Một số giải pháp quản lý Nhà Nước nhằm hạn chế những rủi ro trong hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào Việt Nam trong thời kỳ hôi nhập kinh tế quốc tế

Tài liệu Một số giải pháp quản lý Nhà Nước nhằm hạn chế những rủi ro trong hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào Việt Nam trong thời kỳ hôi nhập kinh tế quốc tế: Mục Lục 2. Thực trạng cấp phép các dự án FDI ở Việt Nam và các nguyên nhân. 43 3. Một số đánh giá nguyên nhân rủi ro từ phía các nhà đầu tư. 47 III. Các hoạt động của Nhà Nước nhằm hạn chế rủi ro trong các dự án FDI tại Việt Nam. 49 1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài..................................................................................50 2 Hướng dẫn hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện các dự án đầu tư, giải quyết các vướng mắ... Ebook Một số giải pháp quản lý Nhà Nước nhằm hạn chế những rủi ro trong hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào Việt Nam trong thời kỳ hôi nhập kinh tế quốc tế

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp quản lý Nhà Nước nhằm hạn chế những rủi ro trong hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào Việt Nam trong thời kỳ hôi nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c, yêu cầu của các nhà đầu tư.. 51 3 Thủ tục hành chính:Cấp và thu hồi giấy phép đầu tư...........................54 4 Tổ chức hoạt động đào tạo nguồn nhân lực liên quan đến hoạt động đầu tư...................................................................................................................55 5 Hoạt động xúc tiến thương mại.............................................................56 Chương III: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động của các dự án FDI tại Việt Nam 57 I. Một số giải pháp 57 1. Các giải pháp chung. 57 2. Các giải pháp tác động trực tiếp đến các dự án FDI. 63 II- Một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước. 65 1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 65 2. Bộ Tài chính 66 3. Bộ Công nghiệp: 67 4. Với các bộ khác. 68 Phần kết luận. 73 Danh mục tài liệu tham khảo 74 Phần mở đầu. I. Đặt vấn đề “ Quốc tế hoá đời sống kinh tế là xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất” Vũ Trường Sơn: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, trường ĐH KHXH & NV, khoa Kinh tế, Nhà xuất bản Thống Kê, Năm 1997, tr 155 Theo đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) là một trong những mục tiêu chiến lược của quốc gia trên thế giới, trong đó có cả các nước đang phát triển tuân theo xu hướng chung của nền kinh tế hội nhập nhằm phát triển nền sản xuất trong nước. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của các nền kinh tế trên thế giới đã rút ra bài học và khẳng định vai trò tích cực, tính an toàn của nguồn vốn FDI, những ưu việt của nó so với vay nợ và đầu tư ngắn hạn ( một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng kinh tế tại các nước đang phát triển do tỷ lệ vay nợ ngắn hạn quá cao, cụ thể năm 2003 ở Thái Lan là 85% trong khi vốn FDI chỉ chiếm 15%: Hàn Quốc cũng trong tình trạng tương tự khi đưa ra chủ trương vay vốn để thành lập các tập đoàn lớn, dẫn đến nợ chồng chất không trả được…) Việt Nam với xuất phát điểm thấp hơn rất nhiều nước khác trên thế giới trong quá trình hội nhập, đầu tư trực tiếp nước ngoài có một vai trò hết sức quan trọng.Việc mở rộng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng theo đó trở thành mục tiêu lâu dài và cơ bản không thể thiếu trong mục tiêu phát triển đất nước. Ngày 29/12/1987 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài, đặt nền tảng pháp lý chính thức cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta. Sau đó là bốn lần bổ sung, sửa đổi và điều chỉnh một số Điều trong Luật Đầu tư nước ngoài vào ngày 30/06/1990, 23/12/1992, 12/11/1996 và năm 2000, 2003 nhằm phù hợp hơn với những thay đổi trong quá trình hội nhập kinh tế đã nhận được sự ủng hộ của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong những năm gần đây, tỷ lệ FDI đầu tư vào Việt Nam có xu hướng tăng