Một số giải pháp quản lý rủi ro tín dụng ở Ngân hàng thương mại và cổ phần nhà Hà Nội HABUBANK

Tài liệu Một số giải pháp quản lý rủi ro tín dụng ở Ngân hàng thương mại và cổ phần nhà Hà Nội HABUBANK: Lời mở đầu Trong thời gian gần đây, bên cạnh những kết quả đã đạt được, nền kinh tế thị trường cũng đã xuất hiện những mặt trái của nó: sự cạnh tranh gay gắt khiến cho một số doanh nghiệp phá sản, tình trạng làm ăn mang tính chất lừa đảo nhằm kiếm lợi bất chính của một số đối tượng làm cho nền kinh tế thị trường thêm phức tạp. Trong bối cảnh đó, hoạt động của Ngân hàng cũng khó tránh khỏi sự tác động của nền kinh tế thị trường. Dịch vụ tiền tệ, tín dụng ngân hàng có tính chất đặc thù khác với ... Ebook Một số giải pháp quản lý rủi ro tín dụng ở Ngân hàng thương mại và cổ phần nhà Hà Nội HABUBANK

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp quản lý rủi ro tín dụng ở Ngân hàng thương mại và cổ phần nhà Hà Nội HABUBANK, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những hàng hoá, dịch vụ thông thường. Ngân hàng dễ trở thành nạn nhân khi các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng chịu sự tác động của nhiều yếu tố khiến cho rủi ro dễ xảy ra, trong đó rủi ro tín dụng là dễ xảy ra nhất. Khi xảy ra rủi ro tín dụng, Ngân hàng sẽ phải chịu thiệt hại mất mát lớn. Làm thế nào để hạn chế tối đa rủi ro tín dụng là một bài toán nan giải do tín dụng là nghiệp vụ hàng đầu có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Qua quá trình hoc tập và tìm hiểu trên các kênh thông tin, qua đợt thực tập tại Ngân hàng thương mại và cổ phần nhà Hà Nội HABUBANK và đặc biệt là sự hướng dẫn của thầy giáo, em quyết định nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp quản lý rủi ro tín dụng ở Ngân hàng thương mại và cổ phần nhà Hà Nội HABUBANK”. Chuyên đề thực tập bao gồm các chương: Chương I: Những lý luận cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng Chương II: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội HABUBANK Chương III: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại và cổ phần nhà Hà Nội HABUBANK Để hoàn thành chuyên đề này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo TS.Phạm Vũ Thắng và các cô chú trong ngân hàng thương mại và cổ phần nhà Hà Nội HABUBANK Chương I: Những lý luận cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng 1. Rủi ro tín dụng 1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng và phân loại rủi ro tín dụng 1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng Trong nền kinh tế thị trường, một trong những chức năng kinh tế cơ bản của Ngân hàng là cung cấp tín dụng. Đối với đa số các ngân hàng, thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng ½ đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng và dư nợ tín dụng thường chiếm tới ½ tổng tài sản có. Thêm vào đó, trong kinh doanh ngân hàng, rủi ro thường có xu hướng tập trung vào danh mục tín dụng. Khi ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn tài chính nghiêm trọng, nguyên nhân chủ yếu phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Từ việc ngân hàng buông lỏng quản lý, không minh bạch trong việc cấp tín dụng, thi hành một chính sách tín dụng kém hiệu quả, hay do sự đi xuống không lường trước được của nền kinh tế có thể dẫn đến rủi ro tín dụng và ngân hàng không thu hồi được vốn. Chính vì lý do này, mỗi khi cán bộ thanh tra đến ngân hàng, họ luôn kiểm tra chi tiết danh mục tín dụng của ngân hàng, trong đó bao gồm: phân tích toàn bộ các hồ sơ tín dụng và hồ sơ bảo đảm tín dụng đối với các khoản tín dụng lớn, kiểm tra ngẫu nhiên đối với các khoản tín dụng vừa và nhỏ, trên cơ sở đó sẽ đưa ra đánh giá chính sách tín dụng của ngân hàng nhằm bảo đảm sự lành mạnh và hiệu quả, qua đó bảo vệ những người gửi tiền và cổ đông của ngân hàng. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh khi một hoặc các bên tham gia vào hợp đồng tín dụng không có khả năng thanh toán cho các bên còn lại. Đối với ngân hàng thương mại, rủi ro tín dụng xảy ra trong trường hợp ngân hàng không thu hồi được toàn bộ cả gốc và lãi của các khoản cho vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi vay không đúng thời hạn đã quy định. Nếu như tất cả các khoản cho vay của ngân hàng đều được thanh toán đầy đủ và kịp thời hạn cả gốc và lãi thì rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Ngược lãi, nếu khách hàng vay tiền không có khả năng hoàn trả hoặc cố ý không hoàn trả ngân hàng thì rủi ro tín dụng sẽ nẩy sinh. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại mà còn diễn ra trong nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác như hoạt động cho thuê tài chính, tài trợ xuất nhập khẩu và bảo lãnh. 1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng Có thể nói rằng rủi ro tín dụng là một vấn đề tất yếu khách quan trong hoạt động của tất cả các Ngân hàng thương mại. Vấn đề cần đặt ra là làm sao để có thể ngăn ngừa, hạn chế đến mức tối đa những rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Muốn làm được điều đó, trước hết các Ngân hàng cần phân loại được các loại rủi ro tín dụng. Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà ta có thể phân loại rủi ro tín dụng thành các nhóm: - Phân loại rủi ro tín dụng theo loại cho vay: + Rủi ro tín dụng đối với các khoản cho vay dùng để tài trợ vốn lưu động: Do thời gian luân chuyển của vốn lưu động tương đối nhanh dẫn đến thời gian hoàn trả khoản vay cũng nhanh, do đó mức độ rủi ro tín dụng cũng thấp hơn. + Rủi ro tín dụng đối với các khoản cho vay dùng để tài trợ cho tài sản cố định: Đối với các khoản vay này rủi mức độ rủi ro tín dụng thường cao vì thời gian vay vốn dài, hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình của tài sản cố định cũng rất cao. + Rủi ro tín dụng đối với các khoản cho vay dùng để tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu: Mức độ rủi ro của các khoản vay này thường ít nhưng cũng có thể tăng cao trong trường hợp có chiến tranh, thiên tai xảy ra ảnh hưởng đến thời gian giao hàng, khách hàng không có tiền trả nợ ngân hàng đúng thời hạn. - Phân loại rủi ro tín dụng theo thời gian của khoản vay: + Rủi ro tín dụng xảy ra đối với các khoản vay ngắn hạn: là loại rủi ro tín dụng đối với các khoản tín dụng có thời gian từ 12 tháng trở xuống. + Rủi ro tín dụng xảy ra đối với các khoản vay trung và dài hạn: là loại rủi ro tín dụng đối với các khoản tín dụng có thời gian trên 12 tháng. Thông thường mức độ rủi ro tín dụng của các khoản vay ngắn hạn thường thấp hơn rủi ro tín dụng của các khoản cho vay trung và dài hạn. Do đó, cho dù lãi suất cho vay của các khoản vay trung và dài hạn này thường hấp dẫn hơn nhưng các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam vẫn hạn chế việc mở rộng hoạt động tín dụng đối với loại cho vay này. - Phân loại rủi ro tín dụng theo nguyên nhân gây ra rủi ro: + Rủi ro tín dụng có nguyên nhân từ phía khách hàng. + Rủi ro tín dụng có nguyên nhân từ phía Ngân hàng. + Rủi ro tín dụng phát sinh từ các nguyên nhân khác. - Phân loại rủi ro tín dụng theo khách hàng vay: + Rủi ro tín dụng đối với khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước. + Rủi ro tín dụng đối với khoản vay của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.2. Nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng 1.2.1. Nguyên nhân chung Là những nguyên nhân do môi trường bên ngoài tác động, không xuất phát từ ngân hàng hay khách hàng trong cuộc sống hàng ngày. Cụ thể đó là: - Những nguyên nhân mang tính bất khả kháng: là những rủi ro mà bản thân khách hàng và ngân hàng không thể lường trước được. - Do cơ chế, chính sách kinh tế của Nhà nước thay đổi bất thường. Chức năng can thiệp vào nền kinh tế và điều khiển một cách gián tiếp thông qua pháp luật, chính sách, thuế của Nhà nước vô cùng quan trọng, tuy nhiên sự thay đổi của các chính sách cũng có thể tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp cũng như các Ngân hàng. - Sự biến động của tình hình kinh tế-chính trị-xã hội trong và ngoài nước cũng là nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro, đe doạ hoạt động của các ngân hàng. - Do sự ảnh hưởng của chu kỳ phát triển kinh tế: nếu nền kinh tế ở trong thời kỳ khủng hoảng, suy thoái sẽ dẫn đến rủi ro cao trong hoạt động của hệ thống các ngân hàng thương mại. - Do sự lỏng lẻo của môi trường pháp lý. 1.2.