Một số giải pháp tăng cường đầu tư cho quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn ở VN trong giai đoạn hiện nay

Lời mở đầu Việt Nam là một nước nông nghiệp đang chuyển mình với những thành tựu vô cùng to lớn trong thập niên 90, kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, trung bình là khoảng 7%, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng hiện đại, đời sống nhân dân được bảo đảm, cải thiện; kinh tế, chính trị, xã hội ổn định. Những thành quả đó là sự tổng hợp của nhiều nhân tố mà đặc biệt nhất là sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, xác định đúng đắn con đường đi phù hợp với điều kiện hoàn cảnh c

doc42 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp tăng cường đầu tư cho quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn ở VN trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa Việt Nam. Là một nước nông nghiệp đang trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho xã hội cg, Đảng, Nhà nước ta khẳng định ở các Văn kiện Đại hội Đảng lần VII, VIII và đặc biệt Đại hội Đảng IX là: "Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn... Đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp...". Điều đó cho thấy là chúng ta đang quyết tâm thực hiện sự phát triển bền vững từ khu vực nông nghiệp để hỗ trợ cho sự phát triển các ngành kinh tế khác, đưa mức sống người dân ở khu vực nông thôn lên cao hơn nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn. Để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn chúng ta đã, đang và sẽ phải chuẩn bị những bước đi, những điều kiện phù hợp trong đó tăng cường đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là một yếu tố vô cùng quan trọng để đạt được mục tiêu đề ra cho quá trình này. Với những hiểu biết, kiến thức về đầu tư cũng như mong muốn được áp dụng vào thực tiễn với một vấn đề được coi là trọng tâm của đất nước em đã chọn đề tài: "Một số giải pháp tăng cường đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay". Vì trình độ còn hạn chế nên bài viết này tất sẽ không tránh khỏi thiết sót. Cuối cùng em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Bạch Nguyệt - Giảng viên Bộ môn Kinh tế Đầu tư, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã giúp em hoàn thành đề tài này. Phần I: Một số vấn đề lý luận chung I- CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn - Một nội dung quan trọng của quá trình CNH, HĐH đất nước. 1. Một số khái niệm. Trước hết ta phải hiểu thế nào là CNH, HĐH. Có nhiều quan niệm về CNH, HĐH. Trước đây, chúng ta cho rằng CNH là quá trình trang bị kỹ thuật hiện đại cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá, biến một nước kém phát triển thành nước có cơ cấu công nông nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến. Theo quan niệm của Liên hiệp quốc, CNH là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phân nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm một nhịp độ tăng trưởng cao trong toàn bộ nền kinh tế và bảo đảm sự tiến bộ kinh tế và xã hội. Các quan niệm nói trên dù cách diễn đạt có thể khác nhau nhưng đều có những nội dung, đó là: Kỹ thuật công nghệ hiện đại, cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nền kinh tế đạt trình độ phát triển. Kết hợp quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hội nghị lần thứ VII ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã đưa ra quan niệm mới về CNH, HĐH và đây cũng chính là quan niệm được sử dụng một cách phổ biến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Từ quan niệm về CNH, HĐH ở trên chúng ta có thể hiểu CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội trong nông nghiệp và nông thôn từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ kế hoạch - công nghệ, tại ra năng suất lao động xã hội cao. 2. Nội dung và vai trò của CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. 2.1. Nội dung. Thứ nhất là về CNH, HĐH nông nghiệp. * CNH nông nghiệp có nội dung chủ yếu là đưa máy móc thiết bị, ứng dụng các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp, các phương pháp và hình thức tổ chức kiểu công nghiệp vào các lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp. CNH nông nghiệp còn bao hàm cả việc tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác triệt er lợi thế của nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm của nông nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho chúng. Cụ thể là: - Phải phát triển ngành công nghiệp cơ khí chế tạo để sản xuất máy móc, trang thiết bị cho nông nghiệp. - Tăng cường chuyển giao, đào tạo về phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp, phương pháp quản lý, tổ chức kiểu công nghiệp. - Tạo ra được mối quan hệ chặt chẽ giữa công nghiệp - nông nghiệp thông qua phát triển công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, ngành sản xuất vật tư cho nông nghiệp. * Hiện đại hoá nông nghiệp có nội dung căn bản là không ngừng nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là nội dung được thực hiện một cách liên tục vì luôn có những tiến bộ kỹ thuật mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất. Nội dung cụ thể là: - Không ngừng đầu tư phát triển nghiên cứu khoa học - công nghệ tiên tiến hiện đại để áp dụng vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp. - Nâng cao lên tầm hiện đại về trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp thông qua tiếp thu từ bên ngoài, qua sự phát triển của khoa học - công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin và sự đào tạo bồi dưỡng không ngừng lao động, cán bộ quản lý trong nông nghiệp. CNH nông nghiệp bao gồm: - Đưa phương pháp sản xuất công nghiệp máy móc thiết bị vào sử dụng trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn để thay thế lao động thủ công. - áp dụng phương pháp quản lý hiện đại tương ứng với công nghệ và thiết bị vào nông nghiệp và nông thôn. - Tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc thiết bị và công nghệ mới vào nông thôn. - HĐH nông thôn là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, cải tiến và hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ. Như vậy ta đã thấy rằng CNH nông thôn đã bao trùm CNH nông nghiệp, nông nghiệp chỉ là một ngành sản xuất chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực nông thôn, ở khu vực nông thôn hiện nay công nghiệp và dịch vụ chỉ đóng vai trò thứ yếu và chủ yếu chỉ là phục vụ sản xuất nông nghiệp, số ít thì được phục vụ các ngành công nghiệp và dịch vụ cho nền kinh tế. 2.2. Vai trò của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn có thể nói là bước chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho phát triển nông nghiệp nông thôn theo định hướng XHCN, tạo điều kiện cho sự chuyển dịch quan trọng nhiều mặt để phát triển khu vực nông thôn, đưa nước ta trở thành một nước có nền kinh tế phát triển, có cơ cấu kinh tế hợp lý. Vai trò của CNH, HĐH được thể hiện ở một số mặt sau: Thứ nhất, thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ nông thôn, nâng cao khả năng và tiếp nhận đầu tư vào khu vực nông thôn. Điều này thể hiện ở chỗ thu nhập giữa các hộ thuần nông và các hộ ngành nghề ở nông thôn nước ta đang có sự chênh lệch ngày càng lớn và thực tế là sau khi đưa vào chế biến công nghiệp, giá trị của các sản phẩm nông nghiệp sẽ cao hơn rất nhiều. Thứ hai là, góp phần mở rộng thị trường, tạo cơ sở phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác ở nông thôn cũng như trên cả nước. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi các doanh nghiệp nước ta đang gặp phải những khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm ở thị trường quốc tế vì nhu cầu thị trường trong nước không cao. Thứ ba là, nó có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở nông thôn, đặc biệt là vấn đề việc làm, khai thác các nguồn lực ở mỗi địa phương, khắc phục sự chênh lệch không đáng có giữa các địa phương, giữa các dân tộc, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Thứ tư là, góp phần độ thị hoá nông nghiệp, giảm bớt sức ép của dòng dân cư từ nông thôn chuyển vào đô thị, tạo điều kiện để các đô thị có thể phát triển thuận lợi. 3. Tính tất yếu khách quan của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam. ở nước ta trên 75% dân số sống ở nông thôn , gần 70% lực lượng lao động xã hội làm việc ở nông thôn. Việc phát triển toàn diện nông thôn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng, nếu không phát triển nông thôn thì không một nước nào có thể phát triển ổn định, bền vững với tốc độ cao một cách lâu dài được. Các nước công nghiệp phát triển hiện nay cũng đã phải giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp hoá và phát triển các đô thị với CNH, HĐH và cả đô thị hoá nông thôn. Những nước chưa giải quyết vấn đề này một cách thoả đáng đang phải trả giá bằng những hành động khắc phục hậu quả của lịch sử công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước đây. Bên cạnh đó, tất cả các nước khi bước vào thời kỳ quá độ lên XHCN đều phải tiến hành xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH nhưng có thể nói nước ta quá độ lên CNXH mà không qua giai đoạn phát triển TBCN, cho nên cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH nói chung và cơ sở vật chất - kỹ thụat cho nông nghiệp là mới được xây dựng bước đầu, trình độ còn rất thấp kém điều này đặt ra đòi hỏi phải tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. ở nhiều nước họ CNH, HĐH đất nước trước hết là thông qua CNH, HĐH công nghiệp để từ đó có những điều kiện để hỗ trợ nông nghiệp nông thôn CNH, HĐH. Tuy nhiên, ở nước ta khi mà các nguồn lực phát triển có hạn, trình độ khoa học - công nghệ còn thấp thì rõ ràng cần phải quan tâm nhiều hơn cho nông nghiệp nông thôn giúp khu vực này tiến hành CNH, HĐH bởi vì nó đòi hỏi nguồn lực ít hơn và đáp ứng nhu cầu phát triển cho đại bộ phận dân chúng. Mặt khác CNH, HĐH nông nghiệp còn là cơ sở và tiền đề cho quá trình CNH, HĐH công nghiệp và dịch vụ trên cả nước. 4. Một số tiền đề cần thiết đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 4.1. Tạo vốn tích luỹ. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy nhân tố hàng đầu, nếu không nói là quan trọng nhất đối với CNH, HĐH nói chung cũng như đối với sản xuất kinh doanh của nền kinh tế là phải có vốn lớn. Vốn cho sự nghiệp CNH, HĐH các ngành kinh tế quốc dân nhiều hay ít tuỳ thuộc vào năng lực của cơ chế huy động, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả hay không. Muốn cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn được tiến hành với tốc độ nhanh cần phải có cơ chế, chính sách và biện pháp huy động được nguồn vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Trước hết là huy động nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước. Đây là nguồn vốn có tính quyết định, là nhân tố nội lực. Nhờ tăng năng suất lao động xã hội một cách mạnh mẽ và liên tục mà tạo ra nguồn vốn tự có. Nguồn vốn nội bộ còn được tạo ra từ sự liên doanh liên kết giữa các ngành, các lĩnh vực, các miền, các vùng của nền kinh tế đất nước. Nguồn vốn còn được tạo ra thông qua việc huy động các khoản tiền nhàn rỗi của dân cư, của các cơ sở kinh tế, các tổ chức đoàn thể; thông qua các khoản thuế nộp ngân sách Nhà nước. Có thể nói nguồn vốn nội bộ của nền kinh tế có tính chất quyết định cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhưng vẫn còn hạn hẹp. Các quốc gia trên thế giới cũng như nước ta đều phải dùng mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua các hình thức: liên doanh, hợp tác kinh doanh, 100% vốn nước ngoài, vay với lãi suất thấp, vốn viện trợ. Có thể nói hiện nay chúng ta chưa thu hút được nhiều FDI trong phát triển nông nghiệp nông thôn do đó để huy động vốn đầu tư nước ngoài cần phải có cơ chế chính sách thoả đáng. 4.2. Đào tạo đội ngũ cán gộ khoa học - kỹ thuật nông nghiệp và cán bộ quản lý nông nghiệp, nông thôn. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn rất cần đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật để họ nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Cái quan trọng nhất là chúng ta đào tạo và sử dụng họ như thế nào. Tiềm năng tri thức con người có thể là vô tận cho nên Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định rằng con người luôn ở vị trí trung tâm trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xác định giáo dục đào tạo là quốc sách để tạo nguồn lực trí tuệ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn nói riêng. 4.3. Phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp và nông thôn. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn là du lịch hết sức quan trọng và cấp thiết phục vụ cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Nó được coi là nền tảng, là "bộ máy" cho việc đưa máy móc và khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp với hệ thống điện, đường, trường, trạm và một số hệ thống khác. Mục tiêu là phải bảo đảm sự giao lưu thông suốt giữa các vùng, các miền trong mọi điều kiện thời tiết. Trong từng vùng, điện nước, giao thông, thông tin được đáp ứng theo yêu cầu của mức độ phát triển. Hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn hiện nay chủ yếu là do Nhà nước đầu tư xây dựng trong những năm qua cũng đã có những bước thay đổi theo phương thức "Nhà nước và nhân dân cùng làm" cho nên đã có hiệu quả thiết thực góp phần đáng kể cho sự phát triển của khu vực nông nghiệp nông thôn những năm qua. 4.4. Đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và vai trò của Nhà nước. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn có thể nói là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế nhằm khai thác sức mạnh tổng hợp các nguồn lực của các miền, các vùng, các địa phương và của mọi từng lớp dân cư. Đây là sức mạnh, là ý chí, là nguyện vọng của toàn Đảng toàn dân cho sự nghiệp phát triển toàn diện nền kinh tế xã hội, phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp với một cơ cấu kinh tế hợp lý, an ninh chính trị được giữ vững, xã hội bình đẳng và văn minh. Năng lực lãnh đạo của Đảng và vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng, giúp định hướng cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là chổ dựa vững chắc, tạo niềm tin tuyệt đối cho toàn dân phấn đấu vì một nền nông nghiệp phát triển, kinh tế nông thôn không còn tụt hậu quá xa so với thành thị. Do đó các chính sách của Đảng và Nhà nước thúc đẩy và thực hiện quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn phải đạt được các mục tiêu là xây dựng một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở vật chất ký thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp để tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, nhanh chóng nâng cao thu nhập và đời sống dân cư nông thôn, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại. II- Đầu tư với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn 1. Đầu tư và mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển. 1.1. Khái niệm. Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học - kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. Đầu tư là một quá trình nối các trạng thái từ hiện tại đến tương lai trong một môi trường biến động, chịu sự rủi ro. Thước đo quan trọng đến sự thành bại của công cuộc đầu tư là mối quan hệ có lợi nhất giữa các kết quả đạt được so với cái đã bỏ ra để có các kết quả đạt được đó. Đầu tư có thể được phân ra theo bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại như sau: - Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. - Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. - Đầu tư phát triển: là loại đầu tư mà người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Có thể nói đầu tư phát triển có ý nghĩa cơ bản nhất cho sự phát triển kinh tế, là yếu tố quan trọng giải quyết nhiều vấn đề kinh tế như tăng thu nhập, thay đổi vơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm,... Đối với đầu tư cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn thì chúng ta có thể hiểu là sự kết hợp của đầu tư phát triển với đầu tư tài chính qua việc đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, nghiên cứu ứng dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ... với việc đầu tư qua hỗ trợ tín dụng cho nông dân phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. 1.2. Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển. Học thuyết kinh tế hiện đại đã nghiên cứu và giải đáp thành công mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và phát triển kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp và nông thôn nói riêng. Lý thuyết đó bắt nguồn từ quan điểm hệ thống và quan điểm phát triển đã được khoả nghiệm qua thực tiễn ở nhiều nước. Quan điểm cho rằng, đầu tư là chìa khoá trong chiến lược và kế hoạch phát triển đã được cụ thể hoá trong mối tương quan giữa tăng trưởng vốn đầu tư và tăng tưởng GNP hoặc GDP. Rõ ràng là, một nền kinh tế muốn giữ được tốc độ tăng trưởng GDP ở mức trung bình, thì phải giữ được tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư thỏa đáng. Tỷ lệ "thoả đáng" đó ít khi thấp hơn 15% GNP và trong một số trường hợp phải đạt 25% GNP. Trong kinh tế nông nghiệp và nông thôn, quan hệ tỷ lệ đó vẫn là chuẩn mực có nghĩa là không có tăng trưởng đầu tư thoả đáng, thì sẽ không có tăng trưởng kinh tế. J.M Keynes trong lý thuyết "Đầu tư và mô hình số nhân" đã chứng minh rằng, tăng đầu tư sẽ bù đắp những thiếu hụt của "cầu tiêu dùng", từ đó tăng số lượng việc làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả "cận biên" của tư bản và kích thích sản xuất tái phát triển. ở đây có sự tác động dây chuyền theo chu kỳ: tăng đầu tư à tăng thu nhập à tăng sức mua à tăng đầu ra. Tăng đầu tư mới à Tăng thu nhập mới à Sức mua mới à tăng đầu ra à mới tăng trưởng nhanh. Bổ sung vào lý thuyết "số nhân" của J.M Keynes, các nhà kinh tế Mỹ đưa ra lý thuyết "gia tốc". Lý thuyết này không những nghiên cứu các quyết định đầu tư, mà còn chứng minh mối liên hệ giữa gia tăng sản lượng làm cho đầu tư tăng như thế nào và đầu tư tăng lên sẽ gia tăng sản lượng với nhịp độ nhanh hơn như thế nào. Sự tăng nhanh tốc độ đầu tư so với sự thay đổi về sản lượng nói lên ý nghĩa của nguyên tắc "gia tốc". Theo lý thuyết "gia tốc" để vốn đầu tư tiếp tục tăng lên thì sản lượng bán ra phải tăng liên tục. Nhưng logic vấn đè là ở chỗ số lượng bán ra ngày hôm nay là kết quả đầu tư của thời kỳ trước, năm trước. Thực tế của các nước châu á đã chứng minh lý thuyết trên. Cách đây vài ba thập kỷ, châu á không được biết đến với tư cách là vùng kinh tế có tăng trưởng. Nhưng sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật và mở rộng giao lưu quốc tế đã làm thay đổi dần bộ mặt của các nước và một số lãnh thổ trong vùng. Một số nước Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, từ điểm xuất phát thấp, tài nguyên nghèo nàn, thị trường nội địa nhỏ đã trở thành những nước công nghiệp mới xuất phát từ nông nghiệp. Đặc trưng của các nơi này là quá trình công nghiệp hoá diễn ra nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu kinh tế từ nông - công nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Và đến năm 1992, GNP bình quân đầu người của Hồng Kông đã lên tới 16.250 USD, Singapore 15.200 USD, Đài Loan 11.320 USD, Hàn Quốc 6.625 USD. Sở dĩ đạt được sự phát triển thần kỳ đó vì các nơi này đã khai thác một cách tối đa mọi lợi thế so sánh. Một chiến lược đầu tư cao được thực hiện trong những năm đầu công nghiệp hoá, có nơi đạt 40% GDP như Singapore, các nơi còn lại trên 30% GDP. Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc dân của mỗi nước. ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, nông nghiệp giữ vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP (những năm gần đây từ 24 - 25% GDP). Vì vậy vấn đề đầu tư cho nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế quốc dân nói chung, tăngtrưởng kinh tế ở khu vực nông thôn nói riêng, được các nhà kinh tế rất quan tâm. Đã có nhiều công trình nghiên cứu kinh tế về quan hệ giữa đầu tư và phát triển sản xuất nông nghiệp. Chính sách đầu tư và đầu tư cho nông nghiệp được hình thành trên cơ sở lý luận về tương quan giữa đầu tư và phát triển cũng như yêu cầu cụ thể của từng nước trong từng giai đoạn cụ thể của tiến trình phát triển kinh tế. Dù hình thức, phương pháp và mức độ đầu tư cho nông nghiệp có khác nhau giữa nước này với nước khác, giữa thời gian này với thời gian khác của mỗi nước song mục tiêu, đối tượng và nội dung đầu tư vẫn thống nhất. Mục đích của chính sách đầu tư trong nông nghiệp là tái tạo và nâng cao năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nông nghiệp, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp và nông thôn, trước hết là nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm của trồng trọt, chăn nuôi và ngành nghề ở nông thôn. Chính sách đầu tư đúng sẽ tạo lập hành lang pháp lý cho việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho mục tiêu đã định trên cơ sở tăng năng lực sản xuất, kinh doanh của từng đơn vị cơ sở và toàn ngành nông nghiệp cũng như ngành nghề ở nông thôn. 2. Nội dung và vai trò của đầu tư trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 2.1. Nội dung đầu tư cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Xuất phát từ nhiệm vụ, nội dung của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thì đầu tư cho quá trình này có một số nội dung sau: 2.1.1. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như thuỷ lợi, giao thông, điện, chợ, thông tin liên lạc, kho tàng, bến bãi... Đây là các yếu tố vô cùng quan trọng cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Nó giúp cho sản xuất nông nghiệp không còn trong tình trạng bấp bênh, phụ thuộc vào khí hậu, sản xuất sản phẩm ra là được buôn bán trao đổi thuận tiện, mối liên hệ giữa vùng này và vùng khác ngày càng gắn bó hơn tạo điều kiện phát triển nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng. Là cơ sở để áp dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trang bị máy móc thiết bị hiẹn đại vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Tuỳ theo khả năng ngân sách, Nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc Nhà nước và nhân dân cùng làm để xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn phục vụ sản xuất và tạo tiền đề để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Cơ sở hạ tầng càng hoàn thiện thì quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp càng có điều kiện mở rộng và tăng hiệu quả. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với những vùng sản xuất hàng hoá lớn về lương thực, thực phẩm và nông sản xuất khẩu. 2.1.2. Đầu tư phát triển nguồn lực phục vụ cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đây là yếu tố quan trọng là bước tạo ra cầu nối giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động sản xuất nông nghiệp, nông thôn, có được nguồn nhân lực hợp lý thì chúng ta mới có thể sản xuất theo hướng công nghiệp và hiện đại, cụ thể chúng ta đầu tư vào đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ bộ nghiên cứu phục vụ quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đây chính là chủ thể của việc áp dụng các kiểu sản xuất công nghiệp vào nông nghiệp, các thành tựu khoa học - công nghệ mới này sẽ đưa họ tiếp thu, nghiên cứu và triển khai nhằm tăng cường hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. 2.1.3. Đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Nước ta đất chật, người đôn, mật độ dân số vẫn còn cao, lao động trong nông thôn đã dư thừa nhiều. Quá trình HĐH nông nghiệp từ nay về sau lại tiếp tục tăng thêm số lao động dư thừa làm cho sức ép về việc làm trong nông thôn đã gay gắt lại càng gay gắt hơn. Phát triển công nghiệp dịch vụ của đất nước, trước hết là công nghiệp dịch vụ nông thôn nhằm tạo ra thị trường thu hút số lao động được giải phóng khỏi nông nghiệp, giải quyết việc làm trong quá trình hiện đại hoá nông nghiệp. Không những vậy, với năng suất lao động cao hơn nhiều lần so với nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nông thôn sẽ tăng nhanh thu nhập cho nhân dân nông thôn. Bởi vậy đầu tư phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn là lối thoát cơ bản của nền nông nghiệp hiện đại, là hướng chủ yếu và lâu dài để tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, từng bước công nghiệp hoá, đô thị hoá nông thôn, rút ngắn khoảng cách về mức sống giữa nông thôn và thành thị trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Nội dung đầu tư cụ thể như sau: - Đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến nông lâm sản. Đây là yếu tố quan trọng vừa giải quyết đầu ra của những nông sản được sản xuất theo hướng công nghiệp vừa tạo việc làm, nâng cao mức sống cho dân (qua bán được sản phẩm, giá đảm bảo, giải quyết việc làm cho dân cư nông thôn), làm thay đổi một phần bộ mặt nông thôn theo hướng CNH, HĐH với hệ thống đường xá hiện đại, khi công nghiệp tập trung, đô thị kèm theo. Các cơ bản nhất là tạo điều kiện áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, máy móc, thiết bị được đưa vào sản xuất một cách rộng rãi để tạo ra những nông sản đầu vào có chất lượng cho công nghiệp chế biến. - Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp không dùng nguyên liệu là sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp. Nhằm đầy mạnh phát triển các ngành công nghiệp ở nông thôn khong dùng nguyên liệu là sản phẩm nông lâm ngư nghiệp, nhung sử dụng nhiều lao động và vật liệu tại chỗ, bao gồm ngành dệt, may mặc, giầy dép, thuỷ tinh, sành sứ và cơ khí sửa chữa. - Đầu tư vào ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp quy mô hộ gia đình. Đầu tư nhằm khôi phục các làng nghề, khuyến khích và hỗ trợ các hộ gia đình bỏ vốn đầu tư vào các loại ngành nghề đa dạng khác, bao gồm chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây dựng gốm, sứ, thuỷ tinh, rèn đúc, sửa chữa cơ khí, gia công may mặc... để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và tham gia xuất khẩu. - Đầu tư vào phát triển dịch vụ nông thôn. Đầu tư vào hệ thống khuyến nông, dịch vụ thuỷ nông, thú y, bảo vệ thực vật, cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm. 2.1.4. Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ - kỹ thuật trong sản xuất, quản lý nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể: - Đầu tư vào xây dựng và phát triển hệ thống các viện, trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, học viện để từ các nơi này sẽ là đầu mối của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. - Đầu tư cho việc chuyển giao, tiếp nhận khoa học - kỹ thuật - công nghệ nội bộ trong nước hoặc từ nước ngoài. Trong đó quan tâm nhất là đầu tư vào công nghệ sinh học. - Đầu tư cho việc đào tạo nâng cao trình độ, kiến thức, tập huấn (nước ngoài) của cán bộ khoa học. 2.1.5. Đầu tư vào các ngành công nghiệp hỗ trợ CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đầu tư vào các ngành công nghiệp cơ khí (cơ khí nông nghiệp) ngành công nghiệp hoá chất (sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, chất kích thích tăng trưởng, chất bảo quản...) 2.1.6. Đầu tư gián tiếp thông qua hỗ trợ tín dụng cho nông dân với lãi suất ưu đãi, điều kiện vay tương đối dễ để họ trang bị máy móc nông nghiệp, giống cây con, phân bón nhằm sản xuất theo hướng CNH, HĐH. 2.1.7. Đầu tư quy hoạch xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh, các khu công nghiệp nông thôn, đô thị nông thôn, khai hoang và xây dựng các khu kinh tế mới. 2.2. Vai trò của đầu tư đối với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 2.2.1. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Thông qua đầu tư mà chúng ta có thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp bằng cách tập trung vào đầu tư sản xuất những cây, con theo nhu cầu thị trường cũng như theo chiến lược phát triển nông nghiệp, đầu tư chuyên canh theo vùng, lãnh thổ với những sản phẩm có lợi thế so sánh. Đối với cơ cấu kinh tế nông thôn đầu tư tạo điều kiện thay đổi cơ cấu ngành theo hướng nâng dần tỷ trọng công nghiệp dịch vụ thông qua tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật công nghiệp dịch vụ, đào tạo lực lượng lao động công nghiệp dịch vụ, tạo ra điều kiện giao lưu trao đổi giữa các vùng nhằm phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn. Về cơ cấu vùng đầu tư góp phần nâng cao chuyên môn hoágiữa các vùng, các địa phương, tạo ra sự liên hết gắn bó chặt chẽ. 2.2.2. Đầu tư với việc tạo ra các điều kiện tiền đề cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Thông qua đầu tư mà hệ thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn được xây dựng, các ngành hỗ trợ cũng có điều kiện xây dựng và phát triển mạnh, hệ thống các trung tâm nghiên cứu được triển khai với nguồn cán bộ khoa học được đào tạo, có đủ năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn. 2.2.3. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Có thể nói quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn luôn gắn khoa học công nghệ với sản xuất vì nó là bản chất của quá trình này. Việc đầu tư nhằm tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ là yếu tố tất yếu khách quan và vô cùng quan trọng. Với mỗi nước việc để có công nghệ thì có hai cách là tự nghiên cứu chế tạo ra công nghệ hoặc mua công nghệ từ nước ngoài. Dù cho cách nào đi nữa thì đều phải có tiền và đều phải được đầu tư. Nếu tự nghiên cứu lấy thì phải đầu tư phát triển hệ thống các trung tâm nghiên cứu, hệ thống giáo dục đào tạo cũng như các điều kiện vật chất khác. Còn nhập công nghệ thì cũng phải đầu tư trang thiết bị để công nghệ hoạt động, đào tạo con người, tiếp nhận và làm chủ công nghệ, đầu tư cho các yếu tố đầu vào khác của công nghệ. Trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ sinh học là một yếu tố cực kỳ quan trọng, nước ta trong những năm gần đây dã quan tâm nhiều hơn cho lĩnh vực này thông qua tập trung nhiều hơn vốn đầu tư cho các trung tâm, viện nghiên cứu sinh học nông nghiệp, đầu tư đào tạo cán bộ nghiên cứu sinh viên ngành công nghệ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35348.doc