Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010

LỜI NÓI ĐẦU Trong giai đoạn hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Đối với các nước chậm và đang phát triển thì vốn đầu trực tiếp nước ngoài chính là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn này, nhiều quốc gia trên thế giới đã sớm có các chính

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sách thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đối với Việt Nam, trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, lại có xuất phát điểm thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, chất lượng tăng trưởng kém, để có thể đưa đất nước phát triển nhanh, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương mở cửa nền kinh tế, một mặt phát huy cao độ nội lực, mặt khác tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài. Tháng 12/1987, Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được Quốc hội chính thức thông qua. Tại nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã một lần nữa khẳng định lại vai trò quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Sau gần 20 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả khả quan, tuy nhiên nếu so sánh với các nước trong khu vực thì kết quả này còn khá khiêm tốn, và chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của đất nước, đặc biệt là trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Nhận thức được vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài, và vị trí của ngành nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đề tài : “Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010” đã được chọn để nghiên cứu. Trong khuôn khổ đề tài này, chỉ giới hạn trên cơ sở đánh giá thực trạng tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp trong thời gian qua, qua đó đánh giá một cách khái quát ý nghĩa, vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nông nghiệp nói riêng và đối với Việt Nam nói chung. Đề tài được kết cấu làm 3 chương : Chương I : Đầu tư trực tiếp nước ngoài và kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông, lâm, ngư nghiệp. Chương II : Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua Chương III : Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010. CHƯƠNG I : ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1. Một số khái niệm cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1. Khái niệm về đầu tư Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư luôn được coi là một trong những nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của phát triển. Điều này được thể hiện rõ trong các lý thuyết kinh tế, không chỉ trong lý thuyết kinh tế thị trường, mà cả trong lý thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Theo nghĩa rộng, đầu tư nói chung là đó là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm mục đích thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai, lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó(1) PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt - TS. Từ Quang Phương (2004), Giáo trình Kinh tế đầu tư , NXB Thống kê, Hà Nội . Các nguồn lực bỏ ra đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, hay là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm về quy mô của tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, của cải vật chất khác, …), và nguồn nhân lực đó có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả này, đặc biệt là tài sản tài chính và nguồn nhân lực có vai trò quan trọng không chỉ với người bỏ vốn đầu tư mà cả đối với cả nền kinh tế. Không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế đều được thụ hưởng những kết quả này. Còn theo nghĩa hẹp, đầu tư được hiểu là chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó(2) PGS.TS Nguyển Bạch Nguyệt - TS. Từ Quang Phương (2004), Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Thống kê, Hà Nội . Như vậy, nói chung, khi xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ hay duy trì hoạt động của các tài sản và các nguồn lực sẵn có đều thuộc phạm trù đầu tư dù theo nghĩa hẹp hay nghĩa rộng. 1.2. Khái niệm về đầu tư nước ngoài Với sự đổi mới về tư duy, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Đảng và Nhà nước ta trên cơ sở nhận thức lại các quy luật kinh tế Mác - Lênin, và nhận thức đầy đủ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh đã quyết định đưa đất nước phát triển theo con đường kinh tế mở. Chúng ta đã đề ra nhiều biện pháp, chính sách đối nội cũng như đối ngoại hợp lý nhằm phát triển đất nước theo con đường đã chọn. Về đối nội, một trong những chính sách quan trọng được thực hiện đó là chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm huy động các nguồn lực đầu tư cho nền kinh tế quốc dân. Về đối ngoại, chúng ta tiến hành mở cửa nền kinh tế, tăng cường và đẩy mạnh các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tháng 12/1987, Luật Đầu tư nước ngoài ra đời. Đây là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng của các quan hệ kinh tế đối ngoại. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế, đầu tư nước ngày càng được mở rộng hơn trước. Đầu tư nước ngoài là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi. Còn tại Việt Nam, theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài, thì “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”(3) Luật Đầu tư của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 59/2005/QH 11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 Trong thực tế, đầu tư nước ngoài được thực hiện với nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu sau : Nguyên nhân đầu tiên là do có sự mất cân đối về các yếu sản xuất giữa các quốc gia, nên có sự chênh lệch về giá cả các yếu tố, hoạt động đầu tư nước ngoài được tiến hành thực hiện nhằm đạt được lợi ích từ sự chênh lệch giá cả đó. Nguyên nhân tiếp theo là do có sự gặp gỡ về lợi ích của các bên tham gia Đối với bên có vốn đầu tư : Do nhu cầu cần tìm địa điểm đầu tư mới có lợi, cần tránh hàng rào bảo hộ mậu dịch cũng như sự kiểm soát hải quan trong buôn bán quốc tế, nhu cầu cần khuyếch đại thị trường, uy tín, tăng cường vị thế và mở rộng quy mô kinh doanh. Đối với bên tiếp nhận đầu tư : Việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài nhằm giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng nhanh, nhu cầu đổi mới kinh tế, công nghệ và tiếp nhận kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho lao động trong nước. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, việc thực hiện tiếp nhận đầu tư nước ngoài còn nhằm mục đích thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đầu tư nước ngoài còn nhằm giải quyết các nhiệm vụ đặc biệt, như xây dựng các công trình có quy mô vượt phạm vi biên giới quốc tế, đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều quốc gia. 1.3. Phân loại đầu tư nước ngoài Trên cơ sở căn cứ vào mức độ tham gia quản lý quá trình thực hiện đầu tư, phát huy tác dụng kết quả đầu tư mà người ta chia đầu tư nước ngoài thành hai loại chính, đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước ngoài. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài : Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) một hình thức đầu tư mà quyền sử dụng và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào tham gia vào việc tổ chức quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh, và thu lợi nhuận. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2, Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi, bổ sung năm 2000 của Việt Nam, “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”(4) Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (số 18/2000/QH 10) năm 2000 Nhà đầu tư nước ngoài có thể là các tổ chức kinh tế hoặc các cá thể nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Theo Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) và Tổ chức phát triển hợp tác kinh tế (OECD), FDI được hiểu định nghĩa bằng một khái niệm rộng hơn, theo đó FDI là một hình thức đầu tư quốc tế phản ánh mục tiêu thực hiện các lợi ích dài hạn của một chủ thể cư trú tại một nền kinh tế (được gọi là nhà đầu tư trực tiếp) thông qua một chủ thể ở một nền kinh tế khác (gọi là doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp). Lợi ích dài hạn ở đây hàm ý sự tồn tại lâu dài của mối quan hệ giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp nhận đầu tư, và mức độ ảnh hưởng đáng kể của nhà đầu tư đối với việc quản lý doanh nghiệp này. Theo IMF, FDI là nhằm đạt được những lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp cư trú trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, với mục đích của nhà đầu tư là giành đựoc quyền quản lý doanh nghiệp thực sự. Theo OECD, đầu tư trực tiếp được thực hiện nhằm mục đích thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp, đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách : Thành lập mới, hoặc mở rộng một doanh nghiệp, hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư. Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có. Tham gia vào một doanh nghiệp mới Cấp tín dụng dài hạn (> 5năm) Khái niệm có tính bước ngoặt về FDI của OECD đã chỉ rõ ra rằng một doanh nghiệp thực sự được coi là một doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp khi doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, hoặc không có tư cách pháp nhân, trong đó nhà đầu tư nước ngoài sở hữu ít nhất 10% các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết của doanh nghiệp (mức tối thiểu để được công nhận cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia thực sự vào quản lý doanh nghiệp). Bên cạnh đấy, OECD cũng có quan điểm rộng hơn về nhà đầu tư nước ngoài. Theo quan điểm của OECD, nhà đầu tư nước ngoài có thể là các cá nhân, hoặc những tổ chức có thể thuộc cơ quan chính phủ hoặc không thuộc cơ quan chính phủ đầu tư tại nước ngoài. Như vậy, nói chung đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi. - Đầu tư gián tiếp nước ngoài : Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay (nếu là vốn cho vay) hoặc lợi tức cổ phần (nếu là vốn cổ phần), hoặc có thể không thu lợi trực tiếp (nếu cho vay ưu đãi). Theo quy định tại Luật đầu tư của Việt Nam, “Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”(5) Luật Đầu tư của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 59/2005/QH 11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 . Nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài khá đa dạng về chủ thể và hình thức. Nhà đầu tư gián tiếp có thể là chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, … và dưới các hình thức chủ yếu như : Viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại (cho vay), mua cổ phiếu hoặc các chứng khoán theo mức quy định của từng nước, cho vay ưu đãi hoặc không ưu đãi. Một bộ phận đặc biệt quan trọng trong các nguồn vốn đầu tư gián tiếp đó là nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) của một số nước có nền kinh tế phát triển. 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò trong sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia 2.1. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong 4 nguồn tài chính nước ngoài cơ bản chảy vào một nước. Các nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức và phi chính phủ Tín dụng từ các ngân hàng thương mại Trái phiếu, tín phiếu và cổ phiếu Đầu tư trực tiếp nước ngoài Ta có thể nhận thấy có ba yếu tố chính cấu thành nên đầu trực tiếp nước ngoài : Vốn cổ phần Thu nhập được tái đầu tư dưới hình thức vốn chủ sở hữu Các khoản vay trong nội bộ công ty. Những đặc điểm cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài : Các chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài phải đóng góp một số tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo quy định, luật lệ của mỗi nước. Quyền quản lý điều hành đối tượng đầu tư tuỳ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu nhà đầu tư đóng góp 100% vào vốn pháp định thì đối tượng đầu tư hoàn toàn do chủ thể đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý. Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh, và được phân chia theo theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định của mỗi bên. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động, mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường gắn liền với các hoạt động chuyển giao công nghệ. FDI thường gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế : Chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở mỗi quốc gia tiếp nhận đầu tư thể hiện chính sách mở cửa và quan điểm hội nhập quốc tế về đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng chịu sự chi phối của chính phủ nhưng ít bị lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên. 2.2. Phân biệt đầu tư trực tiếp nước ngoài với đầu tư gián tiếp nước ngoài Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa hai loại hình đầu tư này đó là sự khác nhau về cơ chế quản lý và sử dụng vốn. Nhà đầu tư trực tiếp có quyền khống chế vốn và doanh nghiệp đầu tư, còn nhà đầu tư gián tiếp không có quyền khống chế, mà chỉ có thể thu lợi tức trái phiếu, cổ phiếu và tiền lãi. Bên cạnh đấy, quan hệ trong đầu tư trực tiếp nước ngoài là quan hệ mang tính chất kinh doanh là chủ yếu. Thường tuân theo các quy luật kinh tế thị trường, ít chịu sự tác động của các quan hệ chính trị, và không đi kèm các điều kiện ràng buộc, vì thế việc tiếp nhận nguồn vốn FDI không gây phát sinh nợ cho các nước nhận đầu tư. Đây chính là ưu thế lớn của FDI so với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác. Còn đối với đầu tư gián tiếp, mục đích chính của các nhà đầu tư không phải là kinh doanh, quan hệ trong đầu tư gián tiếp lại chịu nhiều ảnh hưởng của các quan hệ chính trị giữa các nước, nên việc tiếp nhận đầu tư gián tiếp có nguy cơ biến nước tiếp nhận đầu tư thành “con nợ”. Mặt khác, giữa hai loại hình đầu tư nước ngoài này còn có sự khác nhau về mục đích đầu tư. Bản chất của FDI là nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích đầu tư hoặc tìm kiếm lợi nhuận ở nước tiếp nhận đầu tư thông qua di chuyển vốn (bằng tiền, tài sản, công nghệ hoặc trình độ quản lý của nhà đầu tư nước ngoài) từ nước đầu tư đến nước nhận đầu tư. Còn đầu tư gián tiếp, mục đích chính không phải là lợi nhuận, các nguồn vốn đầu tư gián tiếp chủ yếu nhằm vào các mục đích y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình, giáo dục và đào tạo, các vấn đề xã hội, nghiên cứu chương trình, dự án bảo vệ môi trường sinh thái, hỗ trợ ngân sách và hỗ trợ nghiên cứu khoa học - công nghệ. Một điểm khác biệt nữa có thể nhận thấy đó là về chủ thể đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể do các cá thể hoặc chủ thể kinh doanh, đặc biệt là các công gia xuyên quốc gia tiến hành thực hiện. Còn đầu tư gián tiếp chủ yếu được thực hiện bởi các quốc gia, các tổ chức quốc tế phi chính phủ, … 2.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài Theo quy định của Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (ngày 29 tháng 11 năm 2005), đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện chủ yếu dưới các hình thức sau : - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC): Đây là một loại hình đầu tư trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên tham gia. Đặc điểm cơ bản của hình thức đầu tư này không cần phải thành lập một pháp nhân mới. Việc ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh được tiến hành bởi đại diện có thẩm quyền của hai bên. Hai bên tự thoả thuận với nhau về nội dung, thời hạn có hiệu lực của hợp đồng và phải qua xét duyệt của cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư (tại Việt Nam là Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Mặc dù khá đa dạng và không đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, song thời gian hợp đồng thường ngắn nên các nhà đầu tư nước ngoài thường không ưa thích loại hình đầu tư này. - Doanh nghiệp liên doanh : Đây là hình thức đầu tư mà vốn do hai bên cùng góp theo một tỷ lệ nhất định để thành lập một doanh nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều hành chung, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh chủ yếu là dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước nhận đầu tư. Cả hai bên đều phải có trách nhiệm với nhau, và doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình trong vốn pháp định. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài (hoặc các bên nước ngoài) do các bên liên doanh tự thoả thuận với nhau. Ví dụ : Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp và không được phép giảm vốn pháp định trong quá trình hoạt động. Nhưng tỷ lệ này có thể thấp đến 20% nếu là đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng tại các vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, kém phát triển, các dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa và các dự án trồng rừng. Loại hình doanh nghiệp liên doanh này hiện nay rất được các nhận đầu tư ưa thích. Vì đây chính là cơ hội để những nước này có điều kiện để học tập kinh nghiệm quản lý, nâng cao trình độ cho người lao động, cải tiến công nghệ, qua đó có thể tạo được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, điều khó khăn khi áp dụng hình thức đầu tư này đó là nước nhận đầu tư phải có khả năng góp vốn, có đủ điều kiện tham gia quản lý doanh nghiệp với người nước ngoài thì mới mong đạt được hiệu quả như mong muốn. - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài : Đây là loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (có thể là một tư nhân hay một tổ chức nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước nhận đầu tư, tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Loại hình doanh nghiệp này được thành lập chủ yếu dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước nhận đầu tư. Lúc đầu, các nhà đầu tư nước ngoài không ưa thích hình thức đầu tư này. Do như thế họ sẽ phải chịu rủi ro rất lớn. Còn nước nhận đầu tư cũng không thích, do họ không được chia sẻ lợi nhuận, không học tập được kinh nghiệm quản lý và không quản lý được hoạt động của doanh nghiệp. Song trong thời gian gần đây, hình thức đầu tư này ngày càng được các nhà đầu tư nước ngoài ưa thích hơn, vì họ có được quyền chủ động trong việc quản lý doanh nghiệp và được hưởng toàn bộ lợi nhuận do kết quả đầu tư tạo ra (do họ chỉ phải làm nghĩa vụ tài chính đối với nước nhận đầu tư). Những dự án đầu tư đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, độ rủi ro cao và đòi hỏi nhiều kinh nghiệm trong quản lý và giám sát thực hiện (như các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các dự án khai thác dầu khí, …) thường do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn 100%. Ngoài các hình thức cơ bản trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn được thực hiện dưới các hình khác, như : - Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T) : Là hình thức được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư. Với hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư chịu trách nhiệm tiến hành xây dựng công trình, kinh doanh và có lợi nhuận trong một thờ hạn nhất định. Sau khi kết thúc dự án, nhà đầu tư sẽ chuyển giao cho nước chủ nhà toàn bộ công trình mà không thu một khoản tiền nào. - Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (B.T.O) : Là hình thức được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư sẽ tiến hành chuyển giao cho nước nhận đầu tư toàn bộ công trình. Chính phủ nước nhận đầu tư sẽ giao quyền kinh doanh công trình này cho nhà đầu tư trong một thời gian nhất định để họ thu hồi được vốn đầu tư và có được lợi nhuận hợp lý. - Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (B.T) : Là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. Đối với loại hình này, nhà đầu tư sẽ chuyển giao toàn bộ công trình cho nước nhận đầu tư sau khi xây dựng xong. Nước nhận đầu tư sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án khác để thu hồi đủ vốn đầu tư và có được lợi nhuận hợp lý, hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận của hợp đồng BT. Các hình thức đầu tư này chủ yếu là được áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Vốn để thực hiện các hợp đồng này thường là 100% vốn nước ngoài cộng với vốn của của Chính phủ, hoặc các cá nhân, tổ chức nước nhận đầu tư. Vì thế đây cũng có thể coi là những trường hợp đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. 2.4. Các lợi ích thu được từ đầu tư trực tiếp nước ngoài Kinh nghiệm phát triển của nhiều nước cho thấy rằng nguồn vốn FDI ngày càng có vai trò hết sức quan trọng, là yếu tố thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển. Nó có thể mang lại cho nước nhận đầu tư nhiều lợi ích khác nhau. Có những lợi ích trực tiếp có thể nhận thấy dễ dàng, và có những lợi ích gián tiếp, khó có thể nhận ra được. Song, nói chung, các lợi ích thu được từ việc thu hút FDI thường bao gồm: - Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở những nước đang phát triển, tạo tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh. Theo mô hình Harrod - Domar, nếu gọi k là hệ số gia tăng vốn sản lượng (hệ số ICOR) thì k được xác định như sau : Trong đó : DK : Mức gia tăng vốn sản xuất DY : Mức gia tăng sản lượng đầu ra Từ đó suy ra : Nếu hệ số ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Ở phần lớn các nước đang phát triển, hệ số ICOR thường thấp, khoảng từ 2 đến 3, do thiếu vốn, thừa lao động. Chính điều này đã gây ảnh hưởng không ít đến quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Vì thế đối với các nước đang phát triển, vốn đầu tư được coi là vấn đề cơ bản để đảm bảo tốc độ tăng trưởng. Thực tế cho thấy, ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như là một “cái hích ban đầu”, tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế các nước (các nước Đông Nam Á, các nước NICs, …). Như vậy có thể thấy được vai trò đặc biệt quan trọng của vốn đầu tư đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Song một vấn đề đặt ra đối với những nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) là ở những nước này, tỷ lệ tích luỹ nội bộ thường thấp, mà nhu cầu về vốn đầu tư phát triển thường lớn. Đây là trở ngại lớn nhất đối với các nước đang phát triên. Do đó để giải quyết được bài toán thiếu vốn cho quá trình phát triển, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là hết sức cần thiết. Trong thực tế đã cho thấy, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đã có đóng góp rất tích cực vào quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Ngày này, FDI đã trở thành một trong những nhân tố chính thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phù hợp với xu thế chung ttrên thế giới, tạo điều kiện cho các nước tiếp cận được với nền kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới. Kinh nghiệm phát triển của các nước cho thấy, để có thể đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh cần phải tăng cường đầu tư cho khu vực công nghiệp và dịch vụ. Chính đầu tư là nhân tố có quyết định phần lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia. Bên cạnh đấy, FDI còn góp phần giải quyết sự phát triển mất cân đối giữa các vùng miền, phát huy được lợi thế của các những vùng có khả năng phát triển nhanh, tạo điều kiện thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển. - FDI góp phần giải quyết được việc làm và đào tạo nguồn nhân lực Đây là lợi ích thường đi kèm với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cùng với việc tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư là sự ra đời của rất nhiều các doanh nghiệp liên doanh, các công ty 100% vốn nước ngoài ở các nước, thu hút được rất nhiều lao động. Điều này đã góp phần giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở những nước nhận đầu tư. Bên cạnh đấy, qua việc hợp tác đầu tư, một số lượng lao động đáng kể đã được đào tạo, nâng cao được năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, có thể thay thế cho các chuyên gia nước ngoài. Không chỉ thế, việc hợp tác kinh doanh với người nước ngoài còn giúp người lao động tiếp thu được công nghệ mới, rèn luyện tác phong làm việc, và thích ứng dần với cơ chế lao động mới. FDI còn đem lại thu nhập đáng kể cho người lao động, góp phần nâng cao sức mua của xã hội. Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong khu vực FDI thường cao hơn thu nhập bình quân của lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong nước. - FDI góp phần làm tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước Cùng với quá trình phát triển, đóng góp cho ngân sách của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng rất đáng kể (thông qua việc thu thuế, phí và các nghĩa vụ tài chính khác của các doanh nghiệp), ngày càng tăng lên, đem lại nhiều lợi ích cho ngân sách, làm tăng nguồn thu của Chính phủ, góp phần nâng cao khả năng chủ động của Chính phủ trong việc cân đối ngân sách. - FDI tăng cường chuyển giao công nghệ Chuyển giao công nghệ là một tập hợp nhiều hoạt động được tiến hành bởi hai bên - bên giao (người bán) và bên nhận (người mua) công nghệ. Hai bên phối hợp các hành vi pháp lý vào hoạt động thực tiễn để đạt được mục đích của mình trong việc chuyển giao công nghệ(6) PGS.TS Nguyển Bạch Nguyệt - TS. Từ Quang Phương (2004), Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Thống kê, Hà Nội . Một trong những đặc điểm cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư thường gắn liền với hoạt động chuyển giao công nghệ. Đối với những nước chậm và đang phát triển, cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn nhiều lạc hậu, FDI là nguồn chuyển giao công nghệ chính, góp phần nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế với việc áp dụng nhiều công nghệ mới, tạo ra bước ngoặt quan trong trong quá trình phát triển của một số ngành kinh tế mũi nhọn. Bên cạnh đấy, chuyển giao công nghệ thông qua FDI còn góp phần thúc đẩy các ngành nghề mới phát triển, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao về kỹ thuật và công nghệ. - Tác động tích cực tới đầu tư trong nước Cùng với sự gia tăng của các nguồn vốn FDI, các nguồn vốn trong nước cũng tăng lên đáng kể, đồng thời làm tăng khả năng thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác. Điều này chứng tỏ việc huy động FDI đã có tác động tích cực đến việc huy động vốn từ các nguồn khác, đặc biệt là vốn trong nước và nguồn vốn ODA. - Hoạt động thu hút FDI cũng đã có tác động đáng kể đến các hoạt động xuất khẩu Một phần quan trọng của FDI được hướng vào xuất khẩu, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình mở rộng thị trường trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận được với thị trường quốc tế, qua đó nâng cao được năng lực xuất khẩu (do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có khả năng tham gia vào thị trường xuất khẩu dễ dàng hơn so với các doanh nghiệp trong nước), nâng cao mức xuất khẩu của mình và cải thiện được doanh thu. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần phá thế bao vây, cấm vận đối với nhiều nước, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện cho các nước này chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới. 2.5. Hạn chế trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Bên cạnh những lợi ích thu được, việc thu hút và sử dụng FDI cũng có những hạn chế nhất định : - Việc phân bổ FDI không đồng đều giữa các ngành và các vùng lãnh thổ Số dự án đầu tư nước ngoài không được phân bổ một cách đồng đều. Mặc dù khu vực nông thôn có vai trò đặc biệt quan trọng nhưng nguồn vốn đầu tư vào khu vực này còn khá khiêm tốn, và chưa được quan tâm đúng mức. Bên cạnh đấy, phần lớn số các dự án đầu tư nước ngoài lại chủ yếu tập trung ở các thành phố, và khu đô thị lớn. Chính những điều này dẫn đến sự phát triển không cân đối giữa các ngành, và làm gia tăng phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, các miền, và giữa các tầng lớn dân cư trong xã hội. - Đầu tư chủ yếu là để phục vụ tiêu dùng trong nước, các ngành thiết yếu quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân còn ít được quan tâm, đầu tư Đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, mục đích chính của họ là kinh doanh và thu được lợi nhuận, do đó họ chỉ chủ yếu đầu tư vào những ngành nào đem lại cho họ lợi nhuận cao nhất mà không bị pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư cấm. Chính vì thế, dẫn tới hiện tượng đầu tư chủ yếu tập trung vào các ngành, các lĩnh vực phục vụ cho tiêu dùng trong nước, mang lại lợi nhuận cao. Ngược lại, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành đòi hỏi công nghệ cao và đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân còn tương đối hạn chế. - Việc tiếp nhận quá nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ làm tăng tính lệ thuộc vào nước ngoài Mặc dù ưu điểm lớn nhất trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thường ít chịu sự tác động của cá._.c quan hệ chính trị, không đi kèm các điều kiện ràng buộc, nhưng việc tiếp nhận quá nhiều FDI đối với một nước sẽ là không tốt, do có thể bị ảnh hưởng hoặc tăng tính lệ thuộc vào những yêu cầu từ phía nhà đầu tư. Bên cạnh đấy, việc tiếp nhận ồ ạt đầu tư nước ngoài, không được thẩm định kỹ sẽ dẫn đến hiện tượng một số nhà đầu tư lợi dụng tình hình để chuyển giao những công nghệ đã lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường, không còn giá trị sử dụng với giá cao, gây nhiều thiệt hại cho nước tiếp nhận đầu tư. - Một số nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng vào để hoạt động tình báo và gây rối loạn trật tự trị an Một trong những điều đáng lo đối với các nước trong thu hút đầu tư nước ngoài, đó là sự lợi dụng vào đầu tư của một số nhà đầu tư nước ngoài (từ các nước tư bản phát triển, các nước công nghiệp, …) nhằm can thiệp vào chế độ chính trị trong nước, gây rối loạn an ninh đất nước. - Vẫn chưa thực sự có định hướng và quy hoạch rõ ràng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, điều này đã gây không ít khó khăn cho nền sản xuất trong nước Việc thu hút đầu tư nước ngoài phần nào gây khó khăn cho các nước tiếp nhận đầu tư trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và theo vùng lãnh thổ. Nếu nước tiếp nhận đầu tư không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, sẽ dẫn đến tình trạng đầu tư lan tràn, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Mặc dù còn có một số mặt hạn chế, nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn luôn là một trong những nguồn vốn quan trọng, và hết sức cần thiết đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, đặc biệt là ở những nước đang phát triển đang phải đối mặt với sự thiếu thốn các nguồn lực cần thiết (vốn, công nghệ, lao động có trình độ, …) cho sự phát triển. II. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP 1. Vai trò và đặc điểm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp 1.1. Vai trò của ngành nông nghiệp Đối với hầu hết các nước đang phát triển, nông nghiệp giữ một vai trò hết sức quan trọng. Khắc phục tình trạng lạc hậu trong nông nghiệp chính là yếu tố cơ bản để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định. Vai trò của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế quốc dân được thể hiện ở các mặt sau : - Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong tổng sản phẩm quốc nội Hiện nay dân số nước ta vào khoảng trên 83 triệu người, trong đó có gần 63 triệu người (gần 76%) sống ở nông thôn, và chủ yếu là làm nghề nông. Trong những năm qua, nông nghiệp luôn là ngành đóng vai trò quan trọng trong tổng sản phẩm trong nước. Tuy tỷ trọng của nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc nội có xu hướng giảm, nhưng giá trị tuyệt đối của ngành vẫn tăng lên liên tục. Đây là một dấu hiệu chuyển biến tích cực của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. - Nông nghiệp là ngành thoả mãn nhu cầu to lớn về lương thực - thực phẩm cho nhân dân, cung cấp những nông sản, lương thực, thực phẩm cơ bản và thiết yếu cho con người Nếu nông nghiệp kém phát triển sẽ gây ảnh hưởng không chỉ đến phát triển kinh tế, mà còn ảnh hưởng đến cả sự ổn định chính trị và xã hội. Ngày nay trên thế giới, nạn thiếu lương thực - thực phẩm vẫn xảy ra trầm trọng ở nhiều nước. Vì thế, ở bất kỳ nước nào (dù là nước giàu hay nước nghèo, phát triển theo tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa), nông nghiệp vẫn luôn là ngành sản xuất vật chất có vị trí đặc biệt quan trọng. Do đó trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nông nghiệp cần phải được chú ý phát triển hơn nữa, để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của con người. Ở Việt Nam, sau khi thực hiện đường lối đổi mới, ngành nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Từ chỗ thiếu lương thực triền miên, hàng năm phải nhập khẩu trên dưới 1 triệu tấn lương thực, đến nay nước ta đã sản xuất được lượng lương thực thực phẩm đủ cho tiêu dùng trong nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, và còn xuất khẩu ra nước ngoài, thu được một lượng ngoại tệ đáng kể. Năm 2000, sản lượng lương thực nước ta đạt 36 triệu tấn, tăng 1,7 lần so với năm 1990. Nhờ vậy, bình quân lương thực đầu người cũng tăng lên tương ứng, từ 325kg/đầu người năm 1990 lên 455kg/đầu người năm 2000. Tỷ lệ đói nghèo ở nông thôn cũng nhanh chóng giảm xuống, từ gần 30% năm 1993 xuống 13% năm 2000. Việc giải quyết được nạn thiếu lương thực, thực phẩm và giảm tỷ lệ hộ đói nghèo ở nông thôn không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với việc đảm bảo an ninh lương thực trong nước, mà còn góp phần phát triển kinh tế một cách vững chắc và ổn định. Bên cạnh đó, còn tạo điều kiện cho các ngành nghề nông nghiệp khác cùng phát triển (đặc biệt là ngành chăn nuôi, làng nghề, và ngành nghề truyền thống ở nông thôn). - Nông nghiệp là nguồn cung cấp quan trọng các yếu tố đầu vào cho công nghiệp Trong quá trình phát triển, nông nghiệp nước ta có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc sản xuất và cung cấp nguyên vật liệu cho hàng loạt các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển (công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp dệt, may, công nghiệp giấy, đồ gỗ, …), và khu vực thành thị. - Nông nghiệp là thị trường cho các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, cung cấp lao động cho khi khu vực phi nông nghiệp Ở hầu hết các nước đang phát triển như Việt Nam, nông nghiệp và nông thôn chính là thị trường rộng lớn để tiêu thụ các sản phẩm của các ngành phi nông nghiệp (công nghiệp, dịch vụ), tạo điều kiện cho nền kinh tế chung tăng trưởng và phát triển. Nông nghiệp ngày càng được phát triển theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thu nhập của lao động trong khu vực nông nghiệp sẽ ngày càng tăng. Khi đó mức sống của người dân sẽ được cải thiện và nâng cao, nông nghiệp nông thôn sẽ dần trở thành thị trường tiêu thụ rộng lớn và ổn định cho các ngành sản xuất vật chất khác trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, có thể thấy sự phát triển của ngành nông nghiệp chính là một trong những nhân tố cơ bản và quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác, và sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Bên cạnh đấy, khu vực nông nghiệp còn là khu vực có nguồn nhân lực khá dồi dào, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của dân số hoạt động kinh tế thường xuyên khu vực nông thôn hiện nay mới chỉ đạt gần 80%, do đó qua việc tăng năng suất lao động ở nông thôn có thể cung cấp lao động cho khu vực phi nông nghiệp (công nghiệp, dịch vụ). Quá trình chuyển dịch lao động này cũng góp phần thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hình thành khu vực nông nghiệp hiện đại. - Nông nghiệp là nguồn cung cấp ngoại tệ thông qua xuất khẩu và tiết kiệm ngoại tệ thông qua thay thế nhập khẩu Từ năm 1995 đến nay, nông nghiệp đã có đóng góp phần rất lớn vào việc tăng thu nhập và tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân, thông qua việc cung cấp nông sản sản phẩm, đóng thuế, và đặc biệt là qua xuất khẩu nông sản phẩm. Nông nghiệp là một trong những ngành chủ yếu cung cấp một khối lượng hàng lớn (nông sản thô hoặc đã qua chế biến) cho xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước,qua đó tăng thu nhập và tích luỹ cho quá trình tái sản xuất và phát triển nền kinh tế quốc dân. - Phát triển nông nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc bảo vệ môi trường sinh thái Việc phát triển tốt nông nghiệp - nông thôn theo hướng hiện đại sẽ có tác động tích cực, không nhỏ đến bảo vệ môi trường sinh thái đang có nguy cơ ngày càng bị ô nhiễm nặng nề, và nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt. Đồng thời, nếu biết bảo vệ môi trường, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý sẽ tạo điều kiện cho phát triển nông nghiệp bền vững và có hiệu quả. Nói tóm lại, vai trò của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế có thể chia thành 2 nhóm : Đóng góp về thị trường (tiêu dùng sản phẩm cho các khu vực khác) Đóng góp về nhân tố (sự chuyển dịch các nguồn lực, như vốn, lao động, … từ nông nghiệp sang các khu vực khác). 1.2. Đặc điểm của ngành nông nghiệp So với các ngành công nghiệp, và dịch vụ, ngành sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp có những đặc điểm khác biệt sau : - Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các loài sinh vật Quá trình sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với quá trình sinh trưởng của các loại sinh vật (cây trồng, vật nuôi, và các sinh vật khác), mà sự phát triển của các loài sinh vật này lại chịu sự tác động của các yếu tố tự nhiên (thời tiết, khí hậu, đất đai, thuỷ lợi, …) và tuân theo các quy luật sinh học. Do đó việc phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải có thời gian nhất định, và phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên. Việc bố trí sản xuất như thế nào để có thể đạt được năng suất cao, chất lượng tốt cần phải phù hợp với điều kiện tự nhiên và các yếu tố sản xuất đầu vào (giống, nước, …). Chính vì đặc điểm này nên việc đầu tư vào ngành nông nghiệp khá mạo hiểm và tương đối nhiều rủi ro. Điều này đã làm giảm sức hấp dẫn của ngành đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, làm hạn chế số lượng dự án đầu tư vào ngành nông, lâm, ngư nghiệp. - Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt (vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động), và không thể thay thế được. Điều này hoàn toàn khác với ngành công nghiệp và dịch vụ. Ruộng đất thường bị giới hạn về diện tích, và không thể tăng thêm trong quá trình sử dụng, vì vậy phải có sự bố trí hợp lý trong quá trình sản xuất để tạo ra năng suất cao. Đồng thời, hạn chế việc sử dụng đất đai nông nghiệp, đặc biệt là những ruộng đất tốt vào các mục đích phi nông nghiệp (xây dựng cơ bản, …). Do đất đai là tư liệu sản xuất chính, nên trong sản xuất nông nghiệp thường bị giới hạn và có hạn chế. Điều này đã gây lên tâm lý e ngại đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi có ý định đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. - Sản xuất nông nghiệp có tính chất mùa vụ nhất định. Điều này là do hai yếu tố cơ bản. Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với quá trình sinh trưởng và phát triển của các loài động, thực vật. Yếu tố thứ hai là do trong quá trình sản xuất của ngành luôn phải phụ thuộc vào các yếu tố thời tiết, khí hậu, thuỷ văn, … Chính hai điều này đã làm cho thời gian sản xuất không trùng khớp với thời gian lao động (khác với trong công nghiệp, thời gian sản xuất trùng với thời gian lao động), tạo nên tính thời vụ trong lao động ở nông thôn. Gắn liền với nó là tính thời vụ trong việc sử dụng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn, và thu nhập của lao động trong khu vực nông nghiệp. Bên cạnh đấy, sản phẩm của ngành chủ yếu dưới dạng tươi sống, phải trải qua các khâu chế biến nhất định mới có thể đưa vào tiêu dùng. Điều này đòi hỏi trong sản xuất nông nghiệp phải có kế hoạch cụ thể, và phải tổ chức tốt quá trình chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, chế biến, tiêu thụ, … nông sản. Song, phần lớn cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp lại tương đối lạc hậu, việc áp dụng các kỹ thuật hiện đại trong nông nghiệp còn hạn chế, chính vì thế nếu đầu tư vào ngành này, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí khá lớn để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ban đầu ở nông thôn. Trong khi đó, sản xuất ở nông thôn lại mang tính thời vụ, khá bấp bênh, do đó khả năng thu được lợi nhuận cao và nhanh chóng là rất khó. Vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoài thường e ngại khi quyết định đầu tư vào lĩnh vực này. Ngoài những đặc điểm chung của nông nghiệp nói trên, nền nông nghiệp Việt Nam còn có những đặc điểm riêng : - Nền nông nghiệp nước ta là một nền nông nghiệp tương đối lạc hậu, mang tính chất tự cung tự cấp là chính, sản xuất hàng hoá ít phát triển. Giá trị sản xuất của ngành khá thấp. Phần lớn các vùng sản xuất nông nghiệp còn mang tính chất độc canh (ví dụ : đồng bằng sông Hồng chủ yếu độc canh về lúa, …). Kim ngạch xuất khẩu của ngành chưa thực sự tương xứng với tiềm năng. - Năng suất cây trồng, vật nuôi, năng suất lao động và hiệu quả sử dụng đất còn thấp. Tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn cao, mức thu nhập bình quân đầu người của lao động nông nghiệp so với lao động trong các khu vực khác là tương đối thấp. Đời sống của lao động nông nghiệp còn nhiều khó khăn, và thấp hơn hẳn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. - Ruộng đất canh tác bình quân đầu người thấp và có xu hướng ngày càng giảm nhanh (do sử dụng đất nông nghiệp vào các mục đích khác, do dân số ngày càng tăng nên nhu cầu xây dựng cơ bản ngày càng phát triển, …) Những yếu điểm này đã có tác động không nhỏ đến khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào nông, lâm, ngư nghiệp ở nước ta. Do sản xuất lạc hậu, trình độ sản xuất kém và còn nhiều hạn chế, nên đây là lĩnh vực kém hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay. - Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới và á nhiệt đới nên nông nghiệp nước ta cũng có những thuận lợi và khó khăn riêng. Do nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên lượng mưa thu được hàng năm tương đối lớn, cung cấp nước ngọt cho sản xuất và đời sống, nguồn năng lượng mặt trời và lượng ánh sáng nhiều đã tạo điều kiện cho hệ thống động thực vật phát triển mạnh và khá phong phú. Mặc dù có những hạn chế nhất định, song với hệ thống động thực vật phong phú, điều này đã tạo điều kiện cho Việt Nam có một nguồn nguyên liệu dồi dào, phong phú, tạo nên sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nông nghiệp nước ta vẫn gặp phải nhiều khó khăn, như : thiên tai, lũ lụt thường xuyên xảy ra (đặc biệt là ở miền Nam), khí hẩu ẩm là điều kiện hết sức thuận lợi cho sâu bệnh phát triển, gây tổn thất lớn cho sản xuất nếu không có các biện pháp tích cực và kịp thời. Nói tóm lại, việc nghiên cứu các đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nói chung, và của nền nông nghiệp nước ta nói riêng, và ảnh hưởng của chúng đến tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, đến khả năng thu hút vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp là hết sức cần thiết và không thể thiếu được trong giai đoạn hiện nay. 2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển nông, lâm, ngư nghiệp Việt Nam là một nước nông nghiệp đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, vì thế trong quá trình phát triển, nông nghiệp luôn là ngành được Đảng và Nhà nước ta ưu tiên đầu tư phát triển. Tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng nông thôn yếu kém, nên tỷ trọng thu hút vốn đầu tư vào ngành còn khá khiếm tốn so với các ngành khác. Để có thể khắc phục được tình hình trên, bên cạnh mục tiêu huy động vốn đầu tư, còn cần phải tìm kiếm các công nghệ mới, tiên tiến áp dụng vào lĩnh vực này, và cần phải có một lực lượng lao động có kỹ năng. Một trong những giải pháp để giải quyết các vấn đề trên đó là mở rộng hợp tác quốc tế, trong đó có thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với Việt Nam, FDI có vai trò thực sự quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp : - Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng hiện đại, đặc biệt là ở các vùng kinh tế - xã hội khó khăn. - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo thêm được nhiều việc làm mới cho người lao động ở nông thôn, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống kinh tế - xã hội ở nhiều vùng nông thôn. - Sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được trao đổi, mua bán trên thị trường quốc tế khá thuận lợi. Qua đó có thể giới thiệu được nông sản trong nước với thế giới, tạo điều kiện cho nông sản trong nước thâm nhập vàp thị trường thế giới, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu chung của toàn ngành. - Các dự án đầu tư nước ngoài sẽ đưa vào cho ngành nông nghiệp Việt Nam nhiều thiết bị, công nghệ mới hiện đại, nhiều giống cây con có năng suất cao, phẩm chất tốt, đạt tiêu chuẩn quốc tế. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp mặc dù chưa thực sự cao, nhưng cũng đã mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rất đáng kể như : Hệ thống giao thông được cải thiện, một số công trình phúc lợi công cộng được đầu tư xây dựng đã từng bước nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho nông dân, nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp trong vùng thông qua sản xuất nguyên liệu đã đem lại cho nông dân thu nhập cao hơn. Có thể thấy, FDI có vai trò đặc biệt quan trọng, vì thế việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp là tất yếu khách quan, và là điều kiện cơ bản để phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phù hợp với xu thế chung của thế giới. III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG THU HÚT FDI VÀO LĨNH VỰC NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP 1. Trung Quốc Nông nghiệp là ngành đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế Trung Quốc. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế, nông nghiệp Trung Quốc đã có những đóng góp to lớn đối với việc phát triển nền kinh tế, giải quyết việc làm, tăng tích luỹ vốn, tăng phúc lợi xã hội và ngoại tệ. Trong quá trình mở cửa, hội nhập, nhận thức được vai trò của đầu tư nước ngoài đối với phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, Trung Quốc đã đề ra các chính sách và chiến lược một cách hệ thống để thu hút vốn đầu tư nước ngoài : - Đối với các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, Trung Quốc đã thực hiện chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư cho các dự án này, đặc biệt trong thuế; như : ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (căn cứ vào các tiêu chí về lĩnh vực, địa bàn đầu tư, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm, trình độ công nghệ, … mà áp dụng mức thuế suất và mức miễn, giảm thuế), ưu đãi về thuế nhập khẩu, ... Việc áp dụng các chính sách ưu đãi thuế được thực hiện theo kỳ hạn đầu tư, càng dài càng được ưu đãi và ưu đãi khi tái đầu tư. - Thực hiện nguyên tắc tự do hoá đầu tư, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những lĩnh vực trước đây chưa mở cửa. - Bên cạnh đấy, tuy thực hiện các chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, song Trung Quốc vẫn áp dụng một số quy đinh cấm hoặc hạn chế nhất định nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, truyền thống văn hoá dân tộc, bảo hộ nền sản xuất nông nghiệp trong nước, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, … Mặc dù thực hiện đa dạng hoá các loại hình đầu tư, chủ đầu tư, song với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực phát triển và sản xuất ngũ cốc (bao gồm cả khoai tây), bông và cây lấy dầu, trồng các sản phẩm thuốc gia truyền của Trung Quốc có sự hạn chế hình thức đầu tư (chỉ cho phép đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh), và hạn chế tỷ lệ sở hữu nước ngoài (không được phép chiếm đa số). Ngoài ra, Trung Quốc không cấp phép đầu tư nước ngoài cho những dự án không có tác dụng tích cực trong việc tiết kiệm các nguồn tài nguyên và ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. 2. Thái Lan Nông nghiệp Thái Lan cho đến những năm 80 vẫn là khu vực quan trong nhất của nền kinh tế Thái Lan (xét cả về lực lượng lao động, đóng góp trong GDP và thu nhập về xuất khẩu. Giai đoạn 1997 - 1998, Thái Lan chịu ảnh hưởng khá nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. Từ năm 1999 đến nay, kinh tế Thái Lan bắt đầu hồi phục. Trong nông nghiệp, tuy tốc độ tăng trưởng chưa được như những giai đoạn trước, nhưng đã bắt đầu khôi phục, thoả mãn nhu cầu trong nước về các nông sản cơ bản và là một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. - Trong thu hút đầu tư nước ngoài, một trong những chính sách Thái Lan áp dụng nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp là ưu đãi về thuế nhập khẩu. Thái Lan miễn giảm 50% thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị nhập khẩu để thực hiện dự án được Cơ quan quản lý đầu tư (BOI) công nhận là dự án khuyến khích đầu tư. Đối với các dự án đầu tư vào các địa bàn đặc biệt khuyến khích đầu tư và xuất khẩu ít nhất 30% sản phẩm thì được miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu trong 5 năm. - Đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực : trồng lúa, trồng trọt hoặc làm vườn; chăn nuôi gia súc; trồng rừng và chế biến gỗ từ rừng tự nhiên (lâm nghiệp); đánh bắt hải sản trong vùng nước thuộc lãnh hải của Thái Lan và vùng đặc quyền kinh tế; chiết xuất từ thảo mộc của Thái Lan; sản xuất đường từ mía; khai thác muối, bao gồm cả khai thác muối dưới lòng đất; khai thác muối mỏ; sản xuất đồ gỗ, đồ gỗ nội thất, … khi chưa được Hội đồng đầu tư BOI cho phép, thì nhà đầu tư nước ngoài không được chiếm đa số cổ phần. - Pháp luật Thái Lan cũng quy định một số ngành nghề chưa sẵn sàng hợp tác với nước ngoài, bao gồm : sản xuất bột mỳ, đánh bắt thuỷ sản, trồng và khai thác rừng. 3. Malayxia Là một trong những nước trong khu vực có tốc độ thu hút FDI khá cao, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Để có thể đạt được kết quả này, Malayxia đã áp dụng những chính sách, biện pháp sau : - Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế, đặc biệt là ưu đãi thuế nhập khẩu. Nhưng trong quy định của pháp luật Malayxia, đối với các nguyên vật liệu nhập khẩu có thuế suất nhập khẩu dưới 3% thì không được xem xét miễn thuế nhập khẩu. - Giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp. - Bên cạnh đấy, trong pháp luật Malayxia có quy định một số dự án hông được cấp phép đầu tư nước ngoài hoặc chỉ được cấp phép với các điều kiện : Phát triển nguồn nguyên liệu trong nước Hoặc phải thực hiện tại một địa bàn nhất định Hoặc phải xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở lên Những dự án này bao gồm : sản xuất dứa đóng hộp, ép dầu cọ, tinh chế dầu cọ, thuốc lá điếu và thuốc lá sợi, gỗ tấm, gỗ xây dựng và gỗ dán. - Ngoài ra, đối với các dự án tinh chế đường Malayxia đóng cửa hoàn toàn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Một số ngành mở cửa nhưng có hạn chế đối với đầu tư nước ngoài, như : tinh chế dầu cọ (ở Sabah và Sarawak, tỷ lệ vốn nước ngoài tối đa là 60%), mỳ sợi chế biến tư gạo, nước chấm và đồ giai vị, bao bì giấy. 4. Một số bài học cho Việt Nam Nền nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền nông nghiệp lạc hậu, đầu tư trực tiếp nước lại có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển nông nghiệp, vì thế nên việc tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp là tất yếu khách quan. Để khuyến khích FDI vào lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách khuyến khích và ưu đãi dành cho các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Song so với các nước trong khu vực thì lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực này còn khá hạn chế. Trong thời gian tới, trong thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta nên hoạch định một chiến lược đúng đắn và sáng tạo từ rất sớm để khai thác thế mạnh ở các vùng có khả năng phát triển, khai thác thế mạnh của các quốc gia láng giềng : - Việc áp dụng mức thuế suất ưu đãi, hoặc miễn giảm thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần phải được xem xét trên các tiêu chí : lĩnh vực đầu tư, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm, địa bàn đầu tư, trình độ công nghệ, … - Thực hiện miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu - Đối với một số dự án đầu tư vào lĩnh vực mới hoặc mở rộng, chúng ta nên có chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. - Bên cạnh đó, cần thi hành các chính sách miễn, giảm thuế nhập khẩu đối với các máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng. - Song, mặc dù nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp là rất lớn, nhưng chúng ta không nên huy động vốn đầu tư nước ngoài một cách ồ ạt. Đối với các dự án có nguy ảnh hưởng không tốt đến an ninh chính trị quốc gia và lợi ích công cộng; đến môi trường sinh thái; đến truyền thống văn hoá dân tộc, đến thuần phong mỹ tục của dân tộc; hoặc các dự án đầu tư trong những lĩnh vực sản xuất cần bảo hộ, các dự án sản xuất các loại hoá chất độc hại, các dự án sử dụng tác nhân độc hại bị cấm theo điều ước quốc tê; … chúng ta cần có các quy định cấm hoặc hạn chế thu hút đầu tư nước ngoài. Nói tóm lại, FDI có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của toàn nền kinh tế nói chung, và đối với sự phát triển của nông nghiệp nói riêng. Vì thế việc đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt vào trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là hoàn toàn cần thiết, và là tất yếu khách quan. CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA I. THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TRONG CẢ NƯỚC 1. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua 1.1. Tình hình chung Chính sách đầy tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam đã được ban hành vào tháng 12/1987, và đến nay đã trải qua 4 lần sửa đổi. Cùng với việc cải thiện môi trường pháp lý, hàng loạt các biện pháp đã và đang được sử dụng nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh trong nước (đơn giản hoá thủ tục trong nước, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, …). Đặc biệt, tình hình chính trị - xã hội tương đối ổn định, cùng với sự tăng trưởng năng động của nền kinh tế trong nhiều năm, và tiến trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách tích cực đã làm cho Việt Nam trở thành một địa bàn đầu tư tương đối hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Sau gần 20 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã trở thành một trong những nước có nền kinh tế phát triển nhanh nhất Châu Á. Theo Cục đầu tư nước ngoài, tính đến ngày 20/12/2005, cả nước có khoảng 7000 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư, với tổng vốn đăng ký vào khoảng 65,7 tỷ USD. Bảng 1 : Tổng vốn FDI theo đăng ký từ 1998 đến 2005 Đơn vị : Triệu USD Năm Vốn đăng ký Năm Vốn đăng ký 1988 321,5 1997 6.055,3 1989 525,5 1998 4.877,0 1990 735,5 1999 2.264,3 1991 1.297,5 2000 2.695,7 1992 2.208,5 2001 3.320,0 1993 3.347,2 2002 2.963,0 1994 4.534,6 2003 3.145,5 1995 7.695,8 2004 4.222,2 1996 9.735,3 2005 5.814,2 Nguồn : Kinh tế Việt Nam - Thế giới 2005 - 2006 - Thời báo Kinh tế Việt Nam Trong đó, trừ các dự án đã hết hạn hợp đồng hoặc giải thể trước thời hạn, cả nước có 5918 dự án còn hiệu lực(*) Vốn còn hiệu lực = Vốn cấp mới + Tăng vốn - Vốn hết hạn - Vốn giải thể với tổng vốn đăng ký đầu tư khoảng 50,5 tỷ USD. Tổng vốn thực hiện từ 1988 đến hết năm 2005 là gần 27 tỷ USD (chỉ tính đối với các dự án còn hiệu lực). Đặc biệt trong năm 2005, cả nước thu hút được trên 5,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng trên 25% so với năm 2004. Đây là mức kỷ lục từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 (chỉ thấp hơn mức đạt được của năm 1996 là 9,7 tỷ USD). Biểu 1 : Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đăng ký vào Việt Nam Đơn vị : Triệu USD Như vậy, tính bình quân mỗi năm có khoảng trên 400 dự án được cấp giấy phép đầu tư, với mức vốn đăng ký mới đạt trên 3,65 tỷ USD. Tuy nhiên, có thể thấy cường độ thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian qua không đều. Từ năm 1988 đến 1990 chỉ có 214 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký là 1,58 tỷ USD. Đây là thời kỳ chất lượng các dự án còn hạn chế, quy mô còn nhỏ bé và chủ yếu là từ các nước Châu Á (Hồng Kông, Đài Loan). Đến giai đoạn 1991 - 1995, đây được coi là thời kỳ “bùng nổ” của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Số dự án mới được cấp phép lên đến gần 1400 dự án, với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 19 tỷ USD. Thời kỳ 1996 - 2000, mặc dù chịu nhiều tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, song tổng vốn đầu tư nước ngoài đưa vào được thực hiện gấp 1,5 lần so với giai đoạn 5 năm trước, với tổng số dự án đầu tư mới được cấp phép là 1696 dự án. Từ năm 2001 đến nay, nguồn vốn FDI vào Việt Nam đang từng bước được phục hồi, và có xu hướng ngày càng tăng. 1.2. Cơ cấu FDI theo ngành Với việc cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng quản lý và cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài, nguồn vốn FDI vào Việt Nam có xu hướng ngày càng gia tăng, tỷ trọng vốn FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội ngày càng lớn. Mặc dù vậy, việc thu hút FDI giữa các ngành còn chưa thực sự hợp lý. Biểu 2 : Cơ cấu vốn đăng ký FDI trong toàn bộ nền kinh tế (Từ 1988 đến hết 2005) Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Qua biểu đồ trên, ta có thể nhận thấy FDI chủ yếu là tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng và có xu hướng ngày càng tăng, chiếm khoảng 67,3% tổng số dự án trong cả nước, và 60,7% vốn đăng ký. Các tỷ lệ tương ứng trong khu vực dịch vụ là 19,7 % và 31,9%; trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp là 13% và 7,4%. 