờ/ngày) và không có nhu cầu làm thêm. + Việc làm có hiệu quả: Việc làm có hiệu quả là việc làm với năng suất, chất lượng cao. Đối với tầm vĩ mô việc làm có hiệu quả còn là vấn đề sử dụng hợp lý nguồn lao động, tức là tiết kiệm chi phí lao động, tăng năng suất lao động, bảo đảm chất lượng của các sản phẩm, tạo ra nhiều chỗ làm việc để sử dụng hết nguồn nhân lực. 1.2 Thiếu việc làm 1.2.1 Khái niệm Thiếu việc làm là trạng thái trung gian giữa việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động. Họ phải làm việc nhưng không sử dụng hết thời gian theo quy định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đủ sống khiến họ muốn tìm thêm việc làm bổ sung. Như vậy, thiếu việc làm được hiểu là trạng thái việc làm không tạo điều kiện cho người tiến hành nó sử dụng hết thời gian quy định và mang lại thu nhập thấp hơn mức tiền lương tối thiểu. Phân loại Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): Khái niệm thiếu việc làm được thể hiện dưới hai dạng thiếu việc làm vô hình và thiếu việc làm hữu hình. + Thiếu việc làm vô hình: là trạng thái những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian, thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp. Có thể nói nguyên nhân của tình trạng này do: dân số không ngừng tăng trong khi diện tích đất có nguy cơ thu hẹp làm dư thừa lao động. Số người lao động trên một đơn vị diện tích tăng có nghĩa là thời gian sử dụng để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm. Trên thực tế họ vẫn làm việc nhưng sử dụng rất ít thời gian trong sản xuất do vậy thời gian nhàn rỗi nhiều. Thước đo thiếu việc làm vô hình: K1 = *100% (tháng, năm) + Thiếu việc làm hữu hình: chỉ hiện tượng lao động làm việc thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm, đang tìm kiếm thêm việc làm và sẵn sàng làm việc. Thước đo thiếu việc làm hữu hình: K1 = *100% (tháng, năm) 1.3 Thất nghiệp 1.3.1 Khái niệm Có quan niệm cho rằng: thất nghiệp là hiện tượng gồm những người mất thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm trong khi họ còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết. Nhà kinh tế học David Begg cho rằng: Lực lượng lao động có đăng ký bao gồm số người có công ăn việc làm và số người thất nghiệp có đăng ký. Theo quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO): Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. Như vậy, một người được gọi là thất nghiệp có 3 tiêu chuẩn: + Không có việc làm + Có khả năng lao động + Đang tìm việc làm Phân loại thất nghiệp Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia thành: + Thất nghiệp tạm thời: xảy ra do thay đổi việc làm hoặc do cung cầu lao động không phù hợp. + Thất nghiệp do cơ cấu: xuất hiện do không có sự đồng bộ giữa tay nghề và cơ hội có việc làm khi động thái của nhu cầu và sản xuất thay đổi. + Thất nghiệp do thời vụ: xuất hiện như là kết quả của những biến động thời vụ trong các cơ hội lao động. + Thất nghiệp chu kỳ: là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị sản xuất giảm dẫn tới hầu hết các nhà sản xuất giảm lượng cầu đối với các đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, những chính sách nhằm khuyến khích để tăng tổng cầu thường mang lại kết quả tích cực. Xét về tính chủ động của người lao động thất nghiệp bao gồm: + Thất nghiệp tự nguyện: là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động bỏ việc để tìm công việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp với nguyện vọng. + Thất nghiệp không tự nguyện: là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động chấp nhận làm việc ở mức tiền lương, tiền công phổ biến nhưng vẫn không tìm được việc làm. Trên thực tế ngoài thất nghiệp hữu hình còn tồn tại dạng thất nghiệp vô hình. + Thất nghiệp hữu hình xảy ra khi người có sức lao động muốn tìm kiếm việc làm nhưng không tìm được trên thị trường. + Thất nghiệp vô hình hay còn gọi thất nghiệp trá hình: là khi người lao động làm các việc với năng suất rất thấp không có góp phần tạo ra sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân gì đáng kể mà cốt có thu nhập lấy từ tái phân phối để sống. Thất nghiệp trá hình dễ thấy ở nông thôn hoặc những người ẩn náu trong biên chế của các cơ quan hoặc doanh nghiệp nhà nước quá nhiều so với yêu cầu công việc. 1.4 Tạo việc làm Có thể hiểu tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường. Quá trình kết hợp sức lao động và điều kiện để sản xuất là quá trình người lao động làm việc. Người lao động làm việc không chỉ tạo ra thu nhập cho riêng họ mà còn tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội. Vì vậy, tạo việc làm không chỉ là nhu cầu chủ quan của người lao động mà còn là yêu cầu khách quan của xã hội. Việc hình thành việc làm thường là sự tác động đúng lúc giữa ba yếu tố: + Nhu cầu của thị trường + Điều kiện cần thiết để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ: Người lao động (sức lực và trí lực) Công cụ sản xuất Đối tượng lao động + Môi trường xã hội: xét cả góc độ kinh tế chính trị, pháp luật, xã hội. Người ta có thể mô hình hoá quy mô tạo việc làm theo phương trình sau: Y = f(C,V,X...) Trong đó: Y: Số lượng việc làm được tạo ra C: Vốn đầu tư V: Sức lao động X: Thị trường tiêu thụ sản phẩm... Trong đó, quan trọng nhất là các yếu tố đầu tư C và sức lao động V. Hai yếu tố này hợp thành năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Mối quan hệ C và V phụ thuộc vào tình trạng công nghệ có thể được biểu hiện trên đồ thị sau: (Vốn) N N’ CI I CB B A CA CK K VA VI VB NK V Lao động Đường N là năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Trên đường N tập hợp mọi sự kết hợp giữa C và V. Đường N thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp được mở rộng. Đường AO thể hiện trình độ công nghệ nhất định (C/V không đổi). Khi năng lực sản xuất được mở rộng. Khả năng tạo việc làm phụ thuộc vào trình độ và vốn đầu tư như sau: - Trong điều kiện công nghệ không thay đổi, mở rộng năng lực sản xuất theo quan hệ tỷ lệ C/V như cũ. Trên đồ thị tại điểm B Song năng lực sản xuất được mở rộng thêm vì vốn ba đoạn CA - CB , số việc làm VA đến VB. - Trong điều kiện mở rộng quy mô, song trình độ công nghệ cao hơn trước, biểu hiện tỷ lệ C/V cao hơn tức là vốn đầu tư cao hơn song khả năng thu hút lao động lại bị hạn chế. Trong đồ thị, đường AI biểu hiện trình độ công nghệ tiến bộ hơn tại điểm I có CI > CB, nhưng cơ số việc làm VI > VB , hay nói cách khác lượng việc là giảm đi một cách tương đối VIVB. - Trong điều kiện mở rộng quy mô doanh nghiệp, song trình độ công nghệ thấp hơn trước, biểu hiện C/V thấp hơn tức là vốn đầu tư ít hơn, song khả năng mở rộng việc làm lại lớn hơn. Trên đồ thị, đường AK là đường biểu hiện trình độ công nghệ thấp hơn. Tại điểm K có CKVB tức là lượng việc làm lại tăng tương đối một lượng VB VK . Tuy nhiên, sự tồn tại hai yếu tố C và V dưới dạng là những khả năng. Để chuyển hoá khả năng đó thành hiện thực đòi hỏi những điều kiện nhất định. Đó là những điều kiện kinh tế, xã hội , thông qua hệ thống các chính sách của Nhà nước như chính sách thu hút người lao động, qua việc ký kết hợp đồng lao động tập thể và thoả ước lao động tập thể, quy định điều kiện và an toàn lao động... 1.5 Việc làm mới. Việc làm mới cũng là những việc làm được pháp luật cho phép, đem lại thu nhập cho người lao động, nó được tạo ra theo nhu cầu của thị trường để sản xuất và cung ứng một loại hàng hoá dịch vụ nào đó cho xã hội. Sự xuất hiện những việc làm mới là một tất yếu khách quan do hàng năm lực lượng lao động được bổ sung thêm cùng với tiến trình phát triển của dân số. Khái niệm việc làm thường gắn với chỗ làm việc bởi vì mỗi công việc cụ thể đều có môi trường làm việc nhất định. Như thế, việc tạo ra những chỗ làm việc mới cũng hàm ý với việc tạo ra việc làm mới. Việc làm mới bao gồm những công việc đòi hỏi kỹ năng mới và những việc làm được tạo thêm ra cho người lao động. Đối với những công việc đòi hỏi kỹ năng mới thì người lao động muốn làm được những công việc mới này cần phải có sự thay đổi kỹ năng lao động thông qua đào tạo, còn đối với những việc làm được tạo thêm (tăng lượng cầu lao động) đồng nghĩa với việc tạo thêm những chỗ làm việc mới mà không yêu cầu phải thay đổi kỹ năng của người lao động. Như vậy, theo nghĩa rộng, khái niệm việc làm mới được hiểu như sau: Việc làm mới là phạm trù nói lên sự tăng lượng cầu về lao động, nó được thể hiện dưới hai dạng: Những việc làm đòi hỏi kỹ năng lao động mới và những chỗ làm việc mới được tạo thêm song không đòi hỏi sự thay đổi về kỹ năng của người lao động. Việc làm mới được tạo ra bằng nhiều cách: tăng chi tiêu của Chính phủ cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội (tăng cầu lao động). Giảm thuế để khuyến khích phát triển sản xuất từ đó cũng tạo ra được những việc làm mới. Đối với người lao động, để tham gia được những việc làm mới phải không ngừng đào tạo nâng cao trình độ lao động của mình. 2. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động Việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia. Bởi vậy, đấu tranh chống thất nghiệp và đảm bảo việc làm (có thu nhập) cho người lao động là thách thức lớn của nhân loại nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng. Để tạo việc làm và tự tạo việc làm không chỉ Đảng và Nhà nước mà bản thân người lao động phải thấy được sự cần thiết của tạo việc làm. 2.1 Con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội và là yếu tố tạo ra lợi ích kinh tế xã hội. Để thấy rõ vai trò của con người, Mac-Lênin đã nêu: "con người là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội. Con người với sức lao động, chất lượng, khả năng, năng lực, với sự tham gia tích cực vào quá trình lao động là yếu tố quyết định tốc độ phát triển của tiến bộ kỹ thuật, khoa học kỹ thuật và xã hội". Ngày nay, để tồn tại và phát triển bản thân mỗi người không ngừng nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn, những kỹ năng cần thiết không thể thiếu được của người lao động. Xuất phát từ vai trò to lớn của con người trong lực lượng sản xuất cũng như trong công cuộc đổi mới Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy: “chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng”. Chủ nghĩa Mác-Lênin coi con người như là tổng thể các mối quan hệ xã hội. Nghĩa là: - Cần phải coi trọng con người như người lao động tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. - Coi con người là nhà sáng tạo ra những ý tưởng mới, giải pháp mới. - Con người cần được thoả mãn các nhu cầu về vật chất, tinh thần và xã hội. Thực chất quan điểm này muốn chỉ ra, chính sách kinh tế xã hội phải đảm bảo mức sống cao cho dân tộc, lối sống lành mạnh của sự phát triển toàn diện con người. Mục tiêu của công cuộc đổi mới cũng là tạo ra ngày một tốt hơn điều kiện về vật chất, văn hoá tinh thần cho cuộc sống con người. Một xã hội văn minh phát triển khi mỗi cá nhân, mỗi gia đình văn minh hơn, ấm no và hạnh phúc hơn. 2.2 Việc làm đối với người lao động là nhu cầu để tồn tại và phát triển, là yếu tố khách quan của người lao động. Con người muốn tồn tại và phát triển họ phải tiêu tốn một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Để có những thứ đó con người phải sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Quá trình sản xuất tạo ra hàng hoá, dịch vụ đó là việc làm. Như vậy, muốn tăng tổng sản phẩm xã hội, một mặt phải huy động triệt để mọi người có khả năng lao động tham gia vào nền sản xuất xã hội tức là mỗi người phải có việc làm đầy đủ. Mặt khác, phải nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, nhằm khai thác triệt để tiềm năng của mỗi người nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm hiệu quả. Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động không những tạo điều kiện để người lao động tăng thu nhập, nâng cao đời sống mà còn làm giảm các tệ nạn xã hội, làm cho xã hội văn minh hơn. Khi nghiên cứu lý thuyết về sự phát triển, mọi người đều nhận thức rằng: “một trong những vấn đề cơ bản nhất trong cấu trúc của nó là phát triển nguồn lực, coi đó là đỉnh cao nhất, là mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình phát triển”. Điều này hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với nhận mới về phát triển con người. Con người ở đây được xem xét trên hai khía cạnh thống nhất với nhau hay nói cách khác, nó là hai mặt của một vấn đề được thống nhất trong mỗi con người. - Con người với tư cách là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tính thần. Như vậy,để tồn tại và phát triển, con người bằng sức lao động của mình, là yếu tố của quá trình sản xuất, là lực lượng sản xuất cơ bản nhất, tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ. - Con người cần phải sử dụng và tiêu dùng của cải vật chất thông qua quá trình phân phối và tái phân phối. Từ lý luận và thực tiễn cũng đã chứng minh,có 3 yếu tố cơ bản nhất để phát triển con người là phải đảm bảo an toàn lương thực,an toàn việc làm và an toàn môi trường. Trong quá trình phát triển, con người vừa là người hưởng thụ, mặt khác con người cung cấp đầu vào quan trọng cho quá trình biến đổi cho quá trình sản xuất. Hoạt động lao động ra đời cùng với sự hình thành và phát triển của loài người, đó là một hoạt động thuộc về bản năng sinh tồn, con người chỉ có thể tồn tại, phát triển và hoàn thiện không ngừng thông qua lao động sản xuất. Do vậy nhu cầu có việc làm là nhu cầu để con người tồn tại và phát triển là yếu tố khách quan và chính đáng của người lao động. 2.3 Việc làm là yêu cầu khách quan của xã hội. Lịch sử phát triển xã hội loài người cho thấy, bất cứ một quốc gia nào, đều có nhu cầu sử dụng hợp lý nguồn lao động của mình, để khai thác tài nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế của đất nước. Người lao động là một nguồn lực quan trọng, là một trong những yếu tố cơ bản để phát triển. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn trong lĩnh vực kinh tế phải tập trung phát huy cao độ khả năng của nguồn lực quan trọng đó. Nếu có những sai phạm về chủ trương, chính sách và biện pháp thì nguồn lao động rất có thể trở thành gánh nặng, thậm chí gây trở ngại, tổn thất cho nền kinh tế. ở Việt Nam trong thời kỳ bao cấp, việc kế hoạch hóa người lao động với biện pháp phân bổ chỉ tiêu lao động và quỹ lương cho khu vực quốc doanh đã làm cho các cơ quan hành chính phình to, hoạt động kém hiệu quả. Các xí nghiệp quốc doanh có năng suất thấp, sản xuất trì trệ, lời giả lỗ thật. Đến nay, Việt Nam đã khắc phục được hiện tượng trên nhờ thực hiện cơ chế phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, và đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia. Mục đích sử dụng người lao động được Đảng ta xác định: “Sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu”. Đây là yêu cầu tất yếu khách quan của xã hội. II. Các nhân tố ảnh hưởng tới vấn đề tạo việc làm cho người lao động nông thôn. 1. Tư liệu sản xuất Tư liệu sản xuất trong sản xuất nông nghiệp là đất đai, vốn, máy móc, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nguồn lực con người, nguồn lực sinh học và các phương tiện hoá học. Trong đó yếu tố vốn, đất đai, yếu tố sức lao động, công nghệ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới tạo việc làm. Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất. Nó tham gia vào mọi quá trình sản xuất của xã hội nhưng tuỳ thuộc vào từng ngành cụ thể mà vai trò của đất đai có sự khác nhau. Trong nông nghiệp ruộng đất không chỉ tham gia với tư cách là yếu tố thông thường mà là yếu tố tích cực của sản xuất, là tư liệu chủ yếu không thể thiếu, không thể thay thế được. Bởi vì, đất đai trong nông nghiệp có đặc điểm: Ruộng đất bị giới hạn về mặt không gian nhưng sức sản xuất là vô hạn. Mỗi quốc gia có giới hạn diện tích đất khác nhau và tỷ lệ ruộng đất trong nông nghiệp ở mỗi quốc gia lại càng khác biệt nhau vì nó còn tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển kỹ thuật của từng nước. Với nước ta, mặc dù đất chật người đông nhưng tỷ lệ đất nông nghiệp chiếm khá lớn là 9345,4( nghìn ha) chiếm 29,4% tổng diện tích cả nước; đất lâm nghiệp có rừng là 11575,4(nghìn ha) chiếm 35,15% tổng diện tích cả nước so với diện tích đất ở chỉ chiếm 1,34%. Tuy nhiên lượng đất chưa được sử dụng (có cả sông ngòi) có rất nhiều: 1027,3(nghìn ha) chiếm 30,4%. Diện tích đất lớn cho phép khai thác theo cả chiều sâu và chiều rộng để mỗi đơn vị diện tích đất ngày càng đáp ứng nhiều sản phẩm theo yêu cầu của con người và thị trường thế giới. Chính việc sử dụng đất hợp lý kết hợp với sử dụng nguồn lực con người sẽ tạo ra sự hài hoà cho việc giải quyết việc làm cho người lao động với việc tăng sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp. Ruộng đất có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều. Nó khác với tư liệu sản xuất khác là không bị hao mòn, không bị đào thải khỏi quá trình sản xuất nếu sử dụng hợp lý. Như vậy, ruộng đất có ý nghĩa rất lớn trong sản xuất nông nghiệp. Mỗi một vùng có vị trí địa lý khác nhau. Do vậy, tạo việc làm cho người lao động nông thôn Đảng và Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích họ đồng thời đưa ra những giải pháp tăng sức sản xuất của ruộng đất, làm tăng số lần quay vòng đất. Yếu tố vốn và sức lao động là hai yếu tố quan trọng nhất của quá trình tạo việc làm. Theo mô hình tạo việc làm: Y = f(C,V,X...) Trong đó: Y: Số lượng việc làm được tạo ra C: Vốn đầu tư V: Sức lao động X: Thị trường tiêu thụ sản phẩm... Hai yếu tố C và V là hai yếu tố hợp thành năng lực sản xuất. Sức lao động là khả năng trí lực, thể lực của con người. Đó là tri thức, sức khoẻ, kỹ năng, kinh nghiệm, truyền thống, bí quyết công nghệ... Theo Mác: “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất hay tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong mỗi con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”. Nói đến sức lao động ta phải nói đến số lượng và chất lượng lao động. Nếu một người lao động có sức khoẻ tốt, có đầu óc suy nghĩ thông minh, sáng tạo thì hẳn công việc mà họ được giao sẽ được hoàn thành tốt, sản phẩm mà họ sản xuất ra sẽ đủ yêu cầu chất lượng. Để tạo việc làm cho người lao động thì sức lao động là yếu tố quan trọng nhất. Một công việc được thực hiện khi có con người và con người đó chỉ làm việc được khi có đủ sức lao động. ở nông thôn, thể lực của người lao động kém hơn so với người lao động của thành thị, kiến thức chuyên môn cũng như xã hội đều thấp do thu nhập chưa cao, việc tiếp cận thông tin kinh tế, khoa học xã hội chậm. Điều đó ảnh hưởng lớn đến việc làm của chính họ. Chính vì vậy tạo việc làm cho người lao động nông thôn cần phải được cân nhắc tính toán kỹ nếu không sẽ gây tổn thất nặng nề. Và để tạo việc làm có hiệu quả cần thiết phải bồi dưỡng kiến thức cho họ. Vốn trong sản xuất nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Vốn sản xuất nông nghiệp mang đặc điểm sau: Căn cứ vào đặc điểm của tài sản có thể chia thành vốn cố định và vốn lưu động. Do chu kỳ sản xuất dài và có tính thời vụ trong nông nghiệp nên một mặt làm cho sự tuần hoàn và luân chuyển của vốn chậm chạp, kéo dài thời gian thu hồi vốn cố định, tạo ra sự cần thiết phải dự trữ đáng kể nguồn vốn lưu động trong thời gian tương đối dài và làm cho vốn ứ đọng. Mặt khác, sự cần thiết và có khả năng tập trung hoá về phương tiện kỹ thuật trên một lao động nông nghiệp so với nông nghiệp là cao hơn. Sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên việc sử dụng vốn gặp nhiều rủi ro, làm tổn thất hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn. Một bộ phận sản phẩm nông nghiệp không qua lĩnh vực lưu thông mà được chuyển trực tiếp làm tư liệu sản xuất cho bản thân ngành nông nghiệp. Do vậy, một bộ phận vốn được thực hiện ở ngoài thị trường và được tiêu dùng trong nội bộ nông nghiệp khi vốn lưu động được khôi phục trong hình thái hiện vật. Đối với người nông dân đặc biệt là những người dân nghèo thì vốn là quan trọng và cần thiết để tiến hành sản xuất. Để tạo việc làm cho người lao động, nguồn vốn được huy động chủ yếu từ trợ cấp, từ các quỹ, các tổ chức tín dụng. Khi số lượng việc làm được tạo ra nhưng nó có được chấp thuận hay không còn tuỳ thuộc vào thị trường tiêu thụ. Bởi vì, nếu sản phẩm sản xuất ra mà không được thị trường tiêu thụ chấp nhận thì quy mô lớn đến đâu, máy móc có hiện đại đến đâu thì đơn vị sản xuất cũng không thể tồn tại. Do dó, khi tạo việc làm cho người lao động cần phải biết cung cầu lao động trên thị trường, số người thiếu việc làm, số người không có việc làm để tạo việc làm cho người lao động vừa đủ. Ngoài các yếu tố đất đai, vốn, sức lao động, thị trường lao động còn có yếu tố quan trọng nữa đó là hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật: hệ thống thuỷ lợi, hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc, cơ sở chế biến... Hệ thống này là yếu tố gián tiếp góp phần tạo ra việc làm và nâng cao hiệu quả việc làm. Việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở các cộng đồng dân cư sẽ tạo khả năng thu hút nhiều lao động trực tiếp và gián tiếp tạo môi trường phát triển việc làm trong từng cộng đồng. 2. Nhân tố dân số Dân số là yếu tố chủ yếu của quá trình phát triển. Dân số vừa là chủ thể vừa là khách thể của xã hội, vừa là ngươi sản xuất, vừa là người tiêu dùng. Vì vậy, quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. ảnh hưởng đó là tích cực hay tiêu cực tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa tốc độ phát triển