Một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay

Lời mở đầu Thông tin gần đây cho thấy: thế giới đang ở giai đoạn khủng hoảng về việc làm. Người ta ước tính có khoảng 820 triệu người hiện lâm vào tình trạng thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp. Ngay cả với nhiều nước phát triển, tỷ lệ thất nghiệp cũng khá cao- dao động từ 6% đến 21%. ở các nước nghèo, tình hình còn bi đát hơn. Làn sóng di dân nông thôn- đô thị đang làm đau đầu nhiều nhà quản lý xã hội và Việt Nam cũng không nằm ngoài các nước đó. Như vậy, giải quyết việc làm là đề tài có tính t

doc59 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oàn cầu, là một thách thức còn khá lâu dài với toàn thể nhân loại. Riêng ở các nước đang phát triển như nước ta, nơi nguồn lao động đang còn rất dồi dào và chủ yếu tập trung ở các vùng nông thôn, thì tạo việc làm ở đó bao giờ cũng là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ. Hiện nay, nông thôn nước ta có khoảng 10 triệu hộ gia đình sống trong 50.000 thôn, xóm, ấp, bản của 8.500 xã. Là khu vực đông dân nhất, chiếm 80% dân số và 76,88% lực lượng lao động xã hội. Hàng năm, khu vực này được bổ sung thêm khoảng 67 vạn lao động. Hơn nữa, đặc điểm kinh tế xã hội cũng như điều kiện tự nhiên ở mỗi vùng là khác nhau. Do vậy, không phải cứ ở nông thôn thì người lao động phải tham gia vào ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Tuy nước ta là một nước đi lên từ nông nghiệp hay nói cách khác nông nghiệp là một thế mạnh nhưng sản xuất ở ngành này mang tính thời vụ nên nhiều lao động ở ngành này vẫn có nhiều thời gian rảnh rỗi. Điều đó cho ta thấy tình trạng thiếu việc làm của người lao động ở nông thôn đang rất lớn và có nguy cơ tiếp tục gia tăng. Vì vậy, một trong những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước đến năm 2010: “giải quyết việc làm, nâng cao mức sống cho người lao động. Muốn vậy, phải phấn đấu đến năm 2010: giảm tỷ lệ tăng dân số từ 1,4% hiện nay xuống còn 1,1%; xoá hộ đói và về cơ bản không còn hộ nghèo; nâng cao tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn lên 80-85%; nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%”. (Văn kiện Đại hội IX của Đảng). Để đạt được mục tiêu này trước hết cần làm rõ thực trạng sử dụng lao động, thực trạng tạo việc làm cho lao động nông thôn trong thời gian qua đồng thời chỉ ra những thách thức, giới hạn cũng như khả năng tạo mở việc làm ở nông thôn trong thời gian tới. Đây cũng là mục đích khi em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay”. Ngoài phần mở bài và kết luận nội dung của đề tài gồm 3 phần: Phần I: Những lý luận cơ bản về việc làm và tạo việc làm cho người lao động. Phần II: Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay. Phần III: Một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động nông thôn trong giai đoạn hiện nay. Để hoàn thành đề tài này, em đã nhận được sự giúp đỡ dạy bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn, T.S Trần Xuân Cầu và các cô, các chú ở Viện Kinh tế học. Do thời gian nghiên cứu và trình độ lý luận còn hạn chế nên đề tài của em chưa thật được hoàn thiện. Em rất mong thầy giáo tạo điều kiện giúp đỡ để đề tài của em đạt kết quả cao hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Hà Nội ngày 8/5/2002 Sinh viên Đoàn Thị Xuân Nhung Phần I: Những lý luận cơ bản về việc làm và tạo việc làm cho người lao động I. Việc làm và sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động 1. Các khái niệm về việc làm và tạo việc làm 1.1 Việc làm Khái niệm Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Như vậy, có thể nói: “ con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Song con người chỉ trở thành động lực cho sự phát triển khi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập của họ không bị cấm và được thừa nhận là việc làm”. Thật ra, khái niệm việc làm không phải là vấn đề mới xong mỗi thời điểm khác nhau, mỗi không gian khác nhau người ta lại có quan điểm khác nhau về việc làm. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm công việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực nhà nước và kinh tế tập thể. Trong cơ chế đó, nhà nước bố trí việc làm cho người lao động. Do đó, ngay cả những người thiếu việc làm hay việc làm không đầy đủ cũng không được thừa nhận. Quan điểm xem xét việc làm như là một tế bào, một đơn vị nhỏ nhất phân chia từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cho rằng: việc làm là một phạm trù chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc những phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật. Việc làm theo quy định của Bộ luật lao động là những hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập và không bị pháp luật cấm. Theo khái niệm này việc làm được thể hiện dưới các dạng sau: + Làm những công việc mà người lao động nhận được tiền lương, tiền công bằng tiền hoặc hiện vật cho công việc đó. + Làm những công việc mà người lao động thu được lợi nhuận cho bản thân (người lao động có quyền sử dụng quản lý hoặc sở hữu tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân để sản xuất sản phẩm). + Làm công việc cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó (do chủ gia đình làm chủ sản xuất). Phân loại việc làm Phân loại việc làm dựa theo mức độ đầu tư thời gian cho việc làm. + Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác. + Việc làm phụ: là những việc làm mà người lao động dành nhiều thời gian nhất sau việc làm chính. Phân loại dựa theo mức độ sử dụng thời gian lao động, năng suất và thu nhập + Việc làm đầy đủ: Những nhà khoa học khi nghiên cứu về lao động và việc làm đã có kết luận: bao giờ cũng có một số lượng người lao động trong độ tuổi không có khả năng lao động. Trong nền kinh tế hàng hoá luôn có sự biến động về lao động, do đó làm cho người lao động bị dôi dư. Có thể gọi đó là những người thất nghiệp. Tỷ lệ người thất nghiệp phải được duy trì ở mức độ thích hợp tránh gây ra những biến động về chính trị xã hội và đảm bảo tốc độ tăng trưởng, hiệu quả năng suất của nền kinh tế. Việc làm đầy đủ là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm cho bất kỳ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía cạnh chủ yếu là mức độ sử dụng thời gian lao động, mức năng suất và thu nhập. Một việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động làm việc theo chế độ (độ dài thời gian lao động ở Việt Nam hiện nay là 8 giờ/ngày) và không có nhu cầu làm thêm. + Việc làm có hiệu quả: Việc làm có hiệu quả là việc làm với năng suất, chất lượng cao. Đối với tầm vĩ mô việc làm có hiệu quả còn là vấn đề sử dụng hợp lý nguồn lao động, tức là tiết kiệm chi phí lao động, tăng năng suất lao động, bảo đảm chất lượng của các sản phẩm, tạo ra nhiều chỗ làm việc để sử dụng hết nguồn nhân lực. 1.2 Thiếu việc làm 1.2.1 Khái niệm Thiếu việc làm là trạng thái trung gian giữa việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động. Họ phải làm việc nhưng không sử dụng hết thời gian theo quy định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đủ sống khiến họ muốn tìm thêm việc làm bổ sung. Như vậy, thiếu việc làm được hiểu là trạng thái việc làm không tạo điều kiện cho người tiến hành nó sử dụng hết thời gian quy định và mang lại thu nhập thấp hơn mức tiền lương tối thiểu. Phân loại Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): Khái niệm thiếu việc làm được thể hiện dưới hai dạng thiếu việc làm vô hình và thiếu việc làm hữu hình. + Thiếu việc làm vô hình: là trạng thái những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian, thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp. Có thể nói nguyên nhân của