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng Trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng thua lỗ, thậm chí có thể dẫn đến phá sản, không có khả năng trả nợ đầy đủ và đúng thời hạn đã cam kết vớí Ngân hàng. Cụ thể như sau: - Khách hàng gặp phải những sự cố trên thị trường cung cấp và tiêu thị sản phẩm. Do sự thay đổi về giá cả, chất lượng, sảm lượng hàng hóa dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng. - Tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu kém. - Lãnh đạo doanh nghiệp còn yếu kém trong hoạt động điều hành sản xuất kinh doanh. - Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp quá lạc hậu, không thể sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao cạnh tranh trên thị trường. - Do vấn đề tham nhũng trong nội bộ doanh nghiệp. 1.2.3. Nguyên nhân từ chính bản thân ngân hàng Quá trình hoạt động của Ngân hàng còn nhiều khâu chưa hợp lý, đặc biệt là quá trình quản lý thực hiện tín dụng, cơ chế chính sách tín dụng còn nhiều sơ hở để khách hàng có thể lợi dụng để chiếm đoạt vốn của Ngân hàng. Cụ thể là: - Do không phân tích về khách hàng đầy đủ và chính xác trước khi cho vay, trong quá trình cho vay không kiểm tra và giám sát chặt chẽ việc sử dụng tiền vay, không thẩm định kỹ càng dự án của khách hàng. - Do ngân hàng không thu thập đầy đủ thông tin chính xác về khách hàng trước khi cho vay. - Do sự bất cập trong trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên cũng như công nghệ Ngân hàng. - Do sự cạnh tranh gay gắt trong hệ thống Ngân hàng đã dẫn đến việc các Ngân hàng đơn giản hoá các thủ tục trong thẩm định tín dụng cho vay dể lôi kéo khách hàng. - Do ngân hàng thực hiện không tốt thậm chí không thực hiện các bảo đảm tín dụng như: cầm cố bảo lãnh, thế chấp và trong các nghiệp vụ tạp nên nguồn thu dự phòng của Ngân hàng. Vì những lý do trên mà rủi ro tín dụng luôn có thể xảy ra đối với các Ngân hàng. 1.3. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng Hoạt động sản xuất kinh doanh của người đi vay luôn chịu sự ảnh hưởng từ sự biến động của thị trường, khi thị trường vân động theo tính thiếu sự ổn định tương đối thì nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng càng lớn. Vì thế, nếu như việc quyết định cho vay chủ yếu dựa trên cơ sở những dự báo về biến động cảu thị trường thì sau khi cho vay cũng cần thiết phải tiếp tục xem xét, giám sát người vay đã sử dụng số tiền vay như thế nào, và đặc biệt quan trọng là họ đã xử sự như thế nào trước những biến động của thị trường. Hơn thế nữa, những tài sản mà khách hàng đưa ra làm thế chấp cũng là một loại hàng hoá trên thị trường nên cũng chịu sự biến động, nhiều khoản vay tuy đã có tài sản làm đảm bảo nhưng rủi ro không thu được nợ vẫn có thể xảy ra do tài sản không hội đủ yếu tố pháp lý, khó mau bán do ban đầu đã định giá quá cao hoặc tài sản đã bị giảm giá… Chính vì những lý do trên, việc phát hiện sớm những dấu hiệu có thể dẫn đến rủi ro tín dụng là một yêu cầu vô cùng quan trọng. 1.3.1. Nợ quá hạn Nợ quá hạn là dấu hiệu đặc trưng nhất của rủi ro tín dụng. Nợ quá hạn là những khoản tín dụng cấp ra mà không được thanh toán đầy đủ và đung thời hạn như trong hợp đồng tín dụng. Như vậy, có thể nói rằng nợ quá hạn là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo, khi người đi vay vi phạm các nguyên tắc tín dụng. Không hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn có thể gây ra đổ vỡ lòng tin của người cấp tín dụng đối với người được cấp tín dụng. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì mức độ rủi ro tín dụng của Ngân hàng sẽ càng lớn. Nợ quá hạn là rủi ro trong hoạt động tín dụng và cũng là vấn đề của tất cả các Ngân hàng thương mại trên toàn thế giới, vì vậy, nợ quá hạn được coi như một hiện tượng bình thường của hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, hoạt động của ngân hàng sẽ tê liệt nếu như tỷ lệ nợ quá hạn quá cao, khi đó Ngân hàng sẽ không thu hồi được vốn để thực hiện các hoạt động kinh doanh khác và để trả tiền cho những người gửi tiền. Do đó vấn đề ngăn ngừa, hạn chế nợ quá hạn là một công tác rất quan trọng đối với mọi Ngân hàng thương mại. Hiện nay, nhiều nhà quản lý cho rằng tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ ở mức từ 3%-5% là có thể chấp nhận được trong hoạt động tín dụng. Có nhiều loại hình nợ quá hạn khác nhau, mỗi loại phản ánh rủi ro tín dụng ở những góc cạnh khác nhau. Phân loại nợ quá hạn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đánh giá mức độ rủi ro tín dụng và trong việc đề ra các biện pháp xử lý thu hồi nợ. 1.3.2. Lãi quá hạn Đó là số tiền lãi mà khách hàng không trả được khi đến thời hạn thanh toán lãi cho Ngân hàng. Khoản lãi thanh toán không gắn với việc trả gốc và có giá trị không lớn, được trả vào ngày xác định được ghi trên hợp đồng tín dụng, khi doanh nghiệp không trả được khoản lãi tiền vay thể hiện doanh nghiệp đang gặp khó khăn đặc biệt về tài chính. Nếu điều đó xảy ra thì doanh nghiệp phải điều tra rõ, từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục để hạn chế những thiệt hại cho Ngân hàng cũng như cho doanh nghiệp. 1.3.3. Những dấu hiệu khác Ngoài những dấu hiệu quan trọng đã nêu ở trên, rủi ro tín dụng còn có thể nhận biết qua: - Người đi vay cố tình không nộp hoặc trì hoãn việc nộp các báo cáo tài chính cho Ngân hàng. - Khi cán bộ tín dụng yêu cầu khảo sát tình hình sử dụng vốn, người đi vay cố tình trì hoãn trong việc sắp xếp các cuộc viếng thăm cơ sở sản xuất của mình, có những biểu hiện thiếu thiện chí trong mối quan hệ hợp tác với Ngân hàng. - Sử dụng vốn không đúng mục đích. - Trong hoạt động sản xuất kinh doanh có sự tăng lên bất thường các khoản phải thu hoặc hàng tồn kho. - Người đi vay xin hoãn trả nợ hoặc khất nợ. - Có biểu hiện không lành mạnh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của người đi vay, chất lượng sản phẩm hay dịch vụ giảm sút, đánh mất uy tín trên thị trường, với bạn hàng và người tài trợ, quan hệ giao dịch với các đối tác của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, các đối tác huỷ bỏ hợp đồng kinh doanh với doanh nghiệp. - Thay đổi trong cơ cấu tổ chức quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, biểu hiện qua một số hình thức như công nhân nghỉ việc, thu hẹp quy mô sản xuất và chủnh loại sản phẩm… - Sự thay đổi của giá trị hợp đồng bảo đảm và bảo hiểm tài sản liên quan. - Khả năng xuất hiện tranh chấp về các vật bảo đảm có liên quan đến các chủ nợ khác của người vay. - Hoạt động sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bão lụt, hoả hoạn, hạn hán… - Trên đây là những biểu hiện về khó khăn tài chính đối với người đi vay, sự xuất hiện của một trong những dấu hiệu này báo hiệu khả năng người đi vay khó có khả năng hoặc không có ý định hoàn trả khoản tiền đã vay cho Ngân hàng. Ngân hàng cần dựa vào các dấu hiệu này để dự đoán, phát hiện sớm và tìm ra các biện pháp ngăn ngừa, xử lý kịp thời và có hiệu quả. 1.4. Tác động của rủi ro tín dụng đối với hoạt động của Ngân hàng thương mại Rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra đối với các Ngân hàng thương mại nếu như họ luôn nhận được cả gốc và lãi của các khoản cho vay đúng thời hạn, ngược lại nếu người đi vay có tình hình tài chính không thuận lợi thì cả gốc và lãi của khoản vay bị đặt trong tình trạng rủi ro không thu hồi được. Tuỳ theo từng mức độ rủi ro mà ảnh hưởng đến hoạt động của các Ngân hàng nhiều hay ít. Rủi ro tín dụng ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường tài chính, làm ảnh hưởng đến thu nhập của Ngân hàng, giảm khả năng thanh toán của Ngân hàng và gây ra nguy cơ mất vốn kinh doanh, dẫn đến phá sản Ngân hàng. Hoạt động tín dụng là hoạt động thường xuyên và cơ bản nhất của Ngân hàng thương mại, phần lớn thu nhập