dân số với nhu cầu và khả năng phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước trong mỗi thời kỳ. Do quy mô dân số lớn, tốc độ tăng cao đã làm quy mô số người trong độ tuổi lao động có khả năng tăng cao. Quy mô dân số đông, nguồn lao động dồi dào, đó là sức mạnh của quốc gia, là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Nhưng đối với nước ta - nước chậm phát triển, khả năng mở rộng và phát triển sản xuất còn có hạn, nguồn vốn, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu còn thiếu thốn, nguồn lao động đông và tăng nhanh lại gây sức ép về việc làm rất lớn. Năm 1986 số người trong độ tuổi lao động chỉ có 30 triệu người nhưng đến năm 2000 là 39,489 (triệu người). Tỷ trọng người lao động trong dân số ngày càng tăng.Theo số liệu của tổng cục thống kê, số người đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân năm 2001 là 37,677 (triệu người). Mỗi năm phải tạo thêm hơn 1,2 triệu chỗ làm việc chưa kể số sinh viên sắp ra trường, số người làm việc nội trợ thì số người chưa có việc làm hàng năm là rất lớn. Ngoài ra, để đảm bảo đủ việc làm cho người lao động trong nông thôn, tận dụng hết quỹ thời gian lao động cần có thêm hơn 7 triệu chỗ làm việc. Rõ ràng dân số đang tăng nhanh gây sức ép về việc làm rất lớn. Mặc dù nguồn lao động dồi dào là nguồn lực lớn để phát triển kinh tế nhưng để tạo việc làm cho người lao động không phải đơn giản mà nó kéo theo tài chính, tín dụng, tư liệu sản xuất... trong khi ngân sách nước ta còn hạn hẹp. Năm 2000 Đảng và Nhà nước ta đã có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong đó nhân tố dân số đã được coi trọng: + Coi con người là mục tiêu và là động lực chính của sự phát triển. Đặt con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển hay gọi là chiến lược con người, lấy lợi ích của con người làm điểm xuất phát của mọi chương trình kế hoạch phát triển. + Nguồn nhân lực và con người Việt Nam - lợi thế và nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Tuy nhiên, khi nguồn lực này tăng lên quá nhanh mà chưa sử dụng hết, lại là lực cản, gây sức ép về đời sống và việc làm. + Đổi mới chính sách dân số, lao động và bảo trợ xã hội là nội dung hàng đầu trong việc đổi mới chính sách và công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Các chính sách đó phải phát huy nguồn lực về nguồn nhân lực và con người Việt Nam hướng vào thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn. Mặt khác, các chính sách đó phải phù hợp với những yêu cầu của quản lý kinh tế quốc dân, phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã h._.ội cụ thể của đất nước. 3. Nhân tố giáo dục và công nghệ Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học và công nghệ của đất nước đó. Trình độ khoa học công nghệ lại phụ thuộc vào các điều kiện giáo dục. Đã có rất nhiều bài học thất bại khi một nước nào đó sử dụng công nghệ ngoại nhập tiên tiến trong khi tiềm lực khoa học công nghệ trong nước còn rất non yếu. Sự non yếu thể hiện ở chỗ thiếu các chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề. Điều đó đã ảnh hưởng tới việc áp dụng các thành tựu khoa học. Không có sự lựa chọn nào khác hoặc là đào tạo các nguồn lực quý giá cho đất nước phát triển hoặc phải chịu tụt hậu so với thế giới. Giáo dục và đào tạo giúp cho người lao động có đủ tri thức, năng lực, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của công việc và khi có trong tay kiến thức về xã hội, về trình độ chuyên môn người lao động sẽ có nhiều cơ hội để thực hiện các công việc mà xã hội phân công sắp xếp. Như vậy, giáo dục và đào tạo nhằm định hướng phát triển kinh tế – xã hội, trước hết cung cấp cho xã hội một đội ngũ lao động mới đủ về số lượng, chất lượng và sau là phát huy hiệu quả để đảm bảo thực hiện xã hội: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ văn minh. Bên cạnh việc đảm bảo nguồn lực với số lượng, chất lượng đáp ứng yêu cầu công việc thì việc phát triển công nghệ là yếu tố quan trọng trong việc đưa đất nước trở thành nước công nghiệp. Công nghiệp hoá với xu hướng trí thức hoá công nhân, chuyên môn hoá lao động, giảm bớt lao động chân tay nặng nhọc. Ngày nay, để công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nói riêng và công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nói chung thì việc thiếu lao động và trình độ chuyên môn hoá cao và thừa lao động trình độ thấp rất nhiều đã gây ra sức ép việc làm lớn. Nếu bên cạnh việc nâng cao trình độ cho người lao động mà kết hợp với việc áp dụng thành tựu khoa học trong sản xuất thì sẽ tạo ra những chỗ làm việc hợp lý. Ngược lại, nếu Nhà nước có những chính sách tạo việc làm cho người lao động mà họ thiếu hiểu biết, thiếu kiến thức chuyên môn thì chương trình tạo việc làm sẽ không đạt hiệu quả nữa. 4. Chính sách lao động và việc làm trong xã hội. Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Chính sách việc làm là nhân tố chủ quan có vai trò rất quan trọng đối với toàn bộ quá trình phát triển việc làm trong xã hội. Chính sách việc làm thực chất là một hệ thống các biện pháp có tác động mở rộng cơ hội để lực lượng lao động của toàn xã hội tiếp cận được việc làm. Ngoài ra chính sách việc làm còn bao gồm các giải pháp trợ giúp cho các loại đối tượng đặc biệt (cho người tàn tật, đối tượng tệ nạn xã hội, người hồi hương...) có cơ hội và điều kiện được làm việc. Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội nhằm giải quyết một vấn đề xã hội vừa cấp bách trước mắt hiện nay vừa cơ bản lâu dài ở mỗi nước là đảm bảo việc làm, đời sống cho lao động toàn xã hội, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi đang tồn tại tỷ người chưa có việc làm, thiếu việc làm khá cao. Cũng như chính sách xã hội khác, chính sách việc làm cũng rất đa dạng, phong phú, có thể phân loại như sau: + Nhóm chính sách chung có quan hệ và tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho lao động toàn xã hội: chính sách về vốn, chính sách đất đai, chính sách thuế. + Nhóm chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, hình thức và vùng có khả năng thu hút được nhiều lao động trong cơ chế thị trường( chính sách phát triển kinh tế hộ, chính sách đổi mới xây dựng vùng kinh tế mới, chính sách khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống, chính sách di dân tự do và hành nghề theo pháp luật, chính sách gia công xuất khẩu…). + Các chính sách việc làm cho đối tượng đặc biệt( chính sách việc làm cho người tàn tật, cho đối tượng tệ nạn xã hội…). Mặt khác, trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường tình trạng thất nghiệp là điều khó tránh. Để hạn chế thất nghiệp một mặt phải tạo chỗ làm việc mới; mặt khác phải tránh cho người lao động đang làm việc lâm vào thất nghiệp. Ngoài ra, phải có hệ thống bảo hiểm cho người lao động khi họ thất nghiệp. Trong chính sách giải quyết việc làm, một nguyên tắc cơ bản cần phải được chú ý, đó là đảm bảo cho mọi người được tiếp cận với cơ hội làm việc, trên cơ sở Nhà nước tạo những điều kiện thuận lợi cho mọi người có cơ hội chủ động tìm kiếm việc làm, chống tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, tránh thực hiện chủ nghĩa bình quân, chia đều việc làm với thu nhập thấp. Đồng thời cũng chống việc coi nhẹ trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, khiến cho tình trạng thất nghiệp trở thành vấn đề xã hội gay cấn. Cần gắn tiêu chuẩn về mức thu hút lao động của doanh nghiệp trong chính sách khuyến khích hoặc hỗ trợ doanh nghiệp. Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội, song phương thức và biện pháp tạo việc làm lại mang nội dung kinh tế, đồng thời liên quan đến những vấn đề thuộc về tổ chức sản xuất kinh doanh như tạo môi trường pháp lý, vốn, lựa chọn và chuyển giao công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ. Vì thế bất cứ chính sách kinh tế xã hội nào của Nhà nước cũng đều có ảnh hưởng và tác động đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Phần II: Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay I. Đặc điểm kinh tế - xã hội của nông thôn Việt Nam có ảnh hưởng đến tạo việc làm. 1. Đặc điểm tự nhiên 1.1 Đất đai Đất đai là cơ sở tự nhiên là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất. ở Việt Nam, đất nông nghiệp chiếm diện tích lớn ( 9345,4 nghìn ha chiếm 28,4% diện tích đất sử dụng năm 2000). Tuy nhiên diện tích đất nông nghiệp được sử dụng phân bố giữa các vùng chưa đều. Theo số liệu điều tra của Tổng cục địa chính cho thấy hiện trạng sử dụng đất năm 2000 phân theo vùng. Bảng1: Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp phân theo vùng Đơn vị: nghìn ha Tổng diện tích Đất nông nghiệp Tỷ lệ(%) Cả nước 32924,4 9345,4 28,4 Đồng bằng sông Hồng 1478,8 857,6 58,0 Đông Bắc 6532,6 897,9 13,74 Tây Bắc 3563,7 407,4 11,43 Bắc Trung Bộ 5150,1 725,3 14,08 Duyên hải Nam Trung Bộ 3306,7 545,6 16,5 Tây Nguyên 5447,6 1233,6 22,64 Đông Nam Bộ 3473,3 1707,8 49,17 Đồng bằng sông Cửu Long 3971,3 2970,2 74,79 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000 của Tổng cục Thống kê Theo biểu trên ta thấy diện tích đất đai ở Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên khá lớn: Đông Bắc là 6532,6 (nghìn ha) chiếm 19,84%; Bắc Trung Bộ là 5150,1 (nghìn ha) chiếm 15,64% và Tây Nguyên chiếm 16,55% so với diện tích đất sử dụng của cả nước năm 2000. Tuy nhiên, đất nông nghiệp ở đây lại được sử dụng ít chưa đến 15% so với diện tích đất sử dụng của vùng đó. Trong khi đó, ở đồng bằng diện tích đất ở, đất chuyên dùng và đất lâm nghiệp có rừng là 2936,9(nghìn ha) chiếm 44,95% diện tích đất sử dụng của vùng đó. Như vậy, còn 2697,8 (nghìn ha) đất là chưa sử dụng và sông ngòi. Nếu so với đồng bằng sông Hồng một trong những vựa lúa lớn nhất của cả nước với số dân đông thứ nhất trong 8 vùng kinh tế mà diện tích đất lại ít nhất. Từ đây có thể thấy dân số đông tập trung ở thành thị và đồng bằng là rất lớn song đất sử dụng ở đây lại hạn chế. Hiện tượng đất chật người đông đã gây ra sức ép về việc làm lớn. Vẫn biết rằng mỗi vùng có đặc điểm riêng về vị trí địa lý, về kinh tế - xã hội song cùng với việc thiếu việc làm, sử dụng ít thời gian lao động nông thôn làm thất nghiệp giảm, con cái không được chăm sóc, giáo dục đầy đủ gây ra các tệ nạn xã hội. Chính điều đó khiến cho đời sống của người nông dân từ đời này qua đời khác không khá lên được. Thiếu việc làm, kiến thức của người lao động nông thôn thấp làm cho đất nước Việt Nam nói chung và nông nghiệp nông thôn Việt Nam nói riêng chậm phát triển không theo kịp với xu thế của thời đại. Trong nông nghiệp, chính sự khác nhau về chất lượng và số lượng đất đai kết hợp với khí hậu, nguồn nước; các hệ sinh thái ở các vùng khác nhau dẫn đến việc hình thành các cơ cấu sản xuất khác nhau. Điều này cho