tình trạng này do: dân số không ngừng tăng trong khi diện tích đất có nguy cơ thu hẹp làm dư thừa lao động. Số người lao động trên một đơn vị diện tích tăng có nghĩa là thời gian sử dụng để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm. Trên thực tế họ vẫn làm việc nhưng sử dụng rất ít thời gian trong sản xuất do vậy thời gian nhàn rỗi nhiều. Thước đo thiếu việc làm vô hình: K1 = *100% (tháng, năm) + Thiếu việc làm hữu hình: chỉ hiện tượng lao động làm việc thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm, đang tìm kiếm thêm việc làm và sẵn sàng làm việc. Thước đo thiếu việc làm hữu hình: K1 = *100% (tháng, năm) 1.3 Thất nghiệp 1.3.1 Khái niệm Có quan niệm cho rằng: thất nghiệp là hiện tượng gồm những người mất thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm trong khi họ còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết. Nhà kinh tế học David Begg cho rằng: Lực lượng lao động có đăng ký bao gồm số người có công ăn việc làm và số người thất nghiệp có đăng ký. Theo quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO): Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. Như vậy, một người được gọi là thất nghiệp có 3 tiêu chuẩn: + Không có việc làm + Có khả năng lao động + Đang tìm việc làm Phân loại thất nghiệp Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia thành: + Thất nghiệp tạm thời: xảy ra do thay đổi việc làm hoặc do cung cầu lao động không phù hợp. + Thất nghiệp do cơ cấu: xuất hiện do không có sự đồng bộ giữa tay nghề và cơ hội có việc làm khi động thái của nhu cầu và sản xuất thay đổi. + Thất nghiệp do thời vụ: xuất hiện như là kết quả của những biến động thời vụ trong các cơ hội lao động. + Thất nghiệp chu kỳ: là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị sản xuất giảm dẫn tới hầu hết các nhà sản xuất giảm lượng cầu đối với các đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, những chính sách nhằm khuyến khích để tăng tổng cầu thường mang lại kết quả tích cực. Xét về tính chủ động của người lao động thất nghiệp bao gồm: + Thất nghiệp tự nguyện: là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động bỏ việc để tìm công việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp với nguyện vọng. + Thất nghiệp không tự nguyện: là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động chấp nhận làm việc ở mức tiền lương, tiền công phổ biến nhưng vẫn không tìm được việc làm. Trên thực tế ngoài thất nghiệp hữu hình còn tồn tại dạng thất nghiệp vô hình. + Thất nghiệp hữu hình xảy ra khi người có sức lao động muồn tìm kiếm việc làm nhưng không tìm được trên thị trường. + Thất nghiệp vô hình hay còn gọi thất nghiệp trá hình: là khi người lao động làm các việc với năng suất rất thấp không có góp phần tạo ra sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân gì đáng kể mà cốt có thu nhập lấy từ tái phân phối để sống. Thất nghiệp trá hình dễ thấy ở nông thôn hoặc những người ẩn náu trong biên chế của các cơ quan hoặc doanh nghiệp nhà nước quá nhiều so với yêu cầu công việc. 1.4 Tạo việc làm Có thể hiểu tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường. Quá trình kết hợp sức lao động và điều kiện để sản xuất là quá trình người lao động làm việc. Người lao động làm việc không chỉ tạo ra thu nhập cho riêng họ mà còn tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội. Vì vậy, tạo việc làm không chỉ là nhu cầu chủ quan của người lao động mà còn là yêu cầu khách quan của xã hội. Việc hình thành việc làm thường là sự tác động đúng lúc giữa ba yếu tố: + Nhu cầu của thị trường + Điều kiện cần thiết để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ: Người lao động (sức lực và trí lực) Công cụ sản xuất Đối tượng lao động + Môi trường xã hội: xét cả góc độ kinh tế chính trị, pháp luật, xã hội 1.5 Việc làm mới. Việc làm mới cũng là những việc làm được pháp luật cho phép, đem lại thu nhập cho người lao động, nó được tạo ra theo nhu cầu của thị trường để sản xuất và cung ứng một loại hàng hoá dịch vụ nào đó cho xã hội. Sự xuất hiện những việc làm mới là một tất yếu khách quan do hàng năm lực lượng lao động được bổ sung thêm cùng với tiến trình phát triển của dân số. Khái niệm việc làm thường gắn với chỗ làm việc bởi vì mỗi công việc cụ thể đều có môi trường làm việc nhất định. Như thế, việc tạo ra những chỗ làm việc mới cũng hàm ý với việc tạo ra việc làm mới. Việc làm mới bao gồm những công việc đòi hỏi kỹ năng mới và những việc làm được tạo thêm ra cho người lao động. Đối với những công việc đòi hỏi kỹ năng mới thì người lao động muốn làm được những công việc mới này cần phải có sự thay đổi kỹ năng lao động thông qua đào tạo, còn đối với những việc làm được tạo thêm (tăng lượng cầu lao động) đồng nghĩa với việc tạo thêm những chỗ làm việc mới mà không yêu cầu phải thay đổi kỹ năng của người lao động. Như vậy, theo nghĩa rộng, khái niệm việc làm mới được hiểu như sau: Việc làm mới là phạm trù nói lên sự tăng lượng cầu về lao động, nó được thể hiện dưới hai dạng: Những việc làm đòi hỏi kỹ năng lao động mới và những chỗ làm việc mới được tạo thêm song không đòi hỏi sự thay đổi về kỹ năng của người lao động. Việc làm mới được tạo ra bằng nhiều cách: tăng chi tiêu của Chính phủ cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội (tăng cầu lao động). Giảm thuế để khuyến khích phát triển sản xuất từ đó cũng tạo ra được những việc làm mới. Đối với người lao động, để tham gia được những việc làm mới phải không ngừng đào tạo nâng cao trình độ lao động của mình. 2. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động Việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia. Bởi vậy, đấu tranh chống thất nghiệp và đảm bảo việc làm (có thu nhập) cho người lao động là thách thức lớn của nhân loại nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng. Để tạo việc làm và tự tạo việc làm không chỉ Đảng và Nhà nước mà bản thân người lao động phải thấy được sự cần thiết của tạo việc làm. 2.1 Con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội và là yếu tố tạo ra lợi ích kinh tế xã hội. Để thấy rõ vai trò của con người, Mac-Lênin đã nêu: "con người là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội. Con người với sức lao động, chất lượng, khả năng, năng lực, với sự tham gia tích cực vào quá trình lao động là yếu tố quyết định tốc độ phát triển của tiến bộ kỹ thuật, khoa học kỹ thuật và xã hội". Ngày nay, để tồn tại và phát triển bản thân mỗi người không ngừng nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn, những kỹ năng cần thiết không thể thiếu được của người lao động. Xuất phát từ vai trò to lớn của con người trong lực lượng sản xuất cũng như trong công cuộc đổi mới Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy: “chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng”. Chủ nghĩa Mác-Lênin coi con người như là tổng thể các mối quan hệ xã hội. Nghĩa là: - Cần phải coi trọng con người như người lao động tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. - Coi con người là nhà sáng tạo ra những ý tưởng mới, giải pháp mới. - Con người cần được thoả mãn các nhu cầu về vật chất, tinh thần và xã hội. Thực chất quan điểm này muốn chỉ ra, chính sách kinh tế xã hội phải đảm bảo mức sống cao cho dân tộc, lối sống lành mạnh của sự phát triển toàn diện con người. Mục tiêu của công cuộc đổi mới cũng là tạo ra ngày một tốt hơn điều kiện về vật chất, văn hoá tinh thần cho cuộc sống con người. Một xã hội văn minh phát triển khi mỗi cá nhân, mỗi gia đình văn minh hơn, ấm no và hạnh phúc hơn. 2.2 Việc làm đối với người lao động là nhu cầu để tồn tại và phát triển, là yếu tố khách quan của người lao động. Con người muốn tồn tại và phát triển họ phải tiêu tốn một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Để có những thứ đó con người phải sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Quá trình sản xuất tạo ra hàng hoá, dịch vụ đó là việc làm. Như vậy, muốn tăng tổng sản phẩm xã hội, một mặt phải huy động triệt để mọi người có khả năng lao động tham gia vào nền sản xuất xã hội tức là mỗi người phải có việc làm đầy đủ. Mặt khác, phải nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, nhằm khai thác triệt để tiềm năng của mỗi người nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm hiệu quả. Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động không những tạo điều kiện để người lao động tăng thu nhập, nâng cao đời sống mà còn làm giảm các tệ nạn xã hội, làm cho xã hội văn minh hơn. Khi nghiên cứu lý thuyết về sự phát triển, mọi người đều nhận thức rằng: “một trong những vấn đề cơ bản nhất trong cấu trúc của nó là phát triển nguồn lực, coi đó là đỉnh cao nhất, là mục tiêu cuối cùng của mọi qúa trình phát triển”. Điều này hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với nhận mới về phát triển con người. Con người ở đây được xem xét trên hai khía cạnh thống nhất với nhau hay nói cách khác, nó là hai mặt của một vấn đề được thống nhất trong mỗi con người. - Con người với tư cách là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tính thần. Như vậy,để tồn tại và phát triển, con người bằng sức lao động của mình, là yếu tố của quá trình sản xuất, là lực lượng sản xuất cơ bản nhất, tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ. - Con người cần phải sử dụng và tiêu dùng của cải vật chất thông qua quá trình phân phối và tái phân phối. Từ lý luận và thực tiễn cũng đã chứng minh,có 3 yếu tố cơ bản nhất để phát triển con người là phải đảm bảo an toàn lương thực,an toàn việc làm và an toàn môi trường. Trong quá trình phát triển, con người vừa là người hưởng thụ, mặt khác con người cung cấp đầu vào quan trọng cho quá trình biến đổi cho quá trình sản xuất. Hoạt động lao động ra đời cùng với sự hình thành và phát triển của loài người, đó là một hoạt động thuộc về bản năng sinh tồn, con người chỉ có thể tồn tại, phát triển và hoàn thiện không ngừng thông qua lao động sản xuất. Do vậy nhu cầu có việc làm là nhu cầu để con người tồn tại và phát triển là yếu tố khách quan và chính đáng của người lao động. 2.3 Việc làm là yêu cầu khách quan của xã hội. Lịch sử phát triển xã hội loài người cho thấy, bất cứ một quốc gia nào, đều có nhu cầu sử dụng hợp lý nguồn lao động của mình, để khai thác tài nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế của đất nước. Người lao động là một nguồn lực quan trọng, là một trong những yếu tố cơ bản để phát triển. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn trong lĩnh vực kinh tế phải tập trung phát huy cao độ khả năng của nguồn lực quan trọng đó. Nếu có những sai phạm về chủ trương, chính sách và biện pháp thì nguồn lao động rất có thể trở thành gánh nặng, thậm chí gây trở ngại, tổn thất cho nền kinh tế. ở Việt Nam trong thời kỳ bao cấp, việc kế hoạch hóa người lao động với biện pháp phân bổ chỉ tiêu lao động và quỹ lương cho khu vực quốc doanh đã làm cho các cơ quan hành chính phình to, hoạt động kém hiệu quả. Các xí nghiệp quốc doanh có năng suất thấp, sản xuất trì trệ, lời giả lỗ thật. Đến nay, Việt Nam đã khắc phục được hiện tượng trên nhờ thực hiện cơ chế phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, và đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia. Mục đích sử dụng người lao động được Đảng ta xác định: “Sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu”. Đây là yêu cầu tất yếu khách quan của xã hội. II. Các nhân tố ảnh hưởng tới vấn đề tạo việc làm cho người lao động nông thôn. 1. Tư liệu sản xuất Tư liệu sản xuất trong sản xuất nông nghiệp là đất đai, vốn, máy móc, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nguồn lực con người, nguồn lực sinh học và các phương tiện hoá học. Trong đó yếu tố vốn, đất đai, yếu tố sức lao động, công nghệ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới tạo việc làm. Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất. Nó tham gia vào mọi quá trình sản xuất của xã hội nhưng tuỳ thuộc vào từng ngành cụ thể mà vai trò của đất đai có sự khác nhau. Trong nông nghiệp ruộng đất không chỉ tham gia với tư cách là yếu tố thông thường mà là yếu tố tích cực của sản xuất, là tư liệu chủ yếu không thể thiếu, không thể thay thế được. Bởi vì, đất đai trong nông nghiệp có đặc điểm: Ruộng đất bị giới hạn về mặt không gian nhưng sức sản xuất là vô hạn. Mỗi quốc gia có giới hạn diện tích đất khác nhau và tỷ lệ ruộng đất trong nông nghiệp ở mỗi quốc gia lại càng khác biệt nhau vì nó còn tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển kỹ thuật của từng nước. Với nước ta, mặc dù đất chật người đông nhưng tỷ lệ đất nông nghiệp chiếm khá lớn là 9345,4( nghìn ha) chiếm 29,4% tổng diện tích cả nước; đất lâm nghiệp có rừng là 11575,4(nghìn ha) chiếm 35,15% tổng diện tích cả nước so với diện tích đất ở chỉ chiếm 1,34%. Tuy nhiên lượng đất chưa được sử dụng (có cả sông ngòi) có rất nhiều: 1027,3(nghìn ha) chiếm 30,4%. Diện tích đất lớn cho phép khai thác theo cả chiều sâu và chiều rộng để mỗi đơn vị diện tích đất ngày càng đáp ứng nhiều sản phẩm theo yêu cầu của con người và thị trường thế giới. Chính việc sử dụng đất hợp lý kết hợp với sử dụng nguồn lực con người sẽ tạo ra sự hài hoà cho việc giải quyết việc làm cho người lao động với việc tăng sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp. Ruộng đất có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều. Nó khác với tư liệu sản xuất khác là không bị hao mòn, không bị đào thải khỏi quá trình sản xuất nếu sử dụng hợp lý. Như vậy, ruộng đất có ý nghĩa rất lớn trong sản xuất nông nghiệp. Mỗi một vùng có vị trí địa lý khác nhau. Do vậy, tạo việc làm cho người lao động nông thôn Đảng và Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích họ đồng thời đưa ra những giải pháp tăng sức sản xuất của ruộng đất, làm tăng số lần quay vòng đất. Yếu tố vốn và sức lao động là hai yếu tố quan trọng nhất của quá trình tạo việc làm. Theo mô hình tạo việc làm: Y = f(C,V,X…) Trong đó: Y: Số lượng việc làm được tạo ra C: Vốn đầu tư V: Sức lao động X: Thị trường tiêu thụ sản phẩm… Hai yếu tố C và V là hai yếu tố hợp thành năng lực sản xuất. Sức lao động là khả năng trí lực, thể lực của con người. Đó là tri thức, sức khoẻ, kỹ năng, kinh nghiệm, truyền thống, bí quyết công nghệ… Theo Mác: “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất hay tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong mỗi con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”. Nói đến sức lao động ta phải nói đến số lượng và chất lượng lao động. Nếu một người lao động có sức khoẻ tốt, có đầu óc suy nghĩ thông minh, sáng tạo thì hẳn công việc mà họ được giao sẽ được hoàn thành tốt, sản phẩm mà họ sản xuất ra sẽ đủ yêu cầu chất lượng. Để tạo việc làm cho người lao động thì sức lao động là yếu tố quan trọng nhất. Một công việc được thực hiện khi có con người và con người đó chỉ làm việc được khi có đủ sức lao động. ở nông thôn thể lực của người lao động kém hơn so với người lao động của thành thị, kiến thức chuyên môn cũng như xã hội đều thấp do thu nhập chưa cao, việc tiếp cận thông tin kinh tế, khoa học xã hội chậm. Điều đó ảnh hưởng lớn đến việc làm của chính họ. Chính vì vậy tạo việc làm cho người lao động nông thôn cần phải được cân nhắc tính toán kỹ nếu không sẽ gây tổn thất nặng nề. Và để tạo việc làm có hiệu quả cần thiết phải bồi dưỡng kiến thức cho họ. Vốn trong sản xuất nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. vốn sản xuất nông nghiệp mang đặc điểm sau: Căn cứ vào đặc điểm của tài sản có thể chia thành vốn cố định và vốn lưu động. Do chu kỳ sản xuất dài và có tính thời vụ trong nông nghiệp nên một mặt làm cho sự tuần hoàn và luân chuyển của vốn chậm chạp, kéo dài thời gian thu hồi vốn cố định, tạo ra sự cần thiết phải dự trữ đáng kể nguồn vốn lưu động trong thời gian tương đối dài và làm cho vốn ứ đọng. Mặt khác, sự cần thiết và có khả năng tập trung hoá về phương tiện kỹ thuật trên một lao động nông nghiệp so với nông nghiệp là cao hơn. Sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên việc sử dụng vốn gặp nhiều rủi ro, làm tổn thất hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn. Một bộ phận sản phẩm nông nghiệp không qua lĩnh vực lưu thông mà được chuyển trực tiếp làm tư liệu sản xuất cho bản thân ngành nông nghiệp. Do vậy, một bộ phận vốn được thực hiện ở ngoài thị trường và được tiêu dùng trong nội bộ nông nghiệp khi vốn lưu động được khôi phục trong hình thái hiện vật. Đối với người nông dân đặc biệt là những người dân nghèo thì vốn là quan trọng và cần thiết để tiến hành sản xuất. Để tạo việc làm cho người lao động, nguồn vốn được huy động chủ yếu từ trợ cấp, từ các quỹ, các tổ chức tín dụng. Khi số lượng việc làm được tạo ra nhưng nó có được chấp thuận hay không còn tuỳ thuộc vào thị trường tiêu thụ. Bởi vì, nếu sản phẩm sản xuất ra mà không được thị trường tiêu thụ chấp nhận thì quy mô lớn đến đâu, máy móc có hiện đại đến đâu thì đơn vị sản xuất cũng không thể tồn tại. Do dó, khi tạo việc làm cho người lao động cần phải biết cung cầu lao động trên thị trường, số người thiếu việc làm, số người không có việc làm để tạo việc làm cho người lao động vừa đủ. Ngoài các yếu tố đất đai, vốn, sức lao động, thị trường lao động còn có yếu tố quan trọng nữa đó là hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật: hệ thống thuỷ lợi, hệ thống đường giao thông, cơ sở chế biến. Hệ thống này vừa tác động trực tiếp vừa tác động gián tiếp đến quá trình sản xuất nông nghiệp, nó giúp cho sự hoàn thành sản phẩm tốt hơn, nhanh chóng hơn. 2. Nhân tố dân số Dân số là yếu tố chủ yếu của quá trình phát triển. Dân số vừa là chủ thể vừa là khách thể của xã hội, vừa là ngươi sản xuất, vừa là người tiêu dùng. Vì vậy, quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. ảnh hưởng đó là tích cực hay tiêu cực tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa tốc độ phát triển dân số với nhu cầu và khả năng phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước trong mỗi thời kỳ. Do quy mô dân số lớn, tốc độ tăng cao đã làm quy mô số người trong độ tuổi lao động có khả năng tăng cao. Quy mô dân số đông, nguồn lao động dồi dào, đó là sức mạnh của quốc gia, là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Nhưng đối với nước ta – nước chậm phát triển, khả năng mở rộng và phát triển sản xuất còn có hạn, nguồn vốn, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu còn thiếu thốn, nguồn lao động đông và tăng nhanh lại gây sức ép về việc làm rất lớn. Năm 1986 số người trong độ tuổi lao động chỉ có 30 triệu người nhưng đến năm 2000 là 38,644 (triệu người). Tỷ trọng người lao động trong dân số ngày càng tăng. Theo số liệu của tổng cục thống kê, số người đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân năm 2001 là 37,677 (triệu người). Mỗi năm phải tạo thêm hơn 1,2 triệu chỗ làm việc chưa kể số sinh viên sắp ra trường, số người làm việc nội trợ thì số người chưa có việc làm hàng năm là …. Ngoài ra, để đảm bảo đủ việc làm cho người lao động trong nông thôn, tận dụng hết quỹ thời gian lao động cần có thêm hơn 7 triệu chỗ làm việc. Rõ ràng dân số đang tăng nhanh gây sức ép về việc làm rất lớn. Mặc dù nguồn lao động dồi dào là nguồn lực lớn để phát triển kinh tế nhưng để tạo việc làm cho người lao động không phải đơn giản mà nó kéo theo tài chính, tín dụng, tư liệu sản xuất… trong khi ngân sách nước ta còn hạn hẹp. Năm 2000 Đảng và Nhà nước ta đã có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong đó nhân tố dân số đã được coi trọng: + Coi con người là mục tiêu và là động lực chính của sự phát triển. Đặt con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển hay gọi là chiến lược con người, lấy lợi ích của con người làm điểm xuất phát của mọi chương trình kế hoạch phát triển. + Nguồn nhân lực và con người Việt Nam - lợi thế và nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Tuy nhiên, khi nguồn lực này tăng lên quá nhanh mà chưa sử dụng hết, lại là lực cản, gây sức ép về đời sống và việc làm. + Đổi mới chính sách dân số, lao động và bảo trợ xã hội là nội dung hàng đầu trong việc đổi mới chính sách và công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Các chính sách đó phải phát huy nguồn lực về nguồn nhân lực và con người Việt Nam hướng vào thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn. Mặt khác, các chính sách đó phải phù hợp với những yêu cầu của quản lý kinh tế quốc dân, phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước. 3. Nhân tố giáo dục và công nghệ Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học và công nghệ của đất nước đó. Trình độ khoa học công nghệ lại phụ thuộc vào các điều kiện giáo dục. Đã có rất nhiều bài học thất bại khi một nước nào đó sử dụng công nghệ ngoại nhập tiên tiến trong khi tiềm lực khoa học công nghệ trong nước còn rất non yếu. Sự non yếu thể hiện ở chỗ thiếu các chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề. Điều đó đã ảnh hưởng tới việc áp dụng các thành tựu khoa học. Không có sự lựa chọn nào khác hoặc là đào tạo các nguồn lực quý giá cho đất nước phát triển hoặc phải chịu tụt hậu so với thế giới. Giáo dục và đào tạo giúp cho người lao động có đủ tri thức, năng lực, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của công việc và khi có trong tay kiến thức về xã hội, về trình độ chuyên môn người lao động sẽ có nhiều cơ hội để thực hiện các công việc mà xã hội phân công sắp xếp. Như vậy, giáo dục và đào tạo nhằm định hướng phát triển kinh tế – xã hội, trước hết cung cấp cho xã hội một đội ngũ lao động mới đủ về số lượng, chất lượng và sau là phát huy hiệu quả để đảm bảo thực hiện xã hội: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ văn minh. Bên cạnh việc đảm bảo nguồn lực với số lượng, chất lượng đáp ứng yêu cầu công việc thì việc phát triển công nghệ là yếu tố quan trọng trong việc đưa đất nước trở thành nước công nghiệp. Công nghiệp hoá với xu hướng trí thức hoá công nhân, chuyên môn hoá lao động, giảm bớt lao động chân tay nặng nhọc. Ngày nay, để công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nói riêng và công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nói chung thì việc thiếu lao động và trình độ chuyên môn hoá cao và thừa lao động trình độ thấp rất nhiều đã gây ra sức ép việc làm lớn. Nếu bên cạnh việc nâng cao trình độ cho người lao động mà kết hợp với việc áp dụng thành tựu khoa học trong sản xuất thì sẽ tạo ra những chỗ làm việc hợp lý. Ngược lại, nếu Nhà nước có những chính sách tạo việc làm cho người lao động mà họ thiếu hiểu biết, thiếu kiến thức chuyên môn thì chương trình tạo việc làm sẽ không đạt hiệu quả nữa. 4. Nhân tố liên quan đến chính sách vĩ mô Do đặc di._.