của Ngân hàng xuất phát từ hoạt động tín dụng. Do đó, thu nhập của Ngân hàng sẽ trực tiếp bị ảnh hưởng khi rủi ro tín dụng xảy ra dù ở bất kỳ mức độ nào. Rủi ro tín dụng không chỉ làm giảm thu nhập của Ngân hàng từ hoạt động tín dụng, mà còn có ảnh hưởng lớn làm giảm thu nhập từ các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng. Khi hoạt động tín dụng phát triển, chất lượng tín dụng được cải thiện thì sẽ có tác dụng thúc đẩy các hoạt động khác phát triển. Ngược lại, nếu như hoạt động tín dụng có chất lượng không cao sẽ không thể thúc đẩy mà thậm chí còn làm cản trở các hoạt động khác, kết quả là thu nhập của Ngân hàng sẽ giảm sút. Trong nền kinh tế, tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc điều hoà vốn và sự thành công của chính sách tiền tệ quốc gia. Rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm Ngân hàng chậm hoặc không có khả năng thu hồi vốn để tiếp tục cho vay, qua đó làm giảm khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế. Hoạt động Ngân hàng thể hiện tính xã hội hoá cao, khi một Ngân hàng rơi vào tìng trạng đổ vỡ sẽ gây ảnh hưởng xấu đến các Ngân hàng khác. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng dựa trên cơ sở huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và sử dụng vốn đó để cung cấp cho những người thiếu vốn. Rủi ro tín dụng xảy ra gây ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh toán của Ngân hàng, tình trạng này nếu kéo dài sẽ làm mất lòng tin của người gửi tiền. Các Ngân hàng lâm vào tìng trạng khó khăn, gây ra sự mất ổn định của hệ thống Ngân hàng nói riêng và mất ổn định của toàn bộ hệ thống tài chính quốc gia nói chung, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của nền kinh tế. Tóm lại rủi ro tín dụng luôn phát sinh và tồn tại cùng với hoạt động của hệ thống Ngân hàng, khó lường trước. Nó gây ảnh hưởng xấu đến không chỉ hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng mà còn đến toàn bộ nền kinh tế. Vì lẽ đó, quản lý rủi ro tín dụng đang là vấn đề bức xúc đặt ra với các nhà quản lý Ngân hàng. 2. Quản lý rủi ro tín dụng 2.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng Để có một khái niệm chính xác, đầy đủ về quản lý rủi ro tín dụng, có thể có nhiều cách định nghĩa khác nhau, điều này do mục đích của việc nghiên cứu quyết định. Trên giác độ quản trị Ngân hàng thì việc định nghĩa quản lý rủi ro tín dụng là việc trả lời ngắn gọn 4 câu hỏi chính: Ai là người có trách nhiệm quản lý? Đối tượng cần quản lý là ai? Mục đích và các công cụ quản lý là gì? Từ bốn yêu cầu trên, ta có thể nêu ra một định nghĩa khái quát về quản lý rủi ro tín dụng như sau: Quản lý rủi ro tín dụng là việc các nhà quản trị Ngân hàng lập kế hoạch hoạt động và sử dụng các công cụ quản lý thích hợp nhằm tối ưu hoá khả năng thu hồi vốn vay từ khách hàng và hạn chế tối đa tác động tiêu cực của các khoản nợ xấu. 2.2. Mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng Trong những năm gần đây, bên cạnh nhiều thành tựu đã đạt được, nền kinh tế thị trường cũng đang bộc lộ những mặt trái của nó. Sự cạnh tranh gay gắt khiến cho một số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất bị phá sản. Tình trạng làm ăn mang tính chất lừa đảo dưới nhiều hình thức tinh vi nhằm thu được lợi nhuận bất chính của một số đối tượng làm cho bộ mặt thị trường ngày càng phức tạp hơn. Trong bối cảnh đó, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng chịu sự tác động bởi những mặt trái của thị trường. Có thể nói, kinh doanh dịch vụ tín dụng Ngân hàng có tính chất đặc thù khác với các hàng hoá thông thường. Ngân hàng có khả năng trở thành nạn nhân của các vụ lừa đảo mất khả năng trả nợ, dẫn đến rủi ro tín dụng. Cũng như trong phần định nghĩa đã đề cập thì rủi ro không phải bây giờ mới có và cũng không phải mãi đến nay mới được đề cập. Tuy nhiên, làm thế nào để hạn chế một cách tối đa những rủi ro là một bài toán nan giải. Bởi các mục tiêu của Ngân hàng thường có sự mâu thuẫn lẫn nhau, buộc các nhà quản trị cần phải tính toán và lựa chọn. Thứ nhất, tín dụng là một trong những nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của một Ngân hàng. Vì vậy, sự tăng về số dư nợ sẽ là tín hiệu đáng mừng cho Ngân hàng song cũng tiềm ẩn xác suất rủi ro lớn. Lúc này nhà quản trị Ngân hàng đứng trước lựa chọn là số dư nợ tăng và hạn chế rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Thứ hai, khi bước vào cơ chế thị trường thị sự cạnh tranh gay gắt buộc các Ngân hàng giành giật lấy khách hàng, chính sự giành giật này cũng tiềm ẩn rủi ro tín dụng. Lúc này, nhà quản trị lại đứng trước mâu thuẫn giữa cạnh tranh và hạn chế rủi ro tín dụng. Dù trong bất cứ thời lì nào, bối cảnh nào thì yêu cầu cơ bản của Ngân hàng vẫn là “hiện thực, khả thi và hiệu quả”. Để thực hiện được yêu cầu này thì các nhà quản trị phải tính toán đến khả năng lấy những khoản không rủi ro để bù đắp vào những khoản rủi ro đang tiềm ẩn. Dù rằng đứng trước những sự lựa chọn thì mục tiêu của quản lý rủi ro tín dụng vẫn là tối đa hoá tỉ lệ thu hồi vốn thông qua việc duy trì một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và hạn chế đến mức tối đa tác động tiêu cực của các khoản nợ xấu. 2.3. Các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng 2.3.1. Thực hiện công tác sàng lọc khách hàng trước khi cho vay Muốn lựa chon được những khách hàng đạt điều kiện để cho vay, Ngân hàng phải thường xuyên tiến hành sàng lọc khách hàng. Sàng lọc khách hàng được thực hiện chủ yếu qua các hoạt động phân tích đánh giá khách hàng và thẩm định tính khả thi của dự án đầu tư. Để giảm được phần nào rủi ro trong hoạt động tín dụng, khi Ngân hàng tiếp nhận đề nghị vay vốn của khách hàng, cần phải phân tích, thẩm định về khách hàng và xem xét phương án vay vốn. Cán bộ tín dụng cần phải nghiên cứu hết sức cẩn thận dưới nhiều khía cạnh để quyết định xem có cho vay được hay không và nếu cho vay được thì cho vay bao nhiêu, trong thời gian bao lâu và bằng hình thức tín dụng nào… Việc phân tích, thẩm định được tiến hành càng kỹ thì Ngân hàng càng tránh được những rủi ro có thể xảy ra. Đối với mỗi đề nghị vay vốn, cán bộ tín dụng cần phải xác định nội dung, phương pháp thẩm định cụ thể, trong đó thường quan tâm đến các điểm chính sau: Thứ nhất, năng lực tài chính và năng lực pháp ly của khách hàng. Nếu như khách hàng là pháp nhân, phải xem xét sự thành lập đó có hợp pháp hay không. Nếu như khách hàng là thể nhân, phải xem người đó có đủ năng lực pháp lý để giao dịch với Ngân hàng hay không. Đánh giá năng lực tài chính để xác định sức mạnh về tài chính, khả năng độc lập, tự chủ về tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và hoàn trả nợ của người đi vay. Ngân hàng thường dựa vào các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp để đánh giá. Thứ hai, tính cách và uy tín của khách hàng. Để hạn chế rủi ro chủ quan do khách hàng gây ra, phát hiện những âm mưu lừa đảo ngay từ ban đầu của một số khách hàng. Đánh giá không chỉ bởi phẩm chất đạo đức mà còn phải kiểm nghiệm thông qua kết quả hoạt động kinh doanh trong quá khứ, hiện tại cũng như chiến lược phát triển trong tương lai, năng lực của đội ngũ lãnh đạo, quản lý. Uy tín được thể hiện ở chất lượng, giá cả hàng hoá, dịch vụ, mức độ chiếm lĩnh trên thị trường, quan hệ về kinh tế tài chính, vay vốn trả nợ đối với khách hàng, ngân hàng… Việc thẩm định uy tín của khách hàng là yếu tố quan trọng trong quan hệ tín dụng, việc đánh giá sai đối tượng khách hàng có khả năng làm giảm những khách hàng có mối quan hệ tốt với Ngân hàng hoặc cũng có thể Ngân hàng không có khả năng thu hồi nợ đã cho vay, phát sinh rủi ro trong các khoản cho vay. Thứ ba, mục đích vay vốn của khách hàng. Ngân hàng sau khi đã xem xét thông tin về khách hàng thì cần xem xét đến vấn đề khách hàng vay để làm gì, vay bao nhiêu và vay trong khoàn thời gian bao lâu? Nhu cầu vay vốn của khách hàng có thể nhằm bổ sung lượng vốn lưu động còn thiếu, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, vay để tiêu dùng… Ngân hàng cần phải xác minh được khách hàng vay vốn để làm gì, tránh