phép hình thành cơ cấu sản xuất nông nghiệp khác nhau trên các vùng sinh thái. Mặt khác do sự phân bố không đồng đều giữa các nguồn lực ở các vùng dẫn đến việc hình thành các ngành kinh tế khác nhau trong mỗi vùng lãnh thổ. Điều này thể hiện rõ ở sự hình thành cơ cấu ngành kinh tế nói chung và nông thôn nói riêng. Từ đây có thể thấy sự hình thành các vùng kinh tế trọng điểm. Thấy được tầm quan trọng của đất đai là đối tượng cơ bản nhất của quá trình sản xuất và phát triển việc làm, Nhà nước có những chính sách cơ bản trong lĩnh vực ruộng đất, góp phần to lớn giải phóng tiềm năng lao động và tạo mở việc làm đảm bảo khai thác và sử dụng có hiệu quả ruộng đất tạo ra giá trị kinh tế cao trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác. 1.2 Dân số 1.2.1 Nguồn lao động ở nông thôn chiếm tỷ trọng lớn Nguồn lao động ở nông thôn nước ta hiện nay khá đông. Theo kết quả tổng điều tra dân số, năm 1990 nguồn lao động nông thôn là 27000 (nghìn người) chiếm 73,5% lực lượng lao động của cả nước đến năm 2000 là 29925 (nghìn người) chiếm 77,4% lực lượng lao động của cả nước. Như vậy, tỷ trọng nông nghiệp không giảm mà vẫn tăng mặc dù nước ta đã có định hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Bảng2: Nguồn lao động Đơn vị: nghìn người Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Dân số 75355 76714 77046 76328 77496 78.700 Lao động xã hội 35866 36297 37407 37783 38643 39.489 Nông thôn 29028 28964 29757 29363 29925 30.307 Thành thị 6838 7333 7649 8420 8718 9.182 Nguồn: Thực trạng lao động việc làm qua các năm 1996,1997,1998,1999,2000 của Bộ Lao động- Thương binh xã hội Dân số nông thôn tăng nhanh trong 10 năm qua. Năm 1990 dân số nước ta gần 51,9 triệu người. Đến năm 2000 là 59,065 triệu người. Như vậy, năm 2001 so với năm 1990 dân số nông thôn đã tăng 7,1 triệu người (đặc biệt năm 1992,1993 dân số nông thôn tăng rất nhanh, mỗi năm tăng khoảng 1,5 triệu người - đây là thời kỳ có sự giảm biên chế trong các cơ quan hành chính sự nghiệp của Nhà nước, do đó một số lớn lao động quay trở lại khu vực nông thôn). Trong mấy năm gần đây chính sách ở khu vực này có xu hướng giảm kết hợp với việc thực hiện tốt công tác kế hoạch hoá làm giảm mức sinh, năm 2000 so với năm 1995 dân số chỉ tăng khoảng trên dưới 1 triệu người. Cùng với sự gia tăng của dân số cả nước dân số nông thôn cũng gia tăng và chiếm một tỷ trọng lớn trong dân số cả nước. Năm 1986 dân số nông thôn chiếm 80,7% , năm 1996 là 78,9 và đến năm 2000 tỷ lệ này giảm xuống còn 76,03%. Như vậy sự phát triển yếu ớt của khu vực đô thị ở nước ta chưa đủ sức làm giảm đáng kể tỷ trọng dân số ở nông thôn. Chiếm phần lớn dân số cả nước nên nguồn lao động nông thôn cũng rất dồi dào. Năm 1996 nguồn lao động nông thôn là 29,028 triệu người chiếm 80,9% lực lượng lao động và đến năm 2001 là 30,307 triệu người chiếm 76,7% lực lượng lao động xã hội. Như vậy mỗi năm nông thôn tiếp nhận thêm khoảng hơn 20 vạn người bước vào tuổi lao động. Nguồn lao động nông thôn tăng lên không chỉ cung cấp nguồn lực dồi dào cho ngành nông nghiệp mà còn cung cấp cho cả công nghiệp và dịch vụ nữa. Song khi nguồn nhân lực tăng lên tức là nhu cầu về việc làm tăng lên. Với nền nông nghiệp nước ta hiện nay, khi đất nông nghiệp dần bị thu hẹp, dân số nông thôn ngày càng tăng thì tạo việc làm cho người lao động ở đây luôn là vấn đề bức xúc nhất. Tuy nhiên, để người lao động có cơ hội tìm việc làm chỉ có nhà nước mới giúp được bằng các chính sách hỗ trợ vốn, chính sách di dân, đặc biệt là các chính sách khuyến khích mở rộng và phát triển kinh tế vùng trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay. 1.2.2 Nguồn lao động nông thôn phân bố không đồng đều giữa các ngành và vùng. Thực tế cho thấy, cơ cấu nguồn lao động ở nông thôn phân bố chưa hợp lý. Gần 85% lao động làm nông nghiệp, chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi song lao động nông nghiệp chủ yếu tập trung ở đồng bằng và các thành phố lớn.(Bảng 3) Từ bảng số liệu (Bảng 3) ta thấy năm 2000 dân số tập trung đông nhất ở hai đồng bằng lớn đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long chiếm 21,2% và 21,06% dân số cả nước. Dân số nông thôn ở đồng bằng sông Hồng chiếm 23,01% dân số lao động nông thôn của cả nước và đồng bằng sông Cửu Long là 22,84% dân số lao động nông thôn của cả nước. Trong khi đó, ở Tây Bắc chỉ có 2009,9 (nghìn người) chiếm 3,4% dân số nông thôn của cả nước như đã nêu ở phần trên mỗi vùng có điều kiện tự nhiên khác nhau, tài nguyên, kinh tế xã hội và trình độ phát triển lực lượng sản xuất khác nhau thì số lượng lao động tập trung gia tăng ở đó cũng khác nhau. Điều này dẫn tới sự mất cân đối giữa lao động và tư liệu sản xuất, kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn và trình độ phát triển không đều giữa các vùng thêm trầm trọng. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã có chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn tránh hiện tượng di dân tự do, phần lớn ổn định kinh tế chính trị đặc biệt chương trình đưa người dân nông thôn đi xây dựng vùng kinh tế mới góp phần rất lớn vào việc giảm khoảng cách chênh lệch giữa các vùng và khai thác được tiềm năng kinh tế ở mỗi vùng. Vẫn biết rằng mỗi vùng có một vị trí địa lý khác nhau, có điều kiện phát triển từng loại cây trồng, vật nuôi khác nhau song chính sự tập trung quá đông ở các vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng làm cho số người thiếu việc làm ở đây chiếm tỷ lệ lớn (đồng bằng sông Cửu Long: 2.239,752 ngàn người, đồng bằng sông Hồng là 1.111,837 ngàn người) và nguyên nhân chủ yếu ở đây là lượng lao động làm nông nghiệp nhiều song lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật kém. Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là hai vựa lúa lớn của cả nước nên lao động làm nông nghiệp tập trung đông nhưng hàng năm diện tích đất ở và đất chuyên dùng ngày càng tăng còn diện tích đất trồng có xu hướng thu hẹp, chính điều đó đã làm cho thời gian rảnh rỗi ở nông thôn tăng lên. Chúng ta đều biết sự phân công lao động xã hội là cơ sở để hình thành cơ cấu ngành kinh tế. Phân công lao động càng sâu sắc thì cơ cấu ngành được phân chia càng đa dạng và tỉ mỉ. Từ năm1994, vốn đầu tư cho ngành dịch vụ tăng cao do tỷ suất lợi nhuận của đầu tư trong nông nghiệp thấp, đồng Việt Nam lên giá mạnh, FDI chảy vào nhiều, các nhà đầu tư đã đổ dồn vào ngành dịch vụ và các công nghiệp được Nhà nước bảo hộ. Quá trình tăng vốn đầu tư kéo theo quá trình thu hút lao động xã hội ngày càng tăng vào nhóm ngành dịch vụ. Hàng năm có hơn một triệu thanh niên bắt đầu tham gia lực lượng lao động và nếu không có thêm cơ hội việc làm trong ngành công nghiệp nằm ngoài các trung tâm tăng trưởng, đa số các thanh niên này sẽ gia nhập vào nông nghiệp hoặc khu vực phi chính thức. Hiện nay mặc dù đã có sự chuyển biến trong cơ cấu ngành kinh tế nhưng vẫn tỏ ra rất lạc hậu và tập trung vào sản xuất nông nghiệp. Bảng3: Dân số lao động nông thôn phân theo vùng Năm Vùng 1996 1997 1998 1999 2000 DSTB DSNT DSTB DSNT DSTB DSNT DSTB DSNT DSTB DSNT Cả nước 73.156,7 57.736,8 74.306,9 57.471,5 75.456,3 57.991,7 76.596,7 58.515,1 77.685,5 59.065,6 Duyên hải NTB 6.287,3 4.799,8 6.372,7 4.756,9 6.460,5 4.755,9 6.545,6 4.794,4 6.622,5 4.829,8 Tây Nguyên 3.563,0 2.685,2 3.743,1 2.779,8 3.922,2 2.884,5 4.096,1 2.997,8 4.248,0 3.120,0 Đông Nam Bộ 10.947,3 5.922,8 11.203,6 5.572,5 11.478,8 5.699,0 11.777,1 5.742,8 12.070,7 5.807,1 Đồng bằng sông Cửu Long 15.693,5 13.205,0 15.858,8 13.245,0 16.023,5 13.329,8 16.184,2 13.408,8 16.365,9 13.494,5 Đồng bằng sông Hồng 16.331,8 13.513,6 16.520,4 13.411,2 16.701,5 13.445,8 16.870,6 13.516,2 17.017,7 13.591,0 Đông Bắc 8.524,8 7.156,8 8.635,8 7.161,9 8.737,1 7.225,9 8.852,7 7.317,5 8.952,4 7.380,4 Tây Bắc 2.112,9 1.842,0 2.159,4 1.881,2 2.205,5 1.919,7 2.239,8 1.950,0 2.287,7 2.009,9 Bắc Trung Bộ 9.696,1 8.611,6 9.813,1 8.633,0 9.927,2 8.731,1 10.030,6 8.787,6 10.120,6 8.832,9 Nguồn: Niên giám thống kê 2000 của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội ở các vùng sớm tiếp cận với phương thức sản xuất hàng hoá, có công nghiệp phát triển, tốc độ đô thị hoá nhanh, dịch vụ mở rộng cũng là những vùng có cơ cấu phân công lao động thay đổi nhanh và cơ cấu sản xuất cũng phát triển như Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng lao động phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao hơn con số trung bình cả nước từ 1 đến 6%. Điều này cho thấy ở nơi đây thu hút nhiều lao động từ nông nghiệp, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn. Đất nước ta đang trên con đường đi lên công nghiệp hoá thì trước tiên phải công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên cần phải xem xét đến chất lượng nguồn nhân lực. 1.2.3 Chất lượng nguồn lao động ở nông thôn có nhiều đặc tính phù hợp với sự phát triển nhưng cũng còn nhiều hạn chế. Do nguyên nhân lịch sử kinh tế sâu xa, nguồn lao động ở nông thôn nước ta có bản sắc, văn hoá độc đáo, có truyền thống đoàn kết yêu nước nồng nàn; có phẩm chất cần cù chịu khó, thông minh, sáng tạo. Tuy nhiên, nguồn lao động ở nông thôn còn có nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Về thể lực: chiều cao trung bình của lao động nông thôn là 156cm và trọng lượng trung bình là 48kg. Để đánh giá thể lực của lao động, trong điều tra mức sống dân cư năm 1997-1998 đã sử dụng chỉ số cơ thể (BMI), theo cách này có tới 62,51% lao động nam và 36,93% lao động nữ ở nông thôn dưới mức bình thường, trong khi trên phạm vi cả nước tỷ lệ tương ứng của lao động nam là 59,29% và nữ là 34%. Về trình độ học vấn: trình độ học vấn của lao động ngày càng được nâng cao. Năm 2000, trên phạm vi cả nước tỷ lệ lao động biết chữ là 96% tương đương với một số nước phát triển trong khu vực như Singapore, Malaysia... Đối với khu vực nông thôn, tốt nghiệp phổ thông cơ sở và trung học phổ thông khoảng 45,8% thấp hơn khu vực thành thị 19,7%. Điều này không chỉ hạn chế lao động nông thôn trong việc tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ và sản xuất mà còn là nhân tố cản trở họ trong việc theo học các khoá đào tạo nghề, bởi điều kiện học nghề tối thiểu phải có trình độ văn hoá ở bậc trung học cơ sở. Tuy trình độ học vấn của nông thôn không phải quá thấp nhưng đại bộ phận lại không được đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Năm 1996, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo mới đạt 7,8%; năm 2000, tỷ lệ này tăng lên 9,3% so với tỷ lệ chung toàn quốc thì tỷ lệ này còn thấp hơn khoảng 10%. Nếu tính riêng số lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật thì chiếm khoảng 15% tổng số lao động kỹ thuật của cả nước. Có sự khác biệt đáng kể trong phân bố lao động qua đào tạo giữa các vùng. Phần lớn lao động qua đào tạo tập trung ở các vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên có tỷ lệ đào tạo thấp nhất. Cơ cấu chuyên ngành được đào tạo cũng có sự mất cân đối nghiêm trọng. Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng thế giới, cứ 1000 lao động nông thôn có 75 người qua đào tạo, trong đó chỉ có 4,4 người được đào tạo về chuyên ngành nông-lâm-ngư nghiệp. Hiện nay, tình trạng này hầu như chưa được cải thiện, số cơ sở đào tạo và số học sinh theo học các chuyên ngành thuộc các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn rất khiêm tốn so với các ngành khác. Lao động nông nghiệp vẫn chủ yếu là canh tác, sản xuất theo kinh nghiệm, năng suất thấp. Gần đây, nhờ công tác khuyến nông và phổ biến kỹ thuật, trình độ canh tác của nông dân bước đầu được cải thiện nhưng do phần lớn lao động nông thôn thiếu kiến thức cơ bản để tiếp thu và áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp nên hiệu quả sản xuất nhìn chung còn thấp. Như vậy, cả về thể lực và trí lực, lao động nông thôn còn nhiều hạn chế trước yêu cầu phát triển hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. 2. Đặc điểm kinh tế xã hội 2.1 Thu nhập Trước khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế, kinh tế nông nghiệp nông thôn rất thấp trong khi là khu vực thu hút nhiều lao động nông thôn nhất. Một số nguyên nhân là: nước ta vừa trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt đã làm cho kinh tế Việt Nam nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng suy sụp. Thứ hai, hình thức sở hữu lúc đó là sở hữu nhà nước mang tính “bao cấp” vì vậy không phát huy được năng lực của mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình dẫn đến phát triển chậm chạp. Thứ ba, do trình độ kỹ thuật của lao động nông thôn còn kém nên trong nông nghiệp hình thức lao động chủ yếu là lao động giản đơn chưa áp dụng nhiều kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, chi phí thời gian lao động nhiều nên việc phát triển công nghiệp và dịch vụ còn chậm chạp. Nhưng kể từ sau khi “đổi mới kinh tế” xu hướng tự do hoá kinh tế trong nông nghiệp, sự thừa nhận chính thức các thành phần kinh tế tư nhân và ngoài quốc doanh đã phát huy được những nguồn lực vốn có của người nông dân (trong đó có nguồn nhân lực). Sự phát triển của kinh tế hộ và hình thức phát triển tất yếu của kinh tế hộ- kinh tế trang trại, sự phát triển của các hộ sản xuất, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn trong các ngành nghề phi nông nghiệp và dịch vụ, đã là những yếu tố quyết định tạo nên sự tăng trưởng lâu dài và ổn định của nông nghiệp trong suốt một thập niên vừa qua, luôn ổn định ở mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 4,17% (giai đoạn 1989-1999). Sự tăng trưởng nông nghiệp, quá trình các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn đã tạo thêm việc làm mới, thu hút nhiều lao động. Theo điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997-1998 cơ cấu thu nhập của dân cư được phân bổ như sau: Bảng 4: Cơ cấu thu nhập của dân cư Đơn vị (%) Tiền công-Tiền lương Thu từ nông nghiệp – phi nông nghiệp Thu từ ngành nghề nông nghiệp Thành thị 33,9 37,4 0,24 Nông thôn 19,9 19,9 48,6 Nguồn: Điều tra mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê Khu vực nào ở nông thôn có nguồn thu nhập từ các ngành nghề nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn thì thu nhập bình quân đầu người thấp. Cụ thể: vùng núi và trung du Bắc bộ có tỷ lệ thu từ các nghề nông- lâm- thuỷ sản cao nhất là 58% thì thu nhập bình quân người /năm theo giá so sánh chỉ có 2036 (ngàn đồng), vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ thu từ nông- lâm- thuỷ sản thấp nhất là 9 % thì thu nhập bình quân người /năm lên tới 6017 (ngàn đồng). Điều đó lý giải vì sao đa số người nghèo sống ở nông thôn và làm nông nghiệp là nghề chính. Khi thu nhập nông thôn tăng làm tăng thu nhập quốc dân dẫn tới năng suất nông nghiệp tăng và có khoản vốn dành cho các chương trình hỗ trợ và tạo việc làm thu hút lao động. Có việc làm ổn định người dân lao động sẽ chăm chỉ làm việc, chăm lo cho mảnh đất của mình khiến cho thu nhập nông nghiệp nói riêng và thu nhập quốc dân nói chung tăng. Đây có thể nói là một chu kỳ kinh tế của sự tăng trưởng nhưng trên thực tế giải quyết việc làm không phải vấn đề đơn giản vì tạo việc làm chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Thu nhập là một trong những yếu tố chủ quan có ảnh hưởng khá lớn tới tạo việc làm. Thu nhập thấp sẽ làm cho tỷ lệ hộ nghèo tăng. Bảng5: Tỷ lệ hộ nghèo trong tổng số hộ cả nước (%) 1996 1999 Cả nước 15,7 13,33 Thành thị 6,85 4,61 Nông thôn 17,73 15,86 Tây Bắc và Đông Bắc 20,14 17,07 Đồng bằng sông Hồng 9,17 7,55 Bắc Trung Bộ 21,17 19,29 Duyên hải Nam Trung Bộ 14,51 14,02 Tây Nguyên 24,53 21,27 Đông Nam Bộ 9,6 5,17 Đồng bằng sông Cửu Long 13,41 10,22 Nguồn: Điều tra mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê Trong 8 vùng lãnh thổ, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, Tây Bắc và Đông Bắc là những vùng có tỷ lệ nghèo đói cao hơn cả.Tây nguyên có hộ nghèo cao nhất chiếm 24,53% tổng số hộ cả nước.Tuy nhiên năm 1999 có giảm xuống 21,27% nhưng vẫn là vùng đứng đầu.Thấp nhất là Đông Nam Bộ tỷ lệ hộ nghèo chiếm 9,6%(năm 1996) và đến năm 1999 có giảm xuống 5,17%.Khu vực nông thôn có số hộ nghèo nhiều hơn khu vực thành thị vì thu nhập bình quân đầu người/tháng ở nông thôn là 80.000 đồng trong khi ở thành thị là 150.000 đồng (theo chuẩn mới) 2.2 Văn hoá xã hội Nước ta đi lên từ một nước thuộc địa nghèo và lạc hậu. Bằng bàn tay và trí óc của con người, con người Việt Nam đã đưa đất nước mình trở thành một cường quốc độc lập về kinh tế, chính trị xã hội. Có thể nhận thấy điều đó qua nhận thức của người lao động nông thôn nói riêng và của người Việt Nam nói chung. - Người Việt Nam có phản ứng tích cực, nhận thức nhanh nhạy đối với thời kỳ mở cửa. Những năm 1986-1990 khi công cuộc đổi mới bắt đầu gây xáo động tâm lý xã hội sâu sắc, mạnh mẽ. Nhưng tình hình đã nhanh chóng ổn định và ngày càng tiến triển theo chiều hướng tích cực. Họ thấy rằng mở cửa là xu thế tất yếu của thời đại, vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với dân tộc cũng như đối với cá nhân; có mở cửa cọ xát với nền văn hoá thế giới tinh thần văn hoá Việt Nam mới được thử thách tự khẳng định và phát triển. Điều này cho thấy sự nhất trí cao đối với chủ trương, chính sách đổi mới mở cửa của Nhà nước. - Người Việt Nam thấy được mở cửa dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo giữa các khu vực, giữa các nhóm xã hội, mở cửa sẽ dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội, dễ mắc vào âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch; mở cửa sẽ du nhập văn hoá, lối sống phương Tây làm hại truyền thống dân tộc dễ bị hoà mất độc lập tự chủ. - Con người Việt Nam chăm chỉ, chịu khó vượt qua được những trở ngaị để vươn lên trên cuộc sống. Trên đây chỉ là một vài đặc điểm tích cực khiến con người nhận thức tiến bộ hơn. Điều này ảnh hưởng gián tiếp đến tạo việc làm vì nó là suy nghĩ và nhận thức của con người. Do vậy, ảnh hưởng đến môi trường tiêu thụ. Có lẽ đây là yếu tố tích cực vì cùng với sự phát triển của xã hội, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhận thức của con người cũng rộng hơn dần dần bỏ đi tư tưởng phong kiến và lạc hậu. Tuy nhiên, con người Việt Nam nhất là người lao động nông thôn vẫn còn nhiều hạn chế về nhận thức. - “Đua theo nhóm” làm những việc vi phạm pháp luật: chặt cây, xây nhà trái phép, lấy của công, lấn chiếm đất công, đổ rác bừa bãi, họp chợ trên đường... thậm chí không phải chỉ do “ đói ăn vụng túng làm liều” mà còn có những người có chức có quyền, giàu có cũng liều. - Dễ bắt chước nước ngoài, pha trộn lai tạp đi đến xa rời tinh hoa, bản sắc dân tộc. Về khoa học công nghệ, sản xuất, kinh doanh ... ta phải học theo cách làm ăn tiên tiến là đúng nhưng những giá trị văn hoá, đạo đức, lối sống ta có nhiều cái tốt phải biết giữ gìn và nâng cao. - Nước ta còn nghèo, dân ta còn nhiều người túng thiếu, gần 50% trẻ em suy dinh dưỡng nhưng vẫn còn bộ phận đua đòi, tiêu xài lãng phí. Điều này đặc biệt là ở nông thôn chưa bỏ được tục lệ cưới xin, ma chay, giỗ tết… linh đình tốn kém. Mức sống thấp, lối sống không hợp lý làm sao phát triển nhanh được! - Dễ mắc vào các tệ nạn xã hội do sống thiếu bản lĩnh cá nhân. Đó là các tệ nạn buôn lậu, hối lộ, mại dâm, ma tuý,... đã ảnh hưởng tới tư duy, nhân cách con người. Để hạn chế những mặt xấu trên cần phải phát triển hệ thống giáo dục đặc biệt với giới trẻ hiện nay. Tương lai là nguồn lực tri thức phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước nên không chỉ cần có trình độ chuyên môn kỹ thuật mà cần có trình độ văn hoá và nhận thức đúng về thời đại. Một xã hội phát triển trong tương lai là xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. II. Thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam. 1. Quy mô tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam Để người lao động có việc làm, Bộ Luật lao động đã quy định: “... Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn thể xã hội”(Điều 13). Như vậy, do nguồn lao động hàng năm tăng lên làm cho nhu cầu về việc làm cũng tăng lên tức là quy mô về việc làm mới cũng tăng lên. Trong những năm qua, nhận thức được vai trò của con người và tầm quan trọng của việc làm trong việc phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước cùng với sự giúp đỡ của các cấp, các ngành, các địa phương số việc làm mới được tạo ra hàng năm tăng lên. Bảng6: Số việc làm mới được tạo ra hàng năm Đơn vị: Triệu người Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Lao động Xã Hội 35,866 36,297 37,407 37,783 38,643 39,489 Nông thôn 29,028 28,964 29,757 29,363 29,925 30,307 Thành thị 6,838 7,333 7,649 8,420 8,718 9,182 Việc làm mới 1,2 1,1 1,1 1,2 1,3 1,4 Nguồn: Thực trạng Lao động- Việc làm qua các năm 1996,1997,1998,1999,2000, của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội; Con số và sự kiện số 27/2001; Tạp chí kinh tế và dự báo số 12/2001 Như vậy, hàng năm số việc làm mới tạo ra vẫn không ngừng tăng để đáp ứng nhu cầu lao động cần việc làm. Trong những năm tới mục tiêu sẽ tạo việc làm mới cho 1,5 Triệu lao động. Việc làm mới đòi hỏi kỹ năng mới và trình độ chuyên môn nhất định vì vậy việc làm mới chủ yếu được tạo ra ở các hoạt động kinh doanh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngay cả nông thôn cũng vậy. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngành nghề phi nông nghiệp đạt 8,6-9,8% trong vòng 12 năm qua, đạt tỷ lệ cao nhất, 10-11%năm vào các năm 1993-1996. Sự tăng trưởng này của ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nông thôn góp phần tăng tỷ lệ lao động trong nghề tiểu thủ công nghiệp từ 20% năm 1990 lên 29,5% năm 1996 và giá trị sản lượng ngành nghề nông thôn lên 27.500 tỷ đồng năm 1996. Đồng thời khu vực này thu hút một phần lao động ở nông thôn mà lao động chủ yếu rút ra từ nông nghiệp nông nhàn và một phần lao động trẻ ở nông thôn. Những lao động này được thuê vào làm việc thường xuyên hoặc thời vụ tại các doanh nghiệp công nghiệp, các cơ sở TTCN, các hộ kinh doanh tự tạo việc làm bằng cách tự lập doanh nghiệp mới, doanh nghiệp mi ni, doanh nghiệp gia đình, quy mô nhỏ hoặc một số hoạt động thêm ở các hộ kiêm và chuyển dần thành lao động phi nông nghiệp. Theo thống kê cả nước có 24.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa, phi nông nghiệp ở các vùng nông thôn, gồm các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, tổ hợp, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hộ gia đình, cá thể... Nếu tính cả các hộ kiêm thì cả nước có 1.350.000 cơ sở (trong đó 97,1% là các đơn vị kinh tế hộ. Số lượng các doanh nghiệp chỉ chiếm dưới 3%, còn lại là các dạng tổ hợp tác… Trong số các doanh nghiệp thì doanh nghiệp n._.hải sản, công nghiệp đánh bắt và chế biến hải sản. Tái tạo vốn rừng, trồng cây phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, mía, dâu tằm, thuốc lá, cói, … và các cây công nghiệp dài ngày như hồ tiêu, cà phê, cao su, điều ở những vùng phù hợp với sinh thái phát triển cây trồng. Trồng rừng chắn gió, chắn cát ven biển, hình thành các vành đai xanh quanh thành phố, thị xã, khu công nghiệp. 2.1.4. Vùng Tây Nguyên Với ưu thế về đất đai, cần phát triển với tốc độ nhanh theo hướng thâm canh cây công nghiệp xuất khẩu (cà phê, chè, cao su, điều, hồ tiêu,...) và các loại cây công nghiệp khác như bông, dâu tằm, cây dược liệu, cây ăn quả, rừng nguyên liệu giấy, và các loại cây đặc sản khác... gắn việc trồng rừng mới, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả với việc khôi phục và bảo vệ, chăm sóc rừng giữ vững môi trường sinh thái và tăng nhanh độ che phủ của rừng. Mở rộng diện tích và thâm canh cây ngô, phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày, hạn chế tiến tới chấm dứt việc phá rừng làm nương rẫy. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế trang trại. Phát huy lợi thế trong vùng, tập trung phát triển công nghiệp chế biến cà phê, cao su, mía đường, công nghiệp thực phẩm, đặc biệt lựa chọn, trang bị một số dây chuyền công nghệ hiện đại để chế biến tinh các loại sản phẩm cây công nghiệp, lâm sản, các sản phẩm chăn nuôi... 2.1.5. Vùng miền Đông Nam Bộ và trọng điểm phía Nam Phát huy thế mạnh đất đai để phát triển mạnh cây công nghiệp ( cao su, cà phê, điều, mía đường...), cây ăn quả, cây nguyên liệu giấy. Củng cố các điểm dân cư tập trung lớn về cà phê và cao su, tạo điều kiện thu hút thêm lao động từ đồng bằng sông Cửu Long.Phát triển khai thác nuôi trồng, chế biến và các dịch vụ nghề cá. 2.1.6. Vùng đồng bằng sông Cửu Long Phát huy lợi thế của vùng sản xuất lương thực, rau quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ, hải sản hàng hoá lớn nhất của cả nước, tăng nhanh diện tích gieo trồng, năng suất và chất lượng sản phẩm đi đôi với phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản xuất khẩu và các dịch vụ... tập trung phát triển cây lúa, coi trọng thâm canh, nghiên cứu, chuyển đổi mùa vụ một số loại cây trồng để phòng tránh hạn hán, lũ lụt. Hình thành các vùng chuyên canh lúa và một số cây công nghiệp ngắn ngày có năng suất, chất lượng cao. Tập trung khai thác vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, Tây sông Hậu và bán đảo cà mau... phát triển mạnh ngành khai thác và nuôi trồng thuỷ sản có giá trị xuất khẩu cao, đặc biệt là tôm, cua và các loại hải sản khác để có thể đóng góp 50% giá trị xuất khẩu thuỷ, hải sản của cả nước... khai thác lợi thế về vị trí địa lý để phát triển nhanh các loại hình du lịch miệt vườn, sinh thái, ... II. Một số giải pháp tạo việc làm. Trước thực trạng dân số không ngừng tăng, diện tích đất canh tác dần bị thu hẹp đã làm cho tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm ngày càng gia tăng đặc biệt ở nông thôn. Nguồn lao động tập trung chủ yếu ở nông thôn (chiếm 76,6% dân số cả nước), vì vậy giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn là một trong những chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Để sử dụng nguồn lực lao động nông thôn một cách có hiệu quả tránh lãng phí nguồn lực đó và tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước cần có những giải pháp nhất định tạo điều kiện để con người có việc làm. Tạo việc làm cho người lao động không những giảm lao động dư thừa và thời gian nhàn rỗi mà còn tạo thu nhập cho người dân góp phần phát triển kinh tế xã hội là điều kiện để nâng cao mức sống của dân cư và người lao động đồng thời ổn định, an ninh chính trị xã hội. Để tạo được nhiều chỗ làm việc cho người lao động cần có những giải pháp trong giai đoạn tới. Cụ thể: 1.Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với giải quyết việc làm. 1.1 Phát triển nông nghiệp theo chiều sâu. Dân số nông thôn nước ta chiếm phần lớn trong đó thu nhập của dân cư nông thôn vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp và lâm nghiệp. Hiện nay, nông nghiệp nước ta còn nhiều tiềm năng cần khai thác (đất trống, đồi trọc còn 1 triệu ha, mặt nước ao hồ còn 1,4 triệu ha...), rất cần đến nguồn lực con người. Để tránh lãng phí nguồn lực lao động và khai thác tiềm năng trong nông nghiệp làm giảm sức ép về việc làm, tăng thời gian sử dụng thời gian lao động nông thôn cần chú ý: + Đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng trên quỹ đất hiện có. Thâm canh là con đường đúng đắn, là phương thức canh tác tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp nhằm mục đích tăng sản phẩm trên một đơn vị diện tích canh tác. Đối với các nước tiên tiến, quá trình thâm canh đồng thời là quá trình giải phóng lao động nông nghiệp còn ở nước ta quá trình thâm canh lại là quá trình thu hút lao động. Thực tế cho thấy đầu tư lao động sống cho thâm canh lúa ở nước ta vẫn đang có hiệu quả. Với cơ chế khoán sản phẩm, người lao động thực hiện phương châm “lấy công làm lãi” đã đầu tư lao động sống nhiều hơn để làm đất kỹ, gieo mạ tốt, cấy đúng kỹ thuật, đảm bảo mật độ, đúng thời vụ, làm cỏ nhiều lần, tưới tiêu tốt, bón phân tốt theo nhu cầu sinh trưởng của cây lúa đã góp phần tăng đáng kể năng suất và sản lượng. Đặc biệt đối với các hộ nghèo, vùng nghèo do vốn ít, các khâu khác trong quy trình kỹ thuật không được thực hiện chặt chẽ, nên khả năng tăng năng suất lúa còn rất lớn. Nếu thực hiện tốt các khâu trên có thể tăng năng suất lúa gấp 1,5-2 lần. Như vậy, việc đầu tư lao động sống cho sản xuất nông nghiệp để tăng khối lượng sản phẩm, tạo ra địa tô chênh lệch vẫn đang còn khả năng thực hiện ở một số vùng. Việc cải tạo đồng ruộng, làm cỏ nhiều lần, bón phân đúng kỹ thuật… vẫn cần tăng thêm lao động sống. Đó là biện pháp để tăng thêm việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của nông dân. Xu hướng này tuy ngược với quy luật phổ biến của các nước trong quá trình đưa nông nghiệp đi lên sản xuất lớn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng lại phù hợp với nền nông nghiệp, nông thôn nước ta. Vì vậy, ở những vùng nông thôn còn có khả năng thâm canh tăng năng suất lao động mà lao động dư thừa còn lớn, ngành nghề chậm phát triển, thì xu hướng tăng chi phí lao động sống là hướng đi có hiệu quả cần được nghiên cứu và vận dụng. + Mở rộng diện tích gieo trồng: là một trong những hướng quan trọng để tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập cho lao động nông nghiệp. Tuy nhiên mỗi vùng có điều kiện tự nhiên và tập quán canh tác theo thời kỳ nhất định, do vậy mỗi địa phương trong các vùng nông thôn cần từng bước bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Những cánh đồng, lô đất có khả năng tăng vụ cần bố trí lại theo mùa vụ thích hợp. Đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hướng tăng vụ chủ yếu là mở rộng diện tích vụ đông với các cây trồng chính là màu lương thực (ngô đông, khoai lang đông, khoai tây đông), rau đậu các loại, kể cả nông sản xuất khẩu. Những vùng trung du, miền núi có thể mở rộng diện tích gieo trồng bằng tăng vụ trên đất một vụ chủ yếu là vụ đông. Vùng duyên hải miền Trung có điều kiện mở rộng diện tích gieo trồng bằng tăng vụ lúa thứ ba. Vì vậy cần khuyến khích các hộ nông dân tiếp tục mở rộng diện tích lúa vụ thứ ba để khai thác khả năng tiềm tàng của đất, khí hậu và tận dụng lao động dôi dư ở nông thôn. Về lâu dài, mở rộng diện tích gieo trồng bằng cách tăng vụ để có thêm việc làm, sản phẩm và tăng độ che phủ mặt đất, định canh, thâm canh, tổ chức một nền sản xuất nông nghiệp ổn định, từng bước giảm đói nghèo vẫn là hướng quan trọng ở nước ta. ở những vùng còn đất trống đồi trọc cần khai thác sử dụng đưa vào sản xuất nông, lâm nghiệp. Thực tế cho thấy đất trống đồi núi trọc ở nước ta còn tương đối lớn, nếu được đầu tư, khai thác, cải tạo, đưa vào sử dụng trồng các loại cây như cao su, cà phê, cây ăn quả... có thể giải quyết công ăn, việc làm cho hàng triệu lao động nông nghiệp nông thôn. Ngoài phần đất có khả năng sử dụng cho nông nghiệp nêu trên, phần đất trống núi trọc còn lại cần được xem xét để trồng rừng và phục hồi rừng. Tuy nhiên để mở rộng diện tích đất canh tác bằng đất trống, đồi núi trọc cần được điều tra chi tiết và xây dựng các dự án đầu tư có tính khả thi cho từng vùng, chọn điểm đầu tư và hình thức đầu tư thích hợp. Về đối tượng và hình thức nên quan tâm đến hộ gia đình và tiểu chủ nông nghiệp, dưới hình thức cho vay lãi suất thấp và đầu tư trực tiếp. Tất nhiên việc mở rộng này quy mô lớn nên phải huy động vốn dưới hình thức góp vốn liên doanh. Đồng thời mở rộng hình thức đầu tư cho cơ sở quốc doanh từ đó phối hợp vốn với cá thể sản xuất và mở rộng hình thức gọi vốn nước ngoài, vốn xây dựng vùng kinh tế mới của Nhà nước. Thu nhập của người nông dân rất thấp do đó để mở rộng diện tích gieo trồng cần có chính sách hỗ trợ vốn sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm; đầu tư thuỷ lợi bảo đảm nguồn nước tưới tiêu; các chính sách thích hợp về thuế nông nghiệp và phân phối sản phẩm đặc biệt là các khoản cho tăng vụ. Những chính sách của Nhà nước cho họ niềm tin vào quá trình sản xuất mà họ phải đầu tư sức lao động, thời gian và nguồn vốn của bản thân họ +Phát triển chăn nuôi và kinh tế vườn: do khả năng đầu tư của hộ nông dân co hạn, diện tích lúa vụ ba không thể tăng nên vô hạn. Do vậy phát triển chăn nuôi và kinh tế vườn là biện pháp quan trọng để tăng thu nhập và tăng thêm việc làm cho nông dân. +Về phát triển chăn nuôi cần tuỳ vào thế mạnh của mỗi vùng sinh thái để lựa chọn chăn nuôi các loại gia súc gia cầm hợp lý. Các vùng miền núi, trung du thì chăn nuôi bò, dê,... Đối với các vùng ven biển thì chăn nuôi lợn, gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản. Nhiều vùng quê có sông hồ nên tận dụng diện tích mặt nước để nuôi tôm, cua, ốc, cá nước ngọt... Nhờ vậy, ở các vùng này ngoài việc sử dụng lao động dư thừa, đã tận dụng lao động nông nhàn, lao động phụ góp phần tăng thêm đáng kể sản phẩm cho gia đình, cho xã hội và góp phần ngăn ngừa các tệ nạn xã hội. Phát triển kinh tế vườn bao gồm VAC (Vườn- Ao- Chuồng ) và VACR (Vườn- Ao- Chuồng- Rừng). Thế mạnh của hình thức này là việc tổ chức lao động sản xuất rất tiện lợi về thời gian, không gian, về lao động và nghỉ ngơi. Bởi lẽ, kinh tế VAC một ngành kinh tế kỹ thuật gắn liền với kinh tế gia đình và mọi người trong gia đình đều có thể tham gia, do đó có khả năng giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động trong và ngoài độ tuổi lao động ở nông thôn; kinh tế VAC với huy động lực lượng lao động ở nông thôn. Mặt khác, kỹ thuật VAC không theo mùa vụ, không có thời kỳ nông nhàn nên có thể lao động quanh năm với tất cả mọi lứa tuổi. Vì vậy, xét trên cả tầm vi mô và vĩ mô, phát triển kinh tế vùng có cách bố trí, sắp xếp và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Như vậy, phát triển kinh tế VAC ở các hộ gia đình trước mắt và sau này đang là một trong những hướng chính sách để sử dụng hợp lý nguồn lao động ở nông thôn. Những hộ gia đình làm VAC càng giỏi quy mô càng lớn thì giải quyết việc làm cho lao động càng nhiều hơn. + Khai thác tiềm năng đa dạng ở các vùng nông thôn ven biển để sử dụng hợp lý nguồn lao động tại chỗ. Tài nguyên biển nước ta rất phong phú và đa dạng với hơn 2000 loài cá, 300 loài tôm, hơn 1500 loài nhuyễn thể, với nhiều khoáng sản quý như dầu khí, muối ăn và kim loại hiếm khác. Trong những năm qua, do ảnh hưởng của công cuộc đổi mới, tốc độ phát triển kinh tế có cao hơn song tiềm năng của vùng này vẫn chưa được khai thác và sử dụng hợp lý. Những loại đặc sản: ngọc trai, yến sào, bào ngư, tôm cua... mới chỉ khai thác được một phần. Đặc biệt nguồn lao động ở các vùng này còn lãng phí rất lớn, nhiều người còn thiếu việc làm. Để tận dụng nguồn lao động ở nông thôn kết hợp khai thác tiềm năng đa dạng nơi đây Nhà nước cần quan tâm: đầu tư thêm lao động cho nghề đánh bắt; nuôi trồng hải sản, tích cực khai hoang lấn biển; liên doanh, liên kết đầu tư khai thác hải sản và du lịch; đảm bảo ổn định và từng bước mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá; giải quyết tốt nguồn vốn sản xuất cho nông dân; đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến ngư để khuyến khích mọi người áp dụng kỹ thuật canh tác tiến bộ và các bộ phận khác về giống, về môi trường thuỷ hải sản... 1.2 Chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiệu quả. Theo kết quả dự báo dân số đến năm 2010 dân số nước ta khoảng trên 88 triệu người, trong đó dân số nông thôn là 60 triệu người (chiếm khoảng 68%). Giai đoạn 2001-2010 số người bước vào tuổi lao động tiếp tục tăng ở mức cao, bình quân trên 1,6-1,7 triệu người mỗi năm do vậy việc làm trở thành áp lực lớn trong phạm vi toàn quốc. Nhu cầu lao động nông nghiệp sẽ ngày càng giảm do diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp; do yêu cầu của ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa cơ giới hoá vào sản xuất nông nghiệp để tăng năng suất, tăng sản phẩm hàng hoá và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp nên đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp không những giải quyết vấn đề việc làm trước mắt mà còn thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoánông nghiệp nông thôn nói riêng và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung. Để tạo việc làm theo hướng chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn cần tiến hành các giải pháp sau: + Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trước hết, cần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp theo hướng đa canh, đa dạng hoá vật nuôi cây trồng. Hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn, trên cơ sở điện khí hóa, cơ giới hoá nông nghiệp, nông thôn; đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Cần quy hoạch các vùng chuyên canh, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi cho phù hợp với lợi thế của từng địa phương, từng vùng. Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn với phương châm đưa công nghiệp gắn với các vùng nguyên liệu, với thị trường nông thôn, tạo sự liên kết gắn bó giữa công nghiệp với nông nghiệp và thu hút lao động dư thừa trong nông thôn. Trước mắt cần tập trung phát triển ngành công nghiệp chế biến sử dụng nguyên liệu tại chỗ như mía đường, cà phê, chè, rau quả, chế biến gỗ và lâm sản; các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như sản xuất vật liệu xây dựng, thủ công mỹ nghệ, cơ điện nông thôn, dệt may ... khôi phục các làng nghề truyền thống, phát triển các làng nghề mới. Phát triển các ngành dịch vụ. + Nâng cao chất lượng lao động nông thôn. Đối với lao động trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp cần mở rộng và đa dạng hoá các loại hình đào tạo ngắn hạn, kết hợp đào tạo với khuyến nông khuyến lâm, xây dựng mạng lưới đào tạo với từng xã nhằm gắn đào tạo với sử dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng lao động nông nghiệp. Đối với những lao động không có nhu cầu sử dụng trong nông nghiệp cần phải được đào tạo để tăng cơ hội có việc làm trong các lĩnh vực phi nông nghiệp tại địa bàn nông thôn. Theo hướng này cần sớm tiến hành quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề trên địa bàn nông thôn. Đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo phù hợp với đối tượng được đào tạo. Phát triển các hình thức đào tạo di động. Tăng nguồn lực đầu tư phát triển đào tạo nghề cho nông thôn. Mở rộng cơ hội để lao động nông thôn tham gia vào chương trình xuất khẩu lao động. + Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn. Đây là hình thức tạo việc làm và xã hội hoá giải quyết việc làm dựa trên các quan hệ kinh tế thị trường, nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng của các vùng, hướng đi tới phát triển kinh tế hàng hoá ở nông thôn. Hiện nay trên địa bàn nông thôn đồng thời tồn tại các loại hình kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình. Trong những năm gần đây, trong khi khả năng tạo việc làm và duy trì việc làm của kinh tế tập thể, kinh tế quốc doanh ngày càng giảm thì kinh tế hộ gia đình và kinh tế tư nhân tỏ ra có nhiều ưu việt trong tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. + Tăng cường nguồn lực cho phát triển kinh tế và tạo việc làm cho người lao động nông thôn. Trong những năm qua nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn chưa tương xứng với đóng góp của lĩnh vực này cho nền kinh tế quốc dân và khả năng tạo việc làm. Nông nghiệp sử dụng hơn 3/4 lực lượng lao động, tạo ra hơn 1/4 tổng sản phẩm nhưng lại chỉ nhận được hơn 10% trong tổng đầu tư của Nhà nước. Việc đầu tư cho ngành nghề và dịch vụ nông nghiệp, nông thôn đặcbiệt là các doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ chưa được quan tâm đúng mức cả về chủ trương và giải pháp nên chưa tạo được những tiền đề vật chất cần thiết cho sự chuyển dịch cơ cấu. Để thúc đẩy nông nghiệp và nông thôn phát triển trong thời gian tới cần có sự thay đổi trong cơ cấu đầu tư của Nhà nước, thay đổi môi trường và điều kiện để thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư phát triển ngành nghề trên địa bàn nông thôn. 2. Thực hiện tốt chính sách phát triển nguồn nhân lực. Trong các yếu tố của sự phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế thì nguồn lực con người là yếu tố cơ bản nhất. Nguồn nhân lực vừa là người sáng tạo vừa là người sử dụng các phương tiện phân phối công nghệ để đạt lợi ích kinh tế cao nhất. Nguồn nhân lực cần được sử dụng có hiệu quả, đồng thời phải được đãi ngộ thoả đáng. Do vậy, chính sách phát triển nguồn nhân lực có tầm quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước. 2.1 Chính sách đầu tư cho đào tạo nhân lực. Trước thực trạng nguồn lao động nông thôn dồi dào nhưng chất lượng kém đã hạn chế rất lớn đến việc làm và sự phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Tuy nhiên, người dân nông thôn có thu nhập thấp vì vậy để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần có sự quan tâm đúng mức của Nhà nước. Có thể nói đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư trực tiếp, cơ bản và lâu dài cho sự phồn thịnh của đất nước và là hướng đầu tư có lợi nhât. So với các hoạt động khác, các cơ sở đào tạo nhân lực (các trường lớp công lập, bán công, dân lập) đều được Nhà nước ưu đãi hơn thể hiện qua những chính sách tài trợ nhà trường, hỗ trợ giáo viên về vật chất và tinh thần. 2.2 Chính sách giải quyết việc làm cho người lao động. Từ chỗ coi giải quyết việc làm là trách nhiệm hoàn toàn phụ thuộc nông nghiệp và chỉ khi làm việc trong cơ quan Nhà nước mới coi là có việc làm đã chuyển sang nhận thức mới, người lao động đã chủ động tìm việc làm cho mình, cùng với sự chủ động của mọi người dân Nhà nước cũng rất quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm trên cơ sở phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, huy động các đoàn thể, các tổ chức xã hội cùng tham gia vào các chương trình giải quyết việc làm. Mỗi năm Chính phủ đã chi hàng trăm tỷ đồng và hàng ngàn tỷ đồng của người dân đóng góp để thực hiện chương trình này(chương trình 135,227…). Dưới sự chỉ đạo của ban quản lý chương trình quốc gia xúc tiến việc làm, đến hết năm 2000 đã có 145 trung tâm Dịch vụ việc làm trên phạm vi cả nước được thành lập nhằm đào tạo nghề, giới thiệu việc làm và thực hiện các chương trình hỗ trợ việc làm cho người lao động. Để thực hiện tốt chính sách giải quyết việc làm cho người lao động cần làm tốt công tác vận động người lao động tích cực tham gia vào chương trình của cán bộ địa phương; giảm bớt khâu trung gian tránh hiện tượng thất thoát vốn đồng thời có bộ phận giám sát các công trình thi công xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã, huyện. 