Một số giải pháp tài chính nhằm huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển kinh tế - Xã hội ở Tỉnh Ninh Bình

Mở đầu 1.Tính cấp thiết của đề tài: Vốn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Bất cứ một quốc gia nào, muốn phát triển kinh tế - xã hội đều cần phải có vốn. Trong xu thế chung của công cuộc đổi mới (chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần để từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế), chúng ta rất cần vốn đầu tư để thực hiện các mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nằm ở cửa ngõ phía Nam của Đồng bằng Bắc Bộ, từ một Tỉnh có xuất phát điểm thấp, cơ sở

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp tài chính nhằm huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển kinh tế - Xã hội ở Tỉnh Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạ tầng yếu kém và lạc hậu; Nhưng bằng những nỗ lực không ngừng, Ninh Bình đã bước đầu hoà nhập với công cuộc đổi mới chung của cả nuớc. Là một Tỉnh giàu tiềm năng và có nhiều lợi thế. Song, Ninh Bình còn gặp không ít khó khăn - Nhất là về vốn đầu tư. Trong khi nhu cầu về vốn ngày càng tăng thì cơ chế - chính sách huy động vốn vẫn còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với đòi hỏi của thực tế. Để góp phần tháo gỡ vướng mắc này, Tác giả đã chọn đề tài “Một số giải pháp tài chính nhằm huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển kinh tế - xã hội ở Tỉnh Ninh Bình”. 2. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng huy động vốn để tìm các giải pháp hữu hiệu, phù hợp với tình hình thực tế của Ninh Bình; Từng bước hoàn thiện việc sử dụng các công cụ tài chính nhằm huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển kinh tế - xã hội. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc định ra các giải pháp tài chính nhằm huy động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với điều kiện thực tế của Ninh Bình. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực rộng, phức tạp nên luận văn chỉ đề cập tới việc sử dụng các công cụ: Thu - Chi Ngân sách Nhà nước; Huy động vốn trong các doanh nghiệp và dân cư vào thời kỳ 2000-2004. 4. Phương pháp nghiên cứu. Sử dụng phương pháp chủ yếu là chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư duy trừu tượng và thống kê số lớn. Ngoài ra, bảng biểu còn được sử dụng để so sánh, minh hoạ, rút ra những kết luận cần thiết. 5. ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, vốn đầu tư cho phát triển kinh tế. Những nhân tố ảnh hưởng đến vốn đầu tư trong nước. Vận dụng hệ thống lý luận khoa học để soi dọi vào thực tiễn phát triển của Ninh Bình, để từ đó đề xuất các giải pháp hữu hiệu nhằm huy động tối đa nguồn vốn quý giá này vào đầu tư, xây dựng của Tỉnh 6. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày làm 3 chương: Chương I: Đầu tư và vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội. Chương II: Thực trạng huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển kinh tế - xã hội ở Tỉnh Ninh Bình trong thời gian qua. Chương III: Một số giải pháp tài chính huy động vốn trong nước cho phát triển kinh tế - xã hội ở Tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới. Chương 1 Đầu tư và Vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội Đầu tư và phân loại đầu tư 1.1.1.Khái niệm đầu tư Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất - kinh doanh nào, thì các nhà doanh nghiệp đều phải đầu tư. Có rất nhiều cách hiều và định nghĩa về đầu tư ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. Đã một thời, người ta hiều đầu tư là đồng nghĩa với đầu tư XDCB. Thực ra, XDCB chỉ là một khâu quan trọng của đầu tư. Đầu tư có thể được hiểu với nhiều khía cạnh rộng lớn hơn: - Đầu tư là quá trình bỏ vốn ra hôm nay để mong đạt được hiệu quả trong tương lai. Hiệu quả là một khái niệm rộng; Song, suy cho cùng thì đầu tư không nằm ngoài 2 mục đích là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. - Trên góc độ làm tăng thu nhập trong tương lai: Đầu tư được hiểu là sự hy sinh tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu dùng trong tương lai (do thu nhập sẽ được tăng thêm). - Trên góc độ rủi ro của đầu tư: Đầu tư được hiểu là sự đánh bạc về tương lai, với hy vọng rằng thu nhập hiện tại và tương lai sẽ lớn hơn chi phí hiện nay và mai sau. Từ các khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của đầu tư như sau: + Đầu tư luôn đòi hỏi một lượng vốn lớn. Do vậy, các nhà đầu tư thường phải tiến hành vay vốn (vì vốn tự có không đáp ứng đủ cho nhu cầu đầu tư). Khi tiến hành vay vốn, bên cạnh việc phải trả lãi suất tiền vay, họ còn phải tìm được người cho vay. Đặc trưng này cho thấy: Các nhà đầu tư phải tiến hành huy động vốn theo hình thức và phương thức phù hợp; Nếu không sẽ kìm hãm đầu tư. + Đầu tư là quá trình luôn gắn với thời gian. Thời gian càng dài thì việc bỏ vốn đầu tư càng gặp nhiều khó khăn khi dự tính những biến động của thị trường (thị trường vốn và giá vốn, thị trường lao động, thị trường hàng hoá). Mỗi đồng vốn đều có giá trị về mặt thời gian. Vì vậy, trong quá trình xem xét hiệu quả vốn đầu tư, nhà đầu tư phải tính đến giá trị đồng vốn theo thời gian; Phải phân tích và xem xét kỹ lưỡng khi quyết định huy động vốn trung hạn hay dài hạn. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có những chính sách định hướng, hỗ trợ, khuyến khích những dự án lớn có thời gian thu hồi vốn chậm. + Đầu tư luôn gắn liền với rủi ro và mạo hiểm. Bởi vậy, Kinh tế học đã quan niệm “Đầu tư là đánh bạc với tương lai”. Nhà đầu tư, luôn phải gánh chịu những rủi ro do sự biến động của thị trường; Hay những thay đổi về chính sách, chế độ của Nhà nước. + Đầu tư luôn gắn liền với hiệu quả đầu tư. Tuỳ theo mục đích đầu tư, Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp khác nhau để khuyến khích tự đầu tư; Xã hội hoá đầu tư; Hoặc trực tiếp đầu tư bằng vốn Ngân sách. + Đầu tư phụ thuộc vào tình trạng của nền kinh tế. Khi GDP tăng thì đầu tư cũng tăng và ngược lại. Việc huy động vốn cần phải chú ý đến sự tăng giảm của cầu đầu tư để đảm bảo cung phù hợp với nó. 1.1.2. Phân loại đầu tư 1.1.2.1. Phân loại theo tính chất, bao gồm: - Các hoạt động đầu tư hữu hình vào tài sản có hình thái vật chất cụ thể (máy móc, nhà xưởng, dụng cụ, nhà cửa). - Các hoạt động đầu tư vô hình (bằng phát minh sáng chế; chi tiêu về nghiên cứu phát triển - đào tạo). - Các hoạt động đầu tư về tài chính (tham gia góp vốn). 1.1.2.2. Phân loại theo mục đích đầu tư, bao gồm: - Các hoạt động đầu tư để đổi mới (duy trì tiềm năng của sản xuất). - Các hoạt động đầu tư để hiện đại hoá, hay thay thế (tăng năng suất; Chống hao mòn vô hình). - Các hoạt động đầu tư mang tính chất “chiến lược”, không thể trực tiếp đo lường ngay hiệu quả (có thể gắn liền với nghiên cứu phát triển; Với hình thành thương hiệu; Với đào tạo; Với bảo vệ môi trường sống). 1.1.2.3. Phân loại theo thời gian đầu tư, gồm: - Đầu tư ngắn hạn: Là đầu tư có thời gian dưới 1 năm. - Đầu tư trung hạn: Là đầu tư có thời gian từ 1-5 năm. - Đầu tư dài hạn: Là đầu tư có thời gian trên 5 năm. 1.1.2.4. Phân loại theo tiêu thức quản lý, gồm: - Đầu tư trực tiếp: Là đầu tư mà người bỏ vốn đồng thời là người quản lý trực tiếp (Đầu tư FDI; Đầu tư xây dựng kinh doanh và chuyển giao công nghệ BOT). - Đầu tư gián tiếp: Là đầu tư mà người bỏ vốn tách rời khỏi người quản lý vốn. 1.1.2.5. Căn cứ vào mức độ đạt được hiệu quả của đầu tư, gồm: - Đầu tư tăng trưởng: Làm tăng sản lượng hàng hoá, dịch vụ; Tăng thu nhập bình quân đầu người; Tạo nên sự tăng trưởng của nền kinh tế. - Đầu tư phát triển: Làm thay đổi cơ cấu Kinh tế- Xã hội theo hướng: Tăng tỷ trọng nghành Công nghiệp - Dịch vụ; Giảm tỷ trọng nghành Nông nghiệp trong GDP; Đồng thời, gắn liền với quá trình đô thị hoá. Đầu tư phát triển nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững; Chú ý đến đầu tư cho con người và đầu tư bảo vệ môi truờng. Đầu tư cho tăng trưởmg đi đôi với phát triển kinh tế đã và đang là xu hướng lựa chọn của nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Văn kiện đại hội Đảng lần thứ 7 đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường”.[22] 1.2. Vốn đầu tư - Nguồn vốn đầu tư. 1.2.1. Vốn đầu tư: Vốn đầu tư là số vốn được sử dụng để thực hiện mục đích đầu tư đã dự định; Là yếu tố tiền đề của mọi quá trình đầu tư. ở nước ta, trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, việc nhận thức về bản chất và vai trò của vốn cũng khác nhau. Trong thời kỳ bao cấp, phần lớn vốn đầu tư thuộc sở hữu Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) được cấp phát vốn (hoặc cho vay vốn) với lãi suất rất thấp, nên người ta ít quan tâm đến tính hàng hoá, cùng những đặc trưng của vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn được nhận thức đúng với bản chất và vai trò của nó. Mác đã khái quát khái niệm vốn qua phạm trù tư bản. Theo Mác: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư”[22] Vốn có những đặc trưng cơ bản sau: Một là: Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản. Có nghĩa là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản hữu hình và tài sản vô hình (máy móc thiết bị, nhà xưởng, đất đai, nguyên vật liệu, thương hiệu, phát minh sáng chế…). Một lượng tiền được phát hành khống vào lưu thông không có giá trị đảm bảo (hay các khoản nợ không có khả năng thanh toán), không thể gọi là vốn. Hai là: Vốn phải gắn với một chủ sở hữu nhất định. Do vậy, nếu ở đâu không xác định được đúng chủ sở hữu vốn, thì ở đó việc sử dụng vốn sẽ lãng phí, kém hiệu quả. Ba là: Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là hàng hoá đặc biệt. Vốn là hàng hoá, vì: Cũng giống như các hàng hoá khác, nó có giá trị và giá trị sử dụng; Có chủ sở hữu và là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Nó là hàng hoá đặc biệt, vì: Thứ nhất, có thể tách rời quyền sở hữu vốn với quyền sử dụng vốn. Hàng hoá vốn khi bán đi sẽ không mất quyền sở hữu, mà chỉ bán quyền sử dụng. Lãi suất chính là giá phải trả cho quyền được sử dụng vốn. Thứ hai, vốn là yếu tố đầu vào phải tính chi phí như hàng hoá khác; Nhưng bản thân nó lại được cấu thành trong đầu ra của nền kinh tế. Thứ ba, chi phí vốn phải quan niệm như chi phí khác (vật liệụ, nhân công, máy…), kể cả trong trường hợp vốn tự có bỏ ra. Nếu phần vốn tự đầu tư không thu được chi phí vốn (hay bị mất mát chi phí cơ hội), thì họ sẽ đầu tư vào lĩnh vực khác (đầu tư gián tiếp). Bốn là: Vốn có giá trị về mặt thời gian. ở tại các thời điểm khác nhau thì giá trị đồng vốn cũng khác nhau. Đồng tiền càng dàn trải theo thời gian, thì nó càng bị mất giá; độ rủi ro càng cao. Bởi vậy, khi thẩm định (hay xác định) hiệu quả của một dự án đầu tư, người ta phải đưa một khoản thu và chi về cùng một thời điểm để so sánh, đánh giá. Năm là: Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định, đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh. Sáu là: Vốn phải vận động và lưu thông trong đầu tư kinh doanh và sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng chưa hẳn tiền là vốn. Tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để tiền trở thành vốn, thì đồng tiền đó phải được vận động trong môi trường của hoạt động đầu tư, kinh doanh và sinh lời. Từ những phân tích trên đây, người ta đã đưa ra định nghĩa về vốn đầu tư như sau: Vốn đầu tư là giá trị tài sản xã hội (bao gồm tài sản tài chính, tài sản hữu hình, tài sản vô hình) được bỏ vào đầu tư, nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai. 1.2.2 Nguồn vốn đầu tư. Nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển. Vốn là yếu tố quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế; Là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Vai trò này đã được nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười khẳng định: “ …không giải quyết được vấn đề vốn, thì sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá chỉ còn là một nguyên vọng mà thôi” [22] Vốn đầu tư phát triển kinh tế được hình thành từ hai nguồn: Nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Ngày nay, trong điều kiện quốc tế hoá đời sống Kinh tế - Xã hội, mở cửa và hội nhập; hầu hết các quốc gia đều kết hợp huy động cả 2 nguồn vốn trên. Đối với nước ta và các nước đang phát triển khác có tốc độ tăng trưởng chậm, thu nhập bình quân đầu người thấp, nguồn vốn tiết kiệm so với GDP hạn hẹp; Thì việc kết hợp huy động vốn nước ngoài với vốn trong nước (trong đó, vốn trong nước giữ vai trò quyết định) là cần thiết. Điều đó không những khắc phục được tình trạng thiếu vốn, mà còn có điều kiện tiếp thu công nghệ hiện đại của nước ngoài; Nâng cao trình độ quản lý và tăng thêm việc làm. Nguồn vốn nước ngoài đựơc các quốc gia huy động cho đầu tư phát triển, thông qua: Vay nợ, nhận viện trợ, hoặc thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) Nguồn vốn trong nước là toàn bộ nguồn lực của một quốc gia có thể huy động vào đầu tư thực hiện các mục tiêu Kinh tế – Xã hội của đất nước. Nguồn vốn trong nước bao gồm: Nguồn tiết kiệm, nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn vốn vô hình. 1.2.2.1. Nguồn tiết kiệm. * Tiết kiệm của Chính phủ Tiết kiệm của Chính phủ là phần chênh lệch giữa tổng các khoản thu (không bao gồm các khoản vay nợ trong nước và nước ngoài) và tổng các khoản chi thường xuyên của Ngân sách Nhà nước (NSNN). Tiết kiệm Chính phủ bao gồm tiết kiệm của NSNN và tiết kiệm của các DNNN. Thu NSNN bao gồm: Các khoản thu từ thuế và các khoản thu ngoài thuế, (phí, lệ phí, thu về cho thuê hay nhượng bán tài sản quốc gia, thu về lợi tức cổ phần, thu về hợp tác lao động, những khoản thu khác). ở hầu hết các quốc gia, thuế là khoản thu chủ yếu của NSNN. Vì vậy, các nhà kinh tế thường sử dụng chỉ tiêu tỷ suất thuế (số thuế huy động so với tổng sản phẩm quốc nội) để đánh giá khả năng thu Ngân sách của mỗi nước. Chi NSNN bao gồm: Các khoản chi tiêu dùng thường xuyên, chi đầu tư phát triển và chi khác. Để tăng tích luỹ của NSNN dành cho đầu tư phát triển, thì việc tiết kiệm các khoản chi thường xuyên là một đòi hỏi tất yếu. Bảng 1.1 - Tỷ trọng các khoản chi Ngân sách Nhà nước so với GDP của Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2003 Đơn vị tính % Các khoản chi 2000 2001 2002 2003 Chi đầu tư phát triển 6.7 8.4 8.2 7.7 Chi thường xuyên 14.0 14.9 15.3 14.2 Chi trả nợ, viện trợ 3.0 3.1 3.7 Chi khác 1.0 0.6 0.2 (Nguồn:Thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2003-2004) Tuy nhiên, trong tổng số các khoản chi Ngân sách của các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam), thì chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn và thường tăng lên với nhịp độ cao nhất. Tiết kiệm của Chính phủ mặc dù có vai trò quan trọng, nhưng không phải là nguồn chủ yếu để hình thành vốn đầu tư của các quốc gia. Trước tình rạng thiếu hụt Ngân sách, Chính phủ các nước thường áp dụng các biện pháp, như: Thắt chặt chi tiêu hoặc đi vay (vay dân cư trong nước, vay nước ngoài) - Trong đó, huy động vốn tiết kiệm trong dân cư là một biện pháp phổ biến thường được sử dụng. * Tiết kiệm của dân cư Tiết kiệm của dân cư được hình thành từ phần còn lại trong thu nhập của dân cư; Sau khi đã đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước (nếu có) và đảm bảo tiêu dùng cho nhu cầu thiết yếu của bản thân và gia đình họ. Trong nền kinh tế thị trường, tiết kiệm dân cư được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau: - Một bộ phận được dùng để đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh như: Thành lập doanh nghiệp tư nhân; Công ty trách nhiệm hữu hạn; Công ty cổ phần; Hoặc đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ… - Một bộ phận được sử dụng đầu tư vào bất động sản như: Đất đai, nhà cửa… - Một bộ phận được gửi vào Ngân hàng, các quỹ tiết kiệm, mua trái phiếu Chính phủ, mua trái phiếu doanh nghiệp; Hoặc trực tiếp cho vay lấy lãi… - Ngoài ra, còn một phận được đưa vào cất trữ dưới dạng: Vàng; Ngoại tệ; Hoặc một số tài sản có giá trị cao. Tiết kiệm trong dân cư là một bộ phận của tổng tiết kiệm trong nước. Đây là một nguồn vốn tiềm năng rất lớn. Khai thác và huy động nguồn vốn này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành vốn đầu tư để phát triển Kinh tế - Xã hội của các quốc gia. * Tiết kiệm của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, Doanh nghiệp là những tổ chức kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận; Có từ một chủ sở hữu trở lên; Được pháp luật thừa nhận, về: Lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, mức vốn pháp định (tuỳ thuộc từng loại), Có tên gọi riêng; Bảo đảm trách nhiệm của mình trước pháp luật bằng tài sản (với trách nhiệm hữu hạn hoặc vô hạn). Tuỳ thuộc vào mức độ mở cửa của nền kinh tế và sự hình thành, cũng như mức độ hoạt động của các loại thị trường dẫn tới việc hình thành nhiều loại doanh nghiệp khác nhau (như: Doanh nghiệp Nhà nước; Doanh nghiệp tư nhân; Doanh nghiệp cổ phần; Doanh nghiệp liên doanh; Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài). Các doanh nghiệp này có thể kinh doanh các hàng hoá - dịch vụ tài chính (đối với các doanh nghiệp tài chính); Hoặc kinh doanh các hàng hoá - dịch vụ phi tài chính (đối với các doanh nghiệp phi tài chính). Sự tồn tại của các doanh nghiệp bất kể nó thuộc hình thức sở hữu nào, lĩnh vực kinh doanh nào cũng đều được coi là huyết mạch của một nền kinh tế; Quyết định mức độ tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Tiết kiệm của doanh nghiệp hình thành từ phần lợi nhuận được để lại và quỹ khấu hao tài sản cố định của doanh nghiệp. Muốn tăng tiết kiệm (hay tích luỹ) của doanh nghiệp, thì trước hết doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản suât kinh doanh trên cơ sở: Tăng năng suất động; Khai thác triệt để công suất của máy móc thiết bị; Tiết kiệm tối đa chi phí sản suất; Hạ giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, luôn nghiên cứu để nâng cao chất lượng sản phẩm; Nâng cao khả năng cạnh tranh, đưa sản phẩm chiếm lĩnh vị trí ưu thế trên thị trường; Từ đó tăng doanh thu tiêu thụ và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên sẽ góp phần đảm bảo tăng phần lợi nhuận được để lại của doanh nghiệp sau khi đã thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước. Các doanh nghiệp phải huy động triệt để phần lợi nhuận được để lại để tái đầu tư. Quỹ khấu hao là nguồn vốn đầu tư quan trọng của doanh nghiệp. áp dụng phương pháp khấu hao nhanh: Vừa tránh hao mòn vô hình của tài sản cố định do tiến bộ khoa học kỹ thuật; Vừa thu hồi vốn nhanh để đưa vào tái đầu tư, khôi phục và đổi mới tài sản cố định. Đó là giải pháp quan trọng, hữu hiệu để bảo toàn vốn sản suất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn khấu hao là nguồn quan trọng và mang tính chất ổn định, hình thành nên nguồn vốn đầu tư trong các doanh nghiệp. 1.2.2.2. Nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực biểu hiện trên hai mặt: Số lượng và chất lượng. Số lượng bao gồm tổng số người làm việc trong độ tuổi lao động theo quy định của Nhà nước và thời gian làm việc có thể huy động được. Chất lượng bao gồm trình độ chuyên môn và sức khoẻ, kỹ năng, phong cách, đạo đức, lối sống và tinh thần của người lao động. Nguồn nhân lực là tài sản quý giá nhất của mỗi quốc gia. Vì con người với kỹ năng, trí tuệ, sức khoẻ tích luỹ được là động lực cơ bản của mọi sự phát triển. Trong chiến lược CNH – HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định “ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải lấy nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế Việt Nam”[23]. ở Việt Nam trong 10 năm (2001-2010), dự báo dân số trong độ tuổi lao động sẽ tăng thêm khoảng 11,9 triệu người. Như vậy, đến năm 2010 cả nước có khoảng 57 triệu dân trong độ tuổi lao động. Dân số đông; Nguồn lao động dồi dào, đó là sức mạnh của Việt Nam; Là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản suất kinh doanh. Song, cũng tạo ra sức ép lớn về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trong điều kiện các nguồn lực khác cho đầu tư phát triển còn hạn chế. Bên cạnh đó, con người cũng là đối tượng hưởng lợi ích của kết quả đầu tư. Vì vậy, để khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực, phải kết hợp tăng cường đầu tư cho y tế, giáo dục, đào tạo… nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thực hiện kế hoạch hoá dân số. Phấn đấu tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên 35-40%; Tỷ lệ thất nghiệp thành thị chỉ còn 4-5%; Sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn đạt tới 80%. Đó là nguồn nhân lực rất lớn cho phát triển. Nguồn nhân lực còn góp phần làm tăng nguồn vốn đầu tư cho phát triển thông qua xuất khẩu lao động. Hàng năm, lực lượng lao động xuất khẩu đã gửi về cho đất nước hàng tỷ Đô la Mỹ. Theo các nguồn tin, trong dịp tết Nguyên đán (ất Dậu) vừa qua lượng kiều hối mà lực lượng người lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước là 3,8 tỷ Đô la. Đây là một nguồn vốn đáng kể góp phần không nhỏ cho mục tiêu phát triển Kinh tế - Xã hội của đất nước. 1.2.2.3. Nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố tự nhiên mà con người có thể sử dụng - khai thác và chế biến, tạo ra sản phẩm vật chất phục vụ lại con người. Tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia bao gồm rất nhiều loại như: Đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên trong lòng đất, vùng trời, mặt nước và các tài nguyên khác. Tài nguyên thiên nhiên ở mỗi quốc gia là yếu tố quan trọng, góp phần tạo tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên bao gồm: Tài nguyên có khả năng tái sinh và tài nguyên không có khả năng tái sinh. Nếu khai thác tốt, hợp lý, có tác dụng tăng nguồn vốn đầu tư trong nước cho phát tiển kinh tế. 1.2.2.4. Nguồn vốn vô hình. Nguồn vốn vô hình tồn tại dưới dạng tri thức khoa học công nghệ, những bằng phát minh sáng chế, giá trị thông tin, giá trị văn hoá, tinh thần, truyền thống dân tộc, vị trí địa lý … Nguồn vốn vô hình không tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể, nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng - Nhất là trong thời đại hàm lượng của tri thức khoa học công nghệ được cấu thành trong giá trị của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ ngày càng tăng. Nguồn vốn vô hình là sản phẩm tư duy khoa học của con người, nên chúng hầu như không có giới hạn. Để phát triển nguồn vốn vô hình, cần kết hợp với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Phải tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghệ. Hết sức tranh thủ tiếp thu những thành tựu khoa học tiên tiến nhất trên thế giới để phát triển Kinh tế - Xã hội. 1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn đầu tư trong nước. Thực chất của việc huy động vốn trong nước để đầu tư phát triển kinh tế là huy động các nguồn tiết kiệm. Song, từ tiết kiệm đến đầu tư là một khoảng cách. Tiết kiệm chỉ là khả năng. Muốn biến khả năng thành hiện thực, phải tìm mọi cách rút ngắn khoảng cách giữa chúng. Thông qua việc mở rộng nguồn tiết kiệm và chuyển nó thành vốn đầu tư. Để tiến hành huy động vốn, cần phải làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn và việc huy động vốn sau đây: 1.3.1 Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người và tiết kiệm. Tổng tiết kiệm trong nước của mỗi quốc gia dù được hình thành từ các nguồn tiết kiệm của Chính phủ, của dân cư hay của các doanh nghiệp, thì chúng đều có chung nguồn gốc là một bộ phận của GDP, do việc tăng trưởng của nền kinh tế quyết định. Tăng trưởng kinh tế, thu nhập và tiết kiệm có mối quan hệ biện chứng với nhau. Sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, ổn định, tạo ra mức thu nhập bình quân đầu người cao; Sẽ là tiền đề vững chắc cho việc tăng tiết kiệm và ngược lại. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế mới chỉ là tiền đề cần thiết dẫn đến tăng tiết kiệm trong nước. Nền kinh tế tăng truởng với tốc độ cao, nhưng tốc độ tăng dân số cũng cao, thì thu nhập bình quân đầu người cũng không được cải thiện, ảnh hưỏng đến khả năng gia tăng tiết kiệm. Việt Nam là một quốc gia có dân số đông và tốc độ tăng cao, trong khi đó thu nhập bình quân đầu người lại thuộc nhóm các quốc gia có thu nhập thấp nhất trên thế giới (Năm 2003 dân số Việt Nam là 80.666 triệu người và thu nhập bình quân là 483,1USD/người). Do vậy, bên cạnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cần phải có chính sách và kế hoạch dân số hợp lý. Thu nhập bình quân đầu người là nhân tố đóng vai trò then chốt, quyết định đến tiết kiệm. Một nền kinh tế thấp kém, với tốc độ tăng trưởng chậm, thiếu ổn định và thu nhập bình quân đầu người thấp sẽ không có (hoặc rất ít) khả năng tiết kiệm. 1.3.2. Mức độ tiêu dùng. Khi phân tích mối quan hệ giữa thu nhập và tiết kiệm, không thể bỏ qua yếu tố tiêu dùng . Hoạt động tiêu dùng của Chính phủ, của dân cư và của các doanh nghiệp có những tính chất và sự tác động theo mức độ khác nhau đối với mối quan hệ giữa thu nhập và tiết kiệm. Do đó, khi nghiên cứu mối quan hệ giữa thu nhập và tiết kiệm, phải đồng thời xem xét tác động qua lại giữa thu nhập và tiêu dùng đối với việc hình thành tiết kiệm của các tác nhân nói trên. Tiêu dùng là nhân tố quan trọng, quyết định trực tiếp đến tiết kiệm. Toàn bộ thu nhập được chia thành hai phần: Một phần dành cho tiêu dùng hiện tại và phần còn lại dành cho tiêu dùng tương lai (hay còn gọi là tiết kiệm). Vì vậy, nếu mức tiêu dùng của nền kinh tế bằng (hoặc vượt quá) khả năng thu nhập thì sẽ không có tiết kiệm từ nội bộ nền kinh tế. Tập quán tiêu dùng bị chi phối bởi điều kiện sống, cũng như đặc tính dân tộc của từng quốc gia và từng vùng; Từ đó ảnh hưởng đến phần thu nhập dành cho tiết kiệm. Việt nam là một nước nghèo. Vì vậy, để tăng tiết kiệm trong nước, dành vốn cho đầu tư phát triển thì cần phải có chính sách tiêu dùng hợp lý. Trước hết, phải tiết kiệm các khoản chi tiêu dùng từ NSNN; Khống chế các khoản chi thường xuyên trong phạm vị các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và dành tỷ lệ ngày càng cao trong tổng số thu cho đầu tư phát triển. Hạn chế tối đa các khoản chi không cần thiết, như: Chi cho hội nghị, khánh tiết… Bên cạnh đó, cần khuyến khích các doanh nghiệp; Các tổ chức Kinh tế - Xã hội; Các tầng lớp dân cư tiết kiệm trong tiêu dùng để tích luỹ vốn cho đầu tư phát triển. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần có những chính sách định hướng tiêu dùng, khuyến khích đầu tư một cách hợp lý. 1.3.3. Môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư đóng vai trò như một chất xúc tác ban đầu cho việc lựa chọn quyết định bỏ vốn của nhà đầu tư. Mọi hoạt động đầu tư suy cho cùng là để thu lợi nhuận. Vì thế, môi trường đầu tư hấp dẫn phải là môi trường có mức độ rủi ro thấp và có khả năng đem lại hiệu quả cao cho các nhà đầu tư. Qua đó, kích thích các hãng tích luỹ vốn và tích cực huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để thực hiện đầu tư, nhằm mục đích thu lợi nhuận. Ngược lại, môi trường không thuận lợi, mức độ rủi ro cao sẽ hạn chế đầu tư.Môi trường đầu tư bị chi phối bởi nhiều nhân tố như: Môi trường Chính trị - Xã hội; Môi trường kinh tế và pháp luật; Chính sách - cơ chế ưu đãi đầu tư; Điều kiện phát triển về cơ sở hạ tầng kinh tế; Mức độ hoàn thiện về thể chế hành chính- pháp lý: - Môi trường Chính trị - Xã hội là yếu tố quan trọng đầu tiên, quyết định đến đầu tư và huy động vốn tiết kiệm nhàn rỗi trong xã hội vào sản xuất kinh doanh. Sự ổn định về Chính trị - Xã hội sẽ giúp các nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn vào đầu tư kinh doanh (Nhất là các lĩnh vực cần một lượng vốn lớn và thời gian thu hồi vốn dài). Việt Nam có môi trường Chính trị - Xã hội ổn định, đáp ứng được nhu cầu làm ăn lâu dài của các Nhà đầu tư. - Môi trường kinh tế và pháp luật được thể hiện ở sự nhất quán trong đường lối phát triển Kinh tế - Xã hội. Là sự thống nhất, đồng bộ, rõ ràng của các văn bản pháp lý do Nhà nước ban hành; Cũng như tính nghiêm minh của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và những người tiết kiệm. Các chính sách ưu đãi thu hút đầu tư; Sự ổn định của chính sách kinh tế vĩ mô, của chính sách thuế; Sự phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật; Cũng như sự vững mạnh của hệ thống Tài chính - Ngân hàng, sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư và việc huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Đầu tư phát triển sẽ tạo tiền đề cho việc tăng tiết kiệm và tích luỹ vốn trong nước. Việt Nam đã và đang duy trì được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định với nhịp độ tăng trưởng cao; Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH; Hệ thống pháp luật đang từng bước hoàn thiện, đảm bảo tính thống nhât và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam có nhiều ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước, cũng như nước ngoài kinh doanh có hiệu quả. - Các thủ tục hành chính cũng là yếu tố không kém phần quan trọng tác động đến môi trường đầu tư. Các thủ tục hành chính đơn giản; Thái độ làm việc nghiêm túc, tận tình sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và ngược lại. Vì vậy, để thu hút nhiều vốn đầu tư, cần phải cải tiến các thủ tục hành chính; Tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi cho các nhà kinh doanh. 1.3.4. Sự phát triển của thị truờng tài chính. Trong nền kinh tế luôn xuất hiện tình trạng chủ thể này tạm thời thừa vốn, trong khi chủ thể khác lại thiếu vốn. Quá trình tìm các biện pháp rút ngắn khoảng cách để người thừa vốn và người thiếu vốn trực tiếp (hoặc gián tiếp) gặp nhau tiến hành mua bán quyền sử dụng vốn, đã dẫn tới sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính. Thị trường tài chính là nơi điều hoà các khoản vốn nhàn rỗi trong xã hội từ nơi thừa đến nơi thiếu, nhằm đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn và dẫn vốn đến với các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Vì vậy, sự phát triển của thị trường tài chính là nhân tố quan trọng tác động đến việc huy động các khoản vốn nhàn rỗi trong xã hội và tích luỹ vốn vào đầu tư - Căn cứ vào thời hạn luân chuyển các khoản vốn: Thị trường tài chính được chia thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn; Còn thị trường vốn là nơi diễn ra hoạt động mua bán các khoản vốn trung và dài hạn. Thị trường vốn bao gồm: Thị trường vay nợ trung, dài hạn và thị trường chứng khoán. Hoạt động giao lưu vốn trên thị trường tài chính được tóm tắt qua sơ đồ sau: Các chủ thể thừa vốn (Cho vay) Các chủ thể thiếu vốn (Đi vay) Các trung gian tài chính Thị trường chứng khoán - Căn cứ vào các hình thức huy động: Các nguồn tài chính được hình thành theo hai phương pháp: Trực tiếp và gián tiếp (Thông qua thị trường chứng khoán và các trung gian tài chính). Huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán là hình thức vận động của vốn theo phương pháp trực tiếp; Trong đó, người đi vay tiến hành vay vốn trực tiếp từ người cho vay bằng cách mua những chứng khoán (chủ yếu là cổ phiếu và trái phiếu). Sự giao lưu vốn theo phương pháp trực tiếp sẽ cho phép chuyển vốn từ những người tiết kiệm (trong lúc họ chưa, hoặc không có cơ hội đầu tư sinh lợi) đến nhu cầu và cơ hội đầu tư. Nó chứng tỏ: Hoạt động giao lưu trên thị trường vốn đã góp phần nâng cao hiệu quả đối với tiết kiệm và đầu tư; Cải thiện mức sống của người tiêu dùng và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Tuy nhiên, những người có món tiết kiệm nhỏ và những người vay món nhỏ sẽ bị hạn chế ở thị trường tài chính trực tiếp (Vì: Chi phí giao dịch, môi giới cho việc mua bán chứng khoán sẽ cao). Chính vì vậy, ngay ở những nước có thị trường chứng khoán phát triển, thì huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội theo phương pháp gián tiếp (thông qua các trung gian tài chính) vẫn giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Huy động vốn thông qua c._.ác trung gian tài chính gồm: Các Ngân hàng thương mại; Các tổ chức tín dụng; Các quỹ tiết kiệm; Công ty bảo hiểm…Đây là hình thức huy động vốn theo phương pháp gián tiếp. Theo phương pháp này, các trung gian tài chính là cầu nối giữa người thừa vốn (cho vay) và người thiếu vốn (đi vay). Thông qua các trung gian tài chính, các khoản vốn nhàn rỗi trong xã hội được tập trung và phân phối cho các nhà đầu tư (có nhu cầu sử dụng vốn để kinh doanh) theo nguyên tắc hoàn trả trực tiếp cả vốn và lãi trong một thời gian nhất định. Như vậy, sự hình thành và phát triển thị trường tài chính là một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của thị trường tài chính có vai trò to lớn trong việc huy động các khoản vốn nhàn rỗi trong xã hội và tích luỹ vốn vào đầu tư phát triển kinh tế. Điều kiện cần và đủ để có một thị trường tài chính, đó là: Phải tồn tại các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu; Các doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn, điều kiện để phát hành trái phiếu huy động vốn. Đồng thời, phải có một hệ thống Ngân hàng lớn mạnh , đa dạng để làm môi giới phát hành; Một hành lang pháp lý thông thoáng; Một hệ thống pháp luật đồng bộ, chặt chẽ. 1.3.5. Các nhân tố khác ảnh hưởng đến huy động vốn. Ngoài những nhân tố đã phân tích ở trên, việc huy động vốn tiết kiệm cho đầu tư phát triển còn bị chi phối bởi các nhân tố như: Truyền thống dân tộc của mỗi quốc gia; Tâm lý; Tập quán của các nhóm dân cư theo tuổi tác và theo từng vùng lãnh thổ… Truyền thống dân tộc khác nhau có tác động đến việc mở rộng tiết kiệm của từng nước. Một tấm gương tiêu biểu cho đức tính tiết kiệm của một dân tộc, đó là nước Nhật. Thu nhập bình quân đầu người của người Nhật và người Mỹ là tương đương nhau. Trong khi người Mỹ chỉ tiết kiệm được 5%-7% thu nhập của họ, thì người Nhật lại tiết kiệm được 20% thu nhập. Điều đó đã giải thích được tại sao trước chiến tranh thế giới thứ 2 Nhật là một nước nghèo, lạc hậu; (Thế giới chỉ biết đến họ là một nước phát xít đi gây chiến); Nhưng chưa đầy một nửa thế kỷ sau, bằng ý chí - nghị lực và truyền thống của cả môt dân tộc, đã đưa họ trở thành một cường quốc về kinh tế. Việt Nam là một nước nghèo; Thu nhập bình quân đầu người quá thấp đã ảnh hưởng đến tập quán tiêu dùng của nhân dân. Người Việt Nam nói chung có ý thức tiết kiệm rất cao. Tuy nhiên, tâm lý của dân cư (nhất là ở vùng nông thôn) vẫn muốn cất trữ tiền tiết kiệm dưới dạng các tài sản có giá - Chưa có thói quen đầu tư trực tiếp, hay gửi vào các tổ chức tín dụng. Một hiện tượng khá phổ biến là: Với cùng mức thu nhập nhưng người dân ở nông thôn để dành một tỷ lệ trong thu nhập cao hơn người dân thành phố; Nhóm dân cư trẻ tuổi có tỷ lệ tiết kiệm trong thu nhập thấp hơn nhóm dân cư cao tuổi; Người dân ở những vùng hay bị thiên tai khắc nghiệt thường để dành một tỷ lệ rất cao trong thu nhập của họ. (Điển hình là người dân miền Trung Việt Nam). 1.4. Vai trò của các công cụ và chính sách Tài chính trong việc huy động các nguồn vốn trong nước cho phát triển Kinh tế - Xã hội. Chính sách tài khoá và tiền tệ là những công cụ kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Các công cụ này có vai trò quan trọng trong việc điều tiết các hoạt động Kinh tế - Xã hội theo đường lối phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể của đất nước. Huy động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển không thể không đề cập đến vai trò quan trọng của các công cụ này. Các công cụ tài chính quan trọng thường được các quốc gia sử dụng để huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là: Thuế; Chi NSNN; Lãi suất; Cổ phần hoá; Tư nhân hoá; Trái phiếu Chính phủ. 1.4.1. Chính sách thuế. Thuế là một công cụ tài chính nằm trong tay Nhà nước. Nó không chỉ đóng vai trò là nguồn thu chủ yếu của NSNN nhằm đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư phát triển mà quan trọng hơn, nó còn là công cụ của Nhà nước trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thuế là công cụ quan trọng kích thích và định hướng cho tiết kiệm- tiêu dùng - đầu tư, nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nguồn thu của thuế là nguồn tài chính do các doanh nghiệp, hộ gia đình tạo ra thông qua hoạt động sản suất kinh doanh. Mỗi chủ thể đều có lợi ích kinh tế riêng và luôn bảo vệ lợi ích của mình. Lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy các hoạt động Kinh tế - Xã hội phát triển. Do vậy, một hệ thống thuế tối ưu được ban hành trên cơ sở giải quyết hài hoà mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư sẽ đảm bảo động viên tối đa nguồn lực tài chính vào Ngân sách. Đồng thòi có tác dụng kích thích tiết kiệm, đầu tư; Mở rộng sản suất kinh doanh; tăng nguồn thu cho NSNN. Vai trò của thuế trong huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển Kinh tế - Xã hội được thể hiện qua những nội dung sau: Thứ nhất: Thuế là nguồn thu chủ yếu, phát sinh thường xuyên và tương đối ổn định của NSNN. Thông qua thuế, Nhà nước tập trung được nguồn lực tài chính của xã hội vào Ngân sách để đáp ứng nhu cầu chi tiêu dùng thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Một chính sách thuế giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và các thể nhân, pháp nhân kinh doanh sẽ có tác dụng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu; Hạn chế trốn thuế và lậu thuế; Tăng thu và góp phần tăng tích luỹ của NSNN cho đầu tư phát triển. Ngược lại, một hệ thống thuế không bao quát được các nguồn thu; Có mức thuế suất quá cao (không phù hợp với thực trạng Kinh tế - Xã hội) sẽ làm thui chột nguồn thu; ảnh hưởng đến việc tập trung nguồn lực tài chính vào Ngân sách và hạn chế tiết kiệm của doanh nghiệp - dân cư. Thứ hai: Thông qua thuế, Nhà nước thực hiện định hướng cho tiêu dùng, tiết kiệm và tích luỹ vốn cho đầu tư phát triển. Đối với thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng (như: Thuế giá trị gia tăng; Thuế tiêu thụ đặc biệt; Thuế nhập khẩu hàng tiêu dùng), việc áp dụng thuế suất cao đối với hàng hoá xa xỉ - không thiết yếu … có tác dụng hạn chế tiêu dùng, tiết kiệm thu nhập; Dành vốn cho đầu tư phát triển. Đối với thuế trực thu (như: Thuế thu nhập doanh nghiệp; Thuế thu nhập cá nhân), việc áp dụng mức thuế suất hợp lý đảm bảo hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước và của người kinh doanh; Sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tích tụ vốn mở rộng sản xuất và huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội vào đầu tư kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Miễm giảm thuế đối với phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tăng tích luỹ vốn cho đầu tư. Ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp mới thành lập trong thời gian đầu (hoặc các doanh nghiệp gặp khó khăn), có tác dụng khuyến khích sự ra đời và mở rộng các doanh nghiệp. Từ đó, có thể huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư phát triển. Miễn thuế thu nhập đối với các khoản thu từ lãi tiền gửi tiết kiệm, mua trái phiếu, cổ phiếu của các tầng lớp dân cư có tác dụng khuyến khích tiết kiệm và dẫn các khoản tiết kiệm vào đầu tư kinh doanh. Thuế xuất nhập khẩu có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Từ đó, khuyến khích họ tăng cường tích luỹ vốn và huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội vào đầu tư sản xuất kinh doanh. áp dụng thuế suất thấp (hoặc miễn giảm thuế) đối với hàng nhập khẩu là tư liệu sản suất tiên tiến, hiện đại mà trong nước chưa sản xuất được có tác dụng khuyến khich các doanh nghiệp tích luỹ vốn đổi mới thiết bị công nghệ. Miễn giảm thuế xuất khẩu sẽ khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước Thuế có thể ảnh hưởng tới tổng số vốn đầu tư và phân bố các nguồn này trên các nghành, các vùng. Nhà nước sử dụng thuế để điều chỉnh và định hướng đầu tư vào các địa bàn cần ưu tiên, các lĩnh vực, các nghành then chốt của đất nước. Để thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước, Chính Phủ đã ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư, như: Miễn thuế thu nhập trong thời hạn nhất định (từ 3 đến 10 năm); Giảm thuế tín dụng đầu tư; Giảm vốn đầu tư ban đầu ( 20-25%) ra khỏi nghĩa vụ nộp thuế. Thuế còn được sử dụng để khuyến khích khai thác tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước và sử dụng nguồn lao động tiểm năng. 1.4.2. Chi Ngân sách Nhà nước. Chi Ngân sách gắn liền với việc thực hiện các chính sách Kinh tế - Chính trị - Xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ và có vai trò quan trọng nhằm khai thác, động viên các nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển. Trước hết, thực hiện cơ cấu chi Ngân sách hợp lý (theo hướng tiết kiệm các khoản chi tiêu dùng thường xuyên và ưu tiên vốn cho đầu tư phát triển) sẽ góp phần tăng tích luỹ của Ngân sách dành cho đầu tư phát triển Kinh tế - Xã hội. Chi NSNN vào đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Kinh tế - Xã hội có vai trò quan trọng tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi; Khuyến khích các nhà đầu tư, các doanh nghiệp và dân cư tích luỹ vốn; Huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội vào đầu tư phát triển; Trên cơ sở đó tăng thu cho NSNN. Chi NSNN để tài trợ về kỹ thuật và quản lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình vay ưu đãi vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh; Đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến; Nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy, chi NSNN có tác dụng kích thích đầu tư; Từ đó tạo tiền đề mở rộng tiết kiệm, khuyến khích huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội vào đầu tư. 1.4.3. Chính sách lãi suất Lãi suất là giá cả của vốn mà người đi vay phải trả cho người cho vay để được sử dụng một số tiền trong một thời gian nhất định. Lãi suất là một công cụ quan trọng, giữ vị trí trung tâm của chính sách tiền tệ. Nó có độ nhạy cảm cao đối với hoạt động tiết kiệm và đầu tư. Lãi suất được sử dụng như là một công cụ điều hoà hệ thống tiền tệ; Phục vụ đường lối phát triển kinh tế của đất nước và ảnh hưởng tới việc phân bổ, cũng như sự vận động của các nguồn lực. Để xem xét vai trò của lãi suất trong huy động vốn, cần phải phân biệt lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa. Lãi suất thực là lãi suất đã loại trừ sự biến động của lạm phát dự tính. Lãi suất danh nghĩa là mức lãi suất trên thị trường chưa loại trừ sự biến động của lạm phát dự tính. Theo phương trình Fisher, thì lãi suất thực tế được tính bằng: Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát (dự tính). Như vậy, lãi suất thực tế có mối quan hệ với các quyết định tiêu dùng và tiết kiệm của những người tiết kiệm. Quan hệ với các quyết định sử dụng tiết kiệm của những người đầu tư và liên quan đến tình hình khống chế lạm phát trong nền kinh tế. Việc ổn định tiền tệ và khống chế lạm phát ở mức độ vừa phải sẽ tạo môi trường thuận lợi khuyến khích đầu tư. Tăng lãi suất huy động vốn là biện pháp hữu hiệu để kích thích tiết kiệm và huy động các khoản tiết kiệm nhàn rỗi. Bởi vì, khi lãi suất huy động tăng lên sẽ đảm bảo lợi ích kinh tế cho người gửi tiền. Từ đó, khuyến khích các tầng lớp dân cư hạn chế (hoặc cắt giảm) những khoản tiêu dùng không cần thiết để tăng khoản tiết kiệm gửi vào Ngân hàng - Các tổ chức tín dụng; Hoặc đầu tư vào thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, việc quy định mức lãi suất tiền gửi trung hạn và dài hạn cao hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn và không kỳ hạn một cách hợp lý, có tác dụng kích thích tăng các khoản tiền gửi kỳ hạn dài; Đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư trung và dài hạn. Tuy nhiên, khi lãi suất huy động tăng lên thì buộc các tổ chức tín dụng; các Ngân hàng thương mại cũng phải tăng mức lãi suất cho vay. Điều này lại đặt các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trước một bài toán, vì với họ lãi suất chính là chi phí sử dụng vốn đầu tư. Khi ấn định lãi suất quá cao sẽ xảy ra hiện tượng ứ đọng vốn tại các Ngân hàng. Trong khi các doanh nghiệp, các nhà đầu tư lại trong tình trạng thiếu vốn. Lúc đó, nền kinh tế sẽ có dấu hiệu trì trệ; Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, dân cư bị giảm sút. Trước hiện tượng này thì việc hạ lãi suất huy động để điều chỉnh quan hệ tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, tăng tổng cầu của nền kinh tế, tạo ra cơ hội đầu tư kinh doanh là cần thiêt. Hạ lãi suất huy động là điều kiện để hạ lãi suất cho vay, giảm chi phí sử dụng vốn cho các nhà đầu tư. Từ đó khuyến khích các nhà đầu tư vay vốn đầu tư vào sản suất kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Trong nền kinh tế thị trưòng, khi xác định lãi suất phải đảm bảo điều kiên sau: Tỷ lệ lạm phát < lãi suất huy động < Lãi suất cho vay < Tỷ suất lợi nhuận bình quân. Một chính sách lãi suất linh hoạt đồng thời đảm bảo lợi ích của người có vốn nhàn rỗi muốn cho vay và lợi ích của người cần vay vốn để đầu tư kinh doanh sẽ tác động mạnh mẽ đến hoạt động tiết kiệm và đầu tư. Chính sách lãi suất ưu đãi kết hợp với phân bổ hạn mức tín dụng trung hạn và dài hạn sẽ khuyến khích đầu tư vào các vùng, nghành, lĩnh vực trọng điểm ưu tiên. Từ đó thúc đẩy đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng của Nhà nước. 1.4.4. Cổ phần hoá, tư nhân hoá. Cổ phần hoá và tư nhân hoá là một hình thức đổi mới DNNN. Hoạt động này có tác động tích cực đến việc huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển Kinh tế - Xã hội. Khi nhận thấy một số DNNN làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả thì nên tiến hành cổ phần hoá, tư nhân hoá để giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. Nguồn tài chính dùng để bù lỗ cho các doanh nghiệp này sẽ được tập trung đầu tư có trọng điểm hơn cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. Khi cổ phần hoá và tư nhân hoá để thành lập các công ty cổ phần và công ty tư nhân, thì trách nhiệm của người quản lý được gắn liền với lợi ích kinh tế. Họ sẽ phải có trách nhiệm với đồng vốn đã bỏ ra; Phải quản lý tốt hơn các yếu tố đầu vào, kết quả đầu ra và kiểm soát chặt chẽ việc phân phối lợi nhuận. Từ đó, tạo điều kiện tăng tích luỹ và mở rộng khả năng tự đầu tư của các doanh nghiệp; Góp phần mở rộng tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế. Bằng cách bán cổ phần cho các cổ đông các DNNN đã tự khắc phục được tình trạng thiếu vốn của mình. Ngoài ra, trong quá trình sản xuất kinh doanh, các Công ty cổ phần còn có thể phát hành trái phiếu để huy động thêm vốn. Cổ phần hoá và tư nhân hoá còn là điều kiện cần thiết để thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính; Góp phần thúc đẩy giao lưu vốn trên thị trường này. 1.4.5. Trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu Chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ tài Chính phát hành có thời hạn, có mệnh giá và có lãi. Trái phiếu Chính phủ là công cụ để huy động vốn qua kênh tín dụng Nhà nước, bao gồm các loại ký danh và vô danh được phát hành dưới các hình thức: - Tín phiếu kho bạc: Là trái phiếu ngắn hạn dưới 1 năm; Huy động vốn để bù đắp thiếu hụt Ngân sách tạm thời trong năm tài chính. - Trái phiếu kho bạc: Là loại trái phiếu có thời hạn từ 1 năm trở lên. Là công cụ huy động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN, đáp ứng nhu cầu chi đầu tư phát triển trong kế hoạch NSNN được duyệt. - Trái phiếu công trình: Là loại trái phiếu có thời hạn vay từ 1 năm trở lên để huy động vốn cho từng công trình cụ thể theo kế hoạch đầu tư của Nhà nước hàng năm. Nếu Trái phiếu công trình huy động vốn cho các công trình thuộc Bộ, Ngành Trung ương quản lý thì do Bộ tài chính (Ngân sách Trung ương) bảo lãnh và thanh toán. Nếu để huy động cho các công trình cụ thể do địa phương quản lý thì UBND Tỉnh, Thành phố (Ngân sách địa phương) bảo lãnh và thanh toán. Trái phiếu Chính phủ chủ yếu huy động vốn đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng (nói chung) và cơ sở hạ tầng kinh tế (nói riêng). Việc huy động vốn bằng trái phiếu Chính phủ có nhiều ưu thế: Đối tượng và phạm vi huy động rộng; Độ rủi ro thấp do được NSNN đảm bảo; Không đẩy lạm phát gia tăng cho nền kinh tế và tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Chương 2 Thực trạng huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh ninh bình trong thời gian qua. 