ểm của từng vùng, từng ngành kỹ thuật, từng địa phương mà Đảng và Nhà nước có những chính sách để tạo việc làm cho người lao động đặc biệt là người lao động nông thôn: + Nhóm chính sách chung có quan hệ và tác động dến việc mở rộng và phát triển việc làm cho lao động toàn xã hội: chính sách về vốn, chính sách đất đai, chính sách thuế. + Nhóm chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, hình thức và vùng có khả năng thu hút được nhiều lao động trong cơ chế thị trường( chính sách phát triển kinh tế hộ, chính sách đổi mới xây dựng vùng kinh tế mới, chính sách khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống, chính sách di dân tự do và hành nghề theo pháp luật, chính sách gia công xuất khẩu…). + Các chính sách việc làm cho đối tượng đặc biệt( chính sách việc làm cho người tàn tật, cho đối tượng tệ nạn xã hội…). Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội, song phương thức và biện pháp tạo việc làm lại mang nội dung kinh tế, đồng thời liên quan đến những vấn đề thuộc về tổ chức sản xuất kinh doanh như tạo môi trường pháp lý, vốn, lựa chọn và chuyển giao công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ. Vì thế bất cứ chính sách kinh tế xã hội nào của Nhà nước cũng đều có ảnh hưởng và tác động đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Phần II: Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay. I. Đặc điểm kinh tế – xã hội của nông thôn Việt Nam có ảnh hưởng đến tạo việc làm. 1. Đặc điểm tự nhiên 1.1 Đất đai Đất đai là cơ sở tự nhiên là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất. ở Việt Nam, đất nông nghiệp chiếm diện tích lớn ( 9345,4 nghìn ha chiếm 28,4% diện tích đất sử dụng năm 2000). Tuy nhiên diện tích đất nông nghiệp được sử dụng phân bố giữa các vùng chưa đều. Theo số liệu điều tra của Tổng cục địa chính cho thấy hiện trạng sử dụng đất năm 2000 phân theo vùng. Bảng1: Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp phân theo vùng Đơn vị: nghìn ha Tổng diện tích Đất nông nghiệp Tỷ lệ(%) Cả nước 32924,4 9345,4 28,4 Đồng bằng sông Hồng 1478,8 857,6 58,0 Đông Bắc 6532,6 897,9 13,74 Tây Bắc 3563,7 407,4 11,43 Bắc Trung Bộ 5150,1 725,3 14,08 Duyên hải Nam Trung Bộ 3306,7 545,6 16,5 Tây Nguyên 5447,6 1233,6 22,64 Đông Nam Bộ 3473,3 1707,8 49,17 Đồng bằng sông Cửu Long 3971,3 2970,2 74,79 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000 Theo biểu trên ta thấy diện tích đất đai ở Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên khá lớn: Đông Bắc là 6532,6 (nghìn ha) chiếm 19,84%; Bắc Trung Bộ là 5150,1 (nghìn ha) chiếm 15,64% và Tây Nguyên chiếm 16,55% so với diện tích đất sử dụng của cả nước năm 2000. Tuy nhiên, đất nông nghiệp ở đây lại được sử dụng ít chưa đến 15% so với diện tích đất sử dụng của vùng đó. Trong khi đó, ở đồng bằng diện tích đất ở, đất chuyên dùng và đất lâm nghiệp có rừng là 2936,9(nghìn ha) chiếm 44,95% diện tích đất sử dụng của vùng đó. Như vậy, còn 2697,8 (nghìn ha) đất là chưa sử dụng và sông ngòi. Nếu so với đồng bằng sông Hồng một trong những vựa lúa lớn nhất của cả nước với số dân đông thứ nhất trong 8 vùng kinh tế mà diện tích đất lại ít nhất. Từ đây có thể thấy dân số đông tập trung ở thành thị và đồng bằng là rất lớn song đất sử dụng ở đây lại hạn chế. Hiện tượng đất chật người đông đã gây ra sức ép về việc làm lớn. Vẫn biết rằng mỗi vùng có đặc điểm riêng về vị trí địa lý, về kinh tế - xã hội song cùng với việc thiếu việc làm, sử dụng ít thời gian lao động nông thôn làm thất nghiệp giảm, con cái không được chăm sóc, giáo dục đấy đủ gây ra càc tệ nạn xã hội. Chính điều đó khiến cho đời sống của người nông dân từ đời này qua đời khác không khá lên dược. Thất ngiệp thấp, thiếu kiến thức của người lao động nông thôn làm cho nông nghiệp nông thôn Việt nam nói riêng và đất nước Việt nam nói chung chậm phát triển không theo kịp với xu thế của thời đại. Thấy được tầm quan trọng của đất đai là đối tượng cơ bản nhất của quá trình sản xuất và phát triển việc làm, Nhà nước có những chính sách cơ bản trong lĩnh vực ruộng đất, góp phần to lớn giải phóng tiềm năng lao động và tạo mở việc làm đảm bảo khai thác và sử dụng có hiệu quả ruộng đất tạo ra giá trị kinh tế cao trên 1 đơn vị diện tích canh tác. 1.2 Dân số 1.2.1 Nguồn lao động ở nông thôn chiếm tỷ trọng lớn Nguồn lao động ở nông thôn nước ta hiện nay khá đông. Theo kết quả tổng điều tra dân số, năm 1990 nguồn lao động nông thôn là 27000 (nghìn người) chiếm 73,5% lực lượng lao động của cả nước đến năm 2000 là 29925 (nghìn người) chiếm 77,4% lực lượng lao động của cả nước. Như vậy, tỷ trọng nông nghiệp không giảm mà vẫn tăng mặc dù nước ta đã có định hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Bảng2: Nguồn lao động Đơn vị: nghìn người Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Dân số 75355 76714 77046 76328 77496 Lao động xã hội 35866 36297 37407 37783 38643 Nông thôn 29028 28964 29757 29363 29925 Thành thị 6838 7333 7649 8420 8718 Nguồn: Thực trạng lao động việc làm qua các năm 1996,1997,1998,1999,2000 của Viện Kinh tế học Đặc điểm này cho thấy, tiềm năng lao động ở nông thôn là rất lớn. Hàng năm chúng ta có lực lượng trên dưới 1 triệu lao động trẻ bước vào độ tuổi lao động đòi hỏi phải sắp xếp việc làm, trong đó đại đa số là ở nông thôn. Chỉ trong 3 năm 1991-1993 lao động nông thôn đã tăng 3,2 triệu người nhưng từ năm 1996 trở về đây do định hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ và chính sách di dân đi xây dựng vùng kinh tế mới ...làm cho lực lượng lao động nông thôn có chiều hướng giảm nhưng không đáng kể. Nguồn lao động nông thôn dồi dào hứa hẹn một thị trường tiêu thụ rộng lớn ở nông thôn. Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp có chiều hướng giảm ( do bộ phận dân cư lấy đất làm nhà), dân số nông thôn nói riêng và dân số Việt Nam nói chung vẫn không ngừng tăng. Năm 1996, dân số Việt Nam là 75355 (nghìn người) trong đó nông thôn là 57736 (nghìn người) chiếm 76,6% đến năm 2000 dân số Việt Nam tăng lên 77496 (nghìn người) trong đó nông thôn là 59065,6 (nghìn người) chiếm 76,2% dân số cả nước. Điều này đã gây sức ép đối với việc giải quyết việc làm, làm cho mâu thuẫn giữa khả năng tạo việc làm với nhu cầu giải quyết việc làm càng căng thẳng. 1.2.2 Nguồn lao động nông thôn phân bố không đồng đều giữa các ngành và vùng. Thực tế cho thấy, cơ cấu nguồn lao động ở nông thôn phân bố chưa hơp lý. Gần 85% lao động làm nông nghiệp, chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi song lao động nông nghiệp chủ yếu tập trung ở đồng bằng và các thành phố lớn. Bảng3: Dân số lao động nông thôn phân theo vùng Năm Vùng 1996 1997 1998 1999 2000 DSTB DSNT DSTB DSNT DSTB DSNT DSTB DSNT DSTB DSNT Cả nước 73.156,7 57.736,8 74.306,9 57.471,5 75.456,3 57.991,7 76.596,7 58.515,1 77.685,5 59.065,6 Duyên hải NTB 6.287,3 4.799,8 6.372,7 4.756,9 6.460,5 4.755,9 6.545,6 4.794,4 6.622,5 4.829,8 Tây Nguyên 3.563,0 2.685,2 3.743,1 2.779,8 3.922,2 2.884,5 4.096,1 2.997,8 4.248,0 3.120,0 Đông Nam Bộ 10.947,3 5.922,8 11.203,6 5.572,5 11.478,8 5.699,0 11.777,1 5.742,8 12.070,7 5.807,1 Đồng bằng sông Cửu Long 15.693,5 13.205,0 15.858,8 13.245,0 16.023,5 13.329,8 16.184,2 13.408,8 16.365,9 13.494,5 Đồng bằng sông Hồng 16.331,8 13.513,6 16.520,4 13.411,2 16.701,5 13.445,8 16.870,6 13.516,2 17.017,7 13.591,0 Đông Bắc 8.524,8 7.156,8 8.635,8 7.161,9 8.737,1 7.225,9 8.852,7 7.317,5 8.952,4 7.380,4 Tây Bắc 2.112,9 1.842,0 2.159,4 1.881,2 2.205,5 1.919,7 2.239,8 1.950,0 2.287,7 2.009,9 Bắc Trung Bộ 9.696,1 8.611,6 9.813,1 8.633,0 9.927,2 8.731,1 10.030,6 8.787,6 10.120,6 8.832,9 Nguồn: Niên giám thống kê 2000 Từ bảng số liệu trên ta thấy năm 2000 dân số tập trung đông nhất ở hai đồng bằng lớn đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long chiếm 21,2% và 21,06% dân số cả nước. Dân số nông thôn ở đồng bằng sông Hồng chiếm 23,01% dân số lao động nông thôn của cả nước và đồng bằng sông Cửu Long là 22,84% dân số lao động nông thôn của cả nước. Trong khi đó, ở Tây Bắc chỉ có 2009,9 (nghìn người) chiếm 3,4% dân số nông thôn của cả nước như đã nêu ở phần trên mỗi vùng có điều kiện tự nhiên khác nhau, tài nguyên, kinh tế xã hội và trình độ phát triển lực lượng sản xuất khác nhau thì số lượng lao động tập trung gia tăng ở đó cũng khác nhau. Điều này dẫn tới sự mất cân đối giữa lao động và tư liệu sản xuất, kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn và trình độ phát triển không đều giữa các vùng thêm trầm trọng. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã có chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn tránh hiện tượng di dân tự do, phần lớn ổn định kinh tế chính trị đặc biệt chương trình đưa người dân nông thôn đi xây dựng vùng kinh tế mới góp phần rất lớn vào việc giảm khoảng cách phân bổ giữa các vùng. 1.2.3 Chất lượng nguồn lao động ở nông thôn có nhiều đặc tính phù hợp với sự phát triển nhưng cũng còn nhiều hạn chế. Do nguyên nhân lịch sử kinh tế sâu xa, nguồn lao động ở nông thôn nước ta có bản sắc, văn hoá độc đáo, có truyền thống đoàn kết yêu nước nồng nàn; có phẩm chất cần cù chịu khó, thông minh, sáng tạo. Tuy nhiên, nguồn lao động ở nông thôn còn có nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Về thể lực: chiều cao trung bình của lao động nông thôn là 156cm và trọng lượng trung bình là 48kg. Để đánh giá thể lực của lao động, trong điều tra mức sống dân cư năm 1997-1998 đã sử dụng chỉ số cơ thể (BMI), theo cách này có tới 62,51% lao động nam và 36,93% lao động nữ ở nông thôn dưới mức bình thường, trong khi trên phạm vi cả nước tỷ lệ tương ứng của lao động nam là 59,29% và nữ là 34%. Về trình độ học vấn: trình độ học vấn của lao động ngày càng được nâng cao. Năm 2000, trên phạm vi cả nước tỷ lệ lao động biết chữ là 96% tương đương với một số nước phát triển trong khu vực như Singapore, Malaysia... Đối với khu vực nông thôn, tốt nghiệp phổ thông cơ sở và trung học phổ thông khoảng 45,8% thấp hơn khu vực thành thị 19,7%. Điều này không chỉ hạn chế lao động nông thôn trong việc tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ và sản xuất mà còn là nhân tố cản trở họ trong việc theo học các khoá đào tạo nghề, bởi điều kiện học nghề tối thiểu phải có trình độ văn hoá ở bậc trung học cơ sở. Tuy trình độ học vấn của nông thôn không phải quá thấp nhưng đại bộ phận lại không được đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Năm 1996, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo mới đạt 7,8%; năm 2000, tỷ lệ này tăng lên 9,3% so với tỷ lệ chung toàn quốc thì tỷ lệ này còn thấp hơn khoảng 10%. Nếu tính riêng số lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật thì chiếm khoảng 15% tổng số lao động kỹ thuật của cả nước. Có sự khác biệt đáng kể trong phân bố lao động qua đào tạo giữa các vùng. Phần lớn lao động qua đào tạo tập trung ở các vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên có tỷ lệ đào tạo thấp nhất. Cơ cấu chuyên ngành được đào tạo cũng có sự mất cân đối nghiêm trọng. Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng thế giới, cứ 1000 lao động nông thôn có 75 người qua đào tạo, trong đó chỉ có 4,4 người được đào tạo về chuyên ngành nông-lâm-ngư nghiệp. Hiện nay, tình trạng này hầu như chưa được cải thiện, số cơ sở đào tạo và số học sinh theo học các chuyên ngành thuộc các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn rất khiêm tốn so với các ngành khác. Lao động nông nghiệp vẫn chủ yếu là canh tác, sản xuất theo kinh nghiệm, năng suất thấp. Gần đây, nhờ công tác khuyến nông và phổ biến kỹ thuật, trình độ canh tác của nông dân bước đầu được cải thiện nhưng do phần lớn lao động nông thôn thiếu kiến thức cơ bản để tiếp thu và áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp nên hiệu quả sản xuất nhìn chung còn thấp. Như vậy, cả về thể lực và trí lực, lao động nông thôn còn nhiều hạn chế trước yêu cầu phát triển hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. 2. Đặc điểm kinh tế xã hội 2.1 Thu nhập Trước khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế, kinh tế nông nghiệp nông thôn rất thấp trong khi là khu vực thu hút nhiều lao động nông thôn nhất. Một số nguyên nhân là: nước ta vừa trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt đã làm cho kinh tế nông nghiệp nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung suy sụp. Thứ hai, hình thức sở hữu lúc đó là sở hữu nhà nước mang tính “bao cấp” vì vậy không phát huy được năng lực của mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình dẫn đến phát triển chậm chạp. Nhưng kể từ sau khi “đổi mới kinh tế” xu hướng tự do hoá kinh tế trong nông nghiệp, sự thừa nhận chính thức các thành phần kinh tế tư nhân và ngoài quốc doanh đã phát huy được những nguồn lực vốn có của người nông dân (trong đó có nguồn nhân lực). Sự phát triển của kinh tế hộ và hình thức phát triển tất yếu của kinh tế hộ- kinh tế trang trại, sự phát triển của các hộ sản xuất, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn trong các ngành nghề phi nông nghiệp và dịch vụ, đã là những yếu tố quyết định tạo nên sự tăng trưởng lâu dài và ổn định của nông nghiệp trong suốt một thập niên vừa qua, luôn ổn định ở mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 4,17% (giai đoạn 1989-1999). Sự tăng trưởng nông nghiệp, quá trình các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn đã tạo thêm việc làm mới, thu hút nhiều lao động. Theo điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997-1998 cơ cấu thu nhập của dân cư được phân bổ như sau: Bảng 4: Cơ cấu thu nhập của dân cư Đơn vị (%) Tiền công-Tiền lương Thu từ nông nghiệp – phi nông nghiệp Thu từ ngành nghề nông nghiệp Thành thị 33,9 37,4 0,24 Nông thôn 19,9 19,9 48,6 Nguồn: Báo cáo lao động-việc làm-thu nhập năm 2000 (Viện kinh tế học) Khu vực nào ở nông thôn có nguồn thu nhập từ các ngành nghề nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn thì thu nhập bình quân đầu người thấp. Cụ thể: vùng núi và trung du Bắc bộ có tỷ lệ thu từ các nghề nông- lâm- thuỷ sản cao nhất là 58% thì thu nhập bình quân người / năm theo giá so sánh chỉ có 2036 (ngàn đồng), vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ thu từ nông- lâm- thuỷ sản thấp nhất là 9 % thì thu nhập bình quân người /năm lên tới 6017 (ngàn đồng). Điều đó lý giải vì sao đa số người nghèo sống ở nông thôn và làm nông nghiệp là nghề chính. Khi thu nhập nông thôn tăng làm tăng thu nhập quốc dân dẫn tới năng suất nông nghiệp tăng và có khoản vốn dành cho các chương trình hỗ trợ và tạo việc làm thu hút lao động. Có việc làm ổn định người dân lao động sẽ chăm chỉ làm việc, chăm lo cho mảnh đất của mình khiến cho thu nhập nông nghiệp nói riêng và thu nhập quốc dân nói chung tăng. Đây có thể nói là một chu kỳ kinh tế của sự tăng trưởng nhưng trên thực tế giải quyết việc làm không phải vấn đề đơn giản vì tạo việc làm chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Thu nhập là một trong những yếu tố chủ quan có ảnh hưởng khá lớn tới tạo việc làm. Thu nhập thấp sẽ làm cho tỷ lệ hộ nghèo tăng. Bảng5: Tỷ lệ hộ nghèo trong tổng số hộ cả nước (%) 1996 1999 Cả nước 15,7 13,33 Thành thị 6,85 4,61 Nông thôn 17,73 15,86 Tây Bắc và Đông Bắc 20,14 17,07 Đồng bằng sông Hồng 9,17 7,55 Bắc Trung Bộ 21,17 19,29 Duyên hải Nam Trung Bộ 14,51 14,02 Tây Nguyên 24,53 21,27 Đông Nam Bộ 9,6 5,17 Đồng bằng sông Cửu Long 13,41 10,22 Nguồn: Báo cáo lao động- việc làm – thu nhập năm 2000 của Viện kinh tế học Trong 8 vùng lãnh thổ, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, Tây Bắc và Đông Bắc là những vùng có tỷ lệ nghèo đói cao hơn cả.Tây nguyên có hộ nghèo ca nhất chiếm 24,53% tổng số hộ cả nước.Tuy nhiên năm 1999 có giảm xuống 