1.3. Cơ cấu FDI theo vùng và lãnh thổ Nói chung, FDI phân bố không đồng đều giữa các vùng lãnh thổ. Các thành phố lớn có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm vẫn là những địa phương dẫn đầu về thu hút đầu tư nước ngoài. Đứng đầu là thành phố Hồ Chí Minh với tổng số dự án đầu tư là 1834 dự án, chiếm 31% số dự án trong cả nước, và vốn đăng ký đạt khoảng 12,2 tỷ USD (chiếm 24,2% tổng vốn đăng ký cả nước). Tiếp theo là Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, … Khả năng thu hút FDI của khu vực miền Nam mạnh hơn, chỉ tính riêng 4 tỉnh là thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, và Bà Rịa - Vũng Tàu đã chiếm tới 62,6% tổng số dự án đầu tư, tương ứng với 56,4% tổng vốn đăng ký. Còn khu vực miền Bắc thu hút được ít hơn, và chủ yếu tập trung vào các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và Hải Dương. 1.4. Cơ cấu FDI theo đối tác đầu tư Về đối tác đầu tư, tính đến cuối năm 2005, có 73 nước có dự án đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, các nước Châu Á vẫn là những đối tác đầu tư chính, có số dự án đầu tư vào Việt Nam lớn nhất. Các nước Châu Á chiếm trên 75% tổng số dự án và khoảng 65% tổng vốn đăng ký. Các nước Châu Âu chỉ chiếm gần 10% số dự án và khoảng 19% vốn đăng ký. Hoa Kỳ chiếm 4,39% số dự án và 2,88 vốn đăng ký, còn lại là các nước khác. 1.5. Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư Về hình thức đầu tư, hình thức doanh nghiệp liên doanh có tỷ trọng lớn nhất, tuy chỉ chiếm 22,24% số dự án, nhưng chiếm tới 41,32% vốn thực hiện. Trong thời gian gần đây, hình thức 100% vốn nước ngoài có xu hướng ngày càng gia tăng. Từ năm 1988 đến nay, cả nước có khoảng 4404 dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài, và chiếm 36,6% vốn thực hiện. Số dự án và vốn còn lại thuộc hình thức hợp đồng hợp tác liên doanh và B.O.T. Trong 3 tháng đầu năm 2006, mặc dù chịu nhiều tác động của các._.dục, văn hoá, tổ chức các dịch vụ công cộng như : khuyến nông, khuyến lâm, bảo vệ thực vật, thú y, thuỷ nông với sự tham gia của nhân dân. - Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, gồm các công trình thuỷ lợi đầu mối, kênh trục đường chính, đường giao thông đến xã, đường dây điện đến trạm hạ thế, các công trình cung cấp nước sinh hoạt, … - Bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, các công trình phòng chống thiên tai bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai. - Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, quản lý chất lượng hàng hoá, bảo trợ xã hội, xoá đói giảm nghèo. 3. Mục tiêu phát triển nông nghiệp và thu hút FDI vào lĩnh vực này trong giai đoạn tới Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 đã được Đảng và Nhà nước ta xác định : “duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng phát triển, vượt ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, thu nhập thấp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá; nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, khai thác có hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại”. Đối với lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 150/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm, thuỷ sản của cả nước. Bảng 9 : Các chỉ tiêu cơ bản phát triển nông, lâm, ngư nghiệp đến năm 2020 Chỉ tiêu Đơn vị Giá trị Tốc độ tăng trưởng giá trị nông, lâm, thuỷ sản % 4 - 4,5 Tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn % 7,5 - 8 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp : - Trồng trọt % 65 - Chăn nuôi % 30 - Dịch vụ % 5 Tỷ lệ che phủ rừng % 43 - 44 Kim ngạch xuất khẩu tỷ USD 11 Nguồn : Quyết định 150/2005/QĐ-TTg Để có thể thực hiện được những mục tiêu nói trên, đòi hỏi phải huy động tối đa mọi nguồn lực trong và ngoài nước, đặc biệt là vốn. Xuất phát từ đó, tại Kế hoạch nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 - 2010 đã xác định kế hoạch huy động vốn đầu tư cho phát triển toàn ngành như sau : Bảng 10 : Các chỉ tiêu thu hút vốn đầu tư trong nông, lâm, ngư nghiệp thời kỳ 2006 - 2010 Chỉ tiêu Giá trị (tỷ đồng) Tỷ trọng Vốn ngân sách Nhà nước 37,65 26,0% Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước 2,9 2,0% Vốn ODA 13,03 9,0% Vốn của các doanh nghiệp và KTTT 49,23 34,0% Vốn của hộ gia đình 26,06 18% Vốn đầu tư nước ngoài 15,93 11,0% Tổng cộng 144.790 100% Nguồn : Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Như vậy, so với kế hoạch huy động vốn đầu tư nước ngoài vào tất cả các lĩnh vực thời kỳ 2006 - 2010, kế hoạch huy động vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển nông, lâm, ngư nghiệp nói chung là khá nhỏ bé, chiếm tỷ kệ không đáng kể. Còn trong tổng thể nguồn vốn đầu tư dự kiến thu hút vào ngành trong giai đoạn tới, tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 11%. Những tỷ lệ này tương đối thấp, và chưa thực sự tương xứng với tiềm năng phát triển của ngành. II. GIẢI PHÁP THU HÚT FDI TRONG NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP 1. Định hướng đầu tư Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đến năm 2010, định hướng trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, quy hoạch phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn, trong thời gian tới cần ưu tiên thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nhóm ngành, các sản phẩm có tác động lớn trên các phương diện đến sự phát triển của nông nghiệp nói riêng, và đến sự phát triển của cả nước nói chung, như: thúc đẩy chuyển giao công nghệ nhất là công nghệ cao, công nghệ nguồn, gia tăng xuất khẩu, tạo việc làm, các dự án sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh; các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Các định hướng cụ thể: - Việc thu hút FDI trong lĩnh vực nông nghiệp trong thời gian tới cần hướng vào việc phát triển công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây, con mới có năng suất, chất lượng có thể đáp ứng được yêu cầu trong nước và trên thị trường thế giới. Đặc biệt cần hướng vào sản xuất các sản phẩm có giá trị kinh tế cao (cà phê, cao su, chè, rau quả và chăn nuôi). - Đầu tư cho công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch để nâng cao giá trị sản phẩm và tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, ngày càng phát triển, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. - Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho nông, lâm nghiệp như các công trình thuỷ lợi, sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hệ thống giao thông, … - Đối với các ngành cụ thể : Ngành trồng trọt và chế biến nông sản : Để góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển cây lương thực, cây trồng lâu năm, cây công nghiệp... đã đề ra, trong thời gian tới, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần tập trung vào các dự án xây dựng vùng trồng và chế biến nông sản xuất khẩu (lúa, cà phê, cao su, ...) theo hướng thâm canh, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, ... Ngành trồng rừng và chế biến lâm sản : Để thực hiện mục tiêu phát triển ngành, giai đoạn tới cần hướng đầu tư nước ngoài vào các dự án : trồng rừng, sản xuất giống cây có chất lượng, xây dựng mạng lưới nhà máy chế biến gỗ và lâm sản, ... Ngành chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc : Với mục tiêu đã đề ra tại quyết định 150/2005/QĐ-TTg (đa dạng hoá các loại gia súc, hình thành các vùng chăn nuôi tập trung, ...), trong giai đoạn 2006 - 2010, đầu tư trực tiếp nước ngoài nên hướng chủ yếu vào các dự án sản xuất giống (lợn, bò, trâu, gia cầnm) có chất lượng cao, dự án bảo đảm vệ sinh môi trường, các dự án sản xuất thức ăn gia súc. Ngành thuỷ sản : Đối với ngành này hướng đầu tư chủ yếu, cần chú trọng là đầu tư tập trung các dự án nuôi trồng thuỷ sản tập trung, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm vệ sinh thực phẩm và chất lượng sản phẩm xuất khẩu (để có thể đáp ứng được yêu cầu của các thị trường lớn như EU và Hoa Kỳ), ... 2. Giải pháp thu hút FDI trong lĩnh vực nông nghiệp giai đoạn 2006 -2010 Trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước trong thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, và để thực hiện những mục tiêu đề ra, cần có những giải pháp đồng bộ về môi trường, hoàn thiện hệ thống luật, phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, … 2.1. Nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác quy hoạch phát triển ngành Trong thời gian qua, do công tác quy hoạch ngành và quy hoạch sản phẩm quan trọng trong nông nghiệp chưa có hoặc được triển khai chậm, lại dựa trên một số dự báo thiếu chính xác, chưa lường trước hết được những diễn biến phức tạp của thị trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài, … nên đã có tình trạng cấp giấy phép đầu tư nước ngoài vào một số sản phẩm, lĩnh vực mà vượt quá nhu cầu hiện tại. Bên cạnh đấy, cũng do thiếu quy hoạch cụ thể, mà chủ trương đối với một số dự án đầu tư vào một số sản phẩm quan trọng hoặc lĩnh vực nhạy cảm chưa rõ ràng, điều này khiến cho các địa phương phải chờ xin ý kiến chỉ đạo của các cơ quan trung ương mất khá nhiều thời gian, song mặt khác còn dẫn đến tình trạng quan điểm xử lý đối với các dự án đầu tư nước ngoài không có sự thống nhất. Do đó trong thời gian tới, để nâng cao được hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài, thì biện pháp đầu tiên cần phải được tiến hành đó là điều chỉnh công tác quy hoạch ngành, quy hoạch sản phẩm, nhằm mở rộng lĩnh vực đầu tư, tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này : 2.1.1. Xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài trong bản quy hoạch Việc đầu tiên là tiến hành nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác quy hoạch phát triển ngành, ngay từ khâu xây dựng cho đến khâu thực hiện, trong đó phải xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài. - Quy hoạch phải được xây dựng trên cơ sở gắn kết với mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển đặt ra Kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 - 2010 cũng như Chiến lược thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Căn cứ vào các quy hoạch nói trên, các ngành, các địa phương xây dựng các danh mục dự án ưu tiên gọi vốn đầu tư nước ngoài với các thông tin cụ thể về mục tiêu, địa điểm, công suất và đối tác Việt Nam để làm cơ sở cho việc tổ chức các chương trình vận động đầu tư. - Quy hoạch ngành nông nghiệp phải gắn với quy hoạch vùng, đảm bảo tính hiệu quả. Quy hoạch của từng địa phương cần được xây dựng trên quy hoạch vùng. Quy hoạch các sản phẩm cụ thể cần được nghiên cứu, xây dựng một cách khoa học cho một khoảng thời gian dài, có tính chất dự báo và làm căn cứ cho việc huy động nguồn lực trong nước và nước ngoài và dựa trên quy hoạch ngành và quy hoạch vùng. Khẩn trương rà soát, điều chỉnh quy hoạch ngành kết hợp xây dựng quy hoạch theo vùng lãnh thổ, thực hiện xóa bỏ tình trạng độc quyền, phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài trong quy hoạch, mở rộng lĩnh vực đầu tư đối với đầu tư nước ngoài. 