xay ra tình trạng sử dụng vốn sai mục đích đã cam kết sau khi phát vốn vay. Thứ tư, phương án vay vốn và khả năng trả nợ. Cần phải nghiên cứu hiệu quả kinh tế và tính khả thi của phương án vay vốn, bằng việc tiến hành đánh giá, kiểm tra kế hoạch sản xuất kinh doanh và phương án sử dụng vốn vay có phù hợp với thực tế thị trường hay không? Các điều kiện cần thiết để thực thi phương án, các số liệu về chi phí và thu nhập, các định mức kinh tế và kỹ thuật, nguồn tiền để trả nợ… có hợp lý hay không? Khả năng trả nợ của khách hàng phần lớn phụ thuộc vào các nguồn thu trong tương lai khi hợp đồng tín dụng chuẩn bị đến hạn thanh toán, những con số dự tính về nguồn thu trong phương án kinh doanh, cùng với các nguồn thu khác mà khách hàng đã cam kết dùng để trả nợ khi nguồn thu chính có sự cố. 2.3.2.Thẩm định dự án đầu tư Ngân hàng tiến hành thẩm định dự án đầu tư, xem xét hiệu quả kinh tế từ đó mới quyết định cho vay. Trình tự thẩm định bắt đầu nghiên cứu từ hiệu quả kinh tế, sau đó mới xem xét đến các mục khác. Thẩm định dự án vay vốn được tiến hành tuần tự theo các nội dung sau: - Thẩm định về hiệu quả kinh tế của dự án và các điều kiện để vay vốn. Thẩm định hiệu quả kinh tế để quyết định có cho vay hay không nên cần phải thẩm định cả khả năng trả nợ của khách hàng. - Thẩm định về điều kiện vay vốn: Cần phải thẩm định tư cách pháp nhân của chủ đầu tư, nhất là khi có công ty nước ngoài liên quan để tránh gặp phải những công ty không có con dấu riêng đứng ra làm cò mồi. Về vốn đầu tư tham gia dự án, cần phải xem xét về nguồn tài chính của chủ đầu tư. Thẩm định tính chuyển tiếp xem có khớp với dây chuyền thiết bị đang sử dụng không, có tính đồng bộ hay không? - Thẩm định kỹ thị trường đầu vào. - Thẩm định rõ ràng về phương diện tài chính. Ngoài thẩm định dự án đầu tư, Ngân hàng cũng cần phải xem xét kỹ phương án thi công, vì nếu phương án thi công không được tính toán hợp lý thì sẽ kéo dài thời gian thi công và có thể làm lỡ thời cơ đưa công côg trình vào sản xuất kinh doanh đúng thời hạn. 2.3.3. Phân chia và giới hạn rủi ro Để tránh xảy ra rủi ro, Ngân hàng cần tiến hành đa dạng hoá các hình thức đầu tư, Ngân hàng có thể phân chia rủi ro trong hoạt động tín dụng bằng các hình thức sau: Đa dạng hoá khách hàng, tiến hành cho nhiều khách hàng vay. Chính sách khách hàng của từng Ngân hàng là không giống nhau, mỗi Ngân hàng có những thế mạnh riêng và qua đó sẽ lựa chon thị trường mục tiêu phù hợp, Ngân hàng càng có nhiều khách hàng vay thì rủi ro càng được phân chia, tuy nhiên sự phân chia đó cũng có giới hạn. Với quy mô khách hàng lớn thì chất lượng tín dụng của Ngân hàng sẽ khó được đảm bảo chắc chắn, tuy nhiên Ngân hàng vẫn phải chấp nhận một mức độ rủi ro, không phân chia quá mức dẫn đến các phí tổn nhiều so với lợi nhuận thu được. Khi khách hàng có nhu cầu vay một số tiền lớn thì Ngân hàng nên lựa chọn hình thức cho vay đồng tài trợ. Còn khi không có đủ căn cứ để có được một đánh giá hoàn hảo về khách hàng thì Ngân hàng có thể hạ thấp hạn mức tín dụng. Tiến hành cho nhiều ngành hoạt động vay. Ngân hàng đầu tư vốn vào nhiều ngành kinh tế khác nhau thì sẽ có khả năng tránh được những hậu quả nếu có khủng hoảng xảy ra đối với lĩnh vực nào đó, Ngân hàng sẽ phải xem xét, đánh giá rủi ro theo tình hình kinh tế, diễn biến thị trường. Khi thấy tình hình kinh tế biến động theo chiều hướng không thuận lợi hay khi dự đoán thấy có những thay đổi chính sách quan trọng thì Ngân hàng cần phải thận trọng trong việc cho vay vốn tín dụng. Nếu chỉ chú trọng đầu tư vốn vào một số doanh nghiệp hoạt động trong một ngành, lĩnh vực thì khi khủng hoảng xảy ra, khách hàng không thể trả nợ vay được cho Ngân hàng sẽ dẫn đến nợ quá cao. 2.3.4. Một số quy định hạn chế về hạn mức tín dụng, lãi suất, số dư bù Có thể khẳng định là không một Ngân hàng nào lường trước được mọi sự bất ngờ khi đề ra những quy định hạn chế đối với một hợp đồng tín dụng, sẽ luôn có những rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động của người vay tiền. Để