21,27% nhưng vẫn là vùng đứng đầu.Thấp nhất là đông nam bộ tỷ lệ hộ nghèo chiếm 9,6%(năm 1996) và đến năm 1999 có giảm xuống 5,17%.Khu vực nông thôn có số hộ nghèo nhiều hơn khu vực thành thị vì thu nhập bình quân đầu người/tháng ở nông thôn là 80.000 đồng trong khi ở thành thịlà 150.000 đồng (theo chuẩn mới) 2.2 Văn hoá xã hội Nước ta đi lên từ một nước thuộc địa nghèo và lạc hậu. Bằng bàn tay và trí óc của con người, con người Việt Nam đã đưa đất nước mình trở thành một cường quốc độc lập về kinh tế, chính trị xã hội. Có thể nhận thấy điều đó qua nhận thức của người lao động nông thôn nói riêng và của người Việt Nam nói chung. - Người Việt Nam có phản ứng tích cực, nhận thức nhanh nhạy đối với thời kỳ mở cửa. Những năm 1986-1990 khi công cuộc đổi mới bắt đầu gây xáo động tâm lý xã hội sâu sắc, mạnh mẽ. Nhưng tình hình đã nhanh chóng ổn định và ngày càng tiến triển theo chiều hướng tích cực. Họ thấy rằng mở cửa là xu thế tất yếu của thời đại, vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với dân tộc cũng như đối với cá nhân; có mở cửa cọ xát với nền văn hoá thế giới tinh thần văn hoá Việt Nam mới được thử thách tự khẳng định và phát triển. Điều này cho thấy sự nhất trí cao đối với chủ trương, chính sách đổi mới mở cửa của Nhà nước. - Người Việt Nam thấy được mở cửa dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo giữa các khu vực, giữa các nhóm xã hội, mở cửa sẽ dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội, dễ mắc vào âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch; mở cửa sẽ du nhập văn hoá, lối sống phương Tây làm hại truyền thống dân tộc dễ bị hoà mất độc lập tự chủ. - Con người Việt Nam chăm chỉ, chịu khó vượt qua được những trở ngaị để vươn lên trên cuộc sống. Trên đây chỉ là một vài đặc điểm tích cực khiến con người nhận thức tiến bộ hơn. Điều này ảnh hưởng gián tiếp đến tạo việc làm vì nó là suy nghĩ và nhận thức của con người. Do vậy, ảnh hưởng đến môi trường tiêu thụ. Có lẽ đây là yếu tố tích cực vì cùng với sự phát triển của xã hội, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhận thức của con người cũng rộng hơn dần dần bỏ đi tư tưởng phong kiến và lạc hậu. Tuy nhiên, con người Việt Nam nhất là người lao động nông thôn vẫn còn nhiều hạn chế về nhận thức. - “Đua theo nhóm” làm những việc vi phạm pháp luật: chặt cây, xây nhà trái phép, lấy của công, lấn chiếm đất công, đổ rác bừa bãi, họp chợ trên đường... thậm chí không phải chỉ do “ đói ăn vụng túng làm liều” mà còn có những người có chức có quyền, giàu có cũng liều. - Dễ bắt chước nước ngoài, pha trộn lai tạp đi đến xa rời tinh hoa, bản sắc dân tộc. Về khoa học công nghệ, sản xuất, kinh doanh ... ta phải học theo cách làm ăn tiên tiến là đúng nhưng những giá trị văn hoá, đạo đức, lối sống ta có nhiều cái tốt phải biết giữ gìn và nâng cao. - Nước ta còn nghèo, dân ta còn nhiều người túng thiếu, gần 50% trẻ em suy dinh dưỡng nhưng vẫn còn bộ phận đua đòi, tiêu xài lãng phí. Điều này đặc biệt là ở nông thôn chưa bỏ được tục lệ cưới xin, ma chay, giỗ tết… linh đình tốn kém. Mức sống thấp, lối sống không hợp lý làm sao phát triển nhanh được! - Dễ mắc vào các tệ nạn xã hội do sống thiếu bản lĩnh cá nhân. Đó là các tệ nạn buôn lậu, hối lộ, mại dâm, ma tuý,... đã ảnh hưởng tới tư duy, nhân cách con người. Điều đó phản ảnh trình độ nhận thức, khả năng tiếp cận chưa cao. Giáo dục là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển con người toàn diện. Vì vậy, giáo dục có ảnh hưởng lớn đến quá trình tạo việc làm. II. Thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam. 1. Quy mô tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam Nguồn lao động là tất cả những người trong độ tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có khả năng lao động. Theo kết quả điều tra dân số tại thời điểm 1/4/2000 dân số sống ở khu vực nông thôn là 59.065,6 (nghìn người) chiếm 76,03% dân số cả nước ( 77.685,5 (nghìn người)). Trong đó lực lượng lao động nông thôn là 29.926 (nghìn người) chiếm 73,99% dân số từ 15 tuổi trở lên của khu vực nông thôn và chiếm 77,44 % lực lượng lao động chung của toàn quốc (trong đó lao động trong độ tuổi có 28.336(nghìn người) chiếm 94,68% lực lượng lao động trong khu vực nông thôn và chiếm 77,16% lực lượng lao động toàn quốc . Bảng 6: Cơ cấu lực lượng lao động phân phối theo nhóm tuổi Nhóm tuổi Nông thôn Tỷ trọng toàn quốc Số người(2000) Tỷ trọng (%) Tỷ trọng (1999) 15-24 7.064.257 23,61 24,57 21,85 25-34 8.289.374 27,71 27,71 28,2 35-44 8.160.914 27,28 26,37 28,2 45-54 4.130.505 14,43 14,07 15,06 55-59 949.729 3,17 3,35 3,17 60+ 1.135.178 3,8 3,93 3,52 Cộng 29.730.157 100 100 100 Nguồn: Bài của Bùi Văn Quán ( Tạp chí Lao động và xã hội số chuyên đề III/2001) Dân số Việt Nam đông đã cho đất nước một nguồn lực lao động dồi dào. Lực lượng lao động rất trẻ ( 14-24 tuổi) ở nước ta tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn. Năm 2000 số lao động này là 7.064,257 (nghìn người) chiếm 23,61%. Như vậy, so với mấy năm trước, tỷ trọng này giảm chút ít (năm 1997 là 26,34%; năm 1998 là 24,88% và năm 1999 là 24,57%). Có thể nhận thấy rằng sau Đại hội Đảng lần thứ VIII, công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình được triển khai tốt. Tỷ lệ sinh bình quân mỗi năm giảm 0,785‰ ( mục tiêu là 0,6%). Tỷ lệ tăng dân số năm 1995 là 1,65%, năm 2000 là 1,4%, vượt mục tiêu đề ra (đánh giá thành tựu kết quả 10 năm thực hiên-Văn kiện Đại hội IX). Điều này cho thấy lực lượng lao động nông thôn giảm do dân số của nước ta 10 năm trở lại đây tốc độ tăng dân số GGgiảm. Khi tốc độ gia tăng dân số giảm, kinh tế xã hội phát triển đảm bảo đời sống của nhân dân được nâng cao, người dân lao động có điều kiện học hành, đi sâu vào chuyên môn. Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nâng cao chất lượng là điều kiện hàng đầu vì vậy Đảng và Nhà nước cần có chính sách về dân số vừa đảm bảo số lượng vừa đảm bảo chất lượng lao động. Ta thấy rằng khi người dân lao động có kiến thức họ dễ dàng tìm kiếm việc làm hơn dẫn đến tăng thu nhập đảm bảo cuộc sống cho chính bản thân họ. Vì vậy, hết độ tuổi lao động, họ có điều kiện đẻ nghỉ ngơi. Năm 1999, lực lượng lao động nông thôn chiếm số ít so với dân số nông thôn (Độ tuổi 55-59 là 949.729 người chiếm 3,17% giảm 0,18% so với năm 2000, độ tuổi trên 60 là 1.135.178 người chiếm 3,8% giảm 0,13% so với năm 2000). Tuy nhiên đất nước ta còn nghèo, lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao còn thấp chiếm 15,52% tổng lực lượng lao động xã hội. Vì vậy, ngoài độ tuổi lao động vẫn còn số người có khả năng lao động, mặt khác sự phân bố giàu nghèo vẫn còn cao nên những người dân nghèo vẫn phải vật lộn, bươn trải với cuộc sống để đảm bảo thu nhập cho cả gia đình. Dân số nông thôn nói riêng và dân số Việt Nam nói chung không ngừng tăng, trong khi diện tích đất nông nghiệp lại có chiều hướng giảm do lấy đất làm nhà, do khai hoang, do quá trình đô thị hoá nông nghiệp nông thôn làm cho lao động thiếu việc làm ngày càng tăng. Sau nghị quyết TW5(khoá VII) để giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn và tập trung cho phát triển công nghiệp nên Đảng và Nhà nước đã đặt ra vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng chuyển dần lao động nông nghiệp sang ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp. Vì mới khởi sắc nên trên phạm vi cả nước là rất chậm. Công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn vẫn trong tình trạng tự phát, chưa có kế hoạch và đầu tư thoả đáng. Kết quả một số cuộc điều tra trong những năm qua cho thấy trên phạm vi cả nước, tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm nhưng tốc độ chuyển dịch chậm. Bảng 7: Cơ cấu lao động nông thôn theo ngành và vùng kinh tế 1996 2000 Nông, Lâm, Ngư nghiệp Công Nghiệp Dịch vụ Nông, Lâm, Ngư nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Toàn quốc 81,64 6,83 11,53 76,66 8,86 14,48 Đồng bằng sông Hồng 85,21 6,29 8,5 75,00 11,08 13,92 Đông Bắc 92,42 2,41 5,17 90,23 3,51 6,26 Tây Bắc 97,84 0,1 2,06 95,68 0,88 3,45 Bắc Trung Bộ 86,3 5,51 8,19 78,76 9,03 12,22 Duyên hải Nam Trung Bộ 80,28 7,28 12,44 74,96 9,7 15,35 Tây Nguyên 89,65 2,99 7,36 90,24 2,08 7,68 Đông Nam Bộ 63,43 16,32 20,25 60,5 15,94 23,56 Đồng bằng sông Cửu Long 73,21 8,19 18,6 70,01 9,36 20,63 Nguồn: Bài của Hoàng Kim Ngọc - Tạp chí Lao động và xã hội T12/2001 Như vậy, năm 1996 cơ cấu lao động là nông, lâm, ngư nghiệp là 81,64%; công nghiệp và xây dựng là 6,83%; dịch vụ là 11,53%. Sau 5 năm, cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch theo xu hướng tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp, giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp (năm 2000 tỷ lệ nông, lâm nghiệp - công nghiệp và xây dựng - dịch vụ tương ứng là 76,66% - 8,86% - 14,48%). Nếu với điều kiện nước ta có thể thấy sự chuyển dịch này là tích cực. Các ngành nông, lâm, ngư nghiệp tiếp tục có tốc độ tăng trưởng khá nhưng tỷ trọng GDP đã giảm mạnh từ 38,7% (năm 1990) xuống còn 27,5%(năm 1995) và 24,3% năm 2000, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 28,7% và 36,6%; dịch vụ từ 38,6% tăng lên 44,1% và 39,1% song so với các nước trên thế giới thì sự chuyển biến này lại là chậm và có sự khác biệt giữa các vùng. Đồng bằng sông Hồng có sự chuyển biến nhanh nhất, sau 5 năm tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm từ 85,21% xuống còn 75% (tức giảm hơn 10%) trung bình mỗi năm giảm 2% trong khi cả nước chỉ giảm 1%. Điều này phần nào thể hiện lợi thế của vùng trong việc khôi phục và phát triển làng nghề, phát triển ngành nghề phi nông nghiệp. Đông bắc và Tây Bắc lao động nông thôn chiếm tỷ lệ lớn nhất cả nước song sự chuyển dịch cơ cấu lại diễn ra gần như chậm nhất cả nước (đặc biệt nông, lâm, ngư nghiệp năm 2000 giảm 0,44% so với năm 1999, trung bình giảm 0,43%). Riêng ở Tây Nguyên sự chuyển dịch cơ cấu lao động lại theo chiều hướng ngược lại, sau 5 năm (từ 1996 tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp tăng từ 89,65% lên 90,24%; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng lại giảm từ 2,99% xuống 2,08% còn dịch vụ có tăng nhưng không đáng kể ( 7,36% lên 7,68%). Nhìn vào bảng trên ta thấy Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có tỷ trọng công nghiệp năm 2000 so với năm 1996 giảm, còn một số vùng đồng bằng sông Cửu Long, Bắc Trung Bộ, Đông Bắc có sự chuyển dịch nhanh tỷ trọng công nghiệp tăng rất ít. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động như vậy chứng tỏ mức độ công nghiệp hoá nông thôn còn chậm và chưa tạo được sự chuyển dịch. Nói cách khác quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế chung của cả nước mà còn phụ thuộc đáng kể vào sự phát triển của khu vực phi nông nghiệp ngay tại các vùng nông thôn, mức độ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, khả năng mở mang và phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị mới... Trong những năm qua, nhờ có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự cố gắng của các hộ sản xuất, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn trong các ngành nghề phi nông nghiệp và dịch vụ là yếu tố quan trọng tạo nên sự tăng trưởng lâu dài và ổn định của nông nghiệp (mức độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 4,17% giai đoạn 1989-1999). Tuy nhiên, do lực lượng lao động tăng tự nhiên hàng năm ở khu vực nông nghiệp, do diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, do nhu cầu phát triển công nghiệp và đô thị hoá (bình quân đất mỗi năm canh tác giảm từ 2,5 - 3 vạn ha, tỷ lệ đất canh tác bình quân cho một lao động giảm từ 0,27 ha (1990) xuống còn 0,23 ha (1995), đến năm 1998 cả nước có 12 triệu hộ nông dân nhưng chỉ còn 8,2 triệu ha đất canh tác ( báo cáo lao động thất nghiệp việc làm của viện kinh tế học ), trong đó chỉ có 4,2 triệu ha đất trồng lúa, diện tích đất canh tác ngày càng hạn hẹp, lao động nông thôn ngày một tăng thêm, song sự thay đổi cơ cấu ngành nghề chưa có thay đổi đáng kể, lao động nghề nông vẫn chiếm đa số. Theo điều tra của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong tổng số hội nông thôn thì có tới 68,26% thuần nông; 14,1% phi nông nghiệp và 17,64% làm nông nghiệp kiêm phi nông nghiệp. Đất ít, người đông, trình độ chuyên môn của người lao động thấp kém, ... đã khiến cho tình trạng thiếu việc làm của lao động ở nông thôn diễn ra triền miên. Bảng 8: Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn (%) 1996 1997 1998 1999 2000 Cả nước 72,11 73,14 71,13 73,49 73,86 Đồng bằng sông Hồng 75,69 72,88 72,51 73,98 74,98 Đông Bắc 79,01 74,38 67,19 71,40 72,67 Tây Bắc 66,46 72,62 73,23 Bắc Trung Bộ 73,35 72,92 69,20 72,28 71,78 Duyên hải Nam Trung Bộ 70,69 71,58 72,56 74,02 73,50 Đông Nam Bộ 61,76 74,52 74,55 76,20 76,44 Đồng bằng sông Cửu Long 68,16 71,56 71,40 73,16 73,10 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000 Trong 8 vùng kinh tế có hai vùng đạt tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn cao hơn các vùng khác và cao hơn tỷ lệ thời gian sử dụng lao động của cả nước. Đó là Tây Nguyên (76,74% năm 2000); Đông Nam Bộ là 76,44% (năm 2000). Tuy nhiên, so với năm 1999 tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn của Tây Nguyên lại giảm 2,11%. Như vậy, lao động ở nông thôn của Tây Nguyên tăng 0,12% (năm 2000 so với năm 1999), tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn giảm nhanh làm cho tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng. Vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cử Long có sự tăng nhanh, năm 1996 là 61,76% đến năm 2000 là 76,44%, bình quân mỗi năm tăng 3% (Đông Nam Bộ) và 0,98%(Đồng bằng sông Cửu Long) nhưng so với năm 1999 thì tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn là giảm. Nói chung tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của dân số hoạt động kinh tế thường xuyên khu vực nông thôn là đồng đều giữa các vùng. Theo Tạp chí Lao động- xã hội số chuyên đề III/2001 trong 61 tỉnh thành có 17 tỉnh đạt tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn lớn hơn 75%. ở đồng bằng sông Hồng có 4 tỉnh trên 9 tỉnh; Đông Nam Bộ có 5 trên 9 tỉnh; vùng Đông Bắc có 2 trên 13 tỉnh; duyên hải Nam Trung Bộ có 1 trên 6 tỉnh; đồng bằng sông Cửu Long có 2 trên 12 tỉnh. Đặc biệt ở Tây Nguyên cả 3 tỉnh đều đạt tỷ lệ sử dụng thời gian trên 75%. Có 8 tỉnh tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn đạt tỷ lệ từ 74% đến 75%. Có 11 tỉnh đạt tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn dưới 73% trong đó chủ yếu là Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Tóm lại, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụngở khu vực nông thôn tuy đã tăng thêm ở hầu hết các tỉnh nhưng mức tăng thấp. Các tỉnh có tỷ lệ dưới 74% còn chiếm 59,01% trong 61 tỉnh, thành phố. Thời gian chưa sử dụng lao động ở nông thôn chiếm hơn 2% nên có thể thấy sự hạn chế lớn đến khả năng tận dụng và khai thác nguồn nhân lực dồi dào ở nông thôn gây nên sự lãng phí lao động rất lớn. năm 1999 trong số 29.363( nghìn người) lao động nông thôn, có tới 30% thiếu việc làm, thời gian sử dụng của lao động trong năm tới đạt 73,49%. Số lao động thất nghiệp hoàn toàn đang tăng nhanh, năm 1996 mới có 0,6%, năm 1997 là 2,2% sang đến năm 1998 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33801.doc
Tài liệu liên quan