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Ninh Bình - Những tiềm năng và lợi thế so sánh. 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên. Tỉnh Ninh Bình nằm ở cực Nam đồng bằng Bắc bộ; Nơi tiếp giáp giữa miền Bắc với miền Trung. Phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam; Phía đông và đông nam giáp tỉnh Nam Định; Phía tây giáp tỉnh Hoà Bình; Phía tây nam giáp tỉnh Thanh Hoá; Phía nam giáp vịnh Bắc bộ với chiều dài bờ biển là 15 km. Tỉnh Ninh Bình có cả 3 đường giao thông quan trọng, đó là: Quốc lộ 1A; Quốc lộ số 10 nối các tỉnh miền duyên hải Bắc bộ với cảng Hải Phòng. Đường sắt xuyên Bắc Nam và một hệ thống đường thuỷ khá phát triển (bao gồm cả đường sông và đường biển) tạo ra huyết mạch quan trọng trong giao lưu kinh tế - văn hoá giữa các miền đất nước. Ngoài ra, còn có các đường 59, đường 12A, 12B…, nối vùng biển với miền tây Bắc và các đường giao thông tỉnh lộ, huyện lộ nối liền các xã, các huyện trong tỉnh. Các đường giao thông đang được nâng cấp, xây dựng thành đường nhựa, đường bê tông; Góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế; Thực hiện công cuộc hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tỉnh Ninh Bình có diện tích tự nhiên 1.384,2 km2 với nhiều loại địa hình đa dạng; Có cả đồi núi, đồng bằng và vùng duyên hải. Vùng đồi núi và bán sơn địa rộng khoảng 715 km2, (chiếm 51.7%). Bao gồm huyện Nho Quan, thị xã Tam Điệp và 1 phần đất huyện Gia Viễn với nhiều dãy núi đá vôi trùng điệp chạy theo huớng tây bắc - đông nam, tạo thành một vùng đất hiểm yếu. Xen kẽ đồi núi là những thung lũng đất đỏ ba zan rộng lớn rất thuận lợi cho việc trồng các loại cây công nghiệp, cây lấy gỗ, cây ăn quả và phát triển kinh tế trang trại. Men theo các triền đồi núi là vùng đồng đất bán sơn địa. Đặc biệt, nơi đây có rừng nguyên sinh Cúc Phương rộng khoảng 2.500ha, có nhiều loại cây và động vật quý hiếm. Đây là vùng đất cổ có nhiều tài nguyên, khoáng sản, đá vôi, đất sét đã và đang được khai thác thành vùng kinh tế đồi rừng đa dạng và xây dựng khu công nghiệp tập trung. Phía đông nam là vùng ven biển gồm một số xã của huỵên Kim Sơn. Đây là vùng do phù sa do hệ thống sông ở Bắc bộ bồi đắp. Hàng năm lấn ra biển khoảng 80-100m, (tăng thêm khoảng 140-170 ha đất), tạo nên vùng đất mới phì nhiêu, mầu mỡ, rất thuận lợi cho việc trồng lúa, trồng cói, nuôi trồng thuỷ - hải sản. Tỉnh uỷ đang tập trung chỉ đạo xây dựng khu kinh tế ven biển thành nơi trù phú, giầu đẹp. Vùng đông bằng gồm huyện Yên Khánh, Gia Viễn, Hoa Lư, Yên Mô, một số xã thuộc huyện Kim Sơn, Nho Quan. Trong đó, nhiều xã của huyện Gia Viễn, Hoa Lư và một phần của huyện Nho Quan, Yên Mô là đồng chiêm trũng. Đây là khu vực có nhiều dẫy núi đã vôi mọc xen kẽ, có nhiều hang động đẹp (động Thổ Tích, động Địch Lộng, động Thiên Tôn, Tam cốc Bích Động, Xuyên Thuỷ Động….). Xưa kia, về mùa thu, núi và sông nước ở đây tạo nên một cảnh quan kỳ thú. Ngày nay, nơi đây đang đựơc xây dựng thành các điểm du lịch sinh thái, thu hút nhiều khách du lịch gần xa đến tham quan. Với địa hình đa dạng, là nơi tiếp giáp giữa rừng và biển, giữa miền bắc và miền trung nên khí hậu ở Ninh Bình vừa có đặc điểm chung nhiệt đới gió mùa, vừa có đặc điểm riêng tạo ra những vùng tiểu khí hậu có ảnh hưởng tới việc phát triển kinh tế. Ninh Bình thuộc vùng tiểu khí hậu của đồng bằng sông Hồng. Ngoài ảnh hưởng của gió mùa đông bắc và đông nam, còn mang khí hậu của vùng ven biển và vùng núi. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23,7oC. Độ ẩm trung bình là 83%-84%. Thời gian nắng tương đối nhiều, đạt trung bình 1.600 giờ/năm. Lượng mưa bình quân là 1.830 – 1910mm và phân bố không đều trong năm, thường tập trung vào mùa mưa (khoảng từ tháng 5 đến tháng 10). Ninh Bình phải chịu thuỷ chế bất lợi vào mùa mưa. Ngoài lượng mưa tại chỗ, các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư còn phải hứng chịu một lượng nước khá lớn từ các triền núi Thanh Hoá và từ thượng nguồn Hoà Bình đổ về, gây lũ lụt trên diện rộng, làm cản trở đến sản xuất và đời sống của nhân dân. 2.1.2 . Về tài nguyên khoán sản. Ninh Bình có nguồn đá vôi khá lớn với trữ lượng hàng chục tỷ mét khối, chất lượng cao (hàm lượng CaO từ 51-55%) và đôlômit với trữ lượng hàng chục triệu tấn (hàm lượng MgO từ 17-19%). Đây là cơ sở nguyên liệu quan trọng để phát triển sản xuất xi măng - Ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Ngoài ra, Ninh Bình còn có nguồn nước khoáng với chất lượng tốt, có thể khai thác phục vụ tiêu dùng và chữa bệnh. Có các mỏ than antraxit, than bùn pirit, antimony, nhưng trữ lượng không lớn. 2.1.3. Về tài nguyên du lịch. Ninh Bình là tỉnh giàu về tiềm năng du lịch. Bên cạnh sự ưu đãi của thiên nhiên về những danh lam thắng cảnh, như: Vườn quốc gia Cúc Phương, khu Tam cốc - Bích động, Động Địch Lộng, khu Vân Long, Khu hang động Tràng An, khu du lịch hồ Đồng Chương, Suối nước nóng Kênh Gà…; Ninh Bình còn có tiềm năng độc đáo về nhân văn như: Cố đô Hoa Lư, đền Vua Đinh - Lê, quần thể nhà thờ Phát Diệm, chùa Non Nước, phòng tuyến Tam Điệp - Bỉm Sơn… Nếu được đầu tư khai thác đúng hướng, có hiệu quả, thì đây có khả năng trở thành mũi nhọn kinh tế của tỉnh trong tương lai. Ninh Bình có quyền hy vọng sẽ trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn của cả nước; Nơi lý tưởng cho những ngày nghỉ cuối tuần. 2.1.4. Về đặc điểm kinh tế xã hội. Ninh Bình hiện có 8 huyện, thị gồm 144 phường xã với dân số trung bình năm 2003 là: 914.234 người. Mật độ dân số là 660người /km2. Dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động là 517.216 người (chiếm 56.6% tổng số dân). Số lao động đang làm việc tại các nghành kinh tế là 443.014 người - Trong đó: Lao động nông nghiệp, thuỷ sản là 311.900 người (chiếm 70%); Lao động trong nghành tiểu thủ công nghịêp đang làm trong các làng nghệ, các doanh nghiệp, các hợp tác xã phi nông nghiệp là 131.114 người, (chiếm 30%). Lao động đang làm việc trong thành phần kinh tế Nhà nước là 41.500 người, (chiếm 9.4%) và trong thành phần kinh tế ngoài Nhà nước là 401.500 người, (chiếm 90.6%). Ninh Bình có nhiều nghành nghề truyền thống nổi tiếng như: Thêu ren; Sản xuất các sản phẩm cói; Chế tác mỹ nghệ. Nếu có chính sách khuyến khích hợp lý và được quan tâm tổ chức tốt, thì những nghành nghề này có thể đưa lại nguồn thu lớn và thu hút một lượng lao động đáng kể trên địa bàn. Tóm lại, Ninh Bình là tỉnh giầu tiềm năng và có nhiều lợi thế: Nằm ở vị trí địa lý khá thuận lợi, giao thông thuận tiện, gần thủ đô…. nên có cơ hội hợp tác, phát triển toàn diện với các tỉnh khác trong cả nước và quốc tế; Có ba vùng sinh thái bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau; Tiềm năng du lịch lớn, độc đáo chưa được khai thác. Có nguồn đá vôi nhiều, chất lượng cao. Có nhiều nghành nghề truyền thống đa dạng, phong phú; Có lực lượng lao động dồi dào, cần cù, chịu khó. Đó là điều kiện cần thiết cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn với những nghành mũi nhọn như: Phát triển ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng; Nghành nuôi trồng thuỷ sản; Kinh tế du lịch và một số nghành nghề truyền thống khác (thêu ren xuất khẩu, sản xuất sản phẩm xuất khẩu từ cói...). Nhìn chung, Ninh Bình có nhiều lợi thế để có thể phát triển một nền kinh tế tương đối tổng hợp trong tương lai. Tuy nhiên, để “đánh thức” các nguồn lực tiềm năng, Ninh Bình còn gặp không ít khó khăn, do: Địa hình phức tạp; Thuỷ chế bất lợi; Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa phát triển. Trình độ văn hoá, chuyên môn của lực lượng lao động đang còn ở mức thấp so với mặt bằng chung của cả nước. Thiếu vốn đầu tư. Trình độ công nghệ và năng lực của các cơ sở sản xuất trong Tỉnh còn rất manh mún, nhỏ bé, chắp vá, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu của CNH – HĐH đất nước. Thiếu thị trường... 2.2. Thực trạng tình hình phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Ninh Bình trong thời gian qua. Ninh Bình là một tỉnh nghèo so với các tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng. Trải qua hơn một thập kỷ xây dựng và phát triển (tính từ khi tách Tỉnh). Với đường lối lãnh đạo của Đảng cùng quyết tâm phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, Ninh Bình đã đạt được những thành tích rất đáng khích lệ cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Giai đoạn đầu mới tách tỉnh (1994-1997), tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 12,16% . Mặc dù tốc độ tăng trưởng khá cao nhưng không ổn định, lên xuống thất thường (như năm 1995 tốc độ tăng trưởng bình quân là 15,8%; Sang năm 1996 chỉ còn 7,6% và năm 1997 là 13,1%). Bên cạnh đó, tốc độ phát triển dân số cũng khá nhanh nên tỷ lệ GDP bình quân đầu người tăng không đáng kể. Chẳng hạn, năm 1995 tỷ lệ GDP bình quân đầu người là 1,552 triệu đồng; Năm 1996 là 1,55 triệu đồng và năm 1997 là 1,769 triệu đồng (theo giá thực tế). Cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này dịch chuyển chậm chạp, thất thường. Tỷ trọng ngành nông lâm, thuỷ sản vẫn cao trong GDP (dao động từ 49% đến 54%). Ngành công nghiệp (nhất là ngành dịch vụ) chiếm tỷ trọng tương đối thấp. Tuy nhiên, nếu xét đến điều kiện thực tế, thì kết quả trên rất có ý nghĩa với một tỉnh còn non trẻ như Ninh Bình. Vài năm trở lại đây, bức tranh toàn cảnh Kinh tế - Xã hội Ninh Bình đã có bước tiến rõ rệt. Tổng thể nền kinh tế phát triển tương đối toàn diện. Cơ sở Vật chất - Kỹ thuật, Kinh tế - Xã hội được tăng cường. Đời sống nhân dân ổn định và từng bước được cải thiện. Quốc phòng an ninh được giữ vững; Trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Hệ thống chính trị được củng cố. Hầu hết các chỉ tiêu phát triển Kinh tế - Xã hội do Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra đều đạt và vượt kế hoạch. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng ổn định và bền vững hơn, với nhịp độ năm sau cao hơn năm trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Các nguồn lực được huy động tập trung cho đầu tư phát triển tăng nhanh. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn (2000-2003) là 9,1% (Cao hơn mục tiêu đặt ra là 1,1%). Mức tăng trưởng bình quân các năm có xu hướng tăng lên: Năm 2001 tốc độ tăng trưởng bình quân là 7,2%; Năm 2002 - 8,48%; Năm 2003 – 11,76% và 9 tháng đầu năm 2004 là 12% (kế hoạch là 10,5%). Cụ thể là: * Nghành sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản có bước phát triển mới, hiệu quả theo hướng sản xuất hàng hoá. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân trong 3 năm (2000-2003) tăng 5,7% (cao hơn mục tiêu đề ra là 1,7%). Toàn tỉnh có 254/256 HTX nông nghiệp chuyển đổi theo luật HTX. Trong đó: 168 HTX đã đăng ký kinh doanh; 77 HTX loại khá (chiếm 30%); 128 HTX loại trung bình (chiếm 50%). Tỉnh uỷ đã và đang tập trung chỉ đạo phát triển nông nghiệp toàn diện. Bước đầu đã hình thành một số vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá, như: - Quy hoạch vùng kinh tế trang trại trồng cây công nghiệp, cây ăn quả khoảng 5.000 ha ở Tam Điệp, Gia Viễn, Nho Quan phục vụ chế biến xuất khẩu với 2.300ha dứa; 1.470 ha mía và 1.300 ha cây ăn quả khác. Toàn tỉnh đã xuất hiện nhiều hộ gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm với quy mô trang trại. Đến nay, đã có 294 trang trại sản xuất nông nghiệp, doanh thu bình quân trên 40 triệu đồng/trang trại/ năm. ở một số huyện trong tỉnh đã xuất hiện mô hình cánh đồng thu hoạch đạt giá trị 50 triệu đồng/ha/năm; Hộ thu nhập 50 triệu đồng/năm. Hiện tại, nghành nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo, tập trung 55% trong tổng số lao động của các nghành kinh tế. Giá trị sản xuất của nghành nông nghiệp trong 4 năm qua tăng lên đáng kể và đã góp một phần không nhỏ trong tổng giá trị sản xuất của toàn Tỉnh. Bảng 2.1- Tỷ trọng giá trị sản xuất nghành nông nghiệp trong tổng giá trị sản xuất của Tỉnh Ninh Bình 2000 2001 2002 2003 Giá trị sản xuất nghành nông nghiệp (triệu đồng) 1.557,84 1.659,31 1.761 1.810,32 Tỷ trọng giá trị sản xuất nghành nông nghiêp trong tổng giá trị sản xuất của toàn tỉnh (%) 38,94 36,9 33,97 29,55 (Nguồn:Niên giám thống kê năm 2004 của Tỉnh Ninh Bình) - Kinh tế thuỷ sản là một trong những nghành mũi nhọn của tỉnh cũng đã có bước phát triển đáng kể. Đặc biệt, với chương trình tập trung khai thác kinh tế biển và chuyển đổi diện tích ruộng trũng (cấy lúa kém hiệu quả) sang nuôi trồng thuỷ sản, đã từng bước đem lại hiệu quả thiết thực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nghành thuỷ sản khá cao - Nhất là vùng kinh tế biển Kim Sơn, bước đầu đã hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung. Đẩy mạnh việc khai thác vùng bãi bồi ven biển Kim Sơn đưa vào nuôi tôm với diện tích 1.500 ha; Nuôi cua - 1.000ha, Trồng cói đạt 868ha. Dự án xây dựng cơ sở hạ tâng nuôi tôm công nghiệp xã Kim Trung với tổng diện tích 70,5ha và số vốn đầu tư 48 tỷ đồng đã được triển khai. Đến nay, kinh tế thuỷ sản đã từng bước khẳng định được vai trò mũi nhọn trong nền kinh tế của Tỉnh. Cùng với chính sách khuyến ngư và hỗ trợ, nhiều dự án nuôi trồng và khai thác thuỷ sản cả hai vùng nước ngọt và nước lợ cũng được thực hiện. Đã từng bước hình thành vùng nuôi trồng thuỷ sản chuyên canh tập trung và luân canh. Đưa các giống thuỷ sản có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất. Năm 2003 tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản đạt 11.750 tấn - Tăng so với năm 2002 là 13.%. Trong đó, sản lượng khai thác đạt 2.600 tấn; Sản lượng nuôi trồng đạt 9.150 tấn. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản 6.500 ha. Giá trị sản xuất đạt 97 tỷ đồng (tăng 24.6% so với năm 2002). Năm 2004, sản xuất thuỷ sản đạt tổng sản lượng 13.200 tấn. Giá trị sản xuất đạt 230 tỷ đồng - Nuôi trồng thuỷ sản đạt 215 tỷ đồng; Khai thác đạt 15 tỷ đồng; Diện tích nuôi trồng đạt 7.600 ha. Nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt phát triển khá, chuyển biến mạnh; Nhất là nuôi cá ruộng trũng. Trong tỉnh đã xuất hiện điển hình tiên tiến trong mô hình lúa xen cá, mang lại hiệu quả kinh tế cao. * Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng Kinh tế - Xã hội có mức tăng trưởng khá. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nghành công nghiệp, xây dựng trong 3 năm (2000-2003) tăng 18,1% (cao hơn mục tiêu đề ra 2,1%). Các đơn vị tiếp tục đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, (nhất là đối với một số doanh nghiệp thuộc nghành chế biến lương thực, thực phẩm, các mặt hàng xuất khẩu và sản xuất vật liệu xây dựng), góp phần quan trọng vào thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 22 cụm công nghiệp với diện tích 880 ha; Phê duyệt quy hoạch chi tiết cụm công nghiệp Gián Khẩu. Đã ban hành một số cơ chế thu hút đầu tư, như: Chính sách ưu đãi về giá thuê đất; Về thuế thu nhập doanh nghiệp; Về vốn đầu tư; Về lãi suất vay vốn; Về kinh phí đào tạo lao động…khi đầu tư vào các khu công nghiệp và du lịch. Nhờ đó, sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp những năm qua phát triển đáng kể. Giá trị sản suất công nghiệp năm 2000 là 928,5 tỷ; Năm 2001 là 982,3 tỷ (tăng 5,8% so với năm 2000); Năm 2002 đạt 1.157 tỷ._.ên địa bàn một cách triệt để theo hướng: Tập trung quản lý bao quát hết các nguồn thu - Nhất là từ quỹ đất; Tăng cường vai trò kiểm soát đối với khu vực kinh tế tư nhân để điều chỉnh thuế sát với thực tế kinh doanh; Có chính sách để khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển để nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài, bền vững. Phấn đấu thu Ngân sách trên địa bàn năm 2005 đạt 460 tỷ đồng trở lên. Trong đó, thu thuế XNK: 69 tỷ; Thu từ đất: 180 tỷ đồng. - Dự toán chi Ngân sách đảm bảo cân đối giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Tốc độ tăng chi đầu tư phát triển cao hơn tốc độ tăng chi quản lý hành chính. ưu tiên cho các mục tiêu phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Dự trữ để chủ động đối phó với thiên tai, lũ lụt và xử lý những nhiệm vụ đột xuất phát sinh. - Tạo môi trường thuận lợi để các thành phần kinh tế được vay vốn, đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển và sản xuất kinh doanh. Có biện pháp huy động tốt nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các thành phần kinh tế. Phấn đấu mức tăng huy động vốn từ 23-25% và mức tăng dư nợ tín dụng là 20-22% trong năm 2005. Các Ngân hàng và các tổ chức Tín dụng hoạt động an toàn. 3.1.3.6. Phát triển các lĩnh vực văn hoá - xã hội . - Phát triển văn hoá - xã hội đồng bộ với tăng trưởng kinh tế, nhằm hướng tới mục tiêu ổn định lâu dàI; Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo; Chất lượng nguồn nhân lực. Tiếp tục thực hiện xoá đói giảm nghèo; Tạo thêm việc làm; Giảm các tệ nạn xã hội. Đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá - xã hội (Nhất là trong nghành giáo dục, y tế, văn hoá, TDTT) để huy động thêm nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực này. Cải tiến quản lý Nhà nước của ngành, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân. - Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo; Phấn đấu đến cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 6,2%. Khuyến khích các thành phần kinh tế tăng mức đầu tư phát triển các nghành nghề (Chủ yếu là các nghành nghề sử dụng nhiều lao động). Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và thu hút các dự án đầu tư vào địa bàn. áp dụng chính sách ưu tiên các vùng đặc thù có nguy cơ tái nghèo cao (vùng núi, vùng sâu, vùng xa). Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vùng bãi ngang ven biển theo quyết định Thủ tướng Chính phủ. Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức và trách nhiệm xoá đói, giảm nghèo trong các cấp - các nghành và bản thân người nghèo. Nhân rộng các mô hình, các cách làm ăn có hiệu quả phù hợp với từng vùng. -Chú trọng công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân với mục tiêu: Tăng tuổi thọ; Không để xảy ra dịch bệnh. Củng cố mạng lưới y tế tuyến Huyện. Ngoài ra, Tỉnh cần tiếp tục nâng cao các hoạt động văn hoá - thông tin, TDTT… để đến năm 2010, 100% huyện, xã có trung tâm thể thao -văn hoá. 3.1.3.7. Định hướng phát triển các tiểu vùng kinh tế. * Vùng ven biển. Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển. Khai thác lợi thế của vùng bãi bồi với hướng trọng tâm là nuôi trồng thuỷ sản (tôm, cua xuất khẩu); Trồng cói cho phát triển công nghiệp; Tạo bước phát triển đột phá, thúc đẩy các vùng khác. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh - quốc phòng khu vực ven biển. * Vùng đồi núi. Quy hoạch, khai thác thế mạnh vùng đồi núi. Đẩy mạnh việc trồng cây ăn quả (với các cây trồng chính là dứa, nhãn, vải, rau); Cây công nghiệp; Chăn nuôi dê, bò. Mở rộng kinh tế trang trại theo mô hình nông lâm kết hợp. Phát triển công nghiệp (trước hết là công nghiệp vât liệu xây dựng, công nghiệp chế biến) gắn với vùng nguyên liệu. Hình thành các cụm - khu công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến hoa quả. Xây dựng mô hình kinh tế sinh thái - du lịch, gắn với truyền thống lịch sử ở các hang động. Xử lý tốt môi trường khi phát triển công nghiệp. * Vùng đồng bằng. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động; Đưa dần lao động sang các ngành Công nghiêp - Tiểu, thủ công nghiệp. Phát triển nông nghiệp hàng hoá đa dạng. Hình thành vùng chuyên canh rau, thịt, hoa - Trước hết là vùng ven thị xã Ninh Bình, Hoa Lư, Yên Khánh. Phát triển công nghiệp chế biến, cơ khí phụ nông nghiệp; Các cụm - điểm công nghiệp thị xã Ninh Bình, Cầu Yên. Phát triển dịch vụ và các làng nghề truyền thống. 3.2. Các quan điểm trong sử dụng các công cụ tài chính để huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển Kinh tế - Xã hội ở Ninh Bình Thứ nhất: Công cụ Tài chính được dùng để huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển Kinh tế – Xã hội phải có tác động mạnh mẽ, tích cực vào việc phát triển Kinh tế - Xã hội theo hướng hình thành một nền kinh tế hàng hoá phù hợp và đáp ứng nhu cầu của thị trường. Ninh Bình có tiềm năng, thế mạnh về du lịch; Sản xuất vật liệu xây dựng; Phát triển kinh tế trang trại; Trồng cây công nghiệp, cây ăn quả để chế biến hàng xuất khẩu; Nuôi trồng thuỷ - hải sản… Nhưng cần hết sức chú ý đến việc bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường (nhất là việc xác định quy mô và bước đi). Phần lớn các hộ, các cơ sở kinh doanh làm theo phong trào và mang tính chất tự phát, thiếu thông tin về thị trường, không có đầu ra. Vì vậy, tài chính phải có các cơ chế hỗ trợ về lãi suất, trợ giá, cho vay ưu đãi để khuyến khích nhân dân sản xuất hàng hoá theo cơ cấu hợp lý. Đồng thời, Nhà nước phải đầu tư các phương tiện để cung cấp thông tin và dự báo thị trường để hướng dẫn, khuyến khích nhân dân sản xuất hàng hoá theo nhu cầu thị trường. Thứ hai: Sử dụng công cụ Tài chính để huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển Kinh tế - Xã hội phải nhằm khai thác tốt nhất các nguồn lực và lợi thế so sánh của từng vùng trong Tỉnh Lợi thế so sánh là ưu thế của nơi này so với nơi khác; Của doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác trong việc cung ứng sản phẩm cho thị trường. Ninh Bình có những vùng có lợi thế về: Trồng cây ăn quả; Về nuôi trồng thủy sản; Về nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống - Đặc biệt là lợi thế về phát triển du lịch. Hiện nay, lợi thế này mới bắt đầu được chú trọng, nhưng chưa phát huy được hiệu quả tương xứng với tiềm năng vốn có. Vì vậy, Tài chính nên có cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực này. Sử dụng công cụ chi Ngân sách về trợ giá; ưu tiên vốn tín dụng để phát triển kinh tế trang trại theo hướng khai thác thế mạnh của mỗi vùng. Với dịch vụ du lịch, Nhà nước nên bỏ vốn Ngân sách ra đầu tư các cơ sở hạ tầng chính; Sau đó sẽ bán chuyển nhượng lại một số hạng mục cho tư nhân, (hoặc khuyến khích tư nhân đầu tư). Nhà nước sử dụng công cụ thuế thông qua chính sách miễn giảm thuế, miễn giảm tiền thuê đất, địa điểm xây dựng… để thu hút các nhà đầu tư vv… Thứ ba: Sử dụng công cụ Tài chính để huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển phải khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần và đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nếu không thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển (thậm chí phát triển nhanh hơn khu vực kinh tế Nhà nước), thì không thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc. Thứ tư: Sử dụng công cụ Tài chính để huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển không chỉ xem xét đến hiệu qủa kinh tế, mà còn phải xét đến hiệu quả về mặt xã hội. Trước mắt, làm giảm thiểu sự chệnh lệch giữa các vùng; Tiến dần đến sự công bằng trong xã hội. Hết sức chú trọng đầu tư cho con người; Giải quyết các vấn đề về xã hội (như: việc làm, môi trường sống…); Củng cố an ninh quốc phòng. 3.3. Các giải pháp tài chính huy động các nguồn vốn trong nước cho phát triển Kinh tế - Xã hội ở Ninh Bình. 3.3.1. Các giải pháp chung để huy động vốn. 3.3.1.1. Nhóm giải pháp về vốn: Thứ nhất: Triển khai thực hiện tốt: Luật khuyến khích đầu tư trong nước; Luật Ngân sách; Luật đầu tư nước ngoài với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Giáo dục - Tuyên truyền để dân cư trong những khu vực có quy hoạch các khu công nghiệp - cụm công nghiệp hiểu rõ lợi ích của việc thu hút vốn đầu tư. Bên cạnh đó, phải có những chính sách đền bù thoả đáng cho nhân dân. Thứ hai: Khuyến khích đầu tư trong nước vào lĩnh vực dịch vụ; Công nghiệp chế biến và sử dụng nguyên liệu tại Ninh Bình. Thứ ba: Sắp xếp tổ chức - bố trí cán bộ đủ năng lực để thu hút vốn đầu tư (cả trong nước và ngoài nước) vào Ninh Bình; Thực hiện làm thủ tục chỉ qua một cửa. 3.3.1.2.- Nhóm giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực Việc phân công - bố trí nhân lực phải gắn nhu cầu với sử dụng; Đảm bảo tính hiệu quả. 3.3.1.3 - Nhóm giải pháp về cải cách hành chính Cần cải cách về thể chế theo sự chỉ đạo của Trung ương. Cải cách về bộ máy - Đội ngũ cán bộ, công chức; Cải cách thủ tục hành chính. Các biện pháp cụ thể: Thứ nhất: Công khai hoá quy hoạch tổng thể sau khi được phê duyệt. Rà soát và hoàn thiện các quy hoạch phát triển ngành và lĩnh vực. Yêu cầu các ngành, các cấp phải nghiêm chỉnh chấp hành. Tích cực tuyên truyền - quảng bá để thu hút sự quan tâm của dân cư và các doanh nghiệp (trong và ngoài nước) đầu tư vốn. Cụ thể hoá quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt và hoàn thiện hồ sơ gốc; Tạo cơ sở về không gian cho các quy hoạch khác thực hiện (nhất là quy hoạch vùng sản xuất kinh doanh, khu công nghiệp tập trung và dịch vụ du lịch vv…) Thứ nhất: Phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng các làng nghề theo hướng hiện đại. Nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Gắn công nghiệp với nông nghiệp - nông thôn và xuất khẩu. Chủ động tìm kiếm thị trường đầu ra cho các sản phẩm, các mặt hàng truyền thống và sản phẩm của các ngành kinh tế mũi nhọn. Thứ ba: Xây dựng, thực hiện chính sách huy động vốn và triển khai các dự án đầu tư; Các chương trình phát triển lớn từ nay đến năm 2010. Thứ tư: Đổi mới cơ cấu đầu tư để tạo bước chuyển biến thực sự về cơ cấu kinh tế. Kết cấu vốn của Tỉnh, dự kiến: Công nghiệp - Xây dựng: 42,5%; Nông nghiệp - 13,23%; Dịch vụ và kết cấu hạ tầng: 44,21%. 3.3.2. Những giải pháp tài chính cụ thể để huy động vốn đầu tư phát triển. 3.3.2.1. Giải pháp trong công tác thu Ngân sách. Phấn đấu tăng nguồn thu cho Ngân sách – Chủ yếu là nguồn thu từ thuế. Đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của địa phương và dành một tỷ lệ tích luỹ cho đầu tư phát triển. Để đạt được mục tiêu trên, cần thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất: Cải cách chính sách thuế để bao quát hết các nguồn thu, các lĩnh vực và các đối tượng nộp thuế. Thực hiện sát sao hơn việc quản lý các nguồn thu. Tiến hành rà soát, nắm chắc các nguồn thu, đối tượng thu; Thực hiện tốt khâu đăng ký kinh doanh, đưa hết các đối tượng đã đăng ký kinh doanh (nhưng chưa kê khai nộp thuế) vào diện quản lý và thu thuế. Hiện nay, trên địa bàn Ninh Bình có nhiều trường hợp kinh doanh nhưng không đăng ký. Nhiều cơ sở kinh doanh mua bán theo thị trường ngầm, không có cửa hàng (hoặc có nhưng quy mô không tương xứng), dẫn đến số thuế thu được thấp xa so với thực tế. Vì vậy, cần xử lý triệt để, kịp thời và nghiêm túc hiện tượng trốn, lậu thuế - chậm nộp thuế. Mở rộng phạm vi đầu tư của Ngân sách Tỉnh. Tăng cường tác dụng điều chỉnh và định hướng của chính sách thuế. Thứ hai: Tập trung, thống nhất việc quản lý NSNN để tránh tình trạng các nguồn lực Tài chính bị phân tán dẫn đến sử dụng lãng phí, thất thoát các nguồn thu (Nhất là nguồn thu về đất). Đảm bảo động viên đầy đủ, kịp thời mọi khoản thu vào Ngân sách. Thứ ba: Mở rộng diện áp dụng chế độ kế toán, thống kê. Hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện ghi chép sổ sách kế toán, chứng từ, hoá đơn đầy đủ nhằm nắm chắc các hoạt động sản xuất - kinh doanh ở tất cả các thành phần kinh tế. Đó là căn cứ để xác định chính xác nghĩa vụ nộp thuế của từng đối tượng. Thứ tư: Kiểm soát chặt chẽ hơn nguồn thu về thuế từ kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực tư nhân. Đây là khu vực mà nguồn thu bị thất thoát nhiều do các hiện tượng: Khai man, trốn thuế, không đăng ký kinh doanh, vi phạm chế độ kế toán vv…. Các chi cục thuế cần đi sâu nắm được tình hình doanh thu của doanh nghiệp để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời tình trạng trên. Đối với những hộ sản xuất “thu thuế theo phương pháp khoán”, cán bộ thuế phải bám sát để nắm chắc khả năng kinh doanh của từng đối tượng; Đề xuất các biện pháp xác định và điều chỉnh mức thuế hợp lý. Triển khai thực hiện đồng bộ kế toán hộ kinh doanh và kế toán DNNQD, cả về số lượng và chất lượng. Đối với các khoản thu liên quan đến đất đai, phải có sự phối hợp giữa các ngành - các cấp để kiểm tra, xử lý triệt để các trường hợp cố tình không kê khai nộp thuế chuyển quyền SDĐ. Xoá bỏ các thị trường ngầm trong việc mua bán nhà đất. Thu hồi đất từ các DNNN kinh doanh kém hiệu quả. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra chống thất thu thuế. Cần có những biện pháp kiên quyết và triệt để trong việc xử lý những vi phạm luật thuế (đối với cả cán bộ thuế và đối tượng nộp thuế). Thành lập cơ quan cưỡng chế thuế, để xử lý các trường hợp nộp thuế không đủ, không kịp thời; Hoặc cố tình vi phạm luật thuế. Đồng thời, lập hội đồng xử lý tranh chấp giữa cơ quan thuế và các đối tượng nộp thuế; Đảm bảo việc thu thuế đúng đắn và khách quan. Kiện toàn tổ chức, bộ máy ngành thuế. Trang bị phương tiện, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, giáo dục phẩm chất; Có chế độ đãi ngộ thoả đáng hơn đối với cán bộ ngành thuế, để nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ. Triển khai một cách rộng rãi phương pháp thu thuế theo hình thức: Đối tượng nộp thuế tự kê khai và trực tiếp nộp vào Kho bạc Nhà nước. Cơ quan thuế chỉ tập trung hướng dẫn và kiểm tra thuế là chủ yếu. Sử dụng công cụ thuế để khuyến khích - định hướng đầu tư như: Miễn giảm, ưu đãi về thuế đối với những dự án - Những nghành kinh tế mũi nhọn, sử dụng nhiều lao động; Những mặt hàng truyền thống và những mặt hàng có lợi thế so sánh. Ban hành các sắc thuế, phí đánh vào đối tượng gây ô nhiễm môi trường. 3.3.2.2. Giải pháp trong công tác chi Ngân sách. Để chi Ngân sách phát huy tính tích cực trong việc huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển Kinh tế - Xã hội của Ninh Bình, cần phải thực hiện tốt những giải pháp dưới đây: Thứ nhất: Đảm bảo tốc độ tăng chi cho đầu tư phát triển phải cao hơn tốc độ tăng chi cho tiêu dùng thường xuyên của Ngân sách. Ra sức phấn đấu để thu NSNN đảm bảo được chi thường xuyên. Ngân sách Tỉnh cần cắt giảm bao cấp cho các DNNN, để tăng tính tự chủ trong sản xuất - kinh doanh của họ. Tiến hành phá sản, hoặc giải thể những DNNN làm ăn thua lỗ. Thực hiện chủ trương chuyển đổi hình thức sở hữu. Chi NSNN cho đầu tư phát triển cần tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng của Tỉnh. Các khoản thu về đất đai, phí sử dụng hạ tầng nên đầu tư trở lại để duy tu, bảo dưỡng và phát triển mới cơ sở hạ tầng (cùng với vốn Ngân sách dành riêng cho mục đích này). Cần ưu tư mạnh cho giáo dục, y tế, phát triển khoa học - công nghệ bằng vốn của NSNN. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp chi cho công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, thông qua chính sách thuế và các chính sách tài trợ khác. Tiếp tục ưu tiên có trọng điểm đối với các dự án quan trọng sử dụng NSNN. Đầu tư theo quy hoạch và ưu tiên những công trình hạ tầng (giao thông vận tải, thông tin liên lạc); Những công trình phát triển kinh tế (sản xuất vật liệu xây dựng); Những công trình chế biến những mặt hàng (nông, lâm, thuỷ sản) xuất khẩu mà Ninh Bình có thế mạnh; Các làng nghề truyền thống - thủ công mỹ nghệ tận dụng nhiều lao động và nguyên liệu địa phương. Thứ hai: Phải tiết kiệm các khoản chi thường xuyên (Nhất là các khoản chi phí quản lý hành chính). Đảm bảo tốc độ tăng chi tiêu dùng thường xuyên phải nhỏ hơn tốc độ tăng GDP và nhỏ hơn tốc độ tăng chi cho đầu tư phát triển. Việc bố trí các khoản chi phải có trong tâm, trọng điểm; (Trên nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả và có thứ tự ưu tiên). Do vậy: - Chi Ngân sách cần tập trung cho việc thực hiện các chương trình giáo dục; y tế; Phát triển khoa học - công nghệ; Bảo vệ môi trường. - Thực hiện cải cách hành chính triệt để hơn; Gắn liền với việc giảm biên chế, giảm đầu mối cơ quan quản lý. Từ đó, giảm các khoản chi phí quản lý hành chính. - Xây dựng và thực hiện định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi thống nhất trong các đơn vị, cơ quan Nhà nước. Cắt giảm các khoản chi chưa thật cấp bách, kém hiệu quả. Thứ ba: Duy trì một khoản dự phòng từ tổng chi Ngân sách để chủ động đối phó với những biến động khách quan, đột xuất (như thiên tai) và những biến động của thị trường. Ngoài những quỹ bình ổn vật giá và hỗ trợ đầu tư đã có; Cần hình thành các quỹ khuyến khích đầu tư và đầu tư hạ tầng … bằng nguồn từ Ngân sách để trợ giúp về vốn; Giảm bớt rủi ro cho các nhà đầu tư và thúc đẩy hoạt động đầu tư trong các thành phần kinh tế. 3.3.2.3. Giải pháp huy động vốn trong các doanh nghiệp. Thứ nhất: Đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Nhìn chung, các DNNN trên bàn Ninh Bình sản xuất - kinh doanh kém hiệu quả. Số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài chiếm tỷ lệ lớn - Nhất là các doanh nghiệp do địa phương quản lý. Vì vậy, cần rà soát, sắp xếp lại; Đẩy mạnh cổ phần hoá; Phá sản hoặc giải thể các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Cung cấp đủ nguồn vốn tín dụng ưu đãi để đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất. Vận dụng các chính sách miễn, giảm thuế để khuyến khích sản xuất và tăng vốn tự có cho doanh nghiệp. Khai thác hợp lý, có hiệu quả các năng lực sẵn có về tài sản, vốn liếng, con người của doanh nghiệp. Phấn đấu hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường của các sản phẩm. Đẩy mạnh việc sắp xếp, phân loại, đánh giá lại tài sản, vốn liếng, đất đai để tiến hành giao - gắn liền với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Có biện pháp quản lý vốn phù hợp với tính chất của từng loại doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng để giảm dần gánh nặng bao cấp vốn cho Nhà nước. Ngoài các doanh nghiệp công ích được Nhà nước cấp vốn; DNNN kinh doanh gồm 3 loại: Một là: các doanh nghiệp kinh doanh trong môi trường độc quyền: Bưu chính viễn thông, đường sắt…; Được nhà nước cấp 100% vốn. Hai là: các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có vị trí then chốt của nền kinh tế: Sắt thép, xi măng, xăng dầu…; Tuỳ theo điều kiện cụ thể, Nhà nước có thể cấp 100% vốn; Hoặc có thể huy động các nguồn vốn đầu tư khác. Ba là: các doanh nghiệp kinh doanh còn lại (không có vị trí then chốt) thì sẽ áp dụng các biện pháp đa dạng hoá sở hữu (cổ phần hoá, liên doanh - liên kết, cho thuê, giao lại cho tập thể…) Khuyến khích các doanh nghiệp năng động, sáng tạo và mạnh dạn áp dụng các hình thức huy động vốn mà Nhà nước khuyến khích (phát hành trái phiếu, cổ phiếu, thuê tài chính, thực hiện liên doanh, liên kết…) để phục vụ cho quá trình sản xuất; Nâng cao hiệu quả kinh doanh. Thứ hai: Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Những năm qua, thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước, Ninh Bình đã có những chính sách - cơ chế thoáng; Tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Nhất là từ khi có quyết định số 568/2002/QĐ-UB, số doanh nghiệp tư nhân tăng cả về số lượng và chất lượng. Mức động viên vào NSNN từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tương đối ổn định. Tuy nhiên, vẫn còn rất hạn chế (số thu Ngân sách năm 2000 - 2001 chiếm 0,7% GDP; Năm 2002 chiếm 0,8% GDP và năm 2003 chiếm 1,1% GDP). Nguyên nhân chính là việc chấp hành chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ của các đơn vị kinh doanh còn yếu kém. Toàn Tỉnh có hơn 15.000 hộ sản xuất kinh doanh, thì chỉ có 1.200 hộ mở sổ sách kế toán. Hầu hết các hộ đều áp dụng hình thức “thu khoán theo doanh thu”. Tuy nhiên, doanh thu quản lý chỉ đạt khoảng 70%-80% doanh thu thực tế. Vì vậy, Ninh Bình cần có những giải pháp hữu hiệu để phát triển và khai thác các nguồn thu ở khu vực kinh tế này. Một mặt, Tỉnh cần tiếp tục tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển. Thực hiện cho vay tín dụng ưu đãi để phát triển ngành nghề; Mở rộng sản xuất; Đầu tư chiều sâu. Mặt khác, cần tăng cường quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các hộ sản xuất kinh doanh. Đưa công tác ghi chép số sách kế toán, chứng từ, hoá đơn đi vào nề nếp. Quản lý - Phản ánh đúng doanh thu và thu nhập thực tế. Đảm bảo thu đúng, thu đủ vào Ngân sách. Cán bộ thuế thường xuyên đôn đốc các doanh nghiệp - các hộ kinh doanh thực hiện nghiêm túc chế độ sổ sách kế toán. Liên hệ với các doanh nghiệp để nắm bắt và xử lý kịp thời các thông tin. Hướng dẫn các doanh nghiệp kê khai sổ sách, chứng từ, hoá đơn. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên áp dụng cách tính thuế VAT theo phương pháp khấu trừ. Đồng thời, ngành thuế cần phối hợp với các cơ quan hữu quan để tăng cường kiểm tra; Quản lý chặt chẽ hoá đơn, chứng từ. Ngăn chặn và hạn chế các hiện tượng mua bán hoá đơn; Khai tăng thuế đầu vào; Giảm thuế đầu ra để trốn, lậu thuế … Bên cạnh những quy định bắt buộc, nên kết hợp với những biện pháp khuyến khích về thuế - tín dụng để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh áp dụng chế độ chứng từ và sổ sách kế toán đã ban hành. Tăng cường công tác kiểm tra tài chính, chống thất thu thuế; Tạo điều kiện cho việc thu hút vốn, liên doanh - liên kết và hợp tác với các doanh nghiệp khác. Các tài liệu của hạch toán kế toán có đủ độ tin cây là căn cứ quan trọng để các Ngân hàng thương mại tiến hành mở rộng hoạt động tín dụng đầu tư đối với các doanh nghiệp này. áp dụng các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, như: Bố trí mặt bằng cho doanh nghiệp. Tìm kiếm và cung cấp các thông tin về thị trường đầu ra cho sản phẩm - Về công nghệ kỹ thuật. Hỗ trợ về đào tạo, nâng cao trình độ quản lý và tay nghề. Đuợc bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước về tín dụng và lãi suất, cũng như các chính sách ưu đãi khác. Được tài trợ của Nhà nước khi những doanh nghiệp này thực hiện cung cấp hàng hoá - dịch vụ thuộc diện khuyến khích phát triển của Tỉnh. 3.3.2.4. Giải pháp huy động vốn từ tầng lớp dân cư. Mấy năm qua, toàn Tỉnh đã xuất hiện nhiều gia đình sản xuất - kinh doanh giỏi với mô hình kinh tế trang trại; Các làng nghề tiểu - thủ công nghiệp truyền thống. Họ đã nhận được những chính sách hỗ trợ phát triển thoả đáng - Kể cả về vốn và thị trường đầu ra; Tạo công ăn việc làm cho rất nhiều lao động địa phương. Mặt bằng thu nhập của người dân trong Tỉnh đã được cải thiện nhiều. Một số vùng có thu nhập khá. Đây là một nguồn vốn tiềm năng rất lớn. Vì vậy, cần có những hình thức huy động thích hợp nhằm thu hút số tiền nhàn rỗi tập trung cho phát triển kinh tế (thông qua việc mở rộng mạng lưới các tổ chức tín dụng, phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu Ngân hàng, tiết kiệm Ngân hàng … với tỷ lệ lãi suất hợp lý và hấp dẫn). Khuyến khích dân cư gửi tiền tiết kiệm bằng việc mở rộng các hính thức; Tạo điều kiện để họ có thể gửi tiền vào bất cứ lúc nào, ở đâu, với số lượng nhiều hay ít và thời hạn dài hay ngắn. Bên cạnh đó, cần giáo dục ý thức tiết kiệm trong dân; Xóa bỏ tâm lý ưa chuộng tiền mặt; Biến tiền nhàn rỗi trong xã hội thành vốn đầu tư cho nền kinh tế. Cũng có thể huy động vốn gián tiếp bằng hính thức vay nợ dân, thông qua tín dụng Nhà nước. Tỉnh sớm xây dựng phương án trình Bộ Tài chính cho phép phát hành các loại trái phiếu địa phương để vay nợ dân, nhằm đầu tư cho các công trình trọng điểm (chương trình củng cố cơ sở vật chất mạng lưới y tế, kiên cố hoá kênh mương nội đồng…). Cần hoàn thiện cơ chế tổ chức và huy động vốn cho phù hợp với tình hình thực tế của các đối tượng – các thành phần kinh tế. Chuẩn bị mọi điều kiện để hình thành thị trường chứng khoán trong tương lai. Động viên các cá nhân, các tổ chức tham gia đầu tư vốn trực tiếp cho việc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn trên tinh thần: Vừa là trách nhiệm - nghĩa vụ; Vừa gắn liền lợi ích kinh tế - xã hội của công trình đối với bản thân và cộng đồng. Tiếp tục thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, huy động sức dân vào việc xây dựng trường học, trạm xá, đường giao thông liên thôn, liên xã… Đổi mới hình thức huy động sức dân theo hướng: Tỉnh đầu tư vật liệu, xi măng, sắt thép, kỹ thuật… cho các công trình công cộng (như kênh mương, đường xá, cầu cống…); Còn các hộ gia đình đóng góp công sức, vận chuyển, khai thác vật liệu tại chỗ. Khi công trình hoàn thành, giao cho từng hộ gia đình quản lý và sử dụng. Tuy nhiên, nếu huy động sức dân nhiều quá sẽ làm suy yếu tiềm lực Tài chính; ảnh hưởng đến khả năng chuyển đổi kinh tế của nông dân. Bởi vì, người dân còn phải thực hiện rất nhiều khoản đóng góp nghĩa vụ (thuỷ lợi phí, nghĩa vụ dân công, các khoản đóng góp cho các đoàn thể xã, đóng góp xây dựng trường…). Do vậy, nguyên tắc cần quán triệt là: “Huy động trong khả năng của người dân và phải nằm trong khuôn khổ quy định của Nhà nước” 3.4. Một số điều kiện để thực hiện các giải pháp tài chính trong việc huy động các nguồn vốn trong nước cho phát triển kinh tế – xã hội ở Ninh Bình. 3.4.1. ổn định môi trường chính trị – xã hội. Môi trường chính trị - xã hội không ổn định, chứa đựng trong đó yếu tố rủi ro rất cao và rất mạo hiểm đối với các nhà đầu tư. Vì vậy, sự ổn định của môi trường này là yếu tố quan trọng, quyết định đến đầu tư và huy động vốn tiết kiệm nhàn rỗi trong xã hội để dùng vào sản xuất - kinh doanh. Sự ổn định về chính trị - xã hội sẽ giúp các nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn vào kinh doanh (Nhất là các lĩnh vực cần lượng vốn lớn và thời gian thu hồi kéo dài). Bài học của Hà Tây là một ví dụ. Là một Tỉnh có vị trí thuận lợi, thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, do những bất cập về công tác quản lý và thiếu sót trong tuyên truyền, giáo dục; đã gây bất bình trong dân cư. Một số phần tử lợi dụng để gây rối trật tự, phá phách, đặt ra không ít khó khăn cho các nhà đầu tư trên địa bàn có khu công nghiệp. Với đặc thù về địa hình - kinh tế - xã hội của Tỉnh; Ninh Bình không thể không chú trọng đến điều kiện này. 3.4.2. Đổi mới; Hoàn thiện cơ chế - chính sách, tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh cho cho đầu tư. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý của Tỉnh phù hợp với nền kinh tế thị trường; Tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, minh bạch, đồng bộ, nhất quán. Hệ thống pháp luật phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế; Khuyến khích các doanh nghiệp và dân chúng đầu tư phát triển kinh tế. Nâng cao hiệu lực của các văn bản liên quan đến huy động và đầu tư vốn. Điều chỉnh và nghiêm trị kịp thời (bằng pháp luật) đối với những hiện tượng làm thiệt hại đến lợi ích của các nhà đầu tư (dưới các hành vi: Tham những, hối lộ, sách nhiễu, gây phiền hà, gây rối). Đổi mới và hoàn thiện các cơ chế, chính sách về Tài chính. Tạo ra sự ổn định về kinh tế nhằm góp phần xây dựng một môi trường pháp lý thông thoáng, lành mạnh, để thu hút các nhà đầu tư. Tiếp tục cải cách các thủ tục hành chính theo phương châm: Thuận tiện, nhanh gọn, đơn giản đối với các nhà đầu tư. Cần quán triệt để đội ngũ cán bộ quản lý có thái độ làm việc nghiêm túc, tận tình, chu đáo; Không sách nhiễu, gây phiền hà cho các nhà đầu tư. Với truyền thống cách mạng của Tỉnh, Đảng bộ và nhân dân Tỉnh Ninh Bình đã và sẽ sớm đạt được mục tiêu trên. 3.4.3. Xây dựng và hoàn thiện các điều kiện về kết cấu hạ tầng Cơ sở hạ tầng giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ninh Bình là một Tỉnh nghèo; Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật lạc hậu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư, trong những năm tới, Tỉnh cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các điều kiện về kết cấu hạ tầng. Cơ sở hạ tầng phát triển có tác động trực tiếp đến việc mở rộng quá trình tái sản xuất; Nâng cao năng lực cạnh tranh; Khai thác có hiệu quả tiềm năng về lao động, tài nguyên. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Mở thêm nhiều nghành nghề mới – Nhất là trong sản xuất công nghiệp - dịch vụ. Tiếp tục xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại để khai thác tối đa tiềm năng và thế mạnh từng vùng.Tăng cường sản xuất và lưu thông hàng hoá. Góp phần đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá nông thôn. Hình thành những khu công nghiệp - khu chế xuất. Tạo ra nhiều việc làm mới để thu hút nhiều lao động dôi thừa vào sản xuất - kinh doanh. Kết luận Vốn cho đầu tư phát triển đã và đang là vấn đề bức xúc của không riêng một quốc gia nào. Huy động vốn cho đầu tư phát triển ở đâu và như thế nào luôn là câu hỏi đặt ra không những đối với Ninh Bình, mà còn với cả nước trong giai đoạn hiện nay. Các công cụ tài chính có vai trò quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển và huy động vốn cho đầu tư. Nhận thức được điều này, luận văn đã cố gắng đi vào nghiên cứu và làm sáng tỏ các vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sau: - Khái quát những lý luận cơ bản về Đầu tư - Vốn đầu tư - Nguồn vốn đầu tư. Từ đó, phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn đầu tư và vai trò của các công cụ tài chính trong việc huy động nguồn vốn đầu tư trong nước cho phát triển kinh tế - xã hội. - Giới thiệu về điều kiện tự nhiên; Tình hình kinh tế - xã hội và thực trạng huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn 2000-2004. Đánh giá những thành công - tồn tại - nguyên nhân. Rút ra bài học kinh nghiệm về sử dụng các công cụ tài chính huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển kinh tế - xã hội của một số quốc gia trên thế giới. - Căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cũng như điều kiện thực tế của Ninh Bình; Trên nền tảng lý luận về Đầu tư – Vốn đầu tư và thực trạng sử dụng công cụ tài chính huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển kinh tế – xã hội ở Tỉnh Ninh Bình thời gian qua; Tác giả đề xuất một số giải pháp thiết thực, có thể áp dụng được trong điều kiện thực tế Ninh Bình để huy động nguồn vốn trong nước cho phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới. Sử dụng công cụ Tài chính: Thu, chi Ngân sách; Lãi suất, để huy động vốn đầu tư trong nước cho phát triển kinh tế - xã hội là một vấn đề rộng lớn và phức tạp. Luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu những vấn đề bức xúc và sát với điều kiện thực tế của Tỉnh Ninh Bình. Luận văn cũng đã cố gắng phân tích, luận giải các vấn đề đặt ra một cách lôgic, ngắn gon; nhằm làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu và đưa ra các giải pháp có tính khả thi. Tuy nhiên, luận văn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của các nhà khoa học và độc giả để luận văn được hoàn thiện hơn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2363.doc