MỞ ĐẦU
Nằm trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, Nhật Bản và Việt Nam là hai quốc gia có điều kiện tự nhiên khác nhau. Từ một quốc gia hải đảo nghèo tài nguyên thiên nhiên, con đường phát triển phải dựa vào bên ngoài nhưng Nhật Bản đã trở thành một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Không chỉ có nền kinh tế lớn, Nhật Bản còn là một quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, một trung tâm công nghiệp và thế giới, có nguồn dự trữ khổng lồ.
Việt Nam, Một quốc gi
60 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a nhỏ bé nằm trong khu vực Đông Nam Châu á, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhân dân siêng năng cần cù, trải qua nhiều cuộc chiến tranh giữ nước, hiện nay đang trên đà đổi mời và phát triển.
Để thực hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, sự giúp đỡ của Nhật Bản đối với Việt Nam để giảm bớt những hạn chế và khó khăn trong việc đổi mới và tiến hành nhanh hơn và đúng hướng là rất cần thiết, đặc biệt là về vốn và kỹ thuật. Và để thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi thu nhập quốc dân dầu người từ nay đến năm 2005, Việt Nam cần khoảng hơn 50 tỷ USD vốn đầu tư. Trong khi đó, vốn trong nước chỉ đáp ứng 50% nhu cầu vì vậy chỉ có thể trông chờ vào đầu tư nước ngoài. Việc thu hút vốn đầu tư của các nước phát triển - các cường quốc như Nhật Bản là việc hết sức là quan trọng.
Trong bài viết này, em muốn nhấn mạnh đến trực tiếp đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 đến nay. Đây là giai đoạn Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới và bước đầu đã có những kết quả tốt đẹp. Đề tài chuyên đề là “Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam”
Cụ thể nội dung chuyên đề bao gồm 3 chương.
Chương I: Một số lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của nhật bản ở việt nam
Chương III: Định hướng và các giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm cũng như trình độ còn hạn chế, tôi rất mong sự quan tâm và chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn để chuyên đề của tôi thêm hoàn thiện.
Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới TS Nguyễn Thị Hường, ThS Tạ Lợi, các thầy cô giáo. Chú Ngô Xuân Bình, cùng tập thể phòng thông tin tư liệu và thư viện thuộc Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1. Khái niệm chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện ngay từ thời tiền tư bản và cho đến nay đã có rất nhiều định nghĩa về đầu tư nước ngoài đã được đưa ra. Nhìn chung có một chấp nhận được nhiều quốc gia trên thế giới chấp nhận, đó là, “ đầu tư nước ngoài là việc các nhà đầu (tư cá nhân hoặc pháp nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nhằm thu lợi nhuận và đạt được các hiệu quả xã hội”.
Đầu tư nước ngoài tồn tại dưới hai dạng là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư giao tiếp là một loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia trong đó người chủ sở hữu vốn không trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động đầu tư. Đối với hoạt động đầu tư này, nhà đầu tư không trực tiếp chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư mà chỉ hưởng lãi xuất theo tỷ lệ cho trước của số vốn mà họ đầu tư. Còn bên nhận đầu tư phải chủ động trong việc sử dụng vốn vào kinh doanh. Đầu tư gián tiếp bao gồm các khoản viện trợ chính thức (ODA), tín dụng quốc tế, trái phiếu, cổ phần... Thông thường nếu đầu tư gián tiếp được thực hiện bởi các tổ chức quốc tế hay các quốc gia thì nó thường đi kèm với các điều kiện ưu đãi và gắn chặt với thái độ chính trị cuả các chính phủ và các tổ chức kinh tế quốc tế. Nếu là vốn tư nhân thì chủ đầu tư nước ngoài bị khống chế mức độ góp phần theo luật đầu tư và sở tại. Nhìn chung, đầu tư gián tiếp là sự chuẩn bị cho đầu tư trực tiếp và tạo điều kiện và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp một cáchcó hiệu quả.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (EDI) là hình thức đầu tư nước ngoài trong đó người chủ sở hữu đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn liền với sự r a đời cuả các công ty xuyên quốc gia. Số lượng các Công ty xuyên quốc gia và các chi nhánh của chúng đã tăng lên một cách nhanh chóng, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Theo thống kê của liên hiệp quốc, hiện nay trên thế giới có khoảng 37.000 Công ty với 170.000 chi nhánh. Con số này đã chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ cuả đầu tư trực tiếp nước ngoài tgrong thời gian qua. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một xu thế tất yếu trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất và lưu thông. Có thể nói trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay định hướng xã hội chủ nghĩa lại không cần đền đầu tư trực tiếp nước ngoài. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, ngay cả những nước có tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật mạnh như Mỹ, các nước Tây Âu và Nhật Bản cũng không thể tự mình giải quyết những vấn đề đã, đang và tiếp tục đặt ra trên lĩnh vực khoa học công nghệ và tiếp tục đặt ra trên lĩnh vực khoa học công nghệ và vốn. Do đó, con đường hợp tác có hiệu qảu. Mọi quốc gia đều coi đó là một nguồn lực quốc tế cần khai thác để từng bước hoà nhập vào cộng đồng quốc tế.
