Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài tại khu công nghiệp - Khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

Chương 1: Khái quát sự hình thành và phát triển KCN-KCX ở Việt Nam I. Khái niệm và đặc điểm của KCN, KCX 1. Khái niệm khu công nghiệp – khu chế xuất: Xuất phát từ các quốc gia ở ven bờ Đông và Nam Địa Trung Hải vào đầu thế kỷ 19, quan niệm về kc lan sang châu Á dưới hình thức hải cảng tự do. Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại và đầu tư, KCN dần xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: khu mậu dịch tự do, kho quá cảng, đặc khu kinh tế… Theo nghĩa rộng thì KCN bao gồm tất cả cá

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài tại khu công nghiệp - Khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khu vực được Chính phủ nước sở tại cho phép chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp, nó là khu biệt lập có chế độ mậu dịch và thuế quan riêng, không phụ thuộc vào chế độ mậu dịch và thuế quan phổ thông ở nước đó. Theo Quy chế KCN, KCX, KCNC, ban hành kèm theo Nghị định số 36/1997/NĐ-CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ, KCN ở Việt Nam được hiểu là “khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất”. Cũng theo Quy chế KCN,KCX,KCNC, KCX ở Việt Nam được hiểu là “khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lí xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập”. 1.1.2. Đặc điểm KCN-KCX: Cho đến nay, các KCN đã được phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Mặc dù có sự khác nhau về quy mô, địa điểm và phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng, nói chung các KCN có những đặc điểm chủ yếu sau : Về tính chất hoạt động : Là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ mà không có dân cư (gọi chung là doanh nghiệp KCN), KCN là nơi xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc các đơn vị kinh doanh dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp. Theo điều 6 Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm Nghị định 36/CP thì doanh nghiệp KCN có thể là các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc các bên tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các doanh nghệp này được quyền kinh doanh trong các lĩnh vực cụ thể sau: - Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng. - Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu dùng ở trong nước; phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ. - Nghiên cứu, triển khai khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới - Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp. Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Các KCN đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá, hệ thống điện nước, điện thoại… Thông thường việc phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN do một công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đảm nhiệm. Ở Việt Nam những công ty này là các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước thực hện. Các công ty phát triển cơ sở hạ tầng KCN sẽ xây dựng các kết cấu hạ tầng sau đó được phép cho các doanh nghiệp khác thuê lại. Về tổ chức quản lý: Trên thực tế mỗi KCN đều thành lập hệ thống BQL KCN cấp tỉnh tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để trực tiếp thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong KCN. Ngoài ra tham gia vào quản lý tại các KCN còn có nhiều Bộ như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp. 1.2.Vai trò của khu công nghiệp – khu chế xuất: Trong gần 20 năm thực hiện cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam đã đạt được những thành quả quan trọng như: tỷ lệ tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm, cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tỷ lệ tiết kiệm tăng nhanh,... Trong các thành quả đó nền kinh tế chung của đất nước, các khu công nghiệp đã đóng góp đáng kể thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. 1.2.1. Vai trò của các khu công nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ và gắn liện với nó là ngày càng có nhiều nước hội nhập và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, ở nước ta, tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế cũng được hình thành và phát triển tích cực qua các kì Đại hội Đảng. Quan điểm “sẵn sàng mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước, các công ty nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi và không có điều kiện chính trị ràng buộc, nhưng phải chủ động phòng ngừa, tránh bị lệ thuộc”(Đại hội Đảng khoá VI,1986) đã nâng cao thành “đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế (Đại hội Đảng khoá VII, 1991), “trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài; tích cực chủ động thâm nhập, mở rộng thị trường quốc tế” (Đại hội Đảng khoá IX, 2001), “lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất và là nguyên tắc chủ đạo; đồng thời linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với thông lệ quốc tế” (Đại hội Đảng khoá X, 2006). Như vậy, quan điểm chấp nhận hội nhập đã được nâng lên “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là bước đột phá trong quan điểm của Đảng, đóng vai trò tích cực đối với phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam trong những năm qua. Để hội nhập và phát triển trong điều kiện nền tích luỹ nội bộ còn thấp thì thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng. Khu công nghiệp, khu chế xuất là một mô hình quản lý kinh tế hiện đại, tập trung, hiệu quả,là giải pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn đầu tư nước ngoài, cũng là điểm giao thoa của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Từ đó chúng ta có thể từng bước học hỏi, nâng cao nhận thức và chuẩn hoá luật pháp, các quy trình và thông lệ theo tiêu chuẩn quốc tế, đưa đất nước từng bước hội nhập, trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Theo đường lối đổi mới đó của Đảng, khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) ở Việt Nam ra đời và phát triển mạnh mẽ. Từ khi khu công nghiệp đầu tiên (KCN Tân Thuận, thành phố Hồ Chí Minh) được thành lập năm 1991, sau 16 năm, việc xây dựng và phát triển KCN đã được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Tính đến hết năm 2006, cả nước có 139 KCN nằm ở 50 tỉnh, thành phố, với tổng diện tích đất tự nhiên trên 29.000 ha (không kể các khu kinh tế tổng hợp như Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội…). Trong đó, 90 KCN đã đi vào hoạt động, các khu còn lại đang trong quá trình giải phóng mặt bằng, xây dựng kết cấu hạ tầng. Trong quy hoạch từ nay đến năm 2010, cả nước sẽ thành lập và xây dựng mới gần 100 KCN, đồng thời mở rộng thêm gần 30 KCN khác, đưa tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN (trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước) từ 26,4% hiện nay lên 35% và tỷ lệ xuất khẩu (trong giá trị xuất khẩu cả nước) tăng 18,7% lên 32% vào 2010. Các KCN tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc 3 vùng kinh tế trọng điểm, là các mũi nhọn phát triển công nghiệp của địa phương và của vùng. Số lượng các KCN được phân bố như sau : Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có 25 khu, diện tích 4601 ha, lao động Việt Nam 116.668 người. Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ có 67 khu, diện tích 16.565 ha, lao động Việt Nam 592.109 người. Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ có 11 khu, diện tích 2.495 ha, lao động Việt Nam 83.204 người. Các khu vực khác có 36 khu, diện tích 5.731 ha, lao động Việt Nam 126.273 người. Như vậy, riêng 3 vùng KTTĐ đã chiếm tới 74% số KCN, 81% diện tích đất KCN và 86% lao động trong tổng số KCN trong cả nước. Hơn nữa, 3 vùng KTTĐ lại có điều kiện về cơ sở hạ tầng và kinh tế- xã hội thuận lợi hơn các vùng khác. Do vậy, thu hút đầu tư vào các KCN tại 3 vùng KTTĐ đóng vai trò then chốt trong tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, tạ đà cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới. Hiện nay, tại vùng KTTĐ phía Nam, Đồng Nai - địa phương nổi lên là một trong những tỉnh có các KCN phát triển mạnh nhất - đặt mục tiêu: đến năm 2010, thu hút 30 tỉ USD vốn đầu tư vào các KCN, trong đó đầu tư mới là 20 tỉ USD và đầu tư mở rộng 10 tỉ USD. Đã có 26 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào tỉnh Đồng Nai, trong đó Đài Loan 2,47 tỉ USD, Hàn Quốc 1,13 tỉ USD, Nhật Bản 1,06 tỉ USD, Mỹ 203 triệu USD, Liên minh châu Âu 601 triệu USD, các nước ASEAN 1.470 triệu USD. Tính đến hết năm 2006, các KCN Đồng Nai đã thu hút được 828 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 8,34 tỉ USD. Trong đó, 198 doanh nghiệp trong nước với tổng vốn đầu tư khoảng 514 triệu USD, chiếm 6% tổng vốn đầu tư vào các KCN, doanh nghiệp liên doanh có khoảng 50 dự án, tổng vốn đăng ký trên 900 triệu USD, chiếm 11%, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trên 450 dự án, tổng vốn đăng ký hơn 6.900 triệu USD, chiếm 83%. Tại vùng KTTĐ Bắc Bộ, những tín hiệu khả quan cũng đang đến với các KCX, KCN Hải Phòng trong năm 2006. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCX, KCN khá ổn định với vốn thực hiện đạt 2 triệu USD, tăng 43% so với cùng kỳ 2005. Các doanh nghiệp đã đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu với doanh thu 10 triệu USD, tăng 50% so với tháng 1/2005. Theo các nhà quản lý kinh tế, nhờ tốc độ tăng trưởng và hiệu quả hoạt động của các KCN, KCX trên toàn quốc tiếp tục được giữ vững nên dòng vốn đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và trong nước đều tăng đều đặn, trong đó có nhiều dự án công nghiệp công nghệ cao. Vì vậy, nhiều KCN đã được Chính phủ cấp phép thành lập mới hoặc mở rộng, như KCN Tân Trường (199,3 ha, thuộc tỉnh Hải Dương); KCN Đại Đồng - Hoàn Sơn (230 ha, tỉnh Bắc Ninh). KCN Ninh Phúc (Ninh Bình) giai đoạn 1 được mở rộng thêm 40,8 ha. Chỉ tính riêng năm 2006, đã có 9 KCN được cấp phép và bắt đầu xây dựng cơ sở hạ tầng trên cả nước với tổng diện tích là 1900 ha bằng 6,9% so với tổng diện tích KCN trước 2006, lớn nhất là KCN Phước Nam (Ninh Thuận) có diện tích 370 ha. Cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO vào tháng 11 năm 2006, triển vọng thu hút đầu tư nước ngoài nói chung vào các KCN, KCX từ nay đến năm 2010 được mở rộng hơn bất cứ thời điểm nào trong lịch sử phát triển các KCN. Việt Nam trở thành điểm đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các thành viên của WTO. Các đoàn doanh nghiệp lớn, công nghệ cao liên tục đến Việt Nam tìm hiểu cơ hội đầu tư. Nhiều dự án lớn với vốn đầu tư trên 500 triệu USD đã và đang được cấp phép và đi vào hoạt động như dự án nhà máy sản xuất thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) tại Khu công nghiệp Phú Mỹ 2, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,2 tỷ USD, dự án của Tập đoàn Intel vốn đầu tư 605 triệu USD. Đối với đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp tiếp tục phát huy hiệu quả, được đánh giá là có tiềm năng to lớn trong việc huy động vốn. Theo dự báo, những lĩnh vực có triển vọng hơn cả trong việc thu hút đầu tư vào các KCN trong 5 năm tới sẽ là ngành công nghiệp năng lượng (điện, than và dầu khí); tiếp đến là công nghiệp ô tô; công nghiệp dệt may, da giày; cơ khí đóng tàu; sản xuất máy móc, thiết bị điện tử, thiết bị thông tin, phần mềm và vật liệu xây dựng. 2. Đóng góp của các KCN vào phát triển kinh tế - xã hội Nhờ việc tích cực thực hiện cải cách kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo chủ trương của Đại hội Đảng đề ra, trong 20 năm đổi mới vừa qua(1986-2006), Việt Nam đã đạt được những thành quả quan trọng về kinh tế cũng như đời sống văn hoá, xã hội. - Tỷ lệ tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm (trung bình giai đoạn 2001-2005 đạt 7,5%), riêng năm 2006 đạt 8,17%, tổng GDP toàn xã hội ước tính đạt 61,7 tỷ USD, GDP đầu người đạt 11,5 triệu đồng, tương đương 720 USD. - Cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo công nghiệp hóa, hiện đại hóa (chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản). Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng từ 40,97% năm 2005 lên 41,52% trong năm 2006; khu vực dịch vụ tăng từ 38,01% lên 38,08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 21,02% xuống còn 20,40%.; tỷ lệ tiết kiệm tăng nhanh (gấp 3 lần, từ 11% GDP năm 1986 lên 39% năm 2005). - Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt mức cao kỷ lục, xấp xỉ 40 tỷ USD, tăng 24% so với năm 2005 và vượt 2 tỷ USD so với kế hoạch. Số mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt giá trị từ 1 tỉ USD trở lên tăng từ 0 mặt hàng năm 1981 lên 9 năm 2006, trong đó 4 mặt hàng lớn truyền thống là dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản kim ngạch mỗi mặt hàng đạt trên 3,3 tỷ USD. - FDI và ODA ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, góp phần cung cấp vốn, cải thiện công nghệ, phương thức quản lý tiên tiến, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, thị trường xuất khẩu lớn hơn, đa dạng hơn, tăng tính cạnh tranh và tạo việc làm cho người lao động. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng đột biến, đạt trên 10,2 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến nay và cũng là một trong những sự kiện kinh tế nổi bật nhất trong năm 2006; tỷ suất FDI/GDP tăng từ cuối thập kỷ 1980 lên 6,41% năm 1994 lên 16,5% năm 2006. Tổng lượng vốn ODA đạt giá trị 2.666 triệu USD, trong đó vốn vay đạt 2.412 triệu USD và vốn viện trợ đạt 254 triệu USD, cam kết năm 2007 là 4,5 tỷ USD. Xuất khẩu hàng hoá năm 2006 ước tính đạt 39,6 tỷ USD, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 14,5 tỷ USD, tăng 30,1% so với năm 2005, đóng góp 46,9%  vào tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Trong sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, KCN là điểm sáng, đóng góp to lớn cho tăng trưởng kinh tế, giữ vai trò quan trọng trong định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tăng cường khả năng tiếp nhận công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tạo việc làm cho người lao động, góp phần xoá đói, giảm nghèo, thúc đẩy xuất nhập khẩu. Điều này được thể hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau: - Trong năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của DN trong các KCN cả nước (không kể doanh thu dịch vụ) đạt 16,8 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2005 và chiếm khoảng 30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. - Trong đó, giá trị xuất khẩu hàng hóa của DN KCN đạt khoảng 8,3 tỷ USD, tăng hơn 22% so với năm 2005 và chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp xuất khẩu của cả nước. - Trong năm, các DN KCN đã nộp ngân sách Nhà nước khoảng 880 triệu USD, tăng 35,4% so với năm 2005. - Số lao động trực tiếp làm việc tại KCN cuối năm 2005 là 80 vạn người, đến cuối năm 2006 là 91,8 vạn người. Như vậy, cả năm tăng thêm 11,8 vạn người, tăng 15% so với cuối năm 2005. . Tại Hà Nội, vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN chiếm tỷ trọng lớn, đạt tới 98% tổng vốn đầu tư. Nguồn vốn này đóng góp 7,5% vào tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố và được coi là xung lực, tạo sự đột phá cho sự tăng trưởng kinh tế của Hà Nội. Chỉ tính riêng 9 tháng đầu năm 2005, có 67 doanh nghiệp hoạt động trong 3 KCN tập trung đã đạt tổng doanh thu 795,4 triệu USD, xuất khẩu 550,52 triệu USD, nộp ngân sách Nhà nước 25,48 triệu USD và tạo thêm 28.160 việc làm cho người lao động. Mặc dù các KCN của Hà Nội chỉ chiếm 16% tổng số dự án và 18% tổng vốn đăng ký của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn nhưng lại chiếm tới 43% tổng doanh thu, 88% tổng kim ngạch xuất khẩu và 18% tổng mức nộp ngân sách Nhà nước và đã tạo được 35% số việc làm mà các dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn tạo ra. Thu hút lượng khá lớn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Riêng đầu tư trực tiếp nước ngoài, tính chung cả vốn đăng ký mới và vốn bổ sung vào các KCN trong năm 2006 đầu tư đạt 5682 triệu USD tăng gần 2 lần so với năm 2005, chiếm 56% tổng vốn FDI đăng ký mới và bổ sung trong năm của cả nước. Tổng hợp đến cuối năm 2006, các KCN đã thu hút được 2433 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 21,79 tỷ USD. Đầu tư trong nước cũng diễn biến khả quan với hơn 300 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 15.000 tỷ đồng (tương đương 940 triệu USD). Đến cuối năm 2006, tổng số dự án trong nước là 2623 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 135.690 tỷ đồng (tương đương khoảng 9 tỷ USD). Tỷ lệ so sánh giữa hai nguồn vốn này là 0,41 thể hiện nguồn vốn đầu tư trong nước đã có vai trò quan trọng nhất định trong phát triển các KCN những năm qua. Như vậy, các KCN, KCX trên cả nước có 5056 dự án còn hiệu lực, bao gồm 2433 dự án đầu tư nước ngoài, 2623 dự án đầu tư trong nước,đã có gần 3.424 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và trên 856 dự án đang triển khai xây dựng cơ bản.  - Tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Năm 2006 các KCN đã thu hút thêm gần 118.000 lao động trực tiếp, tăng 15% so với năm trước, đưa tổng số lao động trực tiếp trong KCN lên 918.000 người, không kể gần 2 triệu lao động gián tiếp khác. Tại Hà Nội, chỉ tính 67 doanh nghiệp đi vào hoạt động, đã thu hút gần 43.000 lao động trực tiếp và khoảng 45.000 lao động gián tiếp, bằng 40% số lao động làm việc tại các doanh nghiệp có vốn FDI trên địa bàn, phần lớn các lao động đều được đào tạo huấn luyện để nhanh chóng nắm bắt và sử dụng các dây chuyền sản xuất mới, làm gia tăng chất lượng nguồn nhân lực kể cả lao động quản lý và kỹ năng lao động trực tiếp. - Thúc đẩy việc đổi mới và hoàn thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Các doanh nghiệp trong các KCN, đi tiên phong trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và áp dụng công nghệ, dây chuyền sản xuất tiên tiến, là mô hình thử nghiệm thích hợp nhất để cải thiện môi trường đầu tư trong nước, đã đem lại nhiều bài học kinh nghiệm góp phần quan trọng vào việc đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế, hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính, nhất là thể chế tiền tệ và tín dụng, ngoại hối của các địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Các doanh nghiệp này cũng góp phần làm thay đổi bộ mặt và cấu trúc mạng lưới thương mại hàng hoá và dịch vụ, cơ cấu hệ thống hậu cần thương mại cũng như toàn bộ lĩnh vực phân phối, lưu thông và dịch vụ xã hội. - Tạo điều kiện cho các địa phương phát huy thế mạnh đặc thù của mình, đồng thời hình thành mối liên kết, hỗ trợ phát triển sản xuất trong vùng, miền và cả nước. - Các KCN góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới và công nghệ mới, làm cho cơ cấu kinh tế của nhiều tỉnh, thành phố và khu vực toàn tuyến hành lang kinh tế nói chung từng bước chuyển biến theo hướng một nền kinh tế công nghiệp hoá, thị trường, hiện đại. Nhiều KCN nói chung đã phát triển các ngành công nghiệp hoàn toàn mới có hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao như thiết bị văn phòng (Canon), điện tử (Orion -Hanel...), phụ tùng ôtô, xe máy, vật liệu xây dựng, sản phẩm thép... Theo đánh giá, những công nghệ đang sử dụng ở các dự án FDI trong các KCN đều hiện đại hơn công nghệ vốn có của nước ta, là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước học hỏi và áp dụng, nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp. - KCN còn góp phần quan trọng vào mở rộng thị trường, đẩy mạnh kinh tế đối ngoại và tăng kim ngạch xuất khẩu cho khu vực hành lang kinh tế. Do đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, các doanh nghiệp trong các KCN có cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu. Giá trị xuất khẩu hàng hóa của DN KCN đạt khoảng 8,3 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp xuất khẩu của cả nước. Các doanh nghiệp trong các KCN còn góp phần làm thay đổi cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và cơ cấu nhập khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ trong khu vực và trên thế giới. 2.3. Nâng cao trình độ công nghệ, hiện đại hoá cách thức quản lý sản xuất KCN, KCX là khu vực có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng cùng với nhiều chính sách ưu đãi đầu tư được áp dụng nên đây chính là điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư, trong đó có đầu tư nước ngoài. Một số công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới cùng trình độ quản lý cao của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp, trình độ tay nghề của công nhân theo các chuẩn mực quốc tế đã được áp dụng tại Việt Nam. Đây cũng là những nhân tố quan trọng góp phần để nước ta thực hiện việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Cùng với dòng vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN, các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại, trong đó có cả những dự án công nghiệp kỹ thuật cao (phần lớn của Nhật Bản), như Công ty TNHH Canon Việt Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel..., những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu kém và cần khuyến khích phát triển như cơ khí chính xác, điện tử... Các dự án đầu tư vào KCN tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giầy, công nghiệp chế biến thực phẩm (chiếm trên 50% tổng số dự án), đây là các dự án thu hút nhiều lao động, có tỷ lệ xuất khẩu cao và đã góp phần nâng cấp các ngành này về dây chuyền công nghệ, chất lượng sản phẩm... Tuy nhiên, các KCN cũng đã thu hút được các dự án có quy mô và yêu cầu vốn lớn, công nghệ cao như dầu khí, sản xuất ôtô, xe máy, dụng cụ văn phòng, cơ khí chính xác, vật liệu xây dựng... Mặc dù số lượng các dự án này trong KCN mới chiếm khoảng 5-10% số dự án, nhưng cũng đã góp phần phát triển và đa dạng hoá cơ cấu ngành nghề công nghiệp. Các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp sức đào tạo được đội ngũ lao động công nghiệp sử dụng và vận hành thành thạo các trang thiết bị phục vụ quản lý và sản xuất, nắm vững công nghệ, có tác động lan toả và nâng trình độ tay nghề của đội ngũ lao động Việt Nam lên một bước. Một lượng đáng kể người lao động Việt Nam được đảm nhận các vị trí quản lý doanh nghiệp, được tiếp xúc với phương thức quản trị doanh nghiệp tiên tiến, hiện đại, kỹ năng marketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự... Việc được trực tiếp làm việc trong môi trường có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao, đã rèn luyện được những kỹ năng và bản lĩnh làm việc giúp người lao động Việt Nam thích ứng với một nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại. 2.4. Hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng Việc phát triển các KCN trong thời gian qua không những thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển, thúc đẩy CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn, mà còn đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, góp phần đáng kể vào việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN. Điều này được thể hiện qua một số khía cạnh sau: - Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng các KCN có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế địa phương, góp phần rút ngắn sự chênh lệch phát triển giữa nông thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Điều này có thể dễ dàng nhận nhất ở những vùng có KCN phát triển mạnh như Biên Hòa, Nhơn Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình Dương), Tiên Sơn (Bắc Ninh)… cùng với quá trình phát triển KCN, các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ gia tăng, đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho các cơ sở dịch vụ trong vùng. - Cùng với các chính sách ưu đãi về tài chính và công tác quản lý thuận lợi của nhà nước, có thể nói việc thu hút nguồn vốn để đầu tư xây dựng hoàn thiện và đồng bộ các kết cấu hạ tầng trong KCN có vai trò quyết định trong việc thu hút đầu tư. Việc các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế (doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh) tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN không những tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong KCN hoạt động hiệu quả, mà còn tạo sự đa dạng hóa thành phần doanh nghiệp tham gia xúc tiến đầu tư góp phần tạo sự hấp dẫn trong việc thu hút doanh nghiệp công nghiệp vào KCN. - Việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN không những thu hút các dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô để tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân cư, tạo điều kiện để các địa phương giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi trường đô thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của cộng đồng trong khu vực như KCN Tân Tạo (TP.Hồ Chí Minh), Việt Hương (Bình Dương)… - Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn đảm bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng cho quy hoạch phát triển các khu dân cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, dịch vụ… các công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và cư dân trong khu vực như: nhà ở, trường học, bệnh viện, khu giải trí… - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tư các ngành như điện, giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xúc tiến đầu tư, phát triển thị trường địa ốc... đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của các KCN.  3.Sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp - khu chế xuất ở Việt Nam: Sự ra đời của các KCN, KCX gắn liền với đường lối đổi mới, chính sách mở cửa do Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khởi xướng. Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII năm 1994 đã đề ra yêu cầu về “Quy hoạch các vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm, các KCX, khu kinh tế đặc biệt, KCN tập trung”. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng năm 1996 cũng đã xác định rõ “Hình thành các KCN tập trung (bao gồm cả KCX, KCNC), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị. ở các thành phố, thị xã, nâng cấp, cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII cũng xác định phương hướng trong thời gian tới là “Phát triển từng bước và nâng cao hiệu quả các KCN”. Để thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển và phân bố công nghiệp, Nhà nước chủ trương tập trung phát triển công nghiệp vào các KCN, KCX theo quy hoạch xác định. Thực tế, trong 16 năm qua kể từ ngày nước ta có KCX đầu tiên đến nay, các KCN, KCX, KCNC đã thể hiện vị trí và vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều đó thể hiện: Trước hết là, việc xây dựng các KCN, KCX nhằm phát huy hiệu quả của sự tập trung nguồn lực cho sản xuất. Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư. Đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX cho đến nay chiếm khoảng 27,6% tổng lượng vốn đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế và khoảng 61,4% vào phát triển công nghiệp. Hầu hết, các dự án đầu tư vào các KCN triển khai nhanh và thuận lợi hơn so với ngoài KCN, KCX, KCNC. Tính đến nay, vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp KCN đạt trên 53% vốn đầu tư đăng ký. Thời gian xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư vào KCN tương đối ngắn (khoảng 1 - 2 năm, cá biệt có dự án chỉ 6 tháng sau khi cấp giấy phép đầu tư đã đi vào sản xu t kinh doanh). Thứ hai là, KCX là nơi tập trung sản xuất và gia công hàng xuất khẩu. KCN, KCX là nơi tập trung hoá sản xuất cao, ở đó tiếp nhận các phương pháp quản lý hiện đại vận hành trên các dây chuyền công nghiệp hiện đại của các đối tác trực tiếp nước ngoài và các liên doanh. Nếu cùng xây dựng tại đây, các doanh nghiệp Viêt Nam có nhiều điều kiện tiếp thu, học hỏi phương thức tổ chức quản lý sản xuất, tiếp thu công nghệ hiện đại cho chính mình. Sự tập trung sản xuất, giúp cho việc xây dựng cơ chế riêng hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời giúp cho cơ quan quản lý nhà nước thuận tiện hơn trong quá trình theo dõi giám sát, quản lý hoạt động của các doanh nghiệp. Một trong những mục tiêu quan trọng của việc hình thành các KCN và các KCX là tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ trong đó có công nghệ về quản lý, kinh nghiệm về điều hành. Sự chuyển giao công nghệ đã đạt được những thành công trong một số lĩnh vực nhất định. Trong tổng số hơn 5000 dự án đầu tư phát triển công nghiệp trong các KCN đến thời điểm tháng 12 năm 2006 có tới 2433 dự án đầu tư nước ngoài. Các dự án đầu tư nước ngoài nhìn chung có công nghệ tương đối hiện đại, sản phẩm có chất lượng tốt và cạnh tranh được cả trên thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Các dự án đầu tư nước ngoài tại các KCN thực sự là một trong những kênh chuyển giao công nghệ một cách nhanh chóng. Các dự án này sử dụng một số lượng đáng kể lao động trong nước. Qua thực tiễn hoạt động trong các doanh nghiệp KCN lực lượng lao động được đào tạo và tiếp cận với công nghệ tương đối hiện đại và được nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Thứ ba là, KCNC là vườn ươm công nghệ, nơi có cơ chế hoạt động hấp dẫn các nhà khoa học đến làm việc nghiên cứu, thí nghiệm. Đây là nơi triển khai các dự án, những phát minh sáng chế trong công nghệ trước khi đưa vào sản xuất. Đó là nơi nối nhà khoa học với doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Với những chính sách ưu đãi tốt, hoàn toàn có khả năng thu hút các ngành công nghệ mũi nhọn như điện tử, sinh học vật liệu mới,… Đây là khu thu hút các lao động khoa học, nguồn nhân lực đầu ra của các viện nghiên cứu. Do đó, KCN, KCX, KCNC là nơi các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tiếp nhận các thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới, để vận dụng vào sản xuất của chính doanh nghiệp mình, thúc đẩy nhanh hơn quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các KCN đã góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, tăng trưởng kinh tế, hình thành các trung tâm công nghiệp gắn liền với phát triển đô thị, tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Đồng thời KCN cũng góp phần giải quyết việc làm, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu hẹp chênh lệch giữa các vùng của đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động các KCN cũng đặt ra nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, môi trường cần quan tâm xử lý để tiếp tục phát triển. Sự phát triển nhanh, có chất lượng của các KCN, KCX và KCNC có tác động rất tích cực đối với sự chuyển dịch cơ cấu của một tỉnh, một vùng, và của cả nước. Từ một nước nông nghiệp đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, nhu cầu việc làm rất lớn. Phát triển công nghiệp nói chung và các KCN nói riêng nhằm tạo ra nhiều việc làm, thu hút ngày càng nhiều lao động dư thừa ở khu vực nông nghiệp, góp phần nâng cao được năng suất ở khu vực này. Theo số liệu điều tra, hiện nay 1 ha đất KCN, KCX tạo ra khoảng 150 chỗ làm việc kể cả gián tiếp và trực tiếp, (trong đó lao động trực tiếp bình quân khoảng 81 người/ha). Các KCN, KCX góp phần thúc đẩy mạnh quá trình chuyển biến cơ cấu sản xuất công nghiệp theo hướng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu một cách có hiệu quả, nâng d._.ần tỷ trọng các mặt hàng đã qua chế biến, hạn chế đến mức thấp nhất việc xuất khẩu nguyên liệu thô. Do tập trung các cơ sở sản xuất nên có điều kiện thuận lợi trong việc kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường, do vậy KCN là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ nội thành, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Đây là một trong số các mục tiêu đặt ra đối với việc thành lập KCN. Cho đến nay, hầu hết các KCN tập trung được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trong thiết kế cũng như trong quá trình triển khai xây dựng có chú ý đến việc xử lý nước thải công nghiệp, và đã có các cơ sở hạ tầng xử lý. Sự phát triển các KCN tập trung trong giai đoạn vừa qua rộng khắp trên phạm vi toàn quốc, song nhìn chung tập trung chủ yếu ở khu vực ba vùng kinh tế trọng điểm. Sự phân bố tập trung này là khách quan, bởi lẽ các vùng kinh tế trọng điểm là nơi thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp nói chung và các KCN nói riêng. Tới đây, việc phát triển, xây dựng, củng cố các KCN, KCX, KCNC nhằm hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm các nước đi đầu của ASEAN hiện nay, có mức thu nhập GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD - 2.400 USD vào năm 2020. Như vậy, phát triển các KCN, KCX, KCNC cũng nhằm thực hiện được mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần tăng trưởng kinh tế (tăng GDP của địa phương có KCN); phát triển xã hội (xoá đói giảm nghèo, phấn đấu cho công bằng xã hội); đảm bảo hội nhập kinh tế quốc tế (doanh nghiệp và sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế). Cần ưu tiên phát triển các KCN, các ngành công nghiệp tạo được giá trị gia tăng lớn, tránh được tình trạng đầu tư theo phong trào mà không tính đến hiệu quả kinh tế. Vì vậy khi chọn ngành công nghiệp theo hướng hiện đại trong KCN cần chú ý tới những điểm sau: - Một là, lựa chọn ngành công nghiệp ưu tiên phát triển nhanh hơn, với mức đầu tư tập trung hơn, tạo tiền đề thúc đẩy các ngành công nghiệp khác. Đặc điểm đáng lưu ý khi Việt Nam bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá là: mức thu nhập thấp (GDP cho đến nay mới chỉ đạt mức trung bình của nhóm 4 nước đi đầu trong ASEAN); vị trí của Việt Nam trong chuỗi phân công lao động khu vực còn đang ở mức lao động giản đơn; sức cạnh tranh của một số ngành công nghiệp còn yếu; lợi thế so sánh có những thay đổi bất lợi hơn trước. Vì vậy, những ngành công nghiệp mũi nhọn được chọn sẽ phải đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới đang gia tăng, đồng thời có lợi thế so sánh động, có thể làm chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu của ngành công nghiệp nước ta trong tương lai gần. - Hai là: việc lựa chọn ngành ưu tiên phải chú ý tới ưu thế vượt trội của Việt Nam so với các nước và khả năng thu hút đầu tư vào ngành đó, đồng thời cũng cần cân nhắc ưu tiên những vùng có vị trí thuận lợi về hạ tầng, điều kiện dịch vụ,... để nâng cao sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế. Hiện nay, Việt Nam có lợi thế so sánh nhất định ở những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động giản đơn (công nghiệp dệt - may, da - giầy, đồ gỗ,...) và những ngành vừa có hàm lượng lao động cao, vừa sử dụng nhiều nguyên liệu từ nông nghiệp (công nghiệp chế biến,...). Trong suốt ba thập kỷ qua, các nước Đông Á đã theo đuổi chiến lược phát triển các ngành có hệ số vốn đầu tư thấp, sử dụng nhiều lao động nên đã có được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế rất cao (giữ được hệ số ICOR thấp), đồng thời giải quyết được lượng lớn lao động, góp phần ổn định xã hội. Trong gian đoạn đầu của công nghiệp hoá, Việt Nam cần phải tham gia những ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt, may, da giầy,...), đồng thời với những ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao đòi hỏi lao động có kỹ năng cao, kỹ thuật lành nghề (như công nghệ tin học - viễn thông, thiết bị điều khiển, đồ điện gia dụng, xe máy,...). Để thực hiện phương châm “đi tắt, đón đầu”, Việt Nam cần chủ động lựa chọn đón trước phát triển những ngành công nghiệp của các nước tiên tiến chứ không thụ động ngồi chờ chuyển giao các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động mà các nước NIEs, NICs đã trải qua, theo kiểu lan tỏa, phát triển theo mô hình đàn sếu bay. Ví dụ, ngành công nghiệp đóng tầu theo mô hình đàn sếu bay thì lan tỏa từ Nhật Bản sang 4 nước NIEs (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore), rồi tới Trung Quốc và sau đó đến Việt Nam là một chu trình dài ít nhất 30 năm. Đây là mô hình phát triển theo kiểu “đuổi bắt” nhiều tầng trong quá trình công nghiệp hoá vào thập kỷ 60 -70 ở Đông Á. Vì những lẽ đó, ngành kinh tế mũi nhọn cần chú ý lựa chọn sẽ là những ngành có thế mạnh, đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu; có khả năng đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư, theo yêu cầu phát triển của thị trường, hạn chế tác động bằng kế hoạch; có khả năng giúp ổn định xã hội cao, nhất là ổn định nông thôn; đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường phù hợp khả năng nền kinh tế; có khả năng đầu tư ra nước ngoài, hỗ trợ phát triển trong nước (dịch vụ, khai thác tài nguyên,…). Kinh tế thế giới đang phát triển, thúc đẩy các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia mở rộng đầu tư ra những khu vực ổn định về chính trị, có nguồn lao động rẻ, giá thuê đất không cao, do đó xây dựng KCN, KCX trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế phải tuân thủ quy hoạch tổng thể ngành, vùng lãnh thổ để phát huy đồng đều mọi tiềm năng đất nước, tiết kiệm đất để đảm bảo tốt an ninh lương thực, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Văn kiện đại hội IX chỉ rõ “ Quy hoạch phân bố hợp lý KCN trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các KCN, KCX, xây dựng KCNC, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở”. Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học công nghệ. Quốc gia nào có khả năng sở hữu lớn về vốn và công nghệ quốc gia đó sẽ có những bước tiến nhảy vọt trong phát triển về kinh tế. Thông qua các KCN, KCNC, KCX chúng ta mới có khả năng đón nhận các nguồn vốn lớn cùng công nghệ tiến bộ trong giai đoạn toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập quốc tế. Công nghệ và tri thức có vai trò càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất, là một xu thế khách quan lôi cuốn nhiều nước tham gia. KCN, KCX như các tế bào sản xuất của ngành công nghiệp của mỗi quốc gia, phải được nhân rộng và phát triển để trở thành các trung tâm công nghiệp vùng, lãnh thổ. Quan tâm tới công tác quy hoạch, xây dựng phát triển KCX, công nghệ cao là nhằm mục tiêu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tình hình đầu tư và thực hiện đầu tư ở khu công nghiệp - khu chế xuất ở Việt Nam đến hết năm 2006: Cùng với những chuyển biến mới của nền kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động của các KCN cả nước trong năm 2006- năm mở đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng và kế hoạch 5 năm 2006-2010 - đã đạt được những thành tựu nổi bật về nhiều mặt. Tổng diện tích đất quy hoạch tăng thêm trong năm là 2607 ha, từ 9 KCN mới được thành lập và 3 KCN được phép mở rộng. Đến hết năm 2006, cả nước có 139 KCN với tổng diện tích quy hoạch là 29.392 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có khả năng cho thuê đạt 19.743 ha. So với cuối năm 2005, quỹ đất tự nhiên (gồm cả đất đã được phân định cho sản xuất công nghiệp) của toàn bộ các KCN được thành lập (đến thời điểm này) tăng 11%. Ngoài ra, đến nay có 8 khu kinh tế (KKT) đã được hình thành theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, tổng diện tích đất tự nhiên là 323.940 ha. Đó là các KKT mở Chu Lai, KKT Dung Quất, Nhơn Hội, Nghi Sơn, Vũng áng, Vân Phong, Phú Quốc và Chân Mây-Lăng Cô. Từ đó, đã và đang mở ra tiềm lực về quỹ đất dồi dào để phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp trên nhiều vùng khác nhau. Tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN được đẩy nhanh hơn, số các KCN được xây dựng xong và đưa vào vận hành trong năm là 15 KCN. Trong tổng số 139 KCN đã được thành lập đã có 90 KCN cơ bản hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng và thực tế đã vận hành, với tổng diện tích công nghiệp 13.683 ha, tăng 19% so với năm 2005 (năm 2005 có 75 KCN đi vào hoạt động với 11.480 ha đất công nghiệp đã hoàn tất xây dựng cơ sở hạ tầng). Tỷ lệ KCN đã vận hành, hoạt động trong năm chiếm 65% tổng các KCN hiện có. Trong đó, có 17/19 dự án xây dựng hạ tầng có vốn ĐTNN và 73/120 xây dựng hạ tầng của DN trong nước. Tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN, tính đến cuối năm 2006 đạt khoảng 585 triệu USD và 13,596 tỷ đồng. So với tổng vốn dự toán, vốn thực hiện FDI đạt 60,3% với trình độ xây dựng các công trình hạ tầng đạt chất lượng khá cao. Tổng vốn đầu tư thực hiện xây dựng hạ tầng của các dự án trong nước đạt 36,5%. Năng lực thu hút đầu tư dự án nước ngoài (FDI) tăng vượt trội so với năm 2005 Năm 2006, các KCN đã thu hút 356 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký mới là 4336 triệu USD tăng 2,4 lần so với năm trước; đồng thời có 337 lượt dự án mở rộng sản xuất, tăng vốn với tổng số vốn đầu tư đăng ký tăng thêm 1.347 triệu USD, tăng 30,5% so với năm 2005. Tính chung cả vốn đăng ký mới và vốn bổ sung vào các KCN trong năm 2006 đầu tư đạt 5682 triệu USD tăng gần 2 lần so với năm 2005 chiếm 56% tổng vốn FDI đăng ký mới và bổ sung trong năm của cả nước. Tổng hợp đến cuối năm 2006, các KCN đã thu hút được 2433 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 21,79 tỷ USD. Các dự án ĐTNN có quy mô lớn hơn năm trước Quy mô vốn đầu tư bình quân mỗi dự án ĐTNN đăng ký mới vào KCN trong năm là 12,18 triệu USD/dự án, gấp hơn 2 lần năm 2005. Bình quân mỗi lượt dự án mở rộng sản xuất có mức vốn đầu tư bổ sung là 4 triệu USD/dự án, tăng 39% so với năm trước. Có mức tăng trưởng cao như vậy là do trong năm có nhiều dự án ĐTNN có quy mô vốn lớn đầu tư vào KCN, KKT ở các vùng kinh tế trọng điểm. Nhờ đó, một số địa phương có KCN tiếp nhận được những dự án này đã trở thành đơn vị có năng lực thu hút đầu tư thuộc diện dẫn đầu cả nước. Những dự án có quy mô vốn lớn đầu tư vào KCN trong năm 2006 như dự án nhà máy sản xuất thép (Hàn Quốc) có tổng vốn đầu tư đăng ký trên 1,2 tỷ USD (tại KCN Phú Mỹ II); dự án sản xuất thiết bị viễn thông của Công ty Panasonic (KCN Thăng Long) có tổng vốn 76 triệu USD; dự án sản xuất máy fax, thiết bị điện tử của Công ty TNHH Brother Industries (KCN Phúc Điền Hải Dương) với tổng vốn đầu tư 40 triệu USD. Đặc biệt, một số dự án đăng ký mở rộng sản xuất, tăng vốn bổ sung cũng với số vốn lớn như: Công ty TNHH Công nghiệp Gốm Bạch Mã (Bình Dương) tăng thêm 150 triệu USD; Công ty TNHH Hoya Glass Disk (Hà Nội) tăng thêm 130 triệu USD; Công ty Giấy Ching Luh (Long An) tăng 98 triệu USD; nhà máy sản xuất máy in Canon (Bắc Ninh) với mức tăng 70 triệu USD; Công ty Formosa (Đồng Nai) tăng 66,4 triệu USD,... Năng lực thu hút nguồn đầu tư trong nước vào KCN cũng có chuyển biến khá Trong năm 2006, các KCN, KKT tiếp tục thu hút được hơn 300 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 15.000 tỷ đồng (tương đương 940 triệu USD). So với năm 2005, tuy giảm về số dự án (2005 là 350 dự án) nhưng tổng vốn đầu tư trong nước của năm 2006 lại tăng 50% với khoảng 5000 tỷ đồng, do cũng có nhiều dự án đầu tư trong năm có lượng vốn đăng ký lớn hơn. Tổng hợp đến cuối năm 2006, tổng số dự án trong nước còn hiệu lực là 2623 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 135.690 tỷ đồng (tương đương khoảng 9 tỷ USD). Tỷ lệ so sánh giữa hai nguồn vốn này là 0,41 thể hiện nguồn vốn đầu tư trong nước đã có vai trò quan trọng nhất định trong phát triển các KCN những năm qua. Tổng diện tích đất công nghiệp thực tế cho thuê lại trong năm đạt 1766 ha, tăng 18% so với năm 2005, đáp ứng được nhu cầu về mặt bằng cho nhà đầu tư trong năm. Tính chung cả nước đến cuối năm 2006, các KCN đã cho thuê khoảng 10.758 ha đất công nghiệp, đạt tỷ lệ diện tích đất cho thuê 54,5% trong tổng diện tích công nghiệp có thể cho thuê của các KCN đã thành lập (gồm cả diện tích của những KCN mới thành lập chưa khởi công xây dựng). Nếu tính riêng diện tích công nghiệp của những KCN đã vận hành (cơ sở hạ tầng đủ điều kiện tiếp nhận, thực hiện dự án) thì diện tích đất công nghiệp thực tế cho thuê đạt 72,2%, thể hiện tốc độ thu hút đầu tư tăng nhanh, tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng được đẩy nhanh hơn và sớm thực hiện nhiều dự án đầu tư. Gia tăng tốc độ triển khai thực hiện các dự án đầu tư trong và ngoài nước. Tính đến cuối năm 2006, tổng số các dự án đầu tư trong và ngoài nước còn hiệu lực đã tăng 12% so với cuối năm 2005, trong đó dự án đã và đang triển khai thực hiện đầu tư là 4300 dự án, tăng 30% so với năm 2005 và chiếm 85% tổng số các dự án còn hiệu lực (năm 2005, tỷ lệ này đạt 73%). Trong tổng số dự án đang thực hiện phân theo nguồn vốn đầu tư có tình hình như sau: Dự án có vốn ĐTNN còn hiệu lực trong năm là 2433 dự án, trong đó những dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh trong KCN là 1700 dự án và 380 dự án đang xây dựng nhà xưởng. Tổng vốn đầu tư thực hiện đến cuối năm 2006 đạt 11,37 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn đăng ký. Trong 2633 dự án đầu tư trong nước còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 135.690 tỷ đồng, hiện đã có 1720 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và gần 500 dự án đang xây dựng nhà xưởng. Tổng vốn đầu tư thực hiện của những dự án này đạt 78.000 tỷ đồng chiếm khoảng 58% tổng vốn đăng ký. Kết quả sản xuất kinh doanh của các DN trong các KCN đạt mức tăng trưởng khá cao và toàn diện. Trong năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của DN trong các KCN cả nước (không kể doanh thu dịch vụ) đạt 16,8 tỷ USD, tăng 19% và chiếm khoảng 30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Trong đó, giá trị xuất khẩu hàng hóa của DN KCN đạt khoảng 8,3 tỷ USD, tăng hơn 22% so với năm 2005 và chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp xuất khẩu của cả nước. Trong năm, các DN KCN đã nộp ngân sách Nhà nước khoảng 880 triệu USD, tăng 35,4% so với năm 2005. Số lao động trực tiếp làm việc tại KCN cuối năm 2005 là 80 vạn người, đến cuối năm 2006 là 91,8 vạn người. Như vậy, cả năm tăng thêm 11,8 vạn người, tăng 15% so với cuối năm 2005. Chương II: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp - khu chế xuất tại vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Khái quát tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào KCN, KCX cả nước Tổng quan tình hình thu hút vốn đầu tư vào KCN, KCX ở Việt Nam (tính theo vốn đầu tư đăng ký): Sau 16 năm xây dựng và phát triển, các KCN, KCX ở vùng KTTĐ Bắc Bộ đã có đóng góp quan trọng vào việc thu hút vốn đầu tư. Tổng số vốn đầu tư thực hiện thu hút được đến hết năm 2006 là : Bảng 2.1: Tình hình thu hút đầu tư vào KCN, KCX cả nước Chỉ tiêu Tổng vốn Vốn đầu tư xây dựng CSHT Số dự án Số vốn Số dự án (dự án) Tỷ trọng Số vốn (triệu USD) Tỷ trọng Đầu tư trong nước 5.335 850 2.625 51.9% 4.485 28.3% Đầu tư nước ngoài 11.954 585 2.433 48.1% 11.369 71.7% Tổng vốn 17.289 1.435 5.058 100% 15.854 100% Nguồn: tổng hợp từ Vụ Quản lí KCN-KCX, Bộ Kế hoạch Đầu tư Các KCN, KCX tại Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng và phát triển ban đầu nên lượng vốn xây dựng cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định và chiếm tỷ trọng lớn, dần dần lượng vốn này có xu hướng giảm tương đối so với lượng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh tăng mạnh tại các KCN đã hoàn thành xây dựng cơ bản. Tính đến năm 2006, cả nước có 90 KCN đã cơ bản xây dựng xong cơ sở hạ tầng và 49 khu đang thực hiện xây dựng cơ bản theo hình thức cuốn chiếu, cho thuê để sản xuất kinh doanh những phần đã hoàn thành xây dựng cơ bản. Về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Vốn trong nước chiếm 60%, giai đoạn đầu chủ yếu là nguồn vốn ngân sách, hiện nay đã áp dụng chính sách giao đất cho doanh nghiệp thầu xây dựng cơ sở hạ tầng nên tỉ trọng đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bắt đầu tăng, tuy còn nhiều bất cập về giá trị gia tăng sau khi xây dựng cơ sỏ hạ tầng và hiệu quả xây dựng. Vốn nước ngoài chiếm 40% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và chiếm và có xu hướng tăng lên trong thời gian tới, giữ vai trò quan trọng trong việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng các KCN, KCX theo quy chuẩn quốc tế, tăng sức hấp dẫn của KCN, KCX đối với các nhà đầu tư. Về đầu tư vào sản xuất kinh doanh: Đầu tư trong nước: Quy mô vốn trung bình là 1,709 triệu USD/dự án, chiếm tỷ trọng vốn 28,3% tổng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại các KCN, KCX trên cả nước. Các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào KCN, KCX thuộc mọi thành phần kinh tế, đa số là các doanh nghiệp thành lập từ trước, do nhu cầu mở rộng sản xuất lập thêm di dời từ ngoài KCN vào trong KCN, hoặc thành lập thêm cơ sở sản xuất trong KCN. Tuy chỉ giữ vai trò khiêm tốn nhưng đây là nguồn vốn có tính chất quyết định, là nhân tố nội lực. Những năm đầu xây dựng KCN, do chưa nhận thức được tầm quan trọng của KCN trong việc huy động nguồn vốn bên trong, chúng ta đã xem nhẹ việc thu hút các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào KCN. Điều này thể hiện ở số dự án và tổng vốn đầu tư của thành phần kinh tế trong nước vào KCN thời gian này còn rất hạn chế. Chỉ vài năm gần đây, vai trò của khu vực trong nước mới được chú trọng, dòng vốn đầu tư trong nước trong KCN tăng đáng kể, số dự án trong nước trong các KCN hai năm gần đây đã vượt so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Kết quả là đã có hơn 2.600 với tổng vốn đầu tư đăng ký là 135.700 tỷ đồng. Điều đã cho thấy rõ tiềm lực của khu vực kinh tế trong nước, tiềm lực này cần được kích thích tăng trưởng mạnh mẽ để nâng cao khả năng sản xuất và tỷ trọng đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế trong nước. Hiện nay, KCN đã trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư trong nước, ngoài những doanh nghiệp di chuyển từ các đô thị vào thì các doanh nghiệp được thành lập mới tại KCN ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số dự án đầu tư vào các KCN, KCX. Đầu tư nước ngoài: Quy mô vốn trung bình là 4,67 triệu USD/ dự án, chiếm 71,7% tỷ trọng về vốn so với tổng đầu tư vào sản xuất kinh doanh, chiếm 95% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX. Có thể nói, KCN là nơi chính sách ưu đãi đối với khu vực đầu tư nước ngoài được thể hiện rõ nhất, các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng đầu tư vào KCN, bởi KCN có một hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại và sẵn có, một môi trường pháp lý thuận lợi và thống nhất, có cơ chế “một cửa, tại chỗ” được thực thi. Vì vậy, vốn đầu tư nước ngoài trong KCN chiếm tỷ trọng lớn và giữ vai trò chủ đạo đối với KCN và tổng vốn ĐTTTNN trong cả nước. Tình hình đầu tư nước ngoài: Sau đây là phân tích chi tiết về tình hình tăng giảm vốn đầu tư nước ngoài vào KCN, KCX qua các năm trong giai đoạn 1991-2006: Bảng 2.2:Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX cả nước so sánh theo trung bình năm giai đoạn 1991-2006(tính theo vốn đăng ký của các dự án được cấp giấy phép đầu tư) Chỉ tiêu Đơn vị TB giai đoạn 1991-1995 TB giai đoạn 1996-2000 TB giai đoạn 2001-2005 2006 Tổng vốn ĐTNN vào KCN,KCX triệu USD 844 808,4 2.011,2 5.682 Vốn ĐTNN vào xây dựng CSHT %tăng giảm liên hoàn Tỷ trọng ĐT CSHT trên tổng vốn ĐTNN vào KCN,KCX tr.USD % % 74 - 8,8 91,2 23,2 11,3 43 -59,2 2,1 56,2 30,7 1 Vốn ĐTTTNN vào sản xuất kinh doanh %tăng giảm liên hoàn Tỷ trọng ĐT SXKD trên tổng vốn ĐTNN vào KCN,KCX tr.USD % % 770 - 91,2 717,2 -6,9 88,7 1968,2 174,4 97,7 5.625,8 185,8 99 Nguồn: tổng hợp từ Vụ Quản lý KCN-KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trong 5 năm đầu (1991-1995), tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX là 4.220 triệu USD, trung bình 844 triệu USD/năm, số vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng là 370 triệu USD chiếm 8,8%, còn lại 91,2% là vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Giai đoạn 1996-2000, do tác động của khủng hoảng kinh tế khu vực châu Á đặc biệt là khu vực ASEAN, số vốn ĐTTTNN vào KCN, KCX giảm 4,2% so với giai đoạn trước xuống 4.042 triệu USD (trung bình năm 808,4 triệu USD) trong đó đầu tư vào sản xuất kinh doanh giảm 6,9% (3.586 triệu USD), nhưng do nhu cầu thành lập và xây dựng KCN, vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng vẫn tăng 23% lên 456 triệu USD, chiếm 11,3% tổng vốn đầu tư nước ngoài của cả giai đoạn. Giai đoạn 2001-2005 đánh dấu sự phục hồi của nền kinh tế khu vực và thế giới sau khủng hoảng kinh tế ở châu Á, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX tăng vượt bậc với tổng vốn thu hút được lên tới 10.056 triệu USD (tăng 149%), Tổng số vốn vào sản xuất kinh doanh đạt 9.841 triệu USD, chiếm tỷ lệ 97,9% tổng số vốn và tăng 174,4% so với thời kỳ 1996-2000, trung bình năm thu hút 2.011 triệu USD. Tuy nhiên lượng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng giảm xuống thấp nhất chỉ còn 215 triệu USD, do các KCN cũ đã hoàn thành và đi vào hoạt động, các KCN chưa được thành lập hoặc gặp khó khăn trong đền bù giải phóng mặt bằng. Riêng năm 2006, nhờ tích cực cải cách môi trường đầu tư, tăng cường các hoạt động đối ngoại, chú trọng quảng bá các cơ hội đầu tư ở Việt Nam, đặc biệt là việc gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư vào KCN, KCX tăng đột biến, đạt 5682 triệu USD chiếm 56% tổng vốn FDI của cả nước, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng vốn FDI kỷ lục 10,2 tỷ USD vào Việt Nam trong năm. Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp - khu chế xuất tại vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. 1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp - khu chế xuất nói riêng Theo Quyết định số 145/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Phương hướng phát triển kinh tế-xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020”, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gồm 8 tỉnh: tp Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh. Trước năm 2003, vùng KTTĐ Bắc Bộ chỉ gồm 5 tỉnh là Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên, Hải Dương. Sau Hội nghị các tỉnh vùng KTTĐ Bắc Bộ ngày 14 – 15/7/2003, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định mở rộng ranh giới vùng KTTĐ Bắc Bộ, bổ sung thêm 3 tỉnh Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc. Tổng diện tích vùng KTTĐ Bắc Bộ sau khi bổ sung là 15.286,7 km2, bằng 3,8% diện tích cả nước và dân số (ước tính đến năm 2006) là 13,8 triệu người, chiếm 16,4% dân số cả nước. Đây là trung tâm kinh tế năng động và là một đầu tàu kinh tế quan trọng của miền Bắc và của cả nước Việt Nam. Thuận lợi Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (KTTĐ Bắc Bộ) có vị trí địa lý, chính trị, kinh tế, quốc phòng độc đáo, tạo ra lợi thế so sánh mang ý nghĩa quốc gia và khu vực. Vùng KTTĐ Bắc Bộ nằm giữa hai bộ phận lãnh thổ Đồng bằng sông Hồng và sườn núi Đông Bắc với 3 đỉnh là thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Hạ Long. Vùng có Hà Nội - thủ đô của cả nước - là đầu não chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kĩ thuật của nước ta, là trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế vào giao dịch quốc tế; có các cửa ra biển lớn dọc ven biển Bắc Bộ phục vụ cho cả vùng Bắc bộ, có các tuyến đường bộ thông thương lên vùng Tây Nam Trung Quốc ở phía Bắc (quốc lộ 1) , sang Bắc Lào, Bắc Thái Lan ở phía Đông, quốc lộ 5 nối liền tam giác Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh là trục đường xương sống cho toàn Bắc Bộ. Với sân bay quốc tế Nội Bài, sân bay Cát Bi cùng với cụm cảng Hải Phòng - Cái Lân là cửa mở vào - ra của toàn vùng Bắc Bộ và hệ thống đường quốc lộ, đường sắt, đường sông (sông Hồng và các nhánh) toả đi các vùng khác trong cả nước và đi quốc tế, vùng KTTĐ Bắc Bộ là đầu mối giao thương bằng cả đường biển, đường sắt và đường hàng không lớn thứ hai cả nước. Vùng KTTĐ Bắc Bộ có mặt tiền hướng ra biển Đông, thuận lợi trong việc thông thương với ASEAN, là một trong những khu vực phát triển năng động nhất thế giới, nhờ đó các mối quan hệ giao lưu hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hoá của vùng đã được mở rộng nhanh chóng. Vùng đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; là vùng có đủ điều kiện và lợi thế để phát triển mạnh về công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng, các ngành công nghiệp công nghệ cao, có ưu thế để hình thành các trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ lớn trên cả nước nhờ nguồn nhân lực đã qua đào tạo bài bản; dân số đông và điều kiện tự nhiên lí tưởng thuận lợi cho phát triển dịch vụ và du lịch. Với số dân đông, mật độ dân số lớn nhất cả nước, vùng có ưu thế nổi trội về nguồn lao động dồi dào, đặc biệt là nguồn lao động kĩ thuật, lao động có chuyên môn cao, cán bộ đầu ngành của hầu hết mọi lĩnh vực, có hệ thống đào tạo và nghiên cứu khoa học, trung tâm y tế trình độ ca, giữ vai trò quyết định trong việc đào tạo và chăm sóc sức khoẻ cho cả vùng và cả nước. Vùng có số lao động trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học cao nhất so với các vùng khác, chiếm tới 32% cả nước (2005). Vùng cũng là nơi tập trung các cơ sở nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng đầu ngành có các trang thiết bị hiện đại. Trong tương lai ưu thế này vẫn tiếp tục được củng cố và phát triển, là thế mạnh nổi trội, một tiềm năng lớn cần phát huy tối đa để thúc đẩy phát triển vùng và tác động tích cực tới các vùng lân cận. Vùng KTTĐ Bắc Bộ là nơi phát triển công nghiệp sớm nhất cả nước, hiện nay đã và tiếp tục hình thành hệ thống đô thị phát triển hơn hẳn so với các vùng khác, tạo cục diện mới cho tổ chức không gian lãnh thổ, cho tăng trưởng và giao lưu giữa các vùng trong nước và quốc tế. Hai thành phố thuộc vùng là Hà Nội và Hải Phòng đều là các thành phố lớn và có vai trò quan trọng trong hệ thống quốc gia, cùng với hai thành phố thuộc tỉnh (trong tổng số 21 thành phố trên cả nước), 7 thị xã (trong tổng số 61), 77 thị trấn ( trong tổng số 565). Tỷ lệ đô thị hoá của vùng đạt khoảng 27, 45 (lớn hơn trung bình cả nước là 24,8%). Vùng là khởi nguồn của văn minh đô thị của cả nước. Nhờ đô thị phát triển mạnh tạo nên sự thịnh vượng chung cho cả vùng, tạo sức hút mạnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài đến vùng và các vùng lân cận. Đây cũng là trung tâm công nghiệp từ rất sớm và hiện đã hình thành hệ thống các KCN lớn và các cụm công nghiệp nhỏ trên cả 8 tỉnh thành, thu hút lực lượng lao động đông đảo và có trình độ kĩ thuật cao hơn nhiều vùng khác. Năm 2005, vùng KTTĐ Bắc Bộ có 17 vạn doanh nghiệp công nghiệp,chiếm 26% số doanh nghiệp công nghiệp cả nước, riêng số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm khoảng 15,8% cả nước tạo ra 13,8% giá trị công nghiệp và xây dựng cả nước. Tuy không phong phú về khoáng sản, vùng có một số khoáng sản quan trọng như than đá, trữ lượng chiếm 98%, than nâu, đá vôi làm xi măng trữ lượng hơn 20%, cao lanh làm sứ trữ lượng khoảng 40% so với cả nước… Khai thác