Mục lục
Lời nói đầu 4
Chương 1:
Những vấn đề chung về xoá đói giảm nghèo trong nền kinh tế thị trườngvà vai trò của tài chính Nhà nước trong việc thực hiện xoá đói giảm nghèo. 6
1.1. Kinh tế thị trường và đói nghèo trong nền kinh tế thị trường 6
1.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường 6
1.1.2. Khái niệm nghèo đói 7
1.1.2.1. Khái niệm vè nghèo 7
1.1.2.2. Khái niệm về đói 8
1.1.3. Các tiêu thức đánh giá về đói nghèo 9
1.1.3.1. Nghèo đói do Bộ Lao động Thương binh Xã hội và Tổng cục
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp tài chính Nhà nước nhằm thực hiện xoá đói giảm nghèo trên địa bàn Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống kê 9
1.1.3.2. Tiêu thức đánh giá nghèo đói của Thành phố Hà Nội 9
1.2. Sự cần thiết của công tác xoá đói giảm nghèo ở Việt nam trong giai doạn hiện nay 10
1.2.1. Sự cần thiết của công tác xoá đói giảm nghèo và quanđiểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề xoá đói giảm nghèo 10
1.2.1.1. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo đối với Việt Nam 10
1.2.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xoá đói giảm nghèo 13
1.2.1.3. Sự cần thiết của công tác xoá đói giảm nghèo đối với Thành phố Hà Nội 14
1.2.1.4. Quan điểm của Thành phố Hà Nội về xoá đói giảm nghèo 15
1.3. Vai trò của Tài chính Nhà nước và chính sách xã hội đối với người nghèo 16
1.3.1. Vai trò của Tài chính Nhà nước đối với việc thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 16
1.3.2. Các chính sách xã hội đối với người nghèo trong giải đoạn hiện nay 19
1.3.2.1. Chính sách giáo dục và đào tạo 19
1.3.2.2. Chính sách bảo vệ sức khoẻ (y tế) 20
1.3.2.3. Chính sách nhà ở đối với người nghèo 21
1.3.2.4. Chính sách lao động và việc làm 22
Chương 2
Thực trạng cơ chế, chính sách tài chính Nhà nước thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo trên địa bàn Thành phố Hà Nôị hiện nay 24
2.1. Khái quát chung về Thành phố Hà Nội và thực trạng đói nghèo 24
2.1.1.Khái quát về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội 24
2.1.1.1. Đặc điểm, vị trí địa lý của Thành phố Hà Nội 24
2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội của Thành phố Hà Nội 25
2.1.2. Thực trạng đói nghèo trên địa bàn Thành phố Hà Nội 30
2.1.3. Nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của Thành phố Hà Nội 34
2.1.3.1. Nguyên nhân do thiếu kinh nghiệm sản xuất kinh doanh và thiếu cả kế hoạch chi tiêu gia đình 34
2.1.3.2. Nguyên nhân do thiếu sức lao động và đông người ăn theo 34
2.1.3.3. Nguyên nhân do thiếu vốn đầu tư sản xuất 35
2.1.3.4. Nguyên nhân do gia đình có người ốm đau quanh năm 36
2.1.3.5. Nguyên nhân do lười biếng, mắc tệ nạn xã hội,rủi ro 36
2.2. Thực trạng cơ chế, chính sách tài chính Nhà nước trong việc xoá đói giảm nghèo của Thành phố Hà Nội 37
2.2.1. Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng 39
2.2.2. Hỗ trợ vốn để hộ nghèo vay phát triển sản xuất kinh doanh 40
2.2.3. Hướng dẫn cách làm ăn và chuyển công nghệ cho người nghèo 41
2.2.4. Hỗ trợ người nghèo về y tế và giáo dục 42
2.2.5. Công tác giảm quyết nhà dột nát đối với hộ cứu trợ xã hội và hộ
nghèo 44
2.3. Nhỡng tồn tại về chính sách tài chính Nhà nước trong việc xoá đói giảm nghèo và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và một số địa phương 47
2.3.1. Những kết quả đạt được 47
2.3.2. Những mặt còn tồn tại 49
2.3.3. Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của một số nước trên thế giới và một số địa phương 50
Chương 3.
Một số giải pháp tài chính Nhà nước nhằm xoá đói giảm nghèo trên địa bàn Thành phố Hà Nội 53
3.1. Định hướng phát triên kinh tế xã hội và mục tiêu xoá đói giảm
nghèo 53
3.1.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội 53
3.1.2. Mục tiêu cơ bản của công tác xoá đói giảm nghèo 54
3.2. Các giải pháp Tài chính Nhà nước trong quá trình xoá đói giảm
nghèo 56
3.2.1. Các giảm pháp chủ yếu để xoá đói giảm nghèo 56
3.2.1.1. Tăng cường tuyên truyền vận động 57
3.2.1.2. Đào tạo, hướng dẫn làm ăn cho hộ nghèo đói 57
3.2.1.3. Hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ 57
3.2.1.4. Hỗ trợ vốn làm ăn 58
3.2.1.5. Giải pháp về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo 58
3.2.2. Các giải pháp tài chính Nhà nước trong việc xoá đói giảm
nghèo 59
3.2.3. Điều kiện cần thiết để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các giải pháp trên 66
3.3. Kiến nghị 68
Kết luận 69
Tài liệu tham khảo 70
Lời nói đầu
Đói nghèo là vấn đề xã hội hoá bức xúc mang tính toàn cầu, với mục đích hạn chế phần hoá giàu nghèo. Liên hiệp Quốc lấy năm 1996 là năm đói nghèo. Việt Nam từ khi thực hiện đổi mới, kinh tế có bước phát triển. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định, đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông dân thay đổi. Một số không nhỏ các hộ biết cách làm ăn đã trở thành khả, giàu. Tuy nhiên còn một số bộ phận dân cư do nhiều nguyên nhân khác vẫn phải sống trong cảnh đói nghèo .
Ngày nay khái niệm đói nghèo đã được nhân thức rằng không phải chỉ có sự gia tăng về sản lượng cuả nền kinh tế mà còn bảo hàm cả sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội, không ngừng cải thiện đời sống và nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân. Chính vì vậy công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo là điều kiện cần thiết cho sự phát triển bền vững.
ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách, giải pháp tích cực cho sự phát triển toàn diện của đất nước. Trong văn kiện Đại hội Đảng VIII đã nêu “ Qua thực hiện 10 năm đỏi mới, chúng ta đã nhận thức rõ là không chờ kinh tế phát triển mới giải quyết các vấn đề xã hội mà ngay trong suất quá trình phát triển kinh tế - xã hội tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn với tiến bộ và công bằng xã hội”.
Thế kỷ XX đã ghi vào lịch sử cua nhân loại như là một thời kỷ cói sáng nhất là buổi “ Khai thiên lập địa” với vô số phát minh vĩ đại là thay đổi ở cả bộ mặt của toàn thế giới. Liậu toàn thể nhân loại có thể vững bước sang thế kỷ XXI đầy hứa hẹn và thử thách được không, điều hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực, trách nhiệm của mỗi chúng ta. Nhưng điều cơ bản quan trọng trước tiên là con người cần phải được bảo toàn về lương thực và những yếu tố nhân bản khác.
Trong quá trình học tập ở trong nhà trường và trong thời gian thực tập tại Sở Tài chính - Vật giá Hà Nội, em đã nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo đối với phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội. Chhính vì vậy em đã chọn nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp tài chính Nhà nước nhằm thực hiện xoá đói giảm nghèo trên địa bàn Thành phố Hà Nội”.
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về xoá đói giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường và vai trò của tài chính Nhà nước trong việc thực hiện xoá đói giảm nghèo.
Chương 2: Thực trạng cơ chế, chính sách tài chính Nhà nước trong việc thực hiện xoá đói giảm nghèo của Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp tài chính Nhà nước nhằm xoá đói giảm nghèo trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Luận văn tốt nghiệp được hoàn thiện do sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo Phạm Văn Khoan cùng sự nhiệt tình giúp đỡ của các cô, các chú trong Sở Tài chính - Vật giá Hà Nội.
Do năng lực bản thân còn nhiều hạn chế, nên luận văn này không tránh khơi những thiếu sót, rất mong nhận được sự dạy bảo của các thầy cô giáo và ý kiến đóng góp của các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Chương 1
Những vấn đề chung về xoá đói giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường và vai trò của tài chính Nhà nước trong việc thực hiện xoá đói giảm nghèo
1.1. Kinh tế thị trường và đói nghèo trong nền kinh tế thị trường
Khái niệm kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là hình thức thể hiện trình độ phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá. Các quan hệ hàng hoá - tiền tệ mở rộng và bao quát mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, phạm trù giá trị mang ý nghĩa phổ biến.
Ngày nay, tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng những nhà kinh tế đã thống nhất với nhau rằng “ kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường”. Đến lượt nó, cơ chế thị trường là một cơ chế trong đó tổng thể các nhân tố, các quan hệ cơ bản tự do vận động dưới hình thức chi phối của qui luật thị trường, trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cốt lõi của cơ chế này là (bộ máy) cung cầu và gía cả thị trường.
“ Thị trường là một quá trình mà người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau, để xây dựng giá cả và số lượng. Hay, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu” và người ta phân chia thị trường thành 2 loai: Thị trường các yếu tố sản xuất như: lao động, đất đai, vốn. Vì đây là nhân tố đầu vào của quá trình sản xuất nên gọi là thị trường “ đầu vào”. Bên cạnh thị trường đầu vào là thị trường mua bán những kết quả do quá trình sản xuất tạo ra. Đây là thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ hay gọi là Thị trường “đầu ra”.
Hai thị trường này, tách rời nhau, nhưng chúng lại nối liền nhau thông qua hộ kinh doanh và hộ gia đình. Hộ doanh nghiệp là hộ sản xuất hàng hoá để bán ra trên thị trường đầu ra. Vì vậy trên thị trường này hộ sản xuất là sức cung để có các yếu tố để sản xuất hàng hoá đầu ra, hộ doanh nghiệp mua chúng trên thị trường yếu tố sản xuất. Vì vậy trên thị trường này hộ doanh nghiệp là sức cầu.
Ngược lại hộ gia đình là người mua hàng hoá tiêu dùngvà dịch vụ. Vì vậy trên thị trường này hộ tiêu dùng là sức cầu. Nhưng để có tiền để mua hàng hóa dịch vụ, hộ tiêu dùng phải bán hoặc lao động (nếu anh ta là người công nhân), đất đai (nếu là chủ đất), vốn (nếu là chủ sở hữu vốn). Vì vậy thị trường yếu tố sản xuất, hộ gia đình là biểu hiện sức cung.
Hiện nay, Việt Nam đã và đang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, nên chính sách xã hội có vị trí hết sức quan trọng. Hơn nữa do trình độ kinh tế còn kém phát triển và không đồng đều, hậu quả chiến tranh nặng nề và dai dẳng nên nhiều vùng, nhiều gia đình còn khó khăn, trong khi một số vùng và dân cư giàu lên nhanh chóng. Vì vậy phải quan tâm đến việc thiết lập công bằng xã hội trong từng bước phát triển, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo. Thực hiện chính sách xã hội trong nền kinh tế thị trường không phải là bao cấp, ban ơn hoặc cào bằng, bình quân, mà trước hết phải thực hiện chính sách hợp lý, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế làm nguyên tắc chủ yếu, đi đôi với việc phân phối tư liệu sản xuất, tạo công ăn việc làm, chăm lo y tế, giáo dục, chăm sóc giúp đỡ người gặp hoàn cảnh khó khăn, bài trừ triệt đề và có kết quả tệ tham nhũng, buôn lâu, kinh doanh trái pháp luật .
1..1.2 Khái niệm nghèo đói
1.1.1.2. khái niệm về nghèo.
Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư thiếu ăn nhưng không đứt bữa; mặc thì không lành và không đủ ấm; ở nhà rách nát và không có đủ khả năng sản xuất.
Một cách hiểu khác: Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng quy định còn tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng địa phương, từng thời kỳ tức là tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và của cả quốc gia.
Tuỳ nhiên nghèo còn được phân chia thành các mức khác nhau. Cụ thể là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
- Nghèo tuyệt đối:
Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo không dủ khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: ăn, mặc, ở.
- Nghèo tương đối:
Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng và từng địa phương đang sinh sống.
1.1.2.2. khái niệm về đói.
Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống cực thấp, dưới mức tối thiểu của nhu cầu: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thậm chí không có nhà ở, không hàm lượng Calo cung cấp cho hàng ngày (khoảng 1500 - 2000 Calo/người/ngày).
Ngoài ra còn mức đói dưới mức bình thường tức là đói gay gắt, đó là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu của nhu cầu, không đủ ăn đủ mặc, chịu đứt bữa và hàm lượng Calo cung cấp cho một người trong một ngày là rất thấp (dưới mức 1500 Calo).
1.1..3. Các tiêu thức đánh giá về đói nghèo.
1.1.3.1. Nghèo đói theo đánh giá của Bộ Lao động Thương binh - Xã hội và Tổng cục thống kê.
Bộ Lao động Thương binh - Xã hội và Tổng cục thống kê căn cư vào nhu cầu tối thiểu về lương thực, thực phẩm và quy đổi ra thu nhập đã đưa ra cách phân loại giàu nghèo như sau:
Hộ đói: 45.000 đồng / người / tháng.
Hộ nghèo:
+ Vùng miền núi, hải đảo: là hộ có mức thu nhập bình quân dưới 55.000 đồng/người/tháng.
+ Vùng nông thôn đông bằng: là hộ có thu nhập bình quân dưới 70.000 đồng/người/tháng.
+ Vùng thành thị: là hộ có thu nhập bình quân dưới 90.000 đồng/người/tháng.
1.1.3.2. Tiêu thức đánh giá nghèo đói của Thành phố Hà Nội.
Căn cứ vào chuẩn mực hộ đói nghèo đã được thống nhất áp dụng trong phạm vi toàn quốc do Bộ Lao động Thương binh - Xã hội. Nhưng Thành phố Hà Nội đã xác định chuẩn mực hộ đói nghèo dựa vào mức thu nhập đầu người trên tháng, cụ thể có như sau:
- Chuẩn nghèo của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 1994-2000 như sau:
+ Hộ nghèo khu vực Nội thành: là hộ có thu nhập bình quân dưới: 100.000 đồng/người/tháng.
+ Hộ nghèo khu vực Ngoại thành: là hộ có thu nhập bình quân dưới: 80.000 đồng/ngươi/tháng.
- Chuẩn nghèo của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2005 nhu sau:
+ Hộ nghèo khu vực Thành thị (xã,phường,thị trấn) là hộ có thu nhập bình quân dưới: 170.000 đồng/người/tháng.
+ Hộ nghèo khu vực nông thôn (xã) là hộ có thu nhập bình quân dưới: 130.000 đồng/người/tháng.
Bảng số 1: Phân loại hộ đói nghèo theo tiêu chuẩn của Sở Lao động Thương binh- Xã hội Hà Nội.
Nhóm
Nội thành
Ngoại thành
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Dưới 100.000 đồng/người/tháng
Dưới 130.000 đồng/ngươi/tháng
Dưới 170.000 đồng/người/tháng
Dưới 80.000 đồng/người/tháng
Dưới 80.000-100.000đ/người/tháng
Dưới 100.000-130.000đ/người/tháng
(Nguồn Sở Lao động Thương binh-Xã hội Hà Nội)
1.2. Sự cần thiết của công tác xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện này.
1.2.1. Sự cần thiết của công tác xoá đói giảm nghèovà quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề xoá đói giai nghèo.
1.2.1.1. Sự cần thiết phải xoá đói giai nghèo đối với Việt Nam.
Đói nghèo là vấn đề mang tính toàn cầu chứ không chỉ riêng Việt Nam. Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới dù giàu hay nghèo, dù phát triển hay không phát triển thì cũng luôn luôn tồn tại một số bộ phận dân cư nghèo đói, do đó họ luôn cố gắng giải quyết vấn đề nghèo đói để phát triển kinh tế. Đối với Liên Hiệp Quốc thì một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội này là vấn đề xoá đói giảm nghèo và Liên Hiệp Quốc đã lấy năm 1996 là năm nghèo đói để làm mốc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo trên phạm vi toàn cầu.
Còn đối với Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước (1945) Việt Nam đã coi nghèo đói là một trong ba thứ giặc (giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm), đòi hỏi phải tìm mọi cách để hạn chế và tiêu diệt chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “ Thắng nghèo nàn lạc hậu còn khó khăn hơn thắng giặc ngoại xâm”
Như trên đã đề cập, xoá đói giảm nghèo là một bộ phận trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nó có tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội như tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật tự, ổn định chính trị và có tác động tích cực đến một số chính sách khác. Mặt khác, xoá đói giảm nghèo là để thực hiện công bằng xã hội mà là mục tiêu lớn nhất của Đảng và Nhà nước Việt Nam là: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Vì vậy xoá đói giảm nghèo là cực kỳ cần thiết với Việt Nam, muốn đi lên chủ nghĩa xã hội thì bước đầu phải xoá đói giảm nghèo.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cũng đã xác định Xoá đói giảm nghèo là một trong 11 chương trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Văn kiện của Đại hội Đảng chỉ rõ: “ Khuyến khích làm giàu một cách hợp lý đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo để thu hẹp dần khoảng cách phát triển về trình độ, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư...” và “ Thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo phải có cơ chế chính sách cho hộ nghèo, xã nghèo, vùng nghèo”
Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, Nhà nước đã ban hành một hệ thống các văn bản chính sách tập trung hỗ trợ những người đang bị đoí nghèo vươn lên bằng sức lực và trí tuệ của chính mình để thoát khởi cảnh nghèo khổ, hoà nhập vào với cộng đồng. Mỗi vấn đề xã hội bao giờ cũng chứa đựng trong đó nội dung kinh tế, nguồn gốc và nguyên nhân kinh tế. Nếu tách rời kinh tế và xã hội thì cả vấn đề kinh tế lẫn xã hội đều kkhông thể giải quyết được hoặc không thể triệt đề vững chắc. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường, phân hoá giàu nghèo không chỉ là phân hoá về thu nhập, tài sản và mức sống còn kém theo phân hoá xã hội như học vấn, lỗi sống, quan hệ xã hội, tệ nạn xã hội.
Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trường lấy việc phát triển con người là nhân tố cơ bản cho sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội, đặt con người vào vị trí trung tâm, khơi dậy mọi tiềm năng cá nhân và cả cộng đồng dân tộc kết hợp giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá xã hội, coi phát triển kinh tế là cơ sở, là tiền đề thưc hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội vừa là động lực vừa tạo được sự ổn định về chính trị xã hội, là cơ sở cho việc tăng trưởng kinh tế bền vững. Ngoài ra Đại hội còn nhấn mạnh “ Tăng trưởng kinh tế phải gắn liên với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển kinh tế”.
Vì vậy xóa đói giảm nghèo tuy nổi trội trước hết ở trong lĩnh vực kinh tế, ở lĩnh vực chỉ đạo việc làm, tăng thu nhập, ổn định đời sống xã hội, song còn liên quan tới tất cả các giải pháp xã hội nhằm điều chỉnh khắp phúc sự bất bình đẳng xã hội, sự suy giảm ở các lĩnh vực: Giáo dục, văn hoá, ngăn chặn xu hướng bần cùng hoá người nghèo, tạo sự ổn định xã hội. Nếu chỉ thấy kinh tế và các giải pháp kinh tế như cứu cánh mà xem nhẹ hoặc bỏ quên vấn đề xã hội, các chính sách xã hội thì việc xoá đói giảm nghèo sẽ rơi vào tình trạng phiến diện hoặc rơi vào chủ quan duy ý chí, giải quyết các vấn đề xã hội thoát lý hiện thực kinh tế.
Từ những đặc điểm trên có thể kết luận rằng xoá đói giảm nghèo là mục tiêu quan trọng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trước mắt và lâu dài. Ngoại việc áp dụng chính sách kinh tế cần phải chú trọng đến chính sách xã hội đặc biệt là chính sách về giáo dục, y tế, việc làm... đối với người nghèo. Việc thực hiện xoá đói giảm nghèo phải lồng ghép các chương trình quốc gia và các chương trình dự án có nội dung gắn với xoá đói giảm nghèo trong đó lấy chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, chương 327 và đầu tư cơ sở hạ tầng, vay vốn tín dụng... là nòng cốt cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung, ở các cấp, các ngành cần phải đóng góp một phần tích cực và phong trào giúp đỡ, hỗ trợ người nghèo.
1.2.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xoá đói giảm nghèo.
Nghị quyết TW 5 (khoá VIII) của Đảng chỉ rõ: “ Tăng diện giàu và có đủ ăn, xoá đói, giảm nghèo, nhất là ở các vùng cao, vùng đồng bao dân tộc thiểu số,vùng sâu, vùng xa, vùng trước đây là căn cứ cách mạng; Đó chính là chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xoá đói giảm nghèo. Thực hiện quan điểm, chủ trương đó của Đảng và Nhà nước, phong trào, xoá đói giảm nghèo đã và đang trở thành cuộc vận động lớn, giảm dần đáng kể số hộ nghèo đói, giúp các hộ giảm bớt được khó khăn và tự vươn lên.
Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ của mọi thành viên trong xã hội: Nhà nước, các ngành, các cấp, các đoàn thể xã hội và tất cả mọi người dân cùng làm theo phương châm “ Người nghèo, xã nghèo tự vươn lên là chính, bên cạnh đó có sự hỗ trợ một phần của Nhà nước, một phần đóng góp của dân, của các doanh nghiệp, các tổ chức đoàn thể”
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII cũng đã đề ra mục tiêu “ Giảm tỷ lệ hội đói nghèo trong số hộ cả nước từ 250.000 đến 300.000 hộ tức là giảm trung bình 2% mỗi năm”.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu này, Bộ chính trị yêu cầu các Tỉnh uỷ, Thành uỷ, các ban, ban cán sự Đảng, Đảng uỷ trực thuộc TW chỉ đạo tốt 2 nội dung:
- Chỉ đạo giải quyết một vấn đề về chính sách có liên quan đến chương trình xoá đói giảm nghèo.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và triển khai thực hiện của Nhà nước.
Thực hiện xoá đói giảm nghèo để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Như vậy, thực hiện xoá đói giảm nghèo với mục tiêu xoá bỏ hộ đói, giảm hộ
nghèo và dẫn tới xoá bỏ hẳn hộ nghèo, xây dựng xã hội công bằng, văn minh. Để thực hiện mục đó, Đảng và Nhà nước đã phối hợp với các ngành đưa ra các giải pháp, biện pháp cụ thể để thực hiện, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển với tiến tới giảm bớt hộ nghèo đói. Qua thực tế thực hiện cho thấy xoá đói giảm nghèo là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước hợp với lòng dân nên đã nhanh chống được các ngành, các cấp, mọi tầng lớp nhân dân, các tổ chức đoàn thể nhiệt tình hưởng ứng và được triển khai tổ chức thực hiện rộng khắp trên cả nước.
1.2.1.3. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo đối với Thành phố Hà Nội.
Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị,văn hoá khoa học kỹ thuật đồng thời là trung tâm lớn về giao dịch quốc tế của cả nước, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế - xã hội là 9,14 % (năm 2000 so với năm 1999). Nhưng đời sống của một bộ phận dân cư còn phải chịu cảnh đói nghèo, số hộ đói nghèo của toàn Thành phố là 8719 hộ trong đó có 33.315 nhân khẩu.
Mặc dù mấy năm qua Đảng bộ, Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân và các chính quyền các cấp đã cố gắng chỉ đạo tập trung nguồn lực cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo nhưng mức chuyển biến còn chậm.
Trước tình trạng đói nghèo của Thành phố hiện nay, có thể nói đó là một thử thách rất lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao xứng đáng với trung tâm đầu não chính trị, kinh tế xã hội, rút ngắn khoảng cách về kinh tế với Thành phố của các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung, vì vậy đòi hỏi Đảng bộ và các cấp chính quyền của Thành phố Hà Nội trước hết phải quan tâm đến xoá đói giảm nghèo.
Như vậy, xoá đói giảm nghèo là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hà Nội nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế của Thủ đô phát triển , bắt kịp với kinh tế của các nước trong khu vực và thế giới.
1.2.1.4. Quan điểm của Thành phố Hà Nội về xoá đói giảm nghèo:
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII, và lễ phát động “ Ngày vì người nghèo” cũng đã xác định cụ thể quan điểm của Thành phố Hà Nội về giảm đói và giảm nghèo đó là: Cấp uỷ Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và tổ chức đoàn thể ở Thành phố Hà Nội qua cuộc vận động “ Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu vực dân cư” tại các địa phương, cơ sở đã vận động toàn dân đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau phát triển sản xuất, kinh doanh, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở mang ngành nghề, giải quyết việc làm; Thành lập tổ chức khuyến nông, khuyến ngư, đẩy mạnh tiến độ chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, giúp đỡ nhau về vốn, giống cây trồng, vật nuôi, kinh nghiệm sản xuất... Do đó Hà Nội mới xoá được hộ đói, giảm được hộ nghèo, hộ có cuộc sống khá tăng lên.
Quan điểm của Thành phố Hà Nội về xoá đói giảm nghèo được thể hiện cụ thể ở các nội dung sau:
- Xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm của cấp Đảng uỷ, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể các cấp và các cộng đồng xã hội. Đây là nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách vừa có tính thường xuyên và liên tục của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể. Đặc biệt là trách nhiệm của chính bản thân người nghèo, phải gắn xoá đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế, phải vì người nghèo để hạn chế khoảng cách giàu nghèo.
- Xoá đói giảm nghèo là để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, giữ vững ổn định chính trị.
- Phát động cuộc ủng hộ “ Ngày vì người nghèo” từ Thành phố đến cơ sở.
- Tuyên truyền sâu rộng đến các tổ chức kinh tế, xã hội, các tầng lớp nhân dân về mục đích, ý nghĩa và nội dung của cuộc vận động, phát huy truyền thống đoàn kết “ Tương thân, tương ái”, truyền thống quý bấu của nhân dân Thủ đô, làm cho mỗi cán bộ; nhân dân, viên chức, mỗi người dân tự nguyên tham gia đóng góp ủng hộ người nghèo, tạo thêm nguồn lực đẩy nhanh tiến độ xoá đói giảm nghèo.
- Mặt trận tổ quốc, các cấp có kế hoạch cụ thể phối hợp với các ban, ngành, tổ chức đoàn thể để tuyên truyền, vận động bằng những biện pháp phong phú, linh hoạt, sáng tạo để đạt hiệu quả cao nhất.
1..3. Vai trò của Tài chính Nhà nước và các chính sách xã hội đối với người nghèo.
1..3.1. Vai trò của Tài chính Nhà nước đối với việc thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo.
Mâu thuẫn gay gắt đang nảy sinh ở Việt Nam hiện nay là mâu thuẫn giữa tính nhân đạo của chủ nghĩa xã hội và quy luật khắt khẽ của nền kinh tế thị trường xung quanh vấn đề thu nhập, việc làm và phúc lợi xã hội. Vấn đề đặt ra là phải có một chính sách phân phối hợp lý từ thu nhập của toàn xã hội, chính sách đó vừa khuyến khích sự tăng trường vừa đảm bảo cuộc sống chung của toàn xã hội, nhất là những người nghèo khổ, vì hoạt động tài chính của Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhiệm vụ của tài chính Nhà nước là trên cơ sở tôn trọng tính hợp lý của việc phân phối theo cơ chế thị trường thông qua công cụ Thu - Chi điều chỉnh những mặt bất hợp lý của việc phân phối, đảm bảo yêu cầu công bằng tương đối trong phân phối thu nhập và tài chính Nhà nước đóng vai trò quan trọng thực hiện chính sách ổn định. Đây là vai trò xã hội của tài chính Nhà nước.
Hoạt động tài chính Nhà nước trong nền kinh tế thị trường gắn liền với việc sản xuất và cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng của Nhà nước. Mỗi quan hệ giữa sản xuất và cung cấp hàng hóa , dịch vụ công cộng với sinh hoạt của tài chính Nhà nước là mỗi quan hệ nhân quả. Nếu toàn bộ việc sản xuất và cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng do Nhà nước đảm nhận thì điểm tất yếu của tài chính Nhà nước mang tính chất bảo trùm, kết quả trong phạm vi xã hội rất thấp, hàng hoá cá nhân và hàng hoá công cộng bị khan hiếm không đủ cung cấp cho xã hội, nguồn lực của xã hội không được sử dụng một cách tối ưu, nhưng trong giai đoạn nền kinh tế thị trường hiện nay nhiệm vụ của tài chính Nhà nước thông qua hoạt động Thu - Chi thì phải làm sao huy động và phân bổ nguồn lực xã hội một cách tối ưu giữa sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng và hàng hoá dịch vụ cá nhân, giữa các hàng hóa dịch vụ công cộng với nhau, Đó là vai trò kinh tế của tài chính Nhà nước.
Cùng với công cuộc đổi mới của Việt Nam, với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò xã hội của tài chính Nhà nước được coi là quan trọng, đặc biệt đối với chính sách xã hội cho người nghèo một trong những vấn đề nóng bỏng của xã hội.
- Đảm bảo nguồn và phát triển nguồn tài chính Nhà nước: như yếu tố quyết định cho việc giải quyết chính sách cho người nghèo. Tài chính Nhà nước đảm bảo chi phí đầu tư cho các dự án bằng nguồn vốn trong và ngoài nước. Để từ đó cải thiện cuộc sống của người nghèo không bằng trợ cấp tạm thời mà về lâu dài là phải có điều kiện cho họ tự vươn lên cụ thể là:
+ Tài chính Nhà nước đầu tư trực tiếp: Ban đầu về vốn sản xuất cho người nghèo để họ tự tạo việc làm, tự tìm phương thức sản xuất phù hợp.
+ Tài chính Nhà nước đầu tư gián tiếp: Như đầu tư vào công trình giao thông, mạng lưới điện, nâng cao cơ sở hạ tầng... như thế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo phát triển.
- Điều phối vĩ mô cơ cấu xã hội: Thong qua hoạt động Thu - Chi của tài chính Nhà nước điều chỉnh cơ cấu xã hôi, góp phần làm giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về thu nhập và tiền lương giữa những người làm việc trong khu vực sản xuất kinh doanh, khu vực hành chính sự nghiệp, an ninh quốc phòng với những người sống ở thành thị, nông thôn, miền núi, hải đảo. Giảm bớt chênh lệch ở đây không phải lấy của người giàu chia cho người nghèo mà bằng chính sách Nhà nước là khuyến khích nông dân làm giàu hợp pháp. Mặt khác Nhà nước sử dụng công cụ thuế, chi Ngân sách Nhà nước để thu hẹp khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội, cụ thể là:
+ Các khoản đánh vào người tiêu thụ (Thuế giá trị gia tăng, Thuế tiêu thụ đặc biệt), đối với hàng tiêu dùng thiết yếu mà kể cả người giàu và người nghèo đều cần đến thì do tỷ trọng người nghèo cao hơn người giàu nên việc giảm thuế (thuế suất) sẽ có lợi cho người nghèo.
+ Đánh thuế kết hợp với việc thực hiện các chuyển khoản: Kết hợp với việc đánh thuế thu nhập luỹ tiến vào hộ có thu nhập cao và thực hiện trợ cấp cho các hộ gia đình có thu nhập thấp.
+ Miễn giảm đối với những mặt hàng do người nghèo sản xuất.
+ Chi Ngân sách Nhà nước vì vai trò quan trọng của NSNN điều chỉnh phân
phối thu nhập được thể hiện trên phạm vi rộng ở cả hai mặt cả thu và chi NSNN. NSNN là trung tâm phân phối lại, nhằm chuyển bớt một phân thu nhập từ các tầng lớp giàu có sang tầng lớp những người nghèo và Nhà nước cũng là người thay mặt xã hội thực hiện nghĩa vụ cơ bản đối với các đối tương thương binh, gia đình liệt sỹ, trẻ em mồ côi.
- Kiểm tra, giám sát tài chính trong quá trình thực hiện chính sách xã hội cho người nghèo.
Thông qua chức năng giám đốc, TCNN thực hiện việc kiểm tra, giám sát các nguồn kinh phí, các quỹ tiền tệ đầu tư cho người nghèo, từ khâu lập kế hoạch, chấp hành và quyết toán để từ đó có sự điều chỉnh hợp lý về vốn, phù hợp với định hướng của Nhà nước.
1..3.2. Chính sách xã hội đối với người nghèo trong giai đoạn hiện nay.
Chính sách xã hội là một sách trọng yếu của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm quản lý kinh tế - xã hội và quản lý đất nước. Chính sách đó đã thể hiện rõ trong quan điểm của Đảng là “ Tất cả vì con người, do con người, trước hết là người lao động đặc biệt là người nghèo”. Đây cũng là quan điểm về sự thống nhất giữa mục tiêu chính sách xã hội rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Nhất là đối với Việt Nam hiện nay, nhiều vấn đề đặt ra vấn đề nào cũng cấp bách. Nhưng không giải quyết các vấn đề trong cùng một lúc, nhất là đang trong thời kỳ nguồn thu Ngân sách còn thiếu hụt so với nhu cầu chi. Vì vậy chính sách xã hội cho người nghèo ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là đảm bảo được tối thiểu nhu cầu cuộc sống, cụ thể bao gồm những chính sách như sau:
1..3.2.1. Chính sách giáo dục và đào tạo.
Người nghèo không chỉ thiếu ăn và thiếu tiền mà cái gốc là sự thiếu về trí thức. Giúp đỡ người nghèo đói khắc phúc sự nghèo đói về văn hoá bồi dưỡng cho họ tự phát triển và có năng lực tự tin, tự chủ để phát tiển kinh tế nhằm khai thác được tiềm năng của nguồn nhân lực là cách lựa chọn xoá đói giảm nghèo tối ưu và có lợi nhất cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của người nghèo để tự họ vươn lên trong cuộc sống. Cần phải động viên mọi lực lượng lao động trong mọi lĩnh vực để mở ra được nhiều hướng đi, đặc biệt là đầu tư giáo dục ở vùng đói nghèo, lạc hậu, xa xôi hẻo lánh. Do chủ trương giáo dục phổ cấp tiểu học trên phạm vi toàn quốc của Nhà nước, đảm bả._.o được trẻ đến tuổi đi học phải được đi học, nên cần thiết phải có chính sách miễn giảm học phí đối với học sinh nghèo, Thành lập quỹ học bổng khuyến khích học sinh nghèo học giỏi, đặc biệt chú ý đến học sinh ở miền núi và vùng dân tộc thiếu số.
Những thực tế đối với hộ nghèo thì vấn đề đào tạo là đào tạo ngành nghề. Bởi có được ngành nghề mới biết kiếm được công ăn việc làm, hoặc tối thiếu phải có kiến thức để khi nói đến công việc thì người nghèo có thể nắm được, hiểu được và làm được, như thế mới có đà để vượt qua được ngưỡng nghèo đói. Vậy các trung tâm dạy nghề của công và của tư nhân cung tham gia công cuộc xoá đói giảm nghèo bằng cách miễn giảm học phí đào tạo cho người nghèo, hoặc giới thiệu việc làm cho học sinh nghèo vừa tốt nghiệp, vân động và tạo điều kiện cho người nghèo theo học lớp chuyển giao công nghệ, hoặc dạy họ cách làm ăn có hiệu quả kinh tế với chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ngành nghề truyền thống ở trong địa bàn làng xã.
1..3.1.2. Chính sách bảo vệ sức khoẻ (y tế).
Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ con người ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề đáng quan tâm, bởi con người có vai trò vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định rằng “ Con người là vốn quỹ nhất” chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh.