1. Các hình thức đầu tư nước ngoài.
Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam quy định đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện qua 3 hình thức chủ yếu sau :
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Ngoài ra luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng quy định đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được đầu tư dưới một số các hình thức
đặc biệt khác như :
Doanh nghiệp chế xuất
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT Bruld - Operate - Transfer - Operate Contact)
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO Build - Transfer - Operate Contact)
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT - Build - Transfer Contact)
1. Quy trình đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Việc tổ chức vận động thu hút FDI của Nhà nước được thực hiện dựa trên việc tổng hợp chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, địa phương trên cơ sở kế hoạch hàng năm và kế hoạch 5 năm. Việc tổng hợp sắp xếp thứ tự ưu tiên được thực hiện bởi Bộ Kế hoạch và đầu tư và được thể hiện qua chương trình đầu tư công cộng trong đó có nhu cầu của Nhà nước về nguồn FDI từ bên ngoài trong từng thời kỳ phát triển. Như vậy, ở tầm vĩ mô Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tham mưu tổng hợp, là đầu mối trong việc điều phối và quản lý FDI.
Danh mục các chương trình, dự án dự kiến thu hút FDI sau khi được Thủ tướng Chính phủ và các cấp có thẩm quyền phê duyệt được công bố rộng rãi và là cơ sở cho việc thu hút FDI trong từng năm, 5 năm và trong từng giai đoạn.
Đối với Việt Nam, quy trình xây dựng kế hoạch đầu tư để thu hút FDI cũng được thực hiện tương tự. Trên cơ sở chiến lược phát triển, kinh tế xã hội. Bộ kế hoạch và đầu tư, các cơ quan có liên quan để tổng hợp kế hoạch danh mục đưa vào chương trình đầu tư trong từng thời kỳ, từng năm của cả nước.
II. NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ VÀ NHẬN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
Quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:
Thứ nhất, để mở rộng thị trường tiêu thụ, ngay tại nước chủ đầu tư, nhà đầu tư có thể đã có một vị trí nhất định trên thị trường . Cũng có thể loại hàng hoá hoặc dịch vụ mà nhà đầu tư có cung cấp đang bị cạnh tranh gay gắt tại thị trường trong nước. Việc tìm kiếm những thị trường ngoại nước với những nhu cầu lớn về loại hàng hoá hoặc dịch vụ của nhà đầu tư sẽ đáp ứng được việc mở rộng sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Ngoài ra, các chủ đầu tư có thể có lợi thế độc quyền nhờ sở hữu một nguồn lực hay kỹ thuật mà các đối thủ cạnh tranh của họ không có được ở thị trường sở tại. Điều này sẽ mang lại cho nhà đầu tư nhiều lợi nhuận hơn.