có hiệu quả các khoáng sản này sẽ tạo nguồn nguyên nhiên vật liệu cho các ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp nặng, tạo điều kiện phát triển công nghiệp và dịch vụ của vùng. Vùng KTTĐ Bắc Bộ còn có tiềm năng lớn về du lịch với các địa điểm du lịch nổi tiếng trong nước và quốc tế như vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên của thế giới. Nhờ lịch sử hơn một nghìn năm phát triển, vùng còn lưu giữ nhiều danh thắng và di tích lịch sử, văn hoá, làng nghề truyền trống. Ngoài ra vùng có rất nhiều bãi biển và khu du lịch thiên nhiên, có tiềm năng lớn để phát triển thành địa điểm du lịch văn hoá và sinh thái hấp dẫn trong và ngoài nước. Vùng KTTĐ Bắc Bộ là cái nôi của nền văn minh lúa nước, có ưu thế về điều kiện khí hậu đặc thù có mùa đông lạnh để phát triển các vùng rau, hoa quả, chăn nuôi (diện tích đất nông nghiệp của vùng hiện có khoảng 585 nghìn ha), nhất là các vùng xung quanh các đô thị, các thành phố lớn, các khu công nghiệp tạo ra giá trị gia tăng lớn trên một đơn vị diện tích. Vùng KTTĐ Bắc Bộ có dải đất chuyển tiếp giữa miền núi trung du Bắc Bộ với đồng bằng sông Hồng thuận tiện cho phân bố các khu công nghiệp, các đô thị mà không ảnh hưởng nhiều đến quỹ đất nông nghiệp Khó khăn: Hệ thống kết cấu hạ tầng tuy có được phát triển hơn một số vùng khác nhưng vẫn ở mức yếu kém: Hệ thống giao thông còn bất cập so với yêu cầu (cảng Hải Phòng chỉ tiếp nhận được tầu dưới 7000 tấn; các trục lộ huyết mạch lòng đường còn hẹp, mặt đường xấu, chịu tải yếu, đường sắt còn tồn tại nhiều khổ đường, trang bị ở những ga đầu mối thiếu và lạc hậu; sân bay Nội Bài chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế; hệ thống giao thông nội thị ở các thành phố lớn còn lạc hậu, gây ách tắc giao thông); mạng lưới điện nhiều nơi cũ nát, hư hỏng thất thoát điện còn lớn (tới 25%); mạng lưới cấp và đặc biệt thoát nước tại các đô thị yếu kém, lạc hậu, bất cập (nhiều đô thị thiếu nước, nhất là vào mùa hè, trong khi đó lượng nước thất thoát rất lớn tới khoảng 50%); nếu có mưa lớn kéo dài 1, 2 ngày là nhiều điểm ngập úng; nhiều nơi ở khu vực nông thôn chưa có hệ thống nước sạch; cơ sở vật chất của các ngành giáo dục, y tế và nhất là văn hoá, thể dục, thể thao còn yếu kém, xuống cấp nhiều. Hơn nữa chất lượng thi công trong xây dựng cơ bản thấp gây thất thoát lãng phí vốn Ngân sách, kìm hãm sự phát triển của vùng. Trình độ trang thiết bị kĩ thuật của các cơ sở công nghiệp còn kém phát triển, thiếu tác phong sản xuất công nghiệp, tình hình quy hoạch còn chưa hợp lý gây chi phí tốn kém nhưng sản phẩm sản xuất ra kém chất lượng, khó cạnh tranh trên thị trường. Tình trạng gây ô nhiễm môi trường phổ biến. Bắt đầu từ điểm xuất phát thấp, sự phát triển của vùng chưa tương xứng với tiềm năng. Vì vậy, tỷ trọng đóng góp vào GDP cả nước còn khiêm tốn so với vùng KTTĐ Nam Bộ. Do mật độ dân số đông, giá thuê đất ở VKTTĐBB cao nhất trong cả nước, công tác quy hoạch đất cho KCN gặp nhiều khó khăn. Dân số chủ yếu sống bằng nghề nông, mức tiêu dùng thấp nên cầu thị trường thấp, lấy đất cho KCN dẫn tới việc người nông dân mất đất canh tác, nhưng hiệu quả sử dụng đất không cao tác động xấu tới đời sống người dân và độ hấp dẫn của môi trường đầu tư. Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX tại Vùng KTTĐ Bắc Bộ So với các KCN, KCX ở vùng KTTĐ Nam Bộ, số lượng các KCN, KCX ở vùng KTTĐ Bắc Bộ ít hơn, các KCN phát triển chậm hơn và có quy mô nhỏ hơn do nhu cầu tiêu dùng thấp, giá thuê đất cao nên sản xuất kinh doanh hiệu quả thấp, kém hấp dẫn hơn khu vực phía Nam. Lượng vốn đầu tư trung bình hàng năm vào các KCN, KCX thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ chỉ chiếm khoảng gần 20% tổng lượng vốn đầu tư vào các KCN, KCX trên cả nước. Tính đến hết tháng 12/2006, vùng KTTĐ Bắc Bộ hiện có 25 KCN đã thành lập, chủ yếu là các KCN có quy mô nhỏ và trung bình, trong đó có 16 KCN đã cơ bản xây xong cơ sở hạ tầng và đang triển khai sản xuất kinh doanh và 9 KCN đang trong thời gian xây dựng cơ sở hạ tầ._. tư nhất với gần 1080 dự án FDI, tổng vốn đầu tư gần 8,6 tỷ USD. Tiếp đó là vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, thu hút 91 dự án với tổng vốn đăng ký 850 triệu USD và 23 dự án đầu tư trong nước với 340 tỷ đồng. Các khu công nghiệp ở Việt Nam đã thu hút trên 37 vạn lao động Việt Nam làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp, chưa kể đến hàng vạn lao động khác trong lĩnh vực xây dựng, cung cấp dịch vụ khu công nghiệp. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 do Ban chấp hành Trung ương Đảng trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu" "Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Quy hoạch phân bổ hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghiệp cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở". Chủ trương này trong thời gian qua đã được các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta bám sát thực hiện. Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trước hết phải gắn liền phát triển vùng, lãnh thổ và đô thị công nghiệp. Điều đó không chỉ đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế nhanh, mà còn phải đảm bảo sự phân bố hợp lý về sản xuất, vốn đầu tư, dân cư lao động, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, bảo vệ môi trường và an ninh, quốc phòng. Các khu công nghiệp ở các vùng kinh tế trọng điểm cần được phân bố hợp lý về không gian đô thị, gắn kết với quy hoạch phát triển các chuỗi đô thị. Riêng 2 thành phố lớn là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là 2 trung tâm kinh tế quan trọng, do vậy, việc bố trí các khu công nghiệp phải được cân nhắc phù hợp với tốc độ đô thị hoá và tính chất của đô thị đông dân, hiện đại trong tương lai. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu xây dựng mô hình phát triển khu công nghiệp mới như: "toà nhà công nghiệp" đảm bảo tính hợp lý trong việc bố trí việc làm, giảm thiểu hiện tượng di chuyển lao động con lắc, gây áp lực lớn đến cơ sở hạ tầng đô thị đông dân sau này. Đối với nông thôn, trung du miền núi, các khu công nghiệp cần được phát triển với quy  mô vừa và nhỏ, phù hợp với khả năng riêng về đầu tư cơ sở hạ tầng và thu hút đầu tư theo hướng cung cấp dịch vụ cần thiết cho phát triển nông nghiệp và hàng hoá tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu của địa phương, cùng với việc phát triển vùng nguyên liệu. Chiến lược phát triển các khu công nghiệp đồng thời gợi ý, khuyến khích các vùng, địa phương có tiềm năng phát triển công nghiệp, nhưng điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, thì nên coi việc phát triển các khu công nghiệp như một trong những biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, từmg bước giải quyết sự chênh lệch phát triển giữa các vùng và nâng cao chiến lược sống cho người dân. Chiến lược phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian tới cần xác định những bước đi phù hợp trong xây dựng và phát triển khu công nghiệp, phù hợp với từng thời kỳ, từng khu vực có nhiều lợi thế, xây dựng quy hoạch cụ thể và có kế hoạch đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hôi cho phát triển khu công nghiệp, đô thị công nghiệp. Một trong những sách lược trọng tâm để mở rộng, tăng cường hoạt động hiệu quả và phát triển bền vững các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian tới là tăng cường thu hút đầu tư bằng nhiều biện pháp. Sự thành công của các khu công nghiệp, khu chế xuất cho đến nay được đánh giá trên cơ sở số lượng dự án đầu tư, số vốn đầu tư thu hút, số việc làm tạo ra, doanh số, giá trị gia tăng, chuyển giao công nghệ, tác động lan toả đối với từng vùng, lãnh thổ... Trong đó, thu hút đầu tư là nhân tố khởi đầu và có tính chất quyết định. Cần hướng các dự án sản xuất công nghiệp trừ những dự án có yêu cầu đặc biệt về môi trường và nguồn nguyên liệu đầu tư vào khu công nghiệp đã được thành lập. 1.2. Mục tiêu, triển vọng phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN tại vùng KTTĐ Bắc Bộ đến 2010 Mục tiêu phát triển chính của các KCN là tạo đà cho tăng trưởng công nghiệp, tạo nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng bước phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Phát triển các KCN cũng để thúc đẩy các cơ sở sản xuất dịch vụ cùng phát triển, làm cơ sở cho việc phát triển các khu đô thị, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc phát triển các KCN thời gian tới hằm vào các mục tiêu cơ bản là: Hình thành hệ thống các KCN vừa và nhỏ tạo điều kiện phát triển khu vực nông thôn; Nâng cao tỷ lệ lấp đầy các KCN, phấn đầu đến 2010 về cơ bản lấp đầy diện tích các KCN đã được thành lập; thành lập mới và mở rộng một cách có chọn lọc các KCN tập trung trên các vùng lãnh thổ, các địa phương với tổng diện tích tăng thêm khoảng 5.000 km2. Tăng tỷ lệ đóng góp của các KCN vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp từ mức 26% hiện nay lên khoảng 35% vào năm 2010. Căn cứ tình hình thực tế, dự báo về tình hình thực hiện và triển vọng thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài vào các KCN như sau: Triển vọng thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và KCN, KCX tại vùng KTTĐ Bắc Bộ nói riêng từ nay đến 2010, là tương đối sáng sủa. Đối với đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp thống nhất 2005 tiếp tục phát huy hiệu quả và Luật đầu tư chung 2006 được đưa vào áp dụng trong thực tiễn, được đánh gía là có tiềm năng to lớn. Đó là chưa kể nguồn kiều hối với mức tăng trưởng bình quân kỷ lục 22% - giai đoạn từ 2001-2004. Theo dự báo, những lĩnh vực có triển vọng hơn trong việc thu hút đầu tư vào các KCN trong 5 năm tới sẽ là ngành công nghiệp năng lượng (điện, than và dầu khí); tiếp đến là công nghiệp ô tô. Công nghiệp dệt may, da giày cũng có tiềm năng lớn, song cần tăng tốc đầu tư để tăng tỷ lệ sản xuất nguyên, phụ liệu trong nước phục vụ cho phát triển. Cơ khí đóng tàu, sản xuất máy móc, thiết bị điện tử, thiết bị thông tin, phần mềm và vật liệu xây dựng cũng là những lĩnh vực kinh tế hứa hẹn, nếu có chính sách khuyến khích đầu tư đúng mức. Trong năm năm tới, thu hút ĐTTTNN mới và mở rộng tăng vốn dự kiên đạt khoảng 5 tỷ USD ( trong đó thu hút mới khoảng 600 dự án) với đặc điểm là sẽ tăng trong giai đoạn từ 2005-2007 phù hợp với xu thế phục hồi kinh tế thế giới, những cải cách về môi trường ĐTNN của Việt Nam, những ngành và lĩnh vực có khả năng thu hút thêm vốn đầu tư và việc gia nhập WTO của Việt Nam. Thu hút đầu tư trong nước dự kiến đạt 2 tỷ USD ( trong đó thu hút mới khoảng 1000 dự án) với đặc điểm là sẽ tăng trong giai đoạn từ 2005-2008 phù hợp với những cải cách về môi trường đầu tư và kinh doanh trong nước trong thời gian qua, một số dự án trong nước lớn có khả năng triển khai như khí hoá lỏng, điện, phân đạm, thép. Dự kiến trong thời kỳ 2009-2010 sẽ giảm xuống khi các dự án lớn đã triển khai. 2.Một số giải pháp cơ bản thu hút ĐTTTNN vào các KCN tới năm 2010 2.1. Một số giải pháp đề xuất nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài tại khu công nghiệp - khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 2.2.1. Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư   * Đẩy mạnh vận động và xúc tiến đầu tư vào các KCN. Đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp vận động, xúc tiếng đầu tư; chú trọng xúc tiến đầu tư theo lĩnh vực, địa bàn với đối tác cụ thể, chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia và các doanh nghiệp vừa, nhỏ. Xây dựng Quỹ xúc tiếng đầu tư trên cơ sở ngân sách của Nhà nước, cấp hỗ trợ kết hợp với huy động đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp. Giải quyết, xử lý và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đang xây dựng hoặc đang sản xuất kinh doanh Thực hiện thống nhất, chủ động công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào KCN với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các bộ, ngành và chính quyền địa phương. Cần thành lập một cơ quan chuyên môn làm công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào KCN và các khu vực khác. Nhà nước cần dành kinh phí thoả đáng từ ngân sách nhà nước cho công tác vạn động xúc tiến đầu tư; tổ chức công bố rộng rãi quy hoạch chi tiết, danh mục các dự án ưu tiên đầu tư và các chính sách khuyến khích đầu tư vào KCN để các nhà đầu tư và người dân được biết; cung cấp miễn phí các thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đầu tư; hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân có công thu hút các nhà đầu tư vào KCN. Tăng cường bộ phận xúc tiến đầu tư tại các cơ quan đại diện của nước ta ở một số nước và địa bàn trọng điểm để chủ động vận động, xúc tiến đầu tư với từng dự án, từng tập đoàn, từng nhà đầu tư có tiềm năng, nhất là các tập đoàn xuyên quốc gia. Cần tiến hành tiếp thị các KCN của nước ta ở những nơi là xuất phất điểm chính của đầu tư trong nước và ngoài nước (FDI) như các tỉnh thành phố lớn trong nước và ngoài nước như Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Singapore…. Học tập các nước trong khu vực, tăng cường quảng bá điểm khác biệt của KCN mình, phát huy “giá trị cộng thêm” để thu hút đầu tư. Giá cho thuê đất rẻ ở ĐBSCL không phải là yếu tố quyết định trong việc thu hút đầu tư (giá cho thuê đất thấp hơn giá thành đầu tư xây dựng hạ tầng của ha đất công nghiệp). Xây dựng KCN trong khu vực nghèo (vùng noong nghiệp ĐBSCL) rẻ hơn trong khu vực phát triển (TP. HCM, Hà Nội), có chi phí lao động, đất đai, vật liệu thấp hơn, ngược lại, có chi phí hạ tầng cơ sở và vận chuyển cao hơn, do đó các nhà đầu tư thường hướng đến khu vực phát triển hơn. Để tăng cường sự đầu tư của các nhà đầu tư trong nước, nhằm tạo sự phát triển bền vững, lâu dài, việc ra đời của các tập đoàn kinh doanh trong nước, nhằm tạo sự phát triển bền vững, lâu dài, việc ra đời của các tập đoàn kinh doanh trong nước là một bước tất nhiên trên con đường phát triển kinh tế. Chính những tập đoàn này sẽ gắn bó chặt chẽ với nền kinh tế nước nhà và là thước đo của nền kinh tế. Lực lượng này sẽ đóng vai trò “vùng đệm” trước những dao động kinh tế thế giới như cuộc khủng hoảng kinh tế hồi năm 1997, góp phần ổn định việc đầu tư kinh doanh trong nước. * Áp dụng các biện pháp tăng sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư Vận dụng kinh nghiệm của một số nước ASEAN, để môi trường đầu tư ở nước ta được hấp dẫn hơn, ngoài những khu kinh tế mở hay khu kinh tế (với diện tích rộng như Chu Lai và Dung Quất), Việt Nam có thể thiết lập các khu mậu dịch tự do hay các khu tự do trong một KCN. Những người sống trong khu mậu dịch tự do trong một KCN có thể được mua hàng nhập khẩu miễn thuế. Khu tự do dành riêng cho hàng hoá và nguyên vật liệu. Nhà nước có thể thu tiền kho chứa cũng như các phí liên qua trong việc chuyên chở, các thủ tục giấy tờ…. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách thu hút đầu tư, chính sách thu hút FDI: giảm giá đầu vào nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu, cước viễn thông quốc tế, giá thuê đất, chi phí lưu thông hàng hoá, mà hiện nay Việt Nam cao hơn hẳn các nước trong khu vực, chính sách thuế thu nhập của người nước ngoài… * Vấn đề phát triển các KCN theo quy hoạch Có 2 quan điểm trong phát triển các KCN: quan điểm thứ nhất cho rằng tăng thu hút đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI về mặt số lượng, bất kể vào lĩnh vực nào, quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư vào KCN; quan điểm thứ 2 cho rằng đã đến lức tăng thu hút đầu tư tư trong nước và FDI về chất lượng theo một quy hoạch, các KCN phải có tính chuyên và cơ cấu hợp lý phù hợp với khả năng và lợi thế của mình. Quan điểm thứ nhất hiện nay là phổ biến, hầu như các KCN đều tập trung mọi cố gắng để thu hút đầu tư FDI vào địa bàn của mình bất kể ngành nghề nào, sản phẩm nào. Điều này là không hợp lý. Việc phát triển các KCN, KCX cần phải theo một quy hoạch thống nhất, có chính sách ưu tiên phát triển ngàng trong từng KCN dựa trên lợi thế của từng khu, thực hiện sự phân công hợp tác giữa các KCN các tỉnh, các địa phương gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Do những tác động quan trọng cũng như vai trò chiến lược của các KCN trong sự phát triển kinh tế cần phải có một tầm nhìn, một kế hoạch dài hạn cho sự xây dựng các KCN và đưa ra những chính sách thích hợp cho các loại hình công nghiệp cần khuyến khích đầu tư vào các khu này để tạo ra sự liên kết giữa các KCN và các doanh nghiệp KCN, phát sinh ra lực đẩy khôn ngừng khởi động sự phát triển kinh tế nước nhà, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Để cho việc hiện thực của tầm nhìn chiến lược tiến hành tốt đẹp, sự đáp ứng tích cực của người dân, nhất là trong việc đền bù giải toả, cũng là một yếu tố quan trọng. *Quản lý và chính sách phát triển KCN, KCX Chính sách Nhà nước tác động quan trọng đến phát triển các KCN, KCX, cần không ngừng hoàn thiện các chính sách. Đẩy mạnh chuyển từ công tác quản lý hành chính sang công tác dịch vụ theo cơ chế “một cửa” trong quản lý phát triển các KCN. Cải cách hành chính và côn nghệ thông tin trong quản lý. Đảm bảo quản lý thống nhất các KCN. Ngoài ra cần từ bỏ quan niệm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu kiểm thay thế tiền kiểm, như các nhà đầu tư nước ngoài thường nói Việt Nam chỉ khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất. Học tập kinh nghiệm Trung Quốc là trước cho, sau lấy có tính làm ăn lâu dài trong thu hút đầu tư FDI vào KCN. Xác định các mặt bằng chính sách chung cho các KCN, KCX trong cả nước, tránh tình trạng các địa phương “cạnh tranh” lẫn nhau, đưa ra các chính sách ưu đãi, chính sách thuế thường là vượt khung, trái với Luật đầu tư chung. Đồng thời, ban hành các chính sách ưu đãi các nhà đầu tư trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN, KCX: giá thuê đất, thuế, hỗ trợ vốn, lãi suất ưu đãi. Tiến tới giảm sự phân biệt trong các chính sách ưu đãi giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt hỗ trợ tài chính để thu hút các doanh nghiệp vào KCN. Áp dụng cho các doanh nghiệp trong KCN xuất khẩu vào thị trường trong nước được hưởng thuế suất CEPT để có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước ASEAN xuất vào Việt Nam. Các chính sách áp dụng cần đồng bộ và thiết thực, có tác dụng lâu dài, Sự thống nhất giữa các bộ, ngành và sự thực thi của chính quyền địa phương là rất quan trọng nhằm tránh sự chồng chéo và chậm trễ gây cản trở cho doanh nghiệp * Xây dựng chuẩn mực và cơ cấu lại các KCN. Xây dựng chất lượng KCN ngang tầm khu vực và quốc tế, xác định tiêu chuẩn các xí nghiệp đầu tư vào KCN về quy mô, ngành nghề và công nghệ. Xác định tiêu chuẩn các xí nghiệp đầu tư vào KCN về quy mô, ngành nghề, công nghệ để tạo được hiệu quả đầu tư cao. Đối với một số KCN cần định hướng phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp năng, các ngành có hàm lượng khoa học và vốn cao. Phát triển các KCN phải kết hợp chặt chẽ với quy hoạch và quá trình đô thị hoá, phân bố dân cư, theo hướng hình thành mạng lưới đô thị hài hoà, rộng thoáng, kiên quyết tránh tập trung xây dựng các đô thị quá lớn tạo ra sự quá tải về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở đô thị. Không hể cứ mỗi KCN, KCX đều xây dựng các cụm dân cư riêng rẽ, điều đó đưa đến phá vỡi quy hoạch đô thị hoá, cũng như làm tăng chi phí xây dựng KCN, giảm hiệu quả các KCN, KCX. * Phát triển đồng bộ các thể loại tập trung công nghiệp Xây dựng cả 3 thể loại : KCN tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề công nghiệp. Không nên xây dựng quá nhiều KCN trong một thời gian, cần chú trọng phát triển các làng nghề và các cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Cụm công nghiệp vừa và nhỏ là một mô hình tập trung công nghiệp thường hình thành ở các huyện thị vùng nông thôn tập hợp lại theo cùng ngành nghề, mô hình thích hợp để thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển công nghiệp nông thôn. Các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, ngoài việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho thuê đất, hỗ trợ hoàn toàn chi phí giải phóng mặt bằng, các công trình ngoài hàng rào và các công trình công cộng trong cụm, cần thực hiện chương trình xây dựng nhà xưởng tiêu chuẩn bán trả chậm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn ít, doanh nghiệp được trả chậm tới 10 năm. * Cải thiện cơ sở hạ tầng tại các KCN. Phương hướng của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (7 tỉnh Đồng bằng sông Hồng và Quảng Ninh) về kết cấu hạ tầng kinh tế, đáng chú ý, sẽ phát triển mới các tuyến đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (lệch về phía Nam so với QL5 hiện tại), Hà Nội - Hạ Long-Móng Cái, Hà Nội - Ninh Bình, Hoà Lạc - Trung Hà, Hà Nội - Việt Trì, Hà Nội - Thái Nguyên. Xây dựng mới tuyến đường sắt từ Yên Viên (huyện Gia Lâm - Hà Nội) đến Phả Lại (Hải Dương), TP Hạ Long và cảng Cái Lân (Quảng Ninh), đường sắt nối TP Hải Phòng với cảng Đình Vũ. Nâng cấp tuyến đường sắt hiện có, đầu tiên là tuyến Hà Nội - Hải Phòng làm tuyến đường sắt 2 chiều đầu tiên trong cả nước, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng sân bay quốc tế mới tại Miếu Môn (Hà Tây). Nâng công suất sân bay Nội Bài lên 6 triệu hành khách/năm vào năm 2005, từ 8-10 triệu vào năm 2010 Cơ sở hạ tầng đảm bảo là một trong những điều kiện quan trọng nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào các KCN. Vì vậy cần đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật dịch vụ và xã hội trong KCN, đảm bảo tính đồng bộ, thuận tiện thoả mãn khách hàng. Cần lưu ý để kết quả hoạt động và phát triển trong KCN không được gây hệ quả tiêu cực cho khu vực về giao thông, môi trường và tệ nạn xã hội * Sử dụng đất hiệu quả và giảm bớt tình trạng ô nhiễm môi trường ở các KCN. Cần tập trung lấp đầy và phát triển hiệu quả các KCN đã có, khi nào các KCN lấp đầy 60-70% diện tích thì mới cho phép triển khai các KCN tiếp theo. Để tránh ô nhiễm môi trường, những dự án đầu tư vào KCN, KCX phải hoàn tất các hạng mục công trình xử lí chất thải mới được phép hoạt động. Khi cho thuê được 50% diện tích thì phải tiến hành xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung. Cần có biện pháp phối hợp giữa các KCN và các địa phương trong bảo vệ môi trường, tránh gây ô nhiễm cho nhauhh 2.2.2 Giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài - Một là, nâng cao chất lượng quy hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài làm cơ sở thực hiện chương trình vận động đầu tư. Để tăng cường tinh minh bạch, ổn định và có thể dự đoán trước được môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc lực chọn cơ hội đầu tư, cần thực hiện đúng quy định của Nghị định 24/2000/NĐ-CP, theo đó Danh mục dự án gọi vốn ĐTNN vào KCN khi được công bố thì được coi là đã thống nhất về chủ trương và phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ. Để đảm bảo tính khả thi của quy định này, Danh mục phải được xây dựng phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH trong từng thời kỳ, đồng thời phải tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của nhà đầu tư. Những thông tin về mục tiêu, địa điểm, hình thức, đối tác thực hiện dự án..vv trong Danh mục phải có độ chính xác và tin cậy cao. - Hai là, đổi mới, đa dạng hoá các phương thức tổ chức xúc tiến đầu tư. Thực hiện các chương trình vận động trực tiếp đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác cụ thể theo hướng: tiếp xúc trực tiếp ở các cấp khác nhau (kể cả Chính phủ, Nhà nước), với các công ty, các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng được lựa chọn, đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm mở đường cho việc thu hút các công ty trực thuộc và hoặc có quan hệ kinh doanh với các tập đoàn nói trên đầu tư vào KCN; mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng, tổ chức tài chính, các công ty tư vấn, xúc tiến ĐTNN.. vv để phối hợp vận động các khách hàng của họ đầu tư vào Việt Nam; chuẩn bị thông tin chi tiết về một số dự án có tính khả thi cao để đưa ra giới thiệu với các nhà đầu tư có tiềm năng nhân dịp các chuyến thăm của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Chính phủ đi các nước. Kết hợp vận động đầu tư trong các dịp tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, triển lãm, hội chợ; nâng cao hiệu quả hoạt động vận động đầu tư gián tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng cách hợp tác với các cơ quan, hãng thông tấn, báo chí, truyền hình trong và ngoài nước để tăng tầng suất thông tin về môi trường và cơ hội đầu tư vào KCN; kịp thời chuẩn xác thông tin, khắc phục tình trạng đưa tin sai hoặc cố tình bóp méo sự thật về KCN ở Việt Nam; duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với với cộng đồng các nhà đầu tư, đặc biệt là trong khuôn khổ Diễn dàn doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp có vốn ĐTNN.. nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp, coi đó là giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng hình ảnh, tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư mới; tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước về kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam. Kịp thời khen thưởng các cá nhân, doanh nghiệp có đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển KCN ở Việt Nam. - Ba là, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư. Để thực hiện có hiệu quả chủ trương mở rộng, đa phương hoá đối tác đầu tư, cần tổ chức nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thực trạng và xu hướng đầu tư của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia từ các nước và khu vực quan trọng như EU, Nhật Bản, Hoa kỳ.. vv. Mặt khác, cần nghiên cứu tình hình, xu hướng ĐTNN trên thế giới, kinh nghiệm thu hút đầu tư của một nước trong khu vực, đặc biệt là các cơ chế pháp lý song phương và đa phương điều chỉnh quan hệ hợp tác đầu tư quốc tế mà Việt Nam đã và đang trong quá trình tham gia. Đây là chương trình nghiên cứu quan trọng, không chỉ phục vụ thiết thực cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư mà còn tạo điều kiện cho việc xây dựng và triển khai thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư. - Bốn là, tăng cường hợp tác song phương và đa phương vế xúc tiến đầu tư. Sửa đổi Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã ký với Hàn Quốc theo những nguyên tắc về đối xử đã thoả thuận với Hoa Kỳ, xem xét áp dụng nguyên tắc đối xử nói trên đối với các nhà đầu tư EU. Tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư song phương đã được thiết lập trong thời gian qua với JICA và JETRO (Nhật Bản), Trung tâm xúc tiến đầu tư và du lịch ASEAN (Nhật Bản), OPIC (Hoa Kỳ), GTZ (Đức).. nhằm tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức này trong việc thực hiện các chương trình vận động đầu tư trực tiếp với từng đối tác, lĩnh vực cụ thể. Nghiên cứu thực trạng và xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các công ty đa quốc gia, hỗ trợ đào tạo về kỹ thuật xúc tiến đầu tư..vv. Nối lại quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các cơ quan Chính phủ ở các nước trong khu vực như Văn phòng Hội đồng đầu tư Thái Lan (OBOI), Cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia (MIDA), Hội đồng phát triển kinh tế Singapore (EDB). Tham gia tích cực và chủ động hơn nữa vào các chương trình xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn khu vực theo hướng sau: xây dựng và cập nhật thường xuyên các chương trình hành động quốc gia về tự do hoá, thuận lợi hoá và xúc tiến đầu tư mà Việt Nam đã cam kết trong khuôn khổ ASEAN, APEC và ASEM; tham gia tích cực vào chương trình hợp tác và tham vấn giữa các cơ quan quản lý đầu tư của các nước thành viên, đồng thời tăng cường đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, diễn đàn quốc tế khác để xác định các rào cản đối với đầu tư và kiến nghị các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư của khu vực nói chung và từng nước thành viên nói riêng; duy trì, mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các tổ chức quốc tế như WB, IFC, FIAS, MIGA, ESCAP theo chương trình đã thoả thuận. - Năm là, nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư. Khẩn trương xây dựng trang Web của Tạp chí KCN Việt Nam, đồng thời kết nối mạng trang Web của Tạp chí KCN Việt Nam với trang Web của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh, cũng như trang Web của các Công ty phát triển hạ tầng KCN của cả nước hình thành hệ thống mạng thông tin chung về KCN của Việt Nam. - Sáu là, bố trí ngân sách phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư. Nhà nước cần dành kinh phí thoả đáng từ ngân sách Nhà nước cho công tác này, không chỉ dựa vào nỗ lực của doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN hoặc bên nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng KCN. . Một số kiến nghị nhằm phát huy tác động tràn của ĐTTTNN tại KCN, KCX vùng KTTĐ Bắc Bộ Để tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển của các KCN, tăng cường thu hút FDI, tận dụng ngoại lực và phát huy nội lực nhằm mục tiêu “công nghiệp hoá rút ngắn”, có thể đưa ra một số nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy tác động tràn và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam triệt để khai thác các tác động tích cực đó Đổi mới và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, tạo thuận lợi thu hút các công ty xuyên quốc gia và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ Như chúng ta đều biết, các công ty lớn trên thế giới, đa quốc gia hay xuyên quốc gia, là những người có tiềm năng tài chính hùng mạnh, có thị phần lớn, nên bản thân họ chắc chắn sẽ sẵn sàng hơn trong việc chuyển giao công nghệ, chia sẻ tri thức. Theo số liệu thống kê, hiện nay trên thế giới có tới 60.000 công ty xuyên quốc gia (TNC) với khoảng 250.000 chi nhánh trên khắp thế giới, chiếm 25% giá trị của nền sản xuất toàn cầu, 65% kim ngạch thương mại quốc tế, 70% đầu tư nước ngoài, 90% công nghệ cao. Các nước có nhiều TNC nhất ( số liệu 1993) lần lượt là : Đức, Nhật Bản, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Mỹ, Pháp, Anh, Canada, Hàn Quốc. 100 TNCs lớn nhất chiếm 1/6 FDI. Trên quy mô toàn cầu, đầu tư trực tiếp của TNCs là 222 tỷ USD(1993) Thực tiễn phát triển ở châu á những năm gần đây cho thấy, ấn Độ là nước đã rất thành công trong lĩnh vực thu hút các công ty lớn đến đầu tư, tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh ở nước mình. Số liệu thống kê chỉ ra rằng, phần lớn dòng vốn FDI chảy vào nước này đều từ các TNC lớn trên thế giới. Tính đến năm 2005, hơn 100 trong số 500 công ty lớn nhất thế giới (thuộc nhóm Fortune 500) đã có mặt tại ấn Độ, trong khi con số này ở Trung Quốc chỉ là 33. Đối với Việt Nam, việc công ty Intel - nhà sản xuất hàng đầu thế giới về chip điện tử - đầu năm 2006 đã triển khai dự án trị giá 605 triệu USD tại Khu công nghệ cao Tp. Hồ Chí Minh là một tín hiệu tốt đẹp; hy vọng sẽ mở ra nhiều triển vọng thu hút các nhà đầu tư lớn với các dự án công nghệ cao. Bên cạnh những biện pháp mang tính ưu đãi, thì yếu tố rất quan trọng để thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư lớn chính là sự phát triển mạnh, hiệu quả và bền vững của ngành công nghiệp phụ trợ trong nước. ở đây có vai trò rất lớn của các chính sách của Nhà nước, bởi thông thường các công ty nước ngoài có thể không dễ nhận biết được các nhà cung ứng tiềm tàng trong nước hoặc họ cảm thấy quá phức tạp, thậm chí tốn kém để liên hệ và làm việc với những người này. Mặt khác, họ cũng có thể ngập ngừng trong việc đầu tư nhằm xây dựng các năng lực địa phương bởi năng lực hiện có là quá thấp so với mức yêu cầu của họ hoặc đơn giản là các nhà cung ứng trong nước không có điều kiện tiếp cận với công nghệ hoặc nguồn lực tài chính cần thiết để có thể đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp FDI. Trong bối cảnh đó, Chính phủ cần áp dụng các biện pháp nhằm khuyến khích và tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. Những biện pháp như vậy có thể rất đa dạng, ví dụ như: (i) Thúc đẩy thương mại và đầu tư; (ii) Hỗ trợ việc tạo ra và làm sâu sắc các mối liên kết; (iii) Đào tạo nguồn nhân lực; và (iv) Trực tiếp tài trợ. 2.3.2. Nâng cao năng lực tiếp thu công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam Để phát huy tác động tích cực của KCN và các doanh nghiệp FDI về mặt đổi mới công nghệ, bản thân các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng cho mình một “năng lực hấp thu” đủ mạnh. Ngoài những yếu tố phụ khác, năng lực này thể hiện tập trung ở trình độ phát triển nguồn nhân lực; mức độ trang bị máy móc, thiết bị hiện đại (tất nhiên là cả tiềm lực tài chính) và năng lực quản lý công nghệ của doanh nghiệp. Đây là những yếu tố mà doanh nghiệp Việt Nam còn bộc lộ những “lỗ hổng” không dễ khỏa lấp trong một thời gian ngắn. Với quyết tâm từ phía Nhà nước, thể hiện trong việc triển khai “Đề án Phát triển thị trường công nghệ” vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2005, với nỗ lực từ phía cộng đồng doanh nghiệp, cùng với sự hỗ trợ của quốc tế, chúng ta có thể hy vọng sẽ sớm nâng cao được năng lực này. 2.3.3. Tăng cường công tác thông tin và dự báo kinh tế hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Nó thể hiện trên nhiều khía cạnh, dưới nhiều góc độ và được đo lường ở hai cấp độ: từng sản phẩm và toàn doanh nghiệp. ở cấp độ sản phẩm, đó có thể là các yếu tố: giá thành, chất lượng, mẫu mã, thị phần, mức độ đáp ứng thị hiếu, hiệu quả hoạt động quảng cáo, tiếp thị,... Còn riêng ở cấp độ toàn doanh nghiệp, đó là những yếu tố rất quan trọng như: thương hiệu, uy tín và đặc biệt là chất lượng và hiệu quả của công tác quản trị doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, cần làm rất nhiều việc để bảo đảm và từng bước nâng cao các yếu tố liệt kê ở trên, nhưng có lẽ bao trùm lên và liên quan đến tất cả các yếu tố là cần nhanh chóng tăng cường công tác thông tin và dự báo kinh tế và áp dụng những thông tin, dự báo đó một cách khôn ngoan, có chọn lọc và thực sự hiệu quả. Muốn bảo đảm và tăng cường các yếu tố tạo thành năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần và phải biết tìm kiếm, khai thác nhiều loại thông tin. Điều đầu tiên là cần nhanh chóng mở rộng việc khai thác Internet tại các ban quản lý và các doanh nghiệp trong KCN. Theo quan sát của chúng tôi, Ban Quản lý Hepza của Tp. Hồ Chí Minh đã thành lập Trung tâm Thông tin để chủ động thu thập và cung cấp thông tin cho các dối tượng. Đây là một mô hình tốt để phát triển và sớm hình thành mạng thông tin nội bộ kết nối các Ban Quản lý trong cả nước để cùng nhau chia sẻ thông tin. Hiện nay, trong khuôn khổ Chương trình quốc gia về Công nghệ Thông tin, đang từng bước xây dựng hạ tầng kỹ thuật kết nối mạng trong cả nước. Vì thế, không cần thiết xây dựng mạng riêng cho lĩnh vực KCN, mà nên sử dụng công nghệ Internet để kết nối và triển khai thông tin Đồng thời, cần mở rộng hợp tác với các tổ chức nhà nước có chức năng về thông tin và dự báo, như Trung tâm Thông tin Tư liệu Khoa học – Công nghệ Quốc gia, Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế xã hội Quốc gia… ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4890.doc
Tài liệu liên quan