ngăn ngừa, giảm thiểu rủi ro tín dụng thì Ngân hàng thường áp dụng biện pháp khống chế khối lượng tín dụng, áp dụng nhiều mức lãi suất khác nhau đối với khách hàng hay quy định số dư bù. Muốn thu được nhiều lợi nhuận, Ngân hàng phải thực hiện các khoản cho vay có kết quả tốt, được hoàn trả đầy đủ và đúng thời hạn cả gốc và lãi. Song do thông tin không đối xứng nên những khách hàng đi vay có những dự án đầu tư rủi ro lại vẫn có thể được lựa chọn, do Ngân hàng có ít thông tin về những cơ hội đầu tư và về hoạt động của các khách hàng vay tiền. Khi người đi vay đã có được món tiền vay, có khả năng họ sẽ đầu tư vào những dự án có rủi ro cao, khiến họ khó có khả năng hoàn trả lại món tiền đã vay cho Ngân hàng. Một trong những phương pháp giúp Ngân hàng đối phó với sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là việc đưa ra hạn mức tín dụng. Ngân hàng có thể từ chối không cho vay đối với những khách hàng nhu cầu vốn quá lớn hoặc cho vay với mức thấp hơn. Hơn thế nữa, khi khách hàng muốn vay vốn đầu tư vào những dự án có rủi ro cao thì họ cũng sẵn sàng chấp nhận mức lãi suất cao. Tuy nhiên Ngân hàng cũng phải thận trọng trong việc lựa chọn khách hàng, không muốn thực hiện các khoản cho vay như vậy, vì khả năng rủi ro tín dụng xay ra là rất lớn. Lãi suất cao hơn chỉ khiến cho sự lựa chọn đối nghịch xấu thêm với Ngân hàng. Để ngăn ngừa rủi ro về đạo đức, Ngân hàng sẽ không cấp khối lượng tín dụng quá lớn cho một khách hàng hay một nhóm khách hàng, chỉ cho vay số tiền ít hơn nhu cầu họ muốn trong đơn đề nghị vay vốn, qua đó có thể kiểm soát được các khoản vay, khả năng thu hồi vốn cao. Để giảm bớt khả năng thiệt hại của Ngân hàng trong trường hợp khách hàng bị phá sản, Ngân hàng cũng đưa ra những quy định về số dư bù. Về thực chất, số dư bù là một dạng của vật thế chấp, đó là số dư bắt buộc phải có trong tài khoản séc của khách hàng và nó sẽ bị Ngân hàng phong toả khi khách hàng vỡ nợ. Số dư bù sẽ giúp làm tăng khả năng trả nợ của món tiền vay, thêm nữa, số dư bù còn đóng vai trò giúp Ngân hàng kiểm soát người vay, mang lại thông tin về tình hình tài chính của khách hàng qua việc theo dõi sự giảm sút trong số dư trên tài khoản séc. Những thay đổi trong thủ tục thanh toán của khách hàng sẽ là dấu hiệu cho Ngân hàng thấy sự thay đổi trong việc sử dụng tiền vay của khách hàng và Ngân hàng cần phải kiểm tra, xem xét qua đó đưa ra biện pháp xử lý kịp thời. 2.4. Ý nghĩa của quản lý rủi ro tín dụng Hiện nay, một trong những mặt yếu kém của hệ thống Ngân hàng thương mại là chất lượng tín dụng thấp, nợ quá hạn cao. Vấn đề cấp bách được đặt ra hiện nay trong quản trị điều hành hoạt động kinh doanh Ngân hàng là làm sao để đảm bảo an toàn tín dụng, cải thiện tình hình tài chính và nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại. Rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, quản lý rủi ro tín dụng nhằm mục đích tối đa hoá tỷ lệ thu hồi vốn thông qua việc duy trì một mức độ rủi ro nhất định. Quản lý rủi ro tín dụng có hiệu quả sẽ góp phần làm ổn định sự hoạt động của bất kỳ Ngân hàng nào. Quản lý rủi ro tín dụng đạt hiệu quả cao tức là Ngân hàng cho vay và thu hồi được cả gốc lẫn lãi đối với hầu hết các khách hàng, góp phần tăng thu nhập cho Ngân hàng, nâng cao uy tín, đạt được niềm tin của khách hàng, khi đó Ngân hàng sẽ có điều kiện thuận lợi để mở rộng tín dụng, thực hiện có hiệu quả chính sách khách hàng. Mặt khác, Ngân hàng với vai trò trug gian tài chính trong nền kinh tế, có mối quan hệ ràng buộc với tất cả các chủ thể liên quan như doanh nghiệp, cơ quan quản lý của Nhà nước, cá nhân và hộ gia đình… Quản lý rủi ro tín dụng có tác dụng rất quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngân hàng cho vay có hiệu quả cũng có nghĩa là khách hàng sử dụng vốn vay đạt hiệu quả cao, qua đó Ngân hàng cũng có khả năng thanh toán lãi cho người gửi tiền. Như vậy nó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao khả nă._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20555.doc
Tài liệu liên quan