Nếu trí tuệ là tài sản quý giá nhất của con người thì là sức khoẻ làm tiền đề cần thiết để làm ra tài sản đó. Bác Hồ thường nói rằng “ Mỗi người dân khoẻ thì cả nước khoẻ” Thấm nhuần tư tưởng của Người, vậy chúng ta phải quan tâm thích đáng đến sự nghiệp y tế nhằm chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho từng người dân, đặc biệt là những người nghèo bị ốm đau không có điều kiện chữa trị và họ thường có nguy cơ bệnh tật nhiều hơn người có mức sống trung bình, khá gỉa. Vì vậy Nhà nước đề ra chính sách bảo vệ sức khoẻ của người nghèo là việc làm cực kỳ có ý nghĩa. Bằng cách thức hiện tốt chương chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chăm sóc bảo vệ sức khoẻ của bà mẹ liệt sỹ, trẻ em, bởi vì người nghèo không có khả năng đảm bảo dinh dưỡng , do đó phải có chính sách bồi dưỡng, miễn phí khám chữa bệnh, miễn phí về tiêm phòng dịch cho người nghèo.
1.3.1.3. Chính sách nhà ở đối với người nghèo.
Nhà ở của hộ đói nghèo, gia đình chính sách đã được đặt ra như một chính sách lớn về xã hội của Việt Nam hiện nay, đặc biệt là các đô thị gặp nhiều thiên tai. Trong nền kinh tế thị trường nhà ở được coi là một hàng hoá. Nhà nước không thể dùng vốn NS để xây dựng nhà ở và phân phối cho người nghèo. Bởi vậy Nhà nước cần có một chính sách riêng và nhà ở đối với đối tượng nghèo trên cơ sở thực hiện chiến lược “ Tạo điều kiện nhà ở cho người dân”. Mục tiêu chính của chính sách nhà ở cho người nghèo làm sao tạo mọi điều kiện để người nghèo có nhà ở. Nhà nước cần phải có nhiều biện pháp khác nhau để hỗ trợ cho các hộ nghèo tạo lập nhà ở như:
- Nhà nước khuyến khích phong trào xây dựng nhà tình nghĩa cho hộ gia đình chính sách và người có công với nước trong cộng đồng.
- Nhà sở hữu của Nhà nước sẽ được bán cho người nghèo với giá thấp và cho phép người nghèo trả dần.
- Nhà nước sử dụng một phần vốn để xây dựng nhà ở cho người ghèo thuê với giá ưu đãi.
- Ngân hàng cho người nghèo vay làm nhà với lãi suất thấp và thế chấp chính bằng ngôi nhà. Đối với vùng nghèo bị thiên tai, việc áp dụng lãi suất thấp để cho vay làm nhà sẽ được Ngân hàng Nhà nước xem xét tài trợ cho Ngân hàng.
- Chính quyền sở tại với tư cách thay mặt Nhà nước tại địa phương, thông qua các tổ chức hội và đoàn thể kêu gọi các cơ quan , cá nhân tài trợ cho hộ nghèo làm nhà có thể bằng tiền hoặc vật liệu
1.3.1.4. Chính sách lao động và giải quyết việc làm.
Việc làm cho lao động xã hội đang là vấn đề kinh tế - xã hội - chính trị bức xúc và càng bức xúc hơn đối với thanh niên. Việc làm đang chịu sức ép lớn của sự gia tăng dân số và nguồn lao động.
Thực tế cho thấy trong nông thôn hiện nay có khoảng 30-40% lao động thiếu
việc làm dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Thời gian lao động nhàn rỗi và dư thừa, nói chung ước tính tới 40% trong tổng quỹ thời gian lao động xã hội ở khu vực này, tương đương với tính trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm thường xuyên khoảng 6-7 triệu người. Hơn 60% trong số 12 triệu hộ gia đình ở nông thôn có lao động nhưng không có việc làm, nhiều hộ thiếu trầm trọng. Tình trạng đó đã tác động khá phổ biến và có xu hướng gia tăng trong nhiều vùng nông thôn, trước hết là ở những vùng có điều kiện sản xuất khó khăn, dân cư chủ yếu làm nông nghiệp, các ngành nghề dịch vụ kém phát triển đặc biệt tập trung cao ở các hộ thuần nông, hộ nghèo thiếu đất canh tác, thiếu vốn và phương tiện sản xuất, thiếu năng lực và kinh nghiệm tổ chức sản xuất.
Đứng trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước đã quyết định thành lập Uỷ ban quốc gia giải quyết việc làm và quỹ quốc gia giải quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt là người nghèo. Tác dụng hỗ trợ giảm nghèo rõ nét của nguồn vốn từ quỹ này là:
- Giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người đang thiếu việc làm, con đường tất yếu của sự nghèo đói.
- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo ngành nghề mới, khởi dậy ngành nghề truyền thống làm tăng thu nhập cho hàng vạn người có tay nghề nhưng thiếu vốn.
- Hỗ trợ trung tâm giải quyết việc làm thu hút hàng vạn người học nghề thành thạo, tạo điều kiện cho họ có kiến thức làm ăn vượt khỏi cảnh đói nghèo.
- Đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, quỹ quốc gia giải quyết việc làm đã hỗ trợ vốn cho các hộ nông, từ các vùng sâu, vùng xa vươn lên vượt qua nghèo đói. Đó là tác động của quỹ quốc gia giải quyết việc làm, dù có phát triển mạnh mẽ kinh tế trong nước, cũng chưa thể đủ việc làm cho số lao động ngày càng tăng. Bên cạnh nội lực trong nước Đảng và Nhà nước còn thực hiện mở rộng chính vốn đầu tư nhằm thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài để người lao động có thêm việc làm.
Ngoài ra, Nhà nước cần tổ chức việc xuất khẩu lao động nước ngoài trong đó ưu tiên cho đối tượng người nghèo. Đây là chính sách thường xuyên và lâu dài nhằm phát huy thế mạnh lao động ở Việt Nam.
Chương 2:
Thực hiện cơ chế, chính sách tài chính Nhà nước thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo trên địa bàn Thành phố Hà Nôị.
2.1.Khái quát chung về Thành phố Hà Nội và thực trạng đói nghèo.
2.1.1. Khái quát về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội.
2.1.1.1. Đặc điểm, vị trí địa lý của Thành phố Hà Nội.
Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằn sông Hồng, trong phạm vi từ 20. 53’đến 21. 23’ vĩ đô bắc và từ 105. 44’ đến 106. 02’ kinh độ đông. Hà Nội tiếp giáp với 5 Tỉnh: Thái Nguyên ở phía Bắc; Bắc Ninh, Hưng Yên ở phía Đông; Vĩnh Phúc ở phía Tây; Hà Tây và Hà Nam ở phía Nam. Hà Nội có diện tích tự nhiên là 927,39 Km2 và dân số là 2.560.00 người; chiếm 0,28% về diện tích tự nhiên và 3,14% về dân số cả nước.
Hà Nội có vị trí địa lý rất quan trọng và ưu thế đặc biệt đối với địa phương khác. Nghị quyết 15/NQ-TW, ngày 15 tháng 12 năm 2000 đã xác định : “ Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước”. Hà Nội đi các Thành phố, Thị xã của Bắc Bộ cũng như cả nước rất dễ dàng bằng cả đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và hàng không.
Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan Ngoại giao đoàn, các Đại sứ quán, các tổ chức quốc tế. Hà Nội còn nơi tập trung các cơ quan đầu não, đông đủ các cán bộ có kinh nghiệm sẽ là điều kiện tốt về trí tuệ giúp Hà Nội trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế.
Hà Nội mang sắc thái đặc trưng của khí hậu vùng với đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa. Từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa hạ, khí hậu ẩm ướt, mưa nhiều. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh (thời kỳ đầu thường khô nhưng đến nửa cuối mùa đông lại thường ẩm ướt). Giữa hai mùa là thời kỳ chuyển tiếp tạo cho Hà Nội bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nên nhiệt độ khá đồng đều và khá cao. Nhiệt độ trung bình năm đạt tới 23. - 24. . Hai tháng nóng nhất là tháng 6 đến tháng 7, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất xảy ra vào tháng 7 với nhiệt độ xấp xỉ 29.. Nhiệt độ trung bình vào mùa đông là 17.. Tháng lạnh nhất là tháng 1, ở thời gian này nhiệt độ tối thiếu trung bình thường 13. nhiệt độ tối thấp quan sát được xuống tới 2,7. . Biên độ nhiệt độ trong năm khoảng 12. - 13.. Biên độ cao dao động nhiệt độ ngày đêm khoảng 6. - 7.. Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm của Thành phố Hà Nội là 82% và cùng ít thay đổi theo tháng, thường chỉ dao động trong khoảng 78% - 87%. Lượng mưa của Hà Nội phân bố khá đồng đều và trung bình hàng năm khoảng 1600 - 1800 mn.
2.1.1.2. Đặc điểm về kinh tế xã hội của Thành phố Hà Nội.
Chiến tranh kèo dài, kinh tế suy thoái trong những năm 70 và 80, quy mô dân số qua các năm đều tăng nhanh (năm 1990 có: 2.051.900 người, năm 1993 có: 2.219.700 người, năm 1998 có: 2.556.500 người) đã gây nên những tác đông tiêu cực đến chất lượng, số lượng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhà đất và di sản kiến trúc phong phú của Thành phố.Yêu cầu cho tài chính phúc vụ cho chiến tranh đã hạn chế nguồn tài nguyên cần thiết để tiếp tục bảo dưỡng duy trì các dịch vụ đô thị và xây dựng hệ thống hạ tầng mới. Sự không ổn định về kinh tế đã làm cho suy thoái thêm hế thống hạ tầng cơ sở, hệ thống giao thông và điều kiện về nhà ở.
Theo số liệu điều tra năm 1989, diện tích nhà ở Hà Nội khoảng 4 km2/ người, khoảng 7% số hộ gia đình có diện tịch nhà ở dưới 2%/ người. Hơn nửa khoảng 70% nhà ở của Hà Nội tồi tàn, 10% rách nát không phù hợp để sống. Sự bùng nổ của thị trường nhà đất không có quy hoạch đã làm cho hộ dân tập trung đông ở các vùng đất nông nghiệp có ý nghĩa kinh tế quan trọng, lẫn chiếm hàng lang các trục đường giao thông chính làm cho người nghèo không có điều kiện cải thiện đời sống của họ. Theo số lượng thống kê cho thấy số lượng người thất nghiệp của Thành phố thấp nhất khoảng 100.000 người, trong khi kết quả khảo sát cho thấy có khoảng 30% số hộ mức sống được cải thiện từ năm 1993 và 13% số hộ còn nghèo hơn trước đây, có 2.13% hộ nghèo. Khoảng 30%-40% trẻ em dưới năm tuổi có mức ăn không phù hợp và thiếu cân đối.
* Cơ cấu kinh tế có chuyển biến quan trọng: Ngành sản xuất công nghiệp ngày càng có tỷ trọng cao trong cấu thành giá trị tổng sản phẩm trong nước. Từ năm 1990-1998, tỷ trọng công nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế Thủ đô (Tính theo GDP) tăng từ 29,0% năm 1990 lên 34,9% năm 1996 và 36,2% năm 1998 tỷ trọng gia trị tổng sản phẩm trong của ngành nông - lâm nghiệp và tổng thuỷ sản giảm từ 9,0% năm 1990 xuống còn 5,1% năm 1996 và 4,3% năm 1998.
* Trình độ, năng lực quản lý kinh doanh: Đã được nâng lên rõ rệt. Tăng bước thích ứng với kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhiều loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ đã được cải tiến về chất lượng, mẫu mã và phương thức phúc vụ nhờ đó đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước, một loại đã xuất khẩu với số lượng ngày càng lớn.
* Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh: Khu vực có vốn đầu tư nước ngoại tăng tỷ trọng từ 3,2% trong tổng giá trị GDP năm 1993 lên 11,1% năm 1998. Thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng. Tổng kim ngạch xuất địa phương tăng từ 81,7 triệu USD năm 1990 lên 161 triệu USD năm 1995 và 306 triệu USD năm 1998.
Vốn đầu tư từ nước ngoại vào Hà Nội tăng rất nhanh. Tính đến tháng 12 năm 1998 đã có tổng 342 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoại với tổng số vốn đăng ký là 8838 triệu USD; vốn đã thực hiện được đạt 3837 triệu USD, bằng 35% vốn đăng ký. Bình quân hàng năm từ 1990-1998 tốc độ tăng vốn đầu tư nước ngoại vào Hà Nội là 52,2%/ năm. Thời kỳ đầu, vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào lĩnh vực thương mại, du lịch, dịch vụ, nhưng 3 năm gần đây đáng chú ý đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng cơ cấu hạ tầng.
* Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị đạt kết quả cao: Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XI và chương thình “ Quy hoạch xây dựng đô thị” của Thành uỷ, bộ mặt Thủ đô trong những năm qua có nhiều thay đổi. Đã tiến hành điều chỉnh quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội. Thủ đô năm 2010 và năm 2020 trình Chính phủ duyệt. Hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết một số dân cư, khu, cụm công nghiệp, cải tạo một bước phố cổ, phố cũ; quy hoạch xung quanh Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Trúc Bách, khu trung tâm Ba Đình... Một số quy hoạch đã được công bố, công khai và giao cho chính quyềh Nhà nước các cấp quản lý.
- Về giao thông:Được mở rộng ra ngoại ô: Hệ thống đường nội thành được cải tạo đáng kể. Đang tích cực khai triển xây dựng hệ thống đường vánh đai, các đường trực hướng tâm; xây dựng và duy trì đèn chiếu sáng cho trên 2.000 km đường phố.
Đã sắp xếp lại tổ chức vận tải hành khách, duy trì hệ thống xe buýt, mở rộng và nâng cấp hệ thống bến bãi. Phương tiện vận tải hành khách, phát triển mới xe TAXI đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân.
- Về hệ thống tin liên lạc: Được hiện đại hoá nhanh theo hướng điện tử và số mạng viễn thông.
- Về hệ thống cấp thoát nước,và lưới điện: Được cải tạo và nâng cấp một bước; các công trình văn hoá và phúc lợi công cộng được mở rộng và có chất lượng phúc vụ cao hơn. Trật tự, vệ sinh đô thị, công tác quản lý và bảo vệ môi trường có chuyển biến rõ rệt.
* Văn hoá xã hội Thủ đô có chuyển biến tốt.
- Về công tác giáo dục và đào tạo; Đã đa dạng hóa các loại hình trường lớp, tiến hành phổ cấp giáo dục cấp I và đang phổ cấp giáo dục cấp II. Nội dung giáo dục được cải tiến, chất lượng được giữ vững, có một số mặt được nâng cao, đã hoàn hành việc tách cấp I và II; cơ sở vật của các trường được nâng cấp khá.
- Về mạng lưới khám chữa bệnh: Trong toàn Thành phố bước đã được sắp xếp lại. Y tế cơ sở được quan tâm, đảm bảo việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân. Các chương trình y tế quốc gia chỉ đạo thực hiện tốt, đặc biệt là chương trình tiêm chủng mở rộng, 98%-99% số trẻ em trong độ tuổi tiêm đủ 6 loại vắc xin, Công tác kế hoạch hoá gia đình được triển khai tích cực. Tỷ lệ sinh hàng năm giảm đáng kể 6,7% (năm 1998).
- Về hoạt động văn hoá ,văn nghệ: Phát triển phong phú , đa dạng, phong trào văn hoá quần chúng được khơi dậy mạng lưới thông tin đại chúng được mở rộng. Trình độ và phạm vi hưởng thụ văn hóa trong nhân dân tăng lên rõ rệt, các chính sách xã hội được tổ chức thực hiện khá tốt dưới hình thức như: Xây dựng nhà tình nghĩa, bảo trợ bà mẹ anh hùng, liệt sỹ cô đơn, nuôi dưỡng thương binh nặng tại gia đình, xây dựng trung tâm bảo trợ xã hội.
* Sản xuất công nghiệp:
Tính đến cuối năm 1998 Hà Nội có 271 doanh nghiệp quốc doanh, trong đó có 167 doanh nghiệp quốc doanh Trung ương; 1400 doanh nghiệp công nghiệp ngoại quốc doanh trong đó: 171 HTX, 40 Doanh nghiệp tư nhân, 240 hỗn hợp và 13558 hộ kinh doanh cá thể. Hà Nội là nơi tập trung công nghiệp cao nhất ở Bắc Bộ và đứng thứ hai của cả nước. Tỷ lệ GDP công nghiệp trong cơ cấu kinh tế Hà Nội chiếm 36,2% và đang có chiếu hướng gia tăng.
Trong cơ cấu ngành công nghiệp Thủ đô hình thành 4 nhóm ngành then chốt là: Cơ khí (20%-23%); Dệt - da - may (22%-25%); Lương thực- thực phẩm (16%-18%); Đồ điện - điện tử (5%-8%); Đáng chú ý là sản phẩm của công nghiệp Thủ đô chất lượng ngày càng cao, có trên 40 sản phẩm được tiêu dùng rộng rãi trên cả nước. Công nghiệp Hà Nội đóng góp khoảng 40% tổng thu Ngân sách và 70% kim ngạch xuất nhập khẩu của Thành phố.
* Dịch vụ: Lĩnh vực thương mại - dịch vụ - du lịch của Hà Nội phát triển nhanh chóng trong nền kinh tế thị trường. Bình quân năm 1995 tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực dịch vụ đạt 13,4%/ năm và bình quân năm 1998 đạt 11,7%, tỷ lệ GDP của ngành dịch vụ chiếm từ 59%-60% trong cấu thành GDP của kinh tế Thủ đô.
- Hoạt động du lịch phát triển mạnh cả khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh. Năm 1998 trên địa bàn Thành phố có 280 khách sản nhỏ lớn trong đó có: 91 khách sản quốc doanh, 13 khách sản liên doanh và 176 khách sản ngoại quốc doanh và đã có 20 khách sản được xếp hàng từ 1 đến 5 sao.
- Thương mại được nâng mở rộng và nâng cao chất lượng. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường xã hội, tăng bình quân năm 1998 là 28,3%. Hà Nội là nơi phát triển luồng phúc vụ phần lớn nhu cầu hàng hoá dịch vụ cho các tỉnh Bắc Bộ. Tổng kim ngạch tăng 370 triệu USD năm 1998.
- Các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng: Nhìn chung đã vượt qua giai đoạn lúng túng, từng bước mở rộng và cơ bản đáp ứng được nhu cầu về sản xuất và đời sống. Các ngân hàng Trung ương và ngân hàng địa phương đã đi vào nề nếp có khá nhiều ngân hàng nước ngoài có chi nhánh tại Hà Nội . Đến năm 1997 trên địa bàn Thành phố có74 tổ chức tín dụng và chi nhánh tổ chức tín dụng, 23 chi nhánh ngân hàng và các tổ chức ngân hàng thương mại quốc doanh, 15 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần, 1 quỹ tín dụng Trung ương, và 9 quỹ tín dụng ở cơ sở, 1 ngân hàng phúc vụ người nghèo và 9 chi nhánh... Mạng lưới dịch vụ ngân hàng tài chính, ngân hàng đã thực sự trở thành nhân tố quan trọng phúc vụ phát triển kinh tế - xã hội.
* Nông nghiệp: Nhờ tác động của chính sách mới, 5 năm qua nông - lâm nghiệp và nông thôn ngoài thành có chuyển biến sâu sắc. Cơ cấu nông - lâm nghiệp và nông thôn ngoài thành chuyển dịch theo hướng : Phát triển mạnh kinh tế ngoại quốc doanh, nâng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi và các loại nông sản thực phẩm có chất lượng cao như: Thịt lợn nạc, trứng, sữa, hoa, cây cảnh, thuỷ đặc sản...Hà Nội đang dẫn đầu cả nước về phát triển rau sạch. Năm 1998 tỷ lệ diện tích trồng rau sạch ở Thành phố đạt 12% tổng diện tích trồng rau. Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp qua các thời kỳ.
2.1.2. Thực trạng đói nghèo trên địa bàn Thành phố Hà Nội .
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chương trình quốc gia “ Xoá đói giảm nghèo” . Trong những năm qua cùng với sự đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của Thủ đô, Thành uỷ và Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành, hội đoàn thể triển khai tích cực đồng bộ các giải pháp và đã đạt được kết quả toàn diện về các chương trình chính sách xã hội trên Thành phố.
Việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN giai đoạn 1999-2000, ngày 15 tháng 01 năm 1999 Hội đồng Nhân dân Thành phố Khoa XI kỳ hợp 12 đã ra Nghị quyết số 15/1999- NQ/HĐ về nhiệm vụ kinh tế xã hội - an ninh quốc phòng. Để thực hiện tốt Nghị quyết của Hội động Nhân dân Thành phố và kế hoạch của Uỷ ban Nhân dân Thành phố đến quận, huyện, xã đều có kế hoạch tổ chức thực hiện công tác XĐGN, triển khai sâu rộng cuộc vận động trong toàn Đảng, toàn dân giúp nhau XĐGN.
Trong giai đoạn từ năm 1999-2000 Sở Lao động Thương binh - Xã hội Hà Nội đã tập trung chỉ đạo các quận huyện, xã, phường điều tra rà soát, xác lập danh sách hộ nghèo (theo chuẩn quy định thống nhất của cả nước). Kết quả điều tra đã phản ánh được thực trạng tình hình đói nghèo trên địa bàn Thành phố và nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của Thành phố. Trên cuộc cơ sở điều tra đói nghèo sẽ giúp cho việc đánh giá, phân tích những biến động của đói nghèo trên địa bàn Thành phố từ đó giúp cho địa bàn chính quyền địa phương đề ra những giải pháp thích hợp để đẩy nhanh công tác xoá đói giảm nghèo.
Tại thời điểm tháng 1/1999, toàn bộ Thành phố Hà Nội có 11.338 hộ nghèo vớí 41.653 nhân khẩu (chiếm 1,9% tổng số hộ toàn Thành phố), trong đó có 2525 hộ tàn tật ốm đau quanh năm, 108 hộ chính sách. Theo báo cáo của quận, huyện hết tháng 10/2000 Thành phố Hà Nội giảm hộ nghèo được 3849 hộ nghèo, 24 hộ nghèo thuộc diện chính sách. Thể hiện ở bảng như sau:
Mặc dù số hộ nghèo của Thành phố không lớn so với tỷ lệ hộ đói nghèo của cả nước song chương trình xóa đói giảm nghèo lại tập trung vào những nội dung sau:
- Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng: Đây là giải pháp quan trọng nhằm tạo điều kiện cho hộ nghèo sớm có khả năng vươn lên thoát nghèo của Thành phố. Trong những năm qua, Thành phố đã tập trung vào một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng ngoài thành như sau: Hệ thông thuỷ lợi, các đường giao thông liên huyện, liên xã, điện thoại nông thôn, chương trình nước sạch nông thôn, dự án trồng rừng (theo chương trình 5 triệu ha rừng của Chính phủ).
Ngoài ra, còn có các dự án khác như là dự đường giao thông liên xã thuộc huyện Sóc Sơn và hỗ trợ ổn định việc di dân theo dự án do Chi cục điều động Lao động dân cư Thành phố triển khai.
- Cho vay vốn để hộ nghèo phát triển sản xuất: Thêm canh lứa, hoa mầu, chăn nuôi bò, lợn, gia cầm, nuôi cá lồng... và phát triển ngành nghề, dịch vụ vì các hộ nghèo đói đa số là do thiếu vốn sản xuất, chính vì vậy Thành phố đã có chương trình huy động vốn và tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo vay, ngoài nguồn vốn của Chính phủ, các tổ chức trong nước Thành phố còn huy động từ các tổ chức quốc tế.
- Hướng dẫn cách làm ăn, phổ biến kiến thức, kỹ thuật cho người nghèo: Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo đói, bởi các hộ nghèo đói không biết cách làm ăn. để giúp các nhóm người này có được kiến thức, biết cách làm ăn thì không chỉ hỗ trợ về vốn mà phải hướng dẫn về cách làm ăn, giúp họ tiếp cận thị trường, khoa học kỹ thuật và công nghệ mới.
- Hỗ trợ người nghèo về giáo dục, y tế:
+ Về giáo dục: Miễn giảm học phí cho các học sinh, sinh viên nghèo, tiền đóng góp xây dựng, hỗ trợ sách vở, đồ dùng học tập đối với học sinh nghèo.
+ Về y tế: Miễn giảm viện phí đối với hộ nghèo đói. Phương pháp tổ chức thực hiện xoá đói giảm nghèo của Thành phố Hà Nội.
- Hỗ trợ vốn với lãi suất ưu đãi: để người nghèo phát triển sản xuất đồng thời hướng dẫn cách sử dụng vốn có hiệu quả từ các nguồn như:
+ Quỹ hỗ trợ nông dân và người nghèo.
+ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm.
+ Quỹ ngân hàng người nghèo.
+ Quỹ của các hội đoàn thể như quỹ tiết kiệm vì phụ nữ nghèo, quỹ hội cựu chiến bình.
- Có biện pháp tạo việc làm tại chỗ: ưu tiên cho các hộ nghèo không có khả năng vay vốn có việc làm để nâng cao đời sống.
- Các quận, huyện lập danh sách: Đề nghị Thành phố cấp thể bảo hiểm y tế cho toàn bộ người nghèo và đối tượng cứu trợ xã hội, trẻ tàn tật do chất độc hoá học đang hưởng chính sách trợ cấp hàng tháng tại cộng đồng và tổ chức trao thẻ cho đối tượng.
- Đối với học sinh nghèo.
+ Xác nhận thuộc hộ nghèo.
+ Đề nghị nhà trường miễn giảm học phí, tiền đóng góp xây dựng.
+ Hộ trợ vở, đồ dùng học tập.
- Đối với huyện ngoại thành: Căn cứ vào điều kiện chăn nuôi của địa phương, lập danh sách hộ nghèo có khả năng chăn nuôi bò sinh sản để trình Thành phố giao vốn theo hình thức “ Ngân hàng bò” (theo quy chế vay của Thành phố).
- Rà soát, trợ cấp thường xuyên và vận động đỡ đầu cho đối tượng tàn tật ốm đau quanh năm, gia đình không có khả năng thoát nghèo, trong đó đặc biệt quan tâm những hộ có trẻ em tàn tật.
Nhìn một cách tổng thể bức tranh nghèo đói ở Thành phố Hà Nội, ta thấy hiện nay, tỷ lệ nghèo đói ở Thành phố Hà Nội vẫn còn cao và tiềm ẩn nhiều vấn đề mâu thuẫn bên trong cần giải quyết như phân hoá giàu nghèo, các vấn đề xã hội. Muốn xây dựng Thành phố Hà Nội mạnh, công bằng văn minh thì trong thời gian tới chính quyền các cấp Thành phố cần có chính sách hết sức cụ thể để xoá đói giảm nghèo.
2.1.3. Nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của Thành phố Hà Nội .
Thành phố Hà Nội coi “ cái đói, cái nghèo” là một vấn đề cấp bách cần phải giải
quyết. Đó không chỉ là vấn đề xã hội, nhân đạo mà còn là một trong những mục tiêu hàng đầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Vì vậy việc tìm ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng của một bộ phận dân cư của Thủ đô bị nghèo khổ, để từ đó có những giải pháp tài chính sách đúng đắn, thích hợp đối với người nghèo là thực sự quan trọng và cần thiết. Bao gồm những nguyên nhân như sau:
2.1.3.1. Nguyên nhân do thiếu kinh nghiệm sản xuất kinh doanh và thiếu cả kế hoạch chi tiêu trong gia đình..
ở Thủ đô Hà Nội hiện nay có khoảng 32%/ tổng số hộ nghèo là do nguyên nhân này. Có thể nói trong việc sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm đóng vai trò quan trọng, nó càng thể hiện rõ sự quan trọng đó nếu một người có đủ điều kiện sản xuất như có vốn, có đất sản xuất... Nhưng không có kinh nghiệm làm ăn, không có kiến thức sản xuất thì sẽ dễ chọn sai lĩnh vực, cách thức sản xuất kinh doanh, không tính được đầu ra cho sản phẩm hoặc rơi vào tình trạng làm ăn luẩn quẩn, không có lãi mà vẫn đầu tư vào sản xuất... Như thế dễ dàng dẫn đến phá sản và nghèo khổ luôn luôn đe doạ họ.
2.1.3.2. Nguyên nhân do thiếu sức lao động, đông người ăn theo.
Có thể nói sức lao động là yếu tố đầu tiên để quyết định đến thu nhập của con người. Kể cả lao động chân tay và lao động trí óc. Trong một gia đình nếu sức lao động bị thiếu thì chắc chẵn sẽ bị hạn chế rất nhiều về thu nhập, thầm chí còn không đủ phúc vụ nhu cầu tối thiểu như: Ăn, mặc, ở đối với hộ nông nhân khẩu.
ở Thành phố Hà Nội có tới 49%/ tổng số hộ nghèo là do nguyên nhân này. Thực tế cho thấy nhiều hộ có nhâu khẩu là người già và trẻ em nên không có sức lao động hoặc có nhưng chất lượng không cao. Ví dụ người già chỉ có thể bán lẻ vài mặt hàng, trẻ em bỏ học đi làm thuê... số tiền thu được không đủ đáp ứng những bứa ăn đạt mức tối thiểu về nhu cầu dinh dưỡng, ngoài ra không đủ tiền để mua sắm cải thiện đời sống và suốt đời họ phải sống trong cảnh nghèo nàn.
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương để tuyên truyền, vận động hạn chế sinh đẻ. Song vẫn còn không ít những hộ gia đình nghèo vẫn sinh đông con, do đó đời sống của họ đã nghèo càng khó khăn hơn. Ngoài việc lo bữa ăn cho gia đình hàng ngày lại còn phải lo học phí cho con đi học, ăn mặc... và cứ thế các họ nghèo khổ lại nảy sinh bệnh tật kéo dài. Trong thời buổi này, những gia đình kiểu ấy chỉ lo cho đủ ăn, không thể có cơ hội nào để tích luỹ phát triển kinh tế gia đình được. Nhiều gia đình không đủ đề con cái đến trường mà buộc các em phải đi kiếm sống cùng gia đình.
2.1.3.3. Nguyên nhân do thiếu vốn đầu tư sản xuất:
Hà Nội là nơi có nhiều loại hình vay vốn để dân sản xuất kinh doanh, nhưng lại có tới 68%/ tông số hộ đói nghèo là do nguyên nhân này. Điều đó cho thấy, thiếu vốn sản xuất là một vấn đề nổi cộm, là một trong những yếu tố làm ngăn cản các hộ nghèo phấn đấu vươn lên. Có những hộ nghèo học được nghề, có hướng sản xuất nhưng do không có vốn , lại không dám vay vốn, bởi hộ lo ngại vay vốn, mở rộng sản xuất, liệu có mang lại hiệu quả kinh tế không? Hoặc gặp rủi ro, hoặc không kịp hoàn trả vốn vì các dự án cho vay chỉ kéo dài trong 1 năm là phải hoàn trả. Nếu các hộ nông dân triển khai trồng cây ăn quả và cây công nghiệp khác thì chắn chắn không hoàn trả được vốn, hay chăn nuôi gia cầm, gia sức cũng trong tình trạng như vậy, Cũng có hộ vay được vốn nhưng kết quả kinh doanh không đủ để trả lãi không đủ để trang trại chi phí nên cũng bị bại dần, thậm chí còn mang nợ hơn trước.
2.1.3.4. Nguyên nhân do gia đình có người ốm đau, tàn tật quanh năm.
Đói nghèo thường đi đôi với suy kiệt sức lực, phát sinh các loại bệnh tật. Đôi khi chỉ cần một người trong gia đình bị ốm đau kéo dài là có thể kéo theo sự sụp về kinh tế. Ngoài những chi phí tốn kém để chữa trị thì phần mất mất mát nhiều hơn là những người trong gia đình phải xếp công việc lại để phúc vụ bệnh nhân. Bệnh nhân càng ốm đau kéo dài ngày thì người phúc vụ càng phải bỏ việc lâu dài, kết quả là thu nhập kém sút hoặc không còn thu nhập mà vẫn phải chi tiêu. Thực tế qua điều tra hiện nay toàn Thành phố có khoảng 32%/ tổng hộ nghèo là do nguyên nhân này.
2.1.3.5. Nguyên nhân do lười biếng, mắc tệ nạn xã hội, rủi ro.
- Bất kỳ một xã hội nào cũng đều tồn tại một nhóm người lười biếng và có thói quen hư tật xấu khác như: rượu chè, cờ bạc, nghiệm hút... và đó là một nhóm nguyên nhân dẫn đến một nhóm người trong cộng đồng xã hội đi phá sản cơ nghiệp, chấp nhận cảnh bần cùng đói sách.
- Gặp rủi ro cũng là một trong những nguyên nhân khách quan khó tránh, có nhiều loại rủi ro khác nhau. Rủi ro do nhiều thiên tai khắc nghiệt gây lên tình trạng trắng mùa ở một số nơi, rủi ro do tai nạn lao động trong lúc đi đường làm mất khả năng lao động, một phần hay vĩnh viễn, thậm chí mất mạng gây nên những khó khăn không sao bù đắp được. Qua số liệu điều tra hiện nay ở toàn Thành phố Hà Nội có 03%/ tổng số hộ nghèo. Số liệu trên được biểu hiện trong bảng sau đây:
Bảng 03: Tỷ lệ nguyên nhân đói nghèo của Thành phố Hà Nội
Nhóm
Thiếu kinh nghiệp
SXKD
Thiếu sức lao động-đông người ăn theo
Thiếu vốn ĐTSX
Gia đình có người già tàn tật quanh năm
Nghèo do lười biếng, mặc nạn xã hôi, rủi ro
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
Tỷ lệ hộ nghèo
32%
49%
68%
32%
03%
Số hộ nghèo
1972
3019
4190
1972
185
(Nguồn Sở LĐ TB-XH Hà Nội )
* Sự tác động qua lại giữa các nguyên nhân:
Qua phân tích các nhốm nguyên nhân trên ta có thể thấy rằng có hàng chục nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo. Các hộ đói nghèo đa số đều chịu sự chi phối của nhiều nguyên nhân chứ ít gặp cá nguyên nhân đơn nhất một nguyên nhân. Đặc biệt có những hộ nghèo phải chịu sự ảnh hưởng của tất cả các nguyên nhân. Các nguyên nhân này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đan xen lẫn nhau làm cho công tác xoá đói giảm nghèo trở nên phức tạp. Giữa các nguyên nhân cũng tồn tại mỗi quan hệ, sự gia tăng của nguyên nhân này làm sâu sắc thêm tác động của nguyên nhân kia, tất cả các mỗi quan hệ đó sẽ tạo thành một vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Lấy ví dụ như: Nghèo do thiếu vốn dẫn đến đầu tư thấp, dẫn đến thiếu điều kiện sản xuất kinh doanh, dẫn đến năng suất thấp, dẫn đến tích luỹ thấp và nói lại là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo.
Từ trên cho thấy việc xoá đói giảm nghèo không chỉ tiến hành riêng rẽ một giải pháp nào đó mà phải đồng thời giải quyết tất cả các giải pháp trọng tâm, trọng điểm, xử lý hợp lý giữa các giải pháp trước mặt và lâu dài, thông qua sự phân tích mối quan hệ trên giữa nguyên nhân gây nên tình trạng đói nghèo.
2.2. Thực trạng cơ chế, chính sách tài chính Nhà nước trong việc xoá đói giảm của Thành phố Hà Nội .
Chương trình “xóa đói giảm nghèo” được Nhà nước phát động từ năm 1990 nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đến năm 1994 Thành phố Hà Nội mới được chính thức thành lập ban chỉ đạo “ trợ giúp người nghèo”.
Thành phố Hà Nội đã xác định công xác “ xoá đói giảm nghèo” là một trong những nhiệm vụ cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài, đó là một chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước. Thành phố Hà Nội đã chủ trương giải quyết các vẫn đề thông qua bằng các biện pháp Tài chính-Kinh tế-Xã h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0300.doc