Thứ hai, là xâm nhập thị trường có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Theo lý thuyết về tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nếu cứ tiếp tục đầu tư vào một dự án nào đó ở một quốc gia nào đó, tỷ suất lợi nhuận chỉ tăng đến một mức độ nhất định rồi sẽ giảm dần. Vì vậy, các nhà đầu tư luôn chú trọng tìm kiếm những thị trường đầu tư mới mẻ đề đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Đồng thời, ở các nước công nghiệp phát triển thường có hiện tượng thừa “tương đối” vốn nên việc đầu tư ra nước ngoài giúp các nhà tư bản nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ ba, sử dụng các yếu tố sản xuất ở nước nhận đầu tư. Do sự phát triển không đều về trình độ của lực lượng sản xuất, ở các quốc gia khác nhau chi phí sản xuất là không giống nhau. Giữa các quốc gia có sự chênh lệch về giá cả hàng hoá, sức lao động, tài nguyên, khoa học kỹ thuật, vị trí địa lý ... Các nhà đầu tư thương lợi dụng sự chênh lệch này để thiết lập hoạt động sản xuất ở những nơi có chi phí sản xuất thấp nhằm hạ giá thành sản phẩm. Đầu tư ra nước ngoài có thể giúp các nhà đầu tư hạ thấp chi phí sản xuất do khai thác được nguồn lao động dồi dào với giá rử ở nước sở tại. Đồng thời, khi đầu tư sản xuất ở nước sở tại, nhà đầu tư có thể sử dụng nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành sản xuất của mình ở chính nước này. Việc này giảm bớt được chi phí vận tải cho việc nhập nguyên nhiên liệu, nhất là khi các nhà đầu tư muốn tiêu thụ sản phẩm cuối cùng ở nước ngoài.
Đối với việc thiết lập nhà máy sản xuất ở các nước Tư bản phát triển các nhà đầu tư có thể học tập công nghệ tiên tiến của các nước đó. Và những công nghệ này có thể sẽ được áp dụng ở nhiều nhà máy hay chi nhánh của công ty ở các nước khác. Những công nghệ hiện đại sẽ góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí sản xuất để đưa đến mcụ đích cuối cùng của nhà đầu tư là lợi nhuận cao.
Cuối cùng đó là tránh được các hàng rào thương mại. Xu thế bảo hộ mâu dịch trên Thế giới ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển. Đầu tư ra nước ngoài là biện pháp hữu hiệu để xâm nhập chiếm lĩnh thị trường và tránh được các hàng rào bảo hội mậu dịch giúp các chủ đầu tư giảm bớt chi phí sản xuất nhằm tránh được các trướng ngại cho việc tiêu thụ hàng hoá hay dịch vụ của mình như tránh được thuế nhập khẩu, hạn ngạch. Còn đối với quốc gia nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài thì:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài không những đáp ứng được nhu cầu và lợi ích của nước chủ đầu tư mà còn giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cung cấp cho nước chủ nhà một nguồn vốn lớn để bù đắp sự thiếu hụt nguồn vốn trong nước. Hầu hết các nước, nhất là các nước đang phát triển đều có nhu cầu vốn để thực hiện công nghiệp hoá và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhiều nước đã thu hút được một lượng vốn nước ngoài lớn từ đầu tư trực tiếp để giải quyết khó khăn về vốn và do đó đã thực hiện tốt quá trình công nghiệp hoá đất nước.
Cùng với việc cung cấp vốn là kỹ thuât. Qua thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài, các chủ đầu tư đã chuyển giao công nghệ từ các chi nhánh, nhà máy của học ở nước khác sang nước chủ nhà. Mặc dù sự chuyển giao này còn nhiều mặt hạn chế do những yếu tố chủ quan và khách quan chi phối song điều không thể phủ nhận là chính nhờ có sự chuyển giao đố mà các nước đang phát triển có điều kiện tốt hơn để khai thác các thế mạnh sẵn có về tài nguyên thiên nhiên, tăng sản xuất, sản lượng và khả năng cạnh tranh với các nước khác trên thị trường Thế giới nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Với việc thiết lập các cơ sở sản xuất ở nước sở tại, chủ đầu tư cần sử dụng lao động ở chính nơi đây. Sự xuất hiện hang loạt các nhà máy mới, nông trại mới đã thu hút được nhiều lao động vào làm việc. Hơn thế nữa, các nhà đầu tư nước ngoài còn phải đào tạo những người lao động thành những công nhân lành nghề cho doanh nghiệp của mình. Điều này góp phần tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao chất lượng lao động cho nhân dân nước sở tại, do đó làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở những nước này.
Do tác động của vốn và khoa học công nghệ, đầu tư trực tiếp sẽ tác động mạnh đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu kỹ thuật, cơ cấu sản phẩm và lao động. Bên cạnh đó, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà sẽ có thêm điều kiện để mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các nước nhận đầu tư sẽ có thêm nhiều sản phẩm để không những phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn để xuất khẩu sang các nước khác và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế. Ngoài ra, việc đầu tư nước ngoài vào nước sở tại sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh về đầu tư của các nước ở ngay nước sở tại làm cho môi trường đầu tư ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài không khi nào và bất cứ đâu cũng phát huy vai trò tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội của nước chủ nhà. Nó chỉ có thể phát huy tốt trong môi trường kinh tế, chính trị xã hội ổn định và đặc biệt là khi Nhà nước biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của mình. Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao hàm trong nó những mặt hạn chế đối với nước nhận đầu tư như :
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp do chủ đầu tư quản lý trực tiếp và sử dụng theo những mục tiêu của mình.
Những công nghệ chuyển giao sang các nước đang phát triển thường không phải là những công nghệ tiên tiến nhất mà là những công nghệ không còn được sử dụng ở các nước tư bản phát triển vì đã quá thời hạn sử dụng hoặc không còn đáp ứng được những yêu cầu mới về chất lượng và gây ô nhiễm môi trường. Trên thực tế đã diễn ra nhiều hiện tượng chuyển giao công nghệ nhỏ giọt, từng phần và mất nhiều thời gian.
Trong nhiều trường hợp, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn gây sự rối ren mất ổn định cho nền kinh tế nước chủ nhà. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng những sở hở trong luật pháp sử tại để trốn thuế, xâm phạm lợi ích của nước chủ nhà.
Mặc dù vậy, những hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài không thể phủ nhận được vai trò tích cực của nó đối với cả nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư. Vấn đề là ở chỗ các nước tiếp nhận đầu tư phải kiểm soát đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách hữu hiệu để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.
III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO
VIỆT NAM.
Hiện nay việt Nam đang bước vào một giai đoạn mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá do đó đòi hỏi phải có một lượng lớn vốn đầu tư. Dự kiến sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 20 tỷ USD, trong đó Nhật Bản là một trong những nước chúng ta hy vọng có lương vốn đầu tư lớn nhất. Có thể nói luồng đầu tư trực tiếp to lớn của Nhật đổ vào Việt Nam trong thời gian qua đã góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam, cùng với sự tiến bộ hơn nưa trong công cuộc công nghiệp hoá đất nước. Chúng ta đánh giá cao vai trò FDI Nhật Bản từ chỗ là (Nhân tố bên ngoài) chuyển thành (Nhân tố bên trong) tác động mạnh đến tốc độ tăng trưởng và phát triển nền kinh tế mở của chúng ta. Việc Nhật Bản giúp đỡ Việt Nam trong các lĩnh vực kinh tế xã hội sẽ làm giảm bớt những khó khăn và hạn chế trong công cuộc đổi mới tiến nhanh hơn ra nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công. Đây cũng chính là cơ hội tốt nhất dành cho nhân dân Việt Nam đẩy mạnh các quan hệ hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau hợp tác,kinh doanh và phát triển với nhân dân Nhật Bản. CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN Ở VIỆT NAM
I. VÀI NÉT VỀ QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM VÀ
NHẬT BẢN
Ngày 21 tháng 09 năm 1973, Việt Nam và Nhật Bản chính thực thiết lập quan hệ ngoại giao đánh dấu sự tiếp nối các quan hệ giao lưu vốn có từ lâu đời giữa hai nước. Từ những thế kỷ trước, nhiều thương gia Nhật Bản đã đến buôn bán và kinh doanh ở Việt Nam. Phố Hiến (Miền Bắc), Hội An (miền trung) là những địa danh ghi đạm dấu ấn của các mối quan hệ giao lưu đó.
Sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất, mối quan hệ giữa hai nước có cơ hội phát triển toàn diện cả về ngoại giao , chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác. Trong giai đoạn này mối quan hệ về kinh tế chủ yếu là trao đổi thương mại và viện trợ.
Về thương mại, năm 1976 Nhật là bạn hàng lớn thứ 2 của Việt Nam sau Liên Xô, Việt Nam đã xuất sang Nhật khối lượng hàng hoá trị giá 44,5 triệu USD, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sáng khu vực 2. Việt Nam nhập khối lượng bằng 184,5 triệu, 247 triệu và 268 triệu USD ( Dương Phú Hiệp - 25 năm Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản - TC nghiên cứu Nhật Bản 1 (13) 2/98- Trang 7-
). Thời ký 1979 - 1982, do vấn đề Campuchia và bầu không khí chiến tranh không thuận lợi ở Đông Nam Á, thương mại giữa hai nước giảm từ 267,5 triệu USD năm 1978 còn 128 triệu năm 1982. Trong thời kỳ này, Việt Nam nhập khẩu từ Nhật bản lớn hơn xuất khẩu trở lại. Các mặt hàng nhập khẩu lương thực, nhiên liệu, vải, khoáng sản, sản phẩm công nghiệp nhẹ, sản phẩm hoá học và kim loại. Việt Nam xuất sang Nhật lương thực, thực phẩm, nguyên liêu (gỗ xẻ, cao xu), nhiên liệu khoáng sản, hàng hoá đã chế biên (vải). Đến 1986, thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản phát triển trở lại và tăng lên 272,100 triệu USD. ( Dương Phú Hiệp - đã dẫn - Trang 8
) Đặc biệt là khi Liên Xô tan rã, Nhật Bản trở thành bạn hàng lớn nhất củ Việt Nam. Năm 1990 tổng kim ngạch buôn bán hai chiều trị giá 809 triệu USD, các năm liên tiếp sau đều tăng liên tục 1991 - 871 triệu; 1992 -1.321 triệu; 1993 - 1707 triệu; 1994 - gần 2 tỷ; 1995 - đạt 2,6 tỷ tăng 35% và năm 1996 đã tăng 38,5% so với năm 1995 ( Đỗ Đức Định - Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển - Nhà xuất bản KH-XH Hà Nội 1996 - Trang 8
). Thời gian này, hàng hoá Việt Nam chủ yếu xuất nguyên liệu thô, lương thực, thực phẩm, khoáng sản và dầu thô là mặt hàng Nhật Bản mua chủ yếu. Phía Nhật xuất sang Việt Nam phân bón, ô tô, xe máy, máy dệt và nguyên liệu dệt, máy xây dựng.
Từ 1989 trở lại đây, Việt Nam là nước xuất siêu sang Nhật với mức thặng dư khá cao đã đóng góp tích cực vào quá trình cân đối cán cân thương mại nói chung của Việt Nam và Thế Giới. Đây cũng là điều khẳng định vai trò quan trọng của thị trường Nhật Bản đối với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam và ngược lại.
Về viện trợ, mối quan hệ này đã có từ trước 1975, trong thời gian đó, Nhật Bản đã chính thức viện trợ theo chương trình cho Việt Nam DCCH. Sau khi Việt Nam thống nhất, tổng số viện trợ của Nhật Bản trong hai năm 1975 - 1976 là 15 triệu USD. Để tăng cường thúc đẩy buôn bán trong hai năm tiếp theo, Nhật Bản đã quyết định cho Việt Nam vay tiền với lãi suất thấp thông qua các cơ quan hợp tác quốc tế của Nhật Bản, hứa cung cấp cho Việt Nam một khoản viện trợ không hoàn lại là 16 tỷ yên trong 4 năm và các khoản cho vay khoảng 20 tỷ yên. Việc Nhật Bản quyết định trì hoãn kế hoạch tài trợ 14 tỷ yên (trong đó có 4 tỷ yên viện trợ không hoàn lại và cho vay 10 tỷ yên) vào cuối năm 1978 báo hiệu 1 thời kỳ xấu đi trong quan hệ của hai nước. Thời ký 1979 - 1992 là thời kỳ Nhật Bản thực hiện chủ trương “đông cứng” tài trợ kinh tế nhưng không đình chỉ các cuộc tiếp xúc ngoại giao và viện trợ nhân đạo được thể hiện Nhật Bản tiếp tục viện trợ cho Việt Nam một khoản trị giá 130.000 USD dưới hình thức viện trợ nhân đạo sử dụng mua hàng của của Nhật như xe tải hạng nặng, ô tô điện, máy ủi và các loại hàng há khác cần thiết cho việc xây dựng lại nền kinh tế Việt Nam và cho phép một cách không chính thức các Công ty Nhật Bản tiếp tục buôn bán với Việt Nam.
Tới đầu những năm 1990 cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, nền kinh tế Việt Nam từng bước thoát khỏi khủng hoảng và quan hệ ngoại giao của Việt Nam với nhiều quốc gia phương Tây và các tổ chức quốc tế được bình thường hoá. Vào năm 1992, chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam với tổng số 281,2 triệu USD, đưa nước này từ vị trí “không số” lên hàng số 1 trong số các quốc gia DAC tài trợ cho Việt Nam. Theo thống kê chính thức của chính phủ Nhật Bản, thời kỳ 1992 - 1994 tổng tài trợ ODA của nước này cho Việt Nam lên tời 372 triệu USD trong đó tài trợ không chính thức là 116,5 triệu USD ( Dương Phú Hiệp - đã dẫn trang 7
). Trong những năm gần đây, Việt Nam tiếp tục nhận được 1 khối lượng lớn tài trợ ODA của Nhật Bản và hiện nay Nhật Bản trở thành nhà tài trợ số 1 cho Việt Nam.
Như vậy, thương mại và viện trợ là hai lĩnh vực đi tiên phong trong mối quan hệ kinh tế và là tiền đề để phát triển đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam.
II. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM.
1.Về phía việt nam.
Công cuộc đổi mới của Việt Nam diễn ra được vài năm thì trật tự Thế Giới thay đổi. Cùng với những khó khăn trong nước, Việt Nam phải đương đầu với những khó khăn do sự tan rã của Liên Xô và chế độ XHCN ở Đông Âu trong đó Liên Xô là nước cung cấp viện trợ lớn nhất và cũng là bạn hàng của Việt Nam trong nhiều năm. Liên Xô tan rã kèm theo đó là sự sụp đổ của Thế giới 2 cực, chiến tranh lạnh không còn nữa, thay vào đó là xu thế Thế Giới đa cực hình thành, quan hệ quốc tế chuyển từ đối kháng quân sự sang phát triển mối quan hệ kinh tế. Đã có rất nhiều sự hợp tác giữa các quốc gia, khu vực, châu lục được hình thành như liên minh Châu Âu (EU), hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC). Cùng với sự hợp tác về kinh tế, xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang chi phối tất cả các hoạt động của đời sống con người.
Trải qua một thời gian dài trong chiến tranh, sau chiến thắng 1975, Việt Nam bắt tay vào xây dựng lại đất nước. Tại Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam họp tháng 12/1986 đã đề ra chính sách đổi mới, trong đó chỉ rõ “phải kiên quyết chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, theo định hướng XHCN ( Lê Hồng Phục - Đỗ Đức Định - Một số vấn đề về kinh tế đối ngoại của các nước đang phát triển ở Châu Á -Viện kinh tế Thế giới - Nhà xuất bản KHXH Hà Nội 1988
)
1.1. Yếu tố kinh tế.
Về kinh tế, đề ra các chính sách kinh tế và đổ mới tổ chức quản lý kinh tế với những nội dung chủ yếu: điều chỉnh cơ cấu kinh tế, khai thác mọi nguồn vốn đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý, phát huy vai trò động lực của khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại,...
Việc chuyển sang nên kinh tế thị trường làm kích thích sản xuất hàng hoá, tăng khả năng cành tranh, vốn nà kỹ thật hiên đại, đòi hỏi thị trường tiêu thụ rộng lớn. Nền kinh tế thị trường cũng tạo cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thấy một thị trường mở , đa dạng, chứa đựng nhiều lợi nhuận. Đây là nhân tố quan trọng để thu hút vốn,
kỹ thuật trong và ngoài nước.
1.2. Yếu tố chính trị.
Về chính trị, ta vẫn thực hiện một Đảng cầm quyền duy nhất và đi theo đường lối dẫn dắt của Đảng, mở rộng quan hệ với các nước không phân biệt chế độ chính trị. Đây là bước thay đổi cơ bản của chính phủ Việt Nam. Trong khi các nước trong cùng khu vực đã có những bước nhảy vọt về kinh tế thì Việt Nam vẫn ở trong tình trạng chậm phát triển do quan hệ dựa vào chính trị là chính. Vì vậy, để có thể theo kịp các quốc gia này, Việt Nam cần phải mở rộng quan hệ hơn nữa, không chỉ bó buộc trong phạm vị khu vực mà trên toàn Thế giới. Tại Đại hội lần thứ VII, tháng 6/1991, Đảng đề ra khẩu hiệu “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển ”. Đảng ta đã thay đổi chính sách ưu tiên “Quan hệ quốc tế xã hội chủ nghĩa”, coi trọng quan hệ với các nước XHCN mà trung tâm là Liên Xô trước đây vào thực hiện chính sách ngoại giao đa phương dựa vào : ”Quan hệ quốc tế nói chung”, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Quan hệ hợp tác quốc tế không chỉ mở rộng về quan hệ kinh tế quốc tế mà còn đảm bảo cho chúng ta một nền hoà bình ổn định, có hoà bình ổn định thì kinh tế mới phát triển.
1.3. Yếu tố luật pháp.
Về pháp luật, chúng ta ban hành thêm nhiều luật mới trong đó có luật đầu tư nước ngoài ban hành tháng 12/1987 mở ra một phương thức mới trong hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo cơ sở pháp lý đưa nền kinh tế Việt Nam vào thị trường Thế giới theo luật này thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất cứ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác với Việt Nam hoặc tự mình kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
Với luật này, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có cơ hội để phát triển công việc kinh doanh của mình trên thị trường mới mẻ nhưng đa dạng về tài nguyên và nguồn lao động dồi dào.
2. Về phía Nhật Bản.
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước trong khu vực Đông và Đông Nam châu á từ giữa những năm 80 bắt đầu tăng. Nguyên nhân nào khiến cho đầu tư trực tiếp của Nhật Bản chú trọng vào khu vực này?
2.1. Sự thay đổi tỷ giá hối đoái :
Việc đồng yên lên giá làm cho chi phí sản xuất ở Nhật Bản tăng lên so với nước ngoài, hạn chế khả năng sinh lãi của chúng. Do vậy, để tồn tại và duy trì được sức cạnh tranh, các Công ty Nhật Bản, nhất là các Công ty chế tạo xuất khẩu, phải đầu tư ra nước ngoài để lợi dụng chi phí rẻ hơn.
2.2. Tránh xu hướng bảo hộ mậu dịch :
Từ cuối những năm 70 lại đây, sự thâm nhập mạnh của các hàng xuất khẩu Nhật Bản đã gây ra những bất bình sâu sắc ở cả các nước phát triển lẫn đang phát triển Châu á. Tâm lý tẩy chay hàng Nhật Bản và bảo hộ ngày càng nổi rõ ở những nước bạn hàng của Nhật Bản, nhất là Bắc Mỹ và EU. Do đó, tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển các cơ sở sản xuất , nhất là những cơ sở chế tạo có tiềm năng xuất khẩu cao ra nước ngoài như là một cách để Nhật Bản lẫn tgránh xu hướng bảo hộ mậu dịch này.
2.3. Sự khan hiếm tài nguyên thiên nhiên của nhật bản:
Nhật Bản vốn vẫn phụ thuộc nặng vào các ngành nguyên nhiên liệu nhập khẩu cho các ngành công nghiệp của mình. Vì vậy, đầu tư ra nước ngoài để gây dựng các nguồn cung cấp nguyên nhiên lệu an toàn, ổn định và rẻ là chính sách sống còn của Nhật Bản.
2.4. Tình trạng khan hiếm lao động :
Thiếu lao động nhất là lao động có trình độ cao đã bắt đầu trở thành một vấn đề lớn cho các ngành công nghiệp Nhật Bản. Ngoài việc thiếu lao động tuyệt đối là tình trạng không phù hợp của các kỹ năng trên thị trường lao động. Nạn thiếu lao động không lành nghề trong ngành chế tạo nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và ngành xây dựng nghiêm trọng hơn trong ngành dịch vụ. Các Công ty phải dựa ngày càng nhiều vào lao động một phần thời gian, lao động nữ và cả lao động nước ngoài. Như vậy, vấn đề thiếu lao động đã và sẽ là vấn đề sống còn cho các nhà chế tạo Nhật Bản, đặc biệt trong các ngành cần nhiều lao động. Để kiếm được lao động tốt và tương đối rẻ, học đã buộc phải phân bố lại các cơ sở sản xuất của mình sang những nơi có lợi thế về mặt này.
2.5. Yếu tố tài chính:
Vào cuối những năng 1980, tình hình kinh tế và tài chính ở Nhật Bản tiến triển khá đặc biệt, tạo điều kiện khá thuận lợi cho các Công ty Nhật Bản gây đuợc quỹ để đầu tư với lãi suất thấp cùgn với các chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài của chính phủ, các Công ty có điều kiện mở rông kinh doanh của mình ra nước ngoài.
Với những lý do trên đã phần nào giải thích đầu tư trực tiếp Nhật Bản bắt đầu tăng rtong khu vực châu á, chúng cũng chính là lý do để Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam trong những năm qua.
III. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NHẬT BẢN Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM QUA.
Tốc độ đầu tư.
Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được ban hành vào ngày 29 – -12 – 1287, nhưng phải đến gần 3 năm sau Nhật Bản mới chính thức dầu tư vào Việt Nam. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam được thể hiện thông qua bảng sau :
Bảng 1 : Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
Năm
Số dự án
Vốn đăng ký ( Triệu USD )
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997*
1998*
1999*
2000*
2001
6
6
12
18
25
50
56
54
17
13
19
40
10,2
8,0
116,7
76,9
204,1
1.103,2
777,8
606
177,5
46,97
56,348
159,31
Nguồn : JETRO ( Không tính các dự án do chi nhánh của công ty Nhật đăng ký ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam )
* Theo bộ kế hoạch và đầu tư
Biểu đồ 1: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
Nguồn: JETRO (không tính các dự án do chi nhámh của cômg ty Nhật Bản đăng ký ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam)
* Theo bộ kế hoạch và đầu tư
Thời kỳ thăm dò thị trường:
Năm 1989 Nhật Bản mới chỉ có một dự án đầu tư vào Việt Nam có tính chất thăm dò thị trường với số chưa đến 1 triệu USD. Vào năm 1990, số vốn đăng ký đã lên đến 10.2 triệu USD với 6 dự án trong năm, và năm 1991 Nhật Bản có 6 dự án với số vốn là 8 triệu USD. Nhìn vào số liệu đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam trong giai đoạn này ta thấy đây là thời kỳ Nhật Bản đang thăm dò thị trường Việt Nam, số vốn đầu tư rất hạn chế và chủ yếu quan tâm tới các dự án dễ thu hồi vốn (Như khai thác tài nguyên thiên nhiên, dịch vụ…). Đây là xu thế chung của quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung ở giai đoạn này, bởi vì Việt Nam mới bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới vào năm 1986. Những bước đi đầu tiên của quá trình đổi mới được đánh dấu bằng sự kiện Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức vào tháng 12 – 1986. Xét về khía cạnh kinh tế, thực chất của công cuộc đổi mới là chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó Việt Nam lại vừa trải qua hai cuộc chiến tranh cứu nước, tàn dư chiến tranh còn nặng nề. Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam lạ mới ra đời vào tháng 12/1987 nên còn nhiều hạn chế và sơ hở. Chính vì vạy có thể nói môi trường đầu tư ở Việt Nam giai đoạn này không được tốt và khá nhiều rủi ro. Bên cạnh đó Việt Nam lại chụi ảnh hưởng rất lớn của tình hình chính trị thế giới chi phối đế các mối quan hệ quốc tế. Hai vấn đề nổi cộm nhất có ảnh hưởng lớn đến quan hệ kinh tế quốc té của Việt Nam là vấn đề CamPuChia và vấn đề Mỹ thực hiện lệnh Việt Nam. Nhật Bản đã ngừng mọi hoạt động quan hệ kinh tế đối với Việt Nam, buộc Việt Nam rút quân khỏi CamPuChia. Trong khi đó mỹ đã tạo sức ép buộc Nhật Bản, phương Tây, Trung Quốc và các nước ASEAN bao vây, cấm vân Việt Nam. Mỹ đã ngăn cản các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như ngân hàng thế giới, quĩ tiền tệ quốc tế, ngân hang phát triể Châu á … giúp đỡ Việt Nam. Do đó lượng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài nói chung và của Nhật Bản nói riêng vào Việt Nam ở mức thấp là điều dễ hiểu.
Thời kỳ tăng khối lượng vốn đầu tư :
Năm 1992 là một năm hết sức quan trọng trong lịch sử quan hệ Việt Nam-Nhật Bản nó không chỉ là một bước ngoặt từ đó quan hệ Việt Nam- Nhật Bản tiến lên mà vì nó còn là năm đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam trở thành một trong mười nước nhận ODA song phương lớn n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29878.doc