cao và đóng góp lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận khách quan về hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả, các rủi ro xảy ra từ các nguyên nhân chủ quan và cả nguyên nhân khách quan gây nên sự cản trở cho các dự án FDI hoạt động và phát triển. Theo những cách nhìn nhận khác nhau thì rủi ro là những sự kiện không may và bất ngờ xảy ra gây nên những thiệt hại đến lợi ích của con người, nó luôn tồn tại song song với cuộc sống và trong mọi hoạt động của con người, hoạt động đầu tư vào các dự án cũng không phải là ngoại lệ. Theo đó thì việc quản lý các rủi ro có thể xảy ra cho các dự án FDI là cần thiết để giảm thiểu các thiệt hại do nó mang lại. II. Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp quản lý Nhà Nước nhằm hạn chế những rủi ro trong hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào Việt Nam trong thời kỳ hôi nhập kinh tế quốc tế” với đối tượng là những rủi ro của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Xuất phát từ những dự án bị rút giấy phép đầu tư hoặc đang hoạt động trong tình trạng thua lỗ. Từ đó đưa ra đánh giá về các nguyên nhân gây nên rủi ro của các dự án. Mục đích của việc nghiên cứu dự án này nhằm phát hiện ra những rủi ro cơ bản mà các dự án FDI ở Việt Nam thường mắc phải, các nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh các rủi ro này và từ đó đưa ra một số giải pháp quản lý Nhà Nước để hạn chế những rủi ro trong các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đưa ra quyết định đầu tư và thu hút nhiều hơn các dự án đầu tư FDI về cả quy mô và chất lượng, đóng góp vào nền kinh tế quốc dân trên mọi phương diện. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này không đưa ra hết tất cả các giải pháp của mọi chủ thể liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam mà chỉ là một số giải pháp chủ yếu từ phía chủ thể là Nhà Nước, giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý vĩ mô các hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nói riêng nhằm phù hợp với tình hình đất nước trong giai đoạn mới, hội nhập kinh tế quốc tế. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài “Một Số Giải Pháp Quản Lý Của Nhà Nước Nhằm Hạn Chế Những Rủi Ro Trong Hoạt Động Của Các Dự án Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài ( FDI ) Vào Việt Nam Trong Thời kỳ Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế” là do chính tôi viết. Tất cả những trích dẫn nguyên văn và không nguyên văn đều đầy đủ và chính xác về nguồn gốc. Các số liệu, kết quả trong chuyên đề này là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế tại Bộ Kế hoạch & Đầu tư. Hà Nội, ngày….tháng….năm 2008 Người cam đoan. Hồ Thị Phương Phần nội dung Chương I Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) và các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của các dự án FDI I. Lý luận về FDI 1. Các khái niệm cơ bản 1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) - Đầu tư trực tiếp cùng với đầu tư gián tiếp và tín dụng thương mại là ba bộ phận cơ bản của vốn đầu tư quốc tế với hình thức là đầu tư tư nhân. - Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về FDI: Theo khái niệm mà Quỹ tiền tệ thế giới IMF trong báo cáo cán cân thanh toán hàng năm đưa ra Banlance of payments, fifth edition, Washington, DC IMF 1993, page 235 thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là là đầu tư có lợi ích lâu dài của doanh nghiệp tại một nước khác (là nước nhận đầu tư- hosting country), không phải tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động ( nước đi đầu tư- source country) và với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp. Uỷ ban thương mại và phát triển thế giới của Liên hợp quốc (UNCTAD) trong Báo cáo về đầu tư thế giới năm 1996 lại đưa ra khái niệm Xem: World Investment Report 1996, United Nations, 1996, page 219. về đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có mối liên hệ lợi ích và kiểm soát lâu dài của một pháp nhân hoặc thể nhân ( là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (với doanh nghiệp FDI hoặc chi nhánh nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp). Quan điểm về FDI ở Việt Nam được quy định trong khoản 1 Điều 2 Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài đươc sửa đổi bổ sung năm 2000: “ đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này” Khoản 1, Điều 2, Luật Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài sửa đổi bổ sung, Năm 2000 . 