2.1.2. Phát triển công tác dự báo nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch - Quy hoạch các ngành phải có sự phù hợp với các thỏa thuận và cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập. Quy hoạch phải được xây dựng trên cơ sở cập nhật về số liệu, tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế, phải dựa trên căn cứ khoa học chính xác, do đó cần đặc biệt chú trọng đến công tác dự báo, nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch (quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm, địa bàn, ...). 2.1.3. Xây dựng danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài - Đầu tiên là xoá bỏ quy định về việc yêu cầu các dự án đầu tư phải phù hợp với quy hoạch sản phẩm. - Trên cơ sở căn cứ vào quy hoạch phát triển ngành, xem xét lại Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2001 - 2005, lập Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 - 2010. 2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp Bên cạnh những giải pháp tổng thể về phát triển nông, lâm, ngư nghiệp cần xây dựng hệ thống các cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này theo những hướng sau : 2.2.1. Ban hành các chính sách hỗ trợ, ưu đãi đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp : Sản xuất nông nghiệp nói chung là một hoạt động nhiều rủi ro, vì thế đây luôn là một lĩnh vực kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, do đó rất cần các chính sách ưu đãi hỗ trợ của Nhà nước. Trong thời gian tới cần tiếp tục duy trì và mở rộng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp : - Có chế độ ưu tiên đối với các dự án sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước thay vì nhập khẩu, áp dụng mức thuế suất nhập khẩu cao đối với các nguyên liệu thô phục vụ chế biến một số sản phẩm nhạy cảm (đường, sữa bột). - Vẫn tiếp tục áp dụng mức thuế thu nhập ưu đãi đối với các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án ứng dụng khoa học công nghệ mới để sản xuất các loại giống mới, có năng suất cao và có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế. - Ngoài ra Nhà nước nên ban hành những chính sách bảo trợ cho nông dân và các doanh nghiệp như bảo trợ xã hội, bảo trợ thiên tai, … 2.2.2. Có các chính sách phát triển thị trường vốn, và tín dụng đầu tư : Đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nói chung có những đặc thù riêng, vì thế việc áp dụng những chính sách phù hợp mới có thể hấp dẫn được nhà đầu tư nước ngoài. - Trong việc cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, tạo ra kênh vốn ưu đãi cho dự án liên doanh trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp, như : vốn tư ngân hàng, từ quỹ đầu tư tín dụng Nhà nước, đáp ứng nguồn vốn bổ sung cho các doanh nghiệp lớn của Việt Nam tham gia góp vốn liên doanh trong một số lĩnh vực khuyến khích đầu tư, như lai tạo giống, sản xuất sản phẩm xuất khẩu,… - Có chính sách hỗ trợ vốn ngân sách hoặc các nguồn cho vay ưu đãi cho bên Việt Nam trong công tác giải toả và đền bù thoả đáng, đặc biệt là việc đền bù đất cho nông nông dân, để đưa đất góp vốn thuận lợi, thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. 2.2.3. Chính sách về đất đai trong nông nghiệp Trong thời gian qua, việc thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp thường gặp nhiều khó khăn trong vấn đề đất đai. Để khắc phục khó khăn này, cần thực hiện những biện pháp sau : - Cho phép nông dân được chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp vào các mục đích khác nếu không trái với các yêu cầu bảo vệ đất vì lợi ích chung. - Thực hiện nhất quán chính sách giao đất, sử dụng sản phẩm cho các nhà đầu tư nước ngoài, mà vừa đảm bảo được việc quản lý các nguồn tài nguyên, vừa khuyến khích được các nhà đầu tư nước ngoài. - Ngoài ra, cần có chính sách đền bù đất thoả đáng cho nông dân (đối với các dự án sử dụng đất thuộc quyền sở hữu của nông dân, cần phải có những đền bù thoả đáng về mặt giá trị cho người dân khi tiến hành giải toả, như : đền bù bằng tiền, ...). 2.2.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường pháp lý hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài Trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu, và nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, theo hướng xích gần và tiến tới thống nhất giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, thi hành pháp luật nghiêm minh, và không nên có sự điều chỉnh lớn các thể chế về đầu tư trong thời gian ngắn. - Nên quy định cụ thể các khoản ưu đãi về lợi ích kinh tế, đảm bảo an toàn vốn cho các nhà đầu tư nước ngoài, có quy định ưu đãi cụ thể và chi tiết đến từng lĩnh vực sản xuất cây trồng, vật nuôi, đặc biệt đối với những dự án đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. - Động viên khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế (đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân) tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, có chính sách đảm bảo và tạo ra một “sân chơi” bình đẳng giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước về mức giá của các dịch vụ cung ứng cho các hoạt động đầu tư. - Tiến hành đơn giản hoá các thủ tục đăng ký cấp phép, các thủ tục sau cấp phép, ký kết với đầu tư nước ngoài và trong thủ tục xét cấp vay lại. 2.2.5. Tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi Cần có những biện pháp để giữ vững sự ổn định nền kinh tế vĩ mô, duy trì được tốc độ tăng trưởng cao bền vững, hạn chế lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái. Cần xây dựng chiến lược hợp tác đầu tư với nông nghiệp, hoàn thành quy hoạch tổng thể và cụ thể về cơ cấu lĩnh vực, khu vực đối với đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp. Bên cạnh đấy, cần cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng cơ sở trong nông nghiệp và nông thô, ưu tiên đầu tư cho những vùng, những địa phương đặc biệt khó khăn. Do chưa có điều kiện phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng, nên chúng ta chỉ nên tập trung đầu tư dứt điểm một số công trình, địa bàn để tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 2.3. Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài Sau khi tạo được môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thông thoáng, hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, vấn đề có tính then chốt là phải nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài. Theo quy định tại Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài bao gồm các nội dung chủ yếu sau(8) Luật đầu tư nước ngoài : - Xây dựng chiến lược, quy hoạch và chính sách đầu tư nước ngoài - Ban hành các văn bản pháp luật về hoạt động đầu tư nước ngoài - Hướng dẫn các ngành, các địa phương trong việc thực hiện các hoạt động liên quan tới đầu tư nước ngoài - Cấp, thu hồi giấy phép đầu tư - Quy định việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài - Kiểm tra, thanh tra và giám sát các hoạt động đầu tư nước ngoài Trong thời gian qua, công tác quản lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều yếu kém, vừa sơ hở lại vừa can thiệp sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để có thể tăng cường, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp nói chung, trong thời gian tới, cần chú trọng tới các vấn đề sau : - Cần phải hoàn chỉnh hệ thống các văn bản có liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài, xây dựng một quy chế phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân tỉnh trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung. - Bên cạnh đấy, cần phải triệt để và kiên quyết trong việc quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính và kiên quyết giảm các thủ tục hành chính không cần thiết, thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa để thu hút thêm được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này. - Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 13 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có việc tiến hành đều đặn chương trình giao ban Vùng; duy trì, nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư, kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư. - Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả điều hành hoạt động ĐTNN ở cả trung ương lẫn địa phương. 2.4. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư Trong gần 20 năm qua, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu chỉ được thực hiện dưới 3 hình thức chính : Doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Do đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Bên cạnh đấy, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều hạn chế, và tương đối chậm. Mặt khác, trong các dự án liên doanh liên kết với nước ngoài, bên Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh, số doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ không đáng kể. Chính những điều này đã phần nào làm hạn chế việc mở rộng các kênh mới để thu hút FDI của thế giới vào nước ta nói chung, và vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp nói riêng. Trong thời tới, việc đa dạng các hình thức đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp cần được nghiên cứu và triển khai theo các hướng chính sau : - Ban hành các chính sách nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh liên doanh với nước ngoài. Khai thác thêm các kênh đầu tư mới cho phép thành lập các công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài, công ty hợp doanh, và đặc biệt là hình thức sát nhập và thâu tóm (M&A) một doanh nghiệp trong nước đang hoạt động. Hiện nay, tại nhiều nước trên thế giới, M&A là một hình thức rất quan trọng của FDI, tuy nhiên đối với Việt Nam, do có những hạn chế đối với cổ phần của người nước ngoài trong các công ty, doanh nghiệp trong nước, nên hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài này chưa thực sự phổ biến. Trong thời gian tới, với sự đổi mới chính sách, quan điểm, M&A sẽ trở thành một hình thức đầu tư nước ngoài quan trọng cho Việt Nam. - Đối với các tập đoàn kinh tế lớn có nhiều dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp nói riêng, và cho toàn nền kinh tế nói chung, cần xem xét đến việc thành lập các công ty quản lý vốn (Holding Company) để điều hành chung các dự án. - Sớm ban hành Danh mục các lĩnh cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam. 2.5. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động xúc tiến đầu tư Để thực hiện được mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghệp nói chung, công tác vận động xúc tiến đầu tư cần phải được đổi mới cả về nội dung và hình thức theo những hướng cơ bản sau : - Cần phải nhận thức rõ ràng rằng việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhằm triển khai có hiệu quả các dự án đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy phép đầu tư sẽ là biện pháp tốt nhất để xây dựng hình ảnh, và nâng cao sự hiểu biết của các nhà đầu tư nước ngoài về sức hấp dẫn và cạnh tranh của đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam. - Cần phải bố trí đủ ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực này như là một khoản chi phí thường xuyên hàng năm của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. - Cần xem xét việc lập Quỹ xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp trong phạm vi toàn quốc, trên cơ sở ngân sách nhà nước kết hợp với huy động các nguồn vốn của các tổ chức, doanh nghiệp. - Cần đổi mới và nâng cao chất lượng các ấn phẩm tuyên truyền đầu tư nước ngoài nói chung và trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp nói riêng (như giudebook, in tờ gấp giới thiệu về cơ quan quản lý đầu tư, danh mục các lĩnh vực khuyến khích đầu tư, …), nhằm tạo sức hấp dẫn và ấn tượng tốt ban đầu đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nâng cấp trang thông tin website về đầu tư nước ngoài. - Cần triển khai nghiên cứu tiềm năng, thế mạnh của các nước và các vùng lãnh thổ cũng như của nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào lĩnh vực này để có cơ chế, chính sách vận động thích hợp. - Nhanh chóng xây dựng kế hoạch và chương trình vận động đầu tư cụ thể trong nước và ngoài nước, tập trung vào các ngành, các đối tác đầu tư cần thu hút đầu tư nước ngoài cho thời kỳ 2006 - 2010 (chú trọng vào các nước lớn : Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, các công ty xuyên quốc gia, các đối tác có công nghệ cao, ...). KẾT LUẬN Sau gần 20 năm thực hiện Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, FDI đã trở thành một trong những nhân tố quan trọng, có tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Thực trạng phát triển của Việt Nam trong thời gian gần đây cho thấy nhu cầu về vốn rất lớn, đặc biệt là nguồn vốn FDI. FDI không chỉ bổ sung thêm nguồn vốn quan trọng cho quá trình phát triển, mà còn góp phần chuyển giao công nghệ, nâng cao trình độ cho người lao động, nhất là trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Trên cơ sở phân tích thực trạng thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp trong thời gian qua, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, nhưng chúng ta vẫn có thể nhận thấy những hạn chế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta cần phải tiến hành áp dụng những chính sách, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường nguồn vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới (như hoàn thiện hệ thống luật pháp có liên quan đến đầu tư nước ngoài, hoàn thiện công tác quy hoạch ngành, mở rộng các hình thức đầu tư, …)và tạo được chỗ đứng trên thị trường quốc tế trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực Tuy nhiên trong khuôn khổ hạn hẹp của chuyên đề mới chỉ đưa ra được những giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút FDI vào nông nghiệp ở Việt Nam, bên cạnh đấy còn rất nhiều những vấn đề khác cần phải quan tâm và giải quyết trong thời gian tới, như : vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng FDI trong nông nghiệp, công tác đào tạo và nâng cao trình độ của cán bộ và công nhân kỹ thuật, vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức Đoàn thể, Công đoàn với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, … Trong quá trình thực hiện đề tài này, mặc dù có nhiều gặp nhiều khó khăn nhưng với sự tận tình của thầy giáo Thạc sĩ Bùi Đức Tuân và các cán bộ phòng Nông, Lâm, Ngư nghiệp thuộc Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài này. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô. Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2002), Kỷ yếu khoa học nghiên cứu kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn (1996 - 2002), NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010. 3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển. 4. Bộ Thuỷ sản, Báo cáo bổ sung và điều chỉnh kế hoạch 5 năm 2001 - 2010. 5. Bộ Thuỷ sản (8/2005), Số liệu thống kê thuỷ sản 2001 - 2003, NXB Thống kê, Hà Nội. 6. Cục đầu tư nước ngoài, Kỷ yếu đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 7. Kinh tế - xã hội qua các con số thống kê, Tạp chí Kinh tế Việt Nam - thế giới 2005 - 2006. 8. Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (2004), NXB Chính trị quốc gia. 9. PGS.TS Nguyển Bạch Nguyệt - TS. Từ Quang Phương (2004), Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Thống kê, Hà Nội 10. PGS.TS Trần Quốc Khánh (2005), Giáo trình Quản trị kinh doanh nông nghiệp, NXB Lao động - xã hội, Hà Nội. 11. PGS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng – ThS Phan Thị Nhiệm (1999), Giáo trình chiến lược kinh doanh, NXB Thống kê, Hà Nội. 12. TS. Ngô Thắng Lợi (2002), Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội, NXB Thống kê, Hà Nội. 13. TS. Vũ Đình Thắng – GVC. Hoàng Văn Định (2002), Giáo trình Kinh tế phát triển nông thôn, NXB Thống kê. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Một số trang web : - Bộ Kế hoạch và Đầu tư : www.mpi.gov.vn - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn : www.mard.gov.vn - Bộ Tài chính : www.mof.gov.vn - Thời báo kinh tế Việt Nam : www.vneconomy.com.vn DANH MỤC CÁC BẢNG DANH MỤC CÁC BIỂU Biểu 1 : Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đăng ký vào Việt Nam 34 Biểu 2 : Cơ cấu vốn đăng ký FDI trong toàn bộ nền kinh tế (Từ 1988 đến hết 2005) 35 Biểu 3 : Dòng vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp thời kỳ 1988 - 2005 51 Biểu 4 : Cơ cấu đầu tư trong nội bộ ngành nông nghiệp 53 Biểu 5 : Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư 62 Biểu 6 : FDI trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở các địa phương 63 Biểu 7 : Mối quan hệ giữa FDI và sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam 64 Biểu 8 : Tỷ trọng đầu tư nước ngoài vào nông, lâm, ngư nghiệp so với các ngành khác (đến 20/12/2005) 68 DANH MỤC CÁC TỪ VIÊT TẮT Từ viết tắt Giải thích FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP Tổng sản phẩm quốc nội GTSX Giá trị sản xuất IMF Quỹ tiền tệ thế giới NICs Nước công nghiệp mới OECD Tổ chức phát triển hợp tác kinh tế TNCs Công ty xuyên quốc gia WTO Tổ chức thương mại thế giới MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I : ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP 3 I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 3 1. Một số khái niệm cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3 1.1. Khái niệm về đầu tư 3 1.2. Khái niệm về đầu tư nước ngoài 4 1.3. Phân loại đầu tư nước ngoài 6 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò trong sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia 8 2.1. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 8 2.2. Phân biệt đầu tư trực tiếp nước ngoài với đầu tư gián tiếp nước ngoài 9 2.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 10 2.4. Các lợi ích thu được từ đầu tư trực tiếp nước ngoài 14 2.5. Hạn chế trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 17 II. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP 19 1. Vai trò và đặc điểm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp 19 1.1. Vai trò của ngành nông nghiệp 19 1.2. Đặc điểm của ngành nông nghiệp 23 2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển nông, lâm, ngư nghiệp 26 III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG THU HÚT FDI VÀO LĨNH VỰC NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP 27 1. Trung Quốc 27 2. Thái Lan 28 3. Malayxia 29 4. Một số bài học cho Việt Nam 30 CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 32 I. THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TRONG CẢ NƯỚC 32 1. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua 32 1.1. Tình hình chung 32 1.2. Cơ cấu FDI theo ngành 35 1.3. Cơ cấu FDI theo vùng và lãnh thổ 35 1.4. Cơ cấu FDI theo đối tác đầu tư 36 1.5. Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư 36 2. Tác động của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 37 2.1. Tác động tích cực 37 2.2. Hạn chế còn tồn tại 40 II. THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP 43 1. Tình hình phát triển nông, lâm, ngư nghiệp giai đoạn 2001 - 2005 43 2. Chính sách thu hút FDI và các cam kết quốc tế của Việt Nam 47 2.1. Chính sách thu hút FDI 47 2.2. Các cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp 50 3. Tình hình thu hút FDI trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp 50 3.1. Tình hình chung 50 3.2. Cơ cấu thu hút FDI 52 III. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THU HÚT FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP 64 1. Tác động của FDI tới phát triển nông, lâm, ngư nghiệp 64 2. Hạn chế còn tồn tại 67 2.1. Hiệu quả của các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chưa cao 67 2.2. Tỷ trọng đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn thấp và thiếu ổn định. 68 2.3. Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài phân bổ không đồng đều giữa các địa phương 69 2.4. Đối tác đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chưa cân đối và thiếu tính đa dạng 69 2.5. Hình thức đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp chưa đa dạng 70 3. Nguyên nhân của những hạn chế trong thu hút FDI vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp 70 3.1. Chất lượng công tác quy hoạch phát triển ngành chưa cao 70 3.2. Hoạt động sản xuất trong nông có nhiều rủi ro hơn các lĩnh vực khác 71 3.3. Hệ thống luật pháp, chính sách khuyến khích liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều bất cập, kém hiệu quả và chưa đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài 71 3.4. Công tác vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn kém hiệu quả. 72 CHƯƠNG III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 -2010 74 I. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU TRONG THU HÚT FDI VÀO NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP TRONG GIAI ĐOẠN TỚI 74 1. Những yếu tố tác động đến thu hút FDI trong nông, lâm ngư nghiệp 74 1.1. Tình hình quốc tế 74 1.2. Tình hình trong nước 75 2. Quan điểm thu hút FDI vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn tới 76 3. Mục tiêu phát triển nông nghiệp và thu hút FDI vào lĩnh vực này trong giai đoạn tới 77 II. GIẢI PHÁP THU HÚT FDI TRONG NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP 79 1. Định hướng đầu tư 79 2. Giải pháp thu hút FDI trong lĩnh vực nông nghiệp giai đoạn 2006 -2010 81 2.1. Nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác quy hoạch phát triển ngành 81 2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp 83 2.3. Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài 86 2.4. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư 87 2.5. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động xúc tiến đầu tư 88 KẾT LUẬN 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28559.doc
Tài liệu liên quan