2.3 Chính sách sử dụng nguồn nhân lực. Sử dụng nguồn nhân lực cần đảm bảo nguyên tắc sử dụng đầy đủ, khai thác tối đa tiềm năng sức lao động, đãi ngộ thoả đáng theo giá trị lao động được sáng tạo ra đồng thời tạo điều kiện có chính sách đúng để phát huy cao tính tự do sáng tạo của con người, nhất là lao động chất xám. Bởi nguồn lực con người chỉ có thể phát huy tác dụng khi được quan tâm đầy đủ, đúng mức, được lao động trong một môi trường xã hội lành mạnh, dân chủ và công bằng. Khi đó họ sẽ làm việc hết mình biến nhiệm vụ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành động lực của bản thân, góp phần đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp hiện đại phồn vinh. 3. Thực hiện có hiệu quả chương trình quốc gia về việc làm. + Các “Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2005” nhằm tạo mở việc làm mới, duy trì, đảm bảo việc làm cho người lao động có yêu cầu làm việc. Mục tiêu phấn đấu mỗi năm thu hút 1,3-1,4 triệu lao động có chỗ làm việc; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống 5%, nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005. Để đạt được mục tiêu này trong 5 năm (2001-2005) phải tạo mở được 7 triệu chỗ làm việc mới và đào tạo lại nghề cho 5,5 triệu người nâng tỷ lệ qua đào tạo trong lực lượng lao động lên 30%. Theo chương trình này, các cơ quan thẩm quyền sẽ tổ chức xây dựng, bổ sung các chính sách về việc làm như: chế độ xây dựng và kiểm soát chỉ tiêu tạo việc làm mới; chính sách dịch vụ việc làm; chính sách cho vay vốn tạo việc làm; chính sách bảo hiểm thất nghiệp... nhằm bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều tìm được cơ hội có việc làm góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp ở nước ta hiện nay. + Chương trình xoá đói giảm nghèo với việc làm: Chương trình huy động nguồn vốn khá lớn (năm 1999 khoảng trên 700 tỷ đồng; năm 2000 trên 1200 tỷ đồng). Với mục tiêu về việc làm phấn đấu giải quyết việc làm cho 1,4-1,5 triệu lao động; giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống 5-6%; nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005. + Các hoạt động hỗ trợ trực tiếp của chương trình sẽ tổ chức dạy nghề gắn với việc làm cho 1 triệu người, cho vay vốn hỗ trợ giải quyết việc làm cho 1,5-2,0 triệu người thông quy Quỹ quốc gia Hỗ trợ việc làm.Tổ chức cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm đăng ký tìm việc làm tại các trung tâm dịch vụ việc làm. Những chương trình giải quyết về việc làm có ý nghĩa đặc biệt với diện đầu tư rộng và quy mô nhiệm vụ ngày càng lớn, chính vì vậy để thực hiện tốt các chương trình này trong thời gian tới cần có sự nỗ lực chung của các cấp, các ngành, các địa phương. Chính phủ, Quốc hội cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hơn nữa. Có như vậy mới phát huy được hiệu quả của chương trình và đi nhanh vào cuộc sống tạo ra sự hồ hởi, tin tưởng của đồng bào các dân tộc vào đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. 4. Xuất khẩu lao động. Đưa người lao động, chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (gọi tắt là xuất khẩu lao động ) là một chủ trương có tính chiến lược quan trọng của Đảng và Nhà nước. Xuất khẩu lao động là cơ hội để có thêm việc làm, thu nhập cao (trung bình 300 USD/ người /tháng) cho người lao động trong đó có một bộ phận là lao động nông thôn. Song coi xuất khẩu lao động là một giải pháp thiét thực tạo việc làm cho người lao động cần phải khắc phục những hạn chế trong công tác tổ chức quản lý lao động, công tác nghiên cứu thị trường ... để giải pháp tạo việc làm có hiệu quả cao. + Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn lao động cho xuất khẩu: Mục đích của công tác này trang bị cho người học vững vàng các kiến thức về chuyên môn, hiểu biết về quan hệ chủ thợ trong nền kinh tế thị trường dồng thời nâng cao trình độ văn hoá, sức khoẻ ý thức tổ chức tổ chức kỷ luật và một số vấn đề khác. Từ đó đảm bảo chất lượng lực lượng lao động xuất khẩu. + Sắp xếp lại doanh nghiệp và làm tốt công tác tuyển chọn: Xuất khẩu lao động khác với xuất khẩu hàng hoá. Việc xuất khẩu lao động cần thông qua các doanh nghiệp có đủ điều kiện cần thiết và được phép xuất khẩu. Để đảm bảo chất lượng lao động xuất khẩu cần làm tốt công tác tuyển chọn: Thanh tra, kiểm tra và công khai công bố các thông tin cần thiết để người đi xuất khẩu lao động hiểu rõ quyền lợi trách nhiệm và yêu cầu. Sau đó đào tạo bồi dưỡng để đáp ứng những yêu cầu đó. Quy trình tuyển chọn cần chặt chẽ; nghiêm minh vừa tránh được tiêu cực, vừa chọn được người có đủ điều kiện cần thiết về chuyên môn tay nghề, sức khoẻ, ngoại ngữ. + Tích cực khai thác thị trường mới, giữ vững thị trường đã có: Để làm tốt việc này cần có sự đầu tư thích đáng về thời gian và tiền vốn nhằm thu thập thông tin về số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động các nước yêu cầu ... tránh rủi ro của thị trường mới khai thác và nâng cao hiệu quả của thị trường cũ. + Tăng cường công tác quản lý ở nước ngoài. Khi số lao động ở nước ngoài tăng lên, tăng cường quản lý đối với số lao động này là việc rất quan trọng. Việc quản lý này nhằm khắc phục những rủi ro ở nước nhận lao động; kịp thời giải quyết các tranh chấp giữa người lao động và chủ doanh nghiệp; khắc phục mối quan hệ không tốt giữa lao động Việt Nam với dân địa phương đặc biệt hạn chế hiện tượng phá vỡ hợp đồng. Các doanh nghiệp và cơ quan chức năng cần nghiên cứu lựa chọn hình thức quản lý cho từng trường hợp cụ thể (từng nước, từng địa bàn). + Cải tiến công tác tài chính và thông tin về xuất khẩu lao động: Cơ chế tài chính thích hợp trong xuất khẩu lao động nhằm tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích mọi người đi xuất khẩu lao động. Giúp đỡ người lao động nhất là đối với lao động thuộc diện chính sách, lao động ở nông thôn có hoàn cảnh nghèo khó trong việc vay tiền để đặt cọc và tiền đóng góp có liên quan đến xuất khẩu lao động. Đồng thời làm tốt công tác thông tin tuyên truyền trong nhân dân để người lao động biết được các doanh nghiệp được phép xuất khẩu lao động tránh bị lừa và hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro thường gặp. Xuất khẩu lao động là một giải pháp tạo việc làm cho người lao động, là chiến lược của Đảng và Nhà nước vì vậy không những Nhà nước tạo điều kiện cho người lao động đi xuất khẩu lao động mà bản thân người lao động cũng phải nỗ lực để duy trì việc làm, đem lại thu nhập cho bản thân và cho đất nước. Với những người nông dân ở nông thôn, họ chỉ có thể tự tạo việc làm với số vốn so với thu nhập thành thị có thể nói là rất nhỏ. Do vậy, các giải pháp tạo việc làm thường tập trung vào phía Nhà nước. Để tạo được nhiều chỗ làm việc cho lao động nông thôn Nhà nước phải có các chương trình, dự án tạo việc làm với quy mô lớn. Để các dự án được tiến hành có hiệu quả Nhà nước cần có các chính sách cụ thể về vốn, về thuế;các chính sách chuyển giao công nghệ và nguồn lực;chính sách khuyến nông;chính sách ưu đãi; chính sách về tiêu thụ sản phẩm ... tạo điều kiện cho người lao động tích cực hưởng ứng. Ngoài những giải pháp nêu trên, việc tiếp tục thực hiện các biện pháp sinh đẻ có kế hoạch nhằm hạn chế sức ép về dân số và lao động tăng thêm mỗi năm, giảm nhanh tốc độ tăng tự nhiên dân số vẫn là phương hướng cơ bản và lâu dài để giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống dân cư nói chung và khu vực nông thôn nói riêng. 5. Hoạt động gián tiếp và trực tiếp tạo việc làm. Ngoài các giải pháp nêu trên mỗi địa phương cần quan tâm thoả đáng đến các vấn đề sau: + Việc đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cho nông thôn đặc biệt là thuỷ lợi, giao thông, điện nước sinh hoạt, thông tin liên lạc trường học và trạm xá tạo điều kiện thuỷ lợi cho người lao động nông thôn trong việc phát triển sản xuất hàng hoá. + Tăng cường hoạt động dịch vụ việc làm đặc biệt là dịch vụ tư vấn lựa chọn học nghề, hình thức và nơi học; tư vấn pháp luật liên quan đến việc làm; cung cấp thông tin về thị trường lao động. + Đầu tư đào tạo nghề cho người lao động dưới hình thức dài hạn, ngắn hạn, chính quy, đào tạo bên cạnh xí nghiệp, đào tạo kèm cặp trong sản xuất, đào tạo tại các trung tâm dạy nghề của các huyện, các ngành sản xuất kinh doanh, đào tạo theo hợp đồng, theo địa chỉ , các cơ sở, các lớp đào tạo nghề tư nhân, đào tạo nghề thông qua hợp tác quốc tế. + Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền. Thường xuyên đưa ra các chương trình giáo dục đào tạo; phổ biến cho người dân về thực hiện khuyến nông, lâm, ngư nghiệp; những bí quyết để làm tốt công tác việc nhà nông, các mô hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại thông qua đài phát thanh, truyền hình, báo chí. Kết luận Nguồn lao động là nguồn lực vô cùng quý báu của mọi quốc gia. Một đất nước trở thành một nước phát triển khi có nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao bởi nguồn nhân lực là lợi thế cạnh tranh lớn. Thước đo đánh giá mỗi người lao động chính là việc làm của họ. Lao động, việc làm là quyền cơ bản của mỗi người. Muốn khẳng định được mình trước xã hội, họ phải làm việc hay nói khác phải tự tạo việc làm cho bản thân. Nguồn lao động Việt Nam nói chung và nguồn lao động nông thôn nói riêng, với quy mô lớn, tốc độ tăng nhanh song chất lượng còn thấp đã gây ra sức ép về việc làm. Vì vậy, giải quyết việc làm trong đó có tạo việc làm cho người lao động nông thôn là mục tiêu của toàn Đảng, toàn dân đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Tạo việc làm cho người lao động nông thôn tránh được tình trạng thiếu việc làm, phát huy được lợi thế, tiềm năng của đất nước, giảm bớt tệ nạn xã hội là một trong những tiêu chí đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, là chính sách xã hội cơ bản góp phần đảm bảo nâng cao đời sống cho người dân, ổn định và phát triển xã hội. Tài liệu tham khảo Sách: 1.Giáo trình kinh tế lao động trường Đại học Kinh tế quốc dân- chủ biên PGS.PTS nhà giáo ưu tú Phạm Đức Thành và PTS. Mai Quốc Chánh 2.Bộ luật lao động của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam NXB Chính trị quốc gia 3.Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất của I.M. Keynes NXB Giáo dục 1995 4.Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của Nguyễn Hữu Dung và Trần Hữu Trung NXB Chính trị quốc gia 1997 5.Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam 1997,1998,1999,2000,2001 NXB Thống kê 6. Số liệu Điều tra Lao động – Thương binh và xã hội ở Việt Nam năm 1996-2000 NXB Lao động xã hội 7. Dự báo Dân số Việt Nam 1999-2024 của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội NXB Thống kê năm 2000 Tạp chí: Kinh tế phát triển: số 39/2000, số 50/2001, số 48/2001 Thông tin tài chính: số 10/2001 Kinh tế Việt Nam và Thế giới: số 161/2001 Con số và sự kiện: số 12/2000, số 3/2000, số 3/2001, số 9/2001, số 4/2002 Lý luận chính trị số 1/2002 Kinh tế và dự báo: số 12/1999, số 3/2002 Nghiên cứu lý luận: số 7/1999 Nghiên cứu kinh tế: số 12/2000 Nông thôn mới: số 38/1999, số 48/2000 Thời báo Kinh tế Việt Nam năm 2000-2001 và 2001-2002 Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0072.doc
Tài liệu liên quan