1.2. Dự án FDI Dự án đầu tư về nội dung là tổng thể các hoạt động dự kiến với các nguồn lực và chi phí cần thiết được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch sử thời gian và địa điểm xác định để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế- xã hội nhất định. Theo sự đa dạng của các khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài thì cũng có những các hiểu khác nhau về dự án FDI . Trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứu thì có thể hiểu, dự án FDI là những dự án đầu tư do các nhà đầu tư nước ngài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2. Các đặc trưng cơ bản Để hiểu rõ hơn về các dự án FDI để nhìn nhận một cách khách quan về các vấn đề còn tồn tại, cần nắm được những đặc trưng cơ bản của các dự án này. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là một hình thức đầu tư nên các dự án FDI cũng mang những đặc trưng cơ bản của các dự án đầu tư. Thứ nhất, đây là hoạt động bỏ vốn của các nhà đầu tư và vì vậy các quyết định đầu tư thông thường là quyết định về tài chính và mỗi quyết định đưa ra đều phải cân nhắc giữ lợi ích trước mắt và các lợi ích lâu dài của dự án. Thứ hai, các hoạt động của các dự án đầu tư luôn mang tính chất lâu dài.Trước bất cứ một hoạt động nào đều cần có chi phí hoạt động và mang lại một kết quả nhất định. Thứ ba, cũng như những dự án đầu tư khác,rủi ro chính là một trong những đặc trưng cơ bản của các dự án FDI. Bên cạnh đó, các dự án FDI cũng có những đặc trưng riêng để phân biệt với các dự án khác không có các yếu tố nước ngoài.Các dự án FDI có sự tham gia của các bên có quốc tịch và ngôn ngữ khác nhau, và vì vậy các dự án bị chi phối bởi nhiều hệ thống pháp luật, từ nước đầu tư, nước nhận đầu tư đến hệ thống pháp luật quốc tế. Các nhà đầu tư trực tiếp tham gia hoặc họ có thể tự quản lý và điều hành các dự án và tất cả các đối tượng bỏ vốn. Ngoài ra,đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức giao lưu giữa các nền văn hoá, tạo ra nhiều hình thức kinh doanh mới với những pháp nhân có chứa yếu tố nước ngoài.Quan trọng hơn nữa là góp phần chuyển giao công nghệ và các phương thức quản lý mới giữa các bên. Mục đích cuối cùng của các dự án FDI chính là các bên tham gia hoạt động đầu tư cùng có lợi, hoạt động sẽ mang lại lợi ích chung cho mọi chủ thể tham gia. 3. Vai trò của FDI đối với nền kinh tế 3.1. Những ảnh hưởng tích cực đối với tăng trưởng kinh tế Xem: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, Nguyễn Văn Tuấn, Nhà xuất bản Tư Pháp, năm 2005, tr181-219 - Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế,giúp cho nước tiếp nhận đầu tư huy động mọi nguồn lực sản xuất. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế.Có thể coi đó là một nhân tố hay cú huých lớn để phá vỡ vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh chuyển giao công nghệ làm khoảng cách công nghệ giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư bị thu hẹp.Bên cạnh đó tạo phản ứng tích cực phổ biến công nghệ và hoạt động phát minh công nghệ. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần nâng cao chất lượng lao động,phát triển nguồn nhân lực.Hoạt động của các dự án FDI giúp trực tiếp đào tạo lao động và gián tiếp nâng cao chất lượng lao động của nước tiếp nhận đầu tư. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội,góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư.Bên cạnh đó, còn giúp thúc đẩy xuất khẩu, xây dựng năng lực xuất khẩu và mở rộng thị truờng xuất khẩu. +Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có vai trò trong việc cải thiện cán cân thanh toán và giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. +Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần bảo vệ môi trường, khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và góp phần vào quá trình mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế . 3.2. Những thách thức và hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài - Vốn do hoạt động FDI cung cấp có chi phí vốn lớn hơn so với các nguồn vốn khác từ nước ngoài.Trong truờng hợp được cung cấp với một số lượng lớn sẽ gây ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ của một quốc gia. - Chuyển giá là một trong những vấn đề mà các nước tiếp nhận đầu tư lo ngại, gây ra cạnh tranh không lành mạnh và dẫn đến hạn chế đối với nền kinh tế. - Tác động gây ô nhiễm môi trường thông qua hoạt động sản xuất của các dự án.Các nước đi đầu tư cần nơi thải công nghệ lạc hậu nhằm đổi mới công nghệ của mình và như vậy các nước nhận đầu tư, đặc biệt là các nước kém và đang phát triển trở thành bãi rác công nghệ. - Về lao động,người lao động làm việc trong doanh nghiệp FDI thường đòi hỏi phải có trình độ lao động cao nếu không đáp ứng sẽ bị sa thải.Bên cạnh đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có tác động tiêu cực với cạnh tranh, cán cân thanh toán và chính trị. II. Rủi ro trong các dự án FDI. 1. Khái niệm và tính chất của các rủi ro trong các dự án FDI 1.1. Khái niệm về rủi ro. Có rất nhiều khái niệm về rủi ro được nhắc đến trong các lĩnh vực khác nhau của dời sống kinh tế xã hội Rủi ro đề cập đến những sự kiện, vấn đề không may mắn, bất ngờ xảy ra gây những thiệt hại cho lợi ích con người, tài sản, nguồn lợi và trách nhiệm. Một số giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong triển khai thực hiện các dự án FDI tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Hà Nội 2001, Số 12, tr7-9 1.2. Một số tính chất. Rủi ro là một trạng thái tiềm ẩn gây nên những mối nguy hiểm với các mức độ khác nhau gây tổn thất cho con người nhưng lại rất khó để có thể đo lường trước nó. Từ những khái niệm khác nhau về rủi ro, có thể thấy rủi ro có những tính chất cơ bản sau: - Tính bất ngờ: rủi ro bao gồm những sự kiện mà con người không thể đo lường nó một cách đầy đủ và chắc chắn.Tất cả các rủi ro đều bất ngờ với những mức độ khác nhau dẫn đến việc con người có thể nhận diện rủi ro hay không. Trong trường hợp con người không thể đoán trước được rủi ro và không nhận dạng được thì nó sẽ xảy ra hoàn toàn bất ngờ với con người. Cũng có những rủi ro mà con người nhận dạng được nhưng không thể đo lường một cách chính xác những thiệt hại mà nó có thể mang lại.Tuy nhiên, nếu con người có thể nhận dạng và tính được chính xác các rủi ro có thể đến với mình thì rủi ro sẽ không còn nữa mà nó trở thành những sự kiện bất lợi mà con người không mong muốn xảy ra như thiên tai, thời tiết,... - Tính chất ngoài mong đợi: trong cuộc sống, con người ai cũng mong muốn nhận được lợi ích cũng như những điều tốt đẹp may mắn trong mọi lĩnh vực và hoạt động của cuộc sống.Tuy nhiên trong cuộc sống không phải lúc nào cũng được như vậy. Những điều, những sự kiện không may mắn, gây tổn thất cho cuộc sống của con người luôn tồn tại và trở thành điều không mong muốn trong cuộc sống hay nói cách khác đó là những sự kiện ngoài mong đợi của con người. - Tính sự cố gây ra tổn thất: những rủi ro xảy ra không thể đo lường được hoặc đo lường một cách không chính xác dẫn đến những hậu quả cho con người trong hoạt động họ tham ra có rủi ro. Trên thực tế, tổn thất mà mỗi rủi ro mang lại là không giống nhau, có thể nhiều, ít hay đôi khi có thể coi là không hề mang lại tổn thất gì. Tổn thất mà các rủi ro mang lại tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau: hữu hình (tài sản, vật chất...) hay vô hình (sức khoẻ, tinh thần, trách nhiệm, đạo đức...). Nói cách khác, dù được nhìn nhận dưới những góc độ hay hình thái khác nhau thì rủi ro đều bao hàm trong nó sự bất ngờ, ngoài mong đợi của con người và gây nên những tổn thất khác nhau đối với các hoạt động mà con người tham gia. 2. Phân loại rủi ro Xem: Khoa đầu tư, ĐH KTQD: Giáo trình quản lý dự án đầu tư, Võ Kim Sơn, Bùi Thế Vĩnh, Trần Thế Nhuận, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội 1996 , tr 270-274. 2.1. Phân loại theo tính chất của rủi ro. - Rủi ro thuần tuý: loại rủi ro chỉ có thể dẫn đến những tổn thất về mặt kinh tế hay khả năng kiếm lời của hoạt động. Rủi ro thuần tuý thường đưa đến kết quả mất mát và tổn thất khi xảy ra. Như rủi ro hoả hoạn,cháy nổ sẽ dẫn đến việc mất mát một số tài sản nhưng nếu không xảy ra thì sẽ không gây thiệt hại gì. Rủi ro thuần tuý liên quan đến việc phá huỷ tài sản,động đất gây phá huỷ các toà nhà. Theo đó,rủi ro này có nguyên nhận từ những đe doạ, nguy hiểm rình rập, và vì vậy nên biện pháp để đối phó với nó chính là hình thức bảo hiểm. - Rủi ro suy tính: đây là loại rủi ro xảy ra do ảnh hưởng của các nguyên nhân khó có thể dự đoán và có phạm vi ảnh hưởng rất rộng lớn. Rủi ro suy tính thường xảy ra trong thực tế như: rủi ro tình hình bất ổn về chính trị, giá cả hay mức thuế xuất đối với đối tượng được đầu tư. Đặc điểm cơ bản thường không được bảo hiểm nhưng lại có khả năng đối phó bằng biện pháp rào chắn. 2.2. Theo khả năng dự đoán - Rủi ro có thể tính được: loại rủi ro có tần số xuất hiện có thể đoán được ở mức chính xác và độ tin cậy cao. - Rủi ro không thể tính được: tần số xuất hiện của loại rủi ro này quá bất thường và khó để có thể dự đoán. 2.3. Theo khả năng bảo hiểm rủi ro - Rủi ro không thể bảo hiểm: gồm có rủi ro cờ bạc và suy tính.Các rủi ro này không tồn tại trước đó trong khi bảo hiểm có tác dụng làm giảm rủi ro. - Rủi ro có thể bảo hiểm được: những rủi ro nếu xảy ra có thể dẫn đến các thiệt hại. Nó có khả năng gây thiệt hại của một tập hợp đơn vị tương tự nhau, thiệt hại có tính ngẫu nhiên không phải do tự tạo ra hay do hiện tượng hao mòn vật chất tự nhiên gây ra.Các thiệt hại này phải được định dạng, có thể đo lường và đủ để tạo ra những khó khăn về kinh tế và có xác xuất thiệt hại thảm hoạ thấp. 2.4. Theo nguồn gốc rủi ro. - Rủi ro nội sinh: là những rủi ro do những nguyên nhân nội tại của dự án. Những nhuyên nhân nội sinh thường nhắc đến như: quy mô, mức độ phức tạp, tính mới lạ của dự án, các nhận tố ảnh hưởng đến tốc độ thiết kế và xây dựng, hệ thống tổ chức quản lý dự án. - Rủi ro ngoại sinh: là những rủi ro do những nguyên nhân bên ngoài gây nên. Những nhân tố ngoại sinh thường gặp là lạm phát, biến đổi thị trường, tính sẵn xó của lao động và nguyên liệu,độ bất định về chính trị,những ảnh hưởng của thời tiết. 2.5. Theo phạm vi ảnh hưởng của rủi ro. - Rủi ro cơ bản: là những rủi ro sinh ra từ những nguyên nhân ngoài tầm kiểm soát của con người. Hậu quả mà nó mang lại thường rất nghiêm trọng, khó lường, có ảnh hưởng đến cộng đồng và toàn xã hội.Thường thì hầu hết các rủi ro này xuất phát từ các tác động tương hỗ thuộc về kinh tế, chính trị, xã hội... - Rủi ro riêng biệt: rủi ro xuất phát từ biến cố chủ quan và khách quan từ cá nhân, tổ chức và ảnh hưởng tới lợi ích của từng cá nhân, tổ chức như sai lầm trong lựa chọn chiến lược kinh doanh, đối tác hay mặt hàng kinh doanh trong từng thời kì. 2.6. Phân loại rủi ro theo lĩnh vực. Là cách phân loại rủi ro theo các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Các rủi ro có thể phát sinh từ những lĩnh vực khác nhau của cuộc sống: về chính trị (những thay đổi bất thường của thể chế chính trị), về kinh tế (lạm phát, suy thoái,..) pháp lý (pháp luật, thủ tục hành chính, các hợp đồng kinh tế), môi trường kinh doanh, văn hoá khác nhau giữa các nước, sự mất cân đối về thông tin giữa các bên,… Cụ thể của các nguyên nhân gây nên rủi ro này sẽ được nói rõ ràng hơn khi tìm hiểu về một số rủi ro trong các hoạt động của dự án FDI ở mục tiếp theo. 3. Một số rủi ro trong các hoạt động của dự án FDI 3.1. Rủi ro về chính trị. Là sự thay đổi bất thường của các thể chế chính trị, chiếm đoạt, quốc hữu hoá, sự phận biệt đối xử của chính quyền địa phương,...Ngoài ra, còn lại là những tác động của chiến tranh,bạo lực,...của các thế lực thế giới. Rủi ro về chính trị bao hàm những hành động của chính phủ từ quốc hữu hoá tài sản đến sự thay đổi trong hệ thống thuế làm giới hạn cơ hội kinh doanh của các nhà đầu tư và thường gây hậu quả nặng nề cho doanh nghiệp. 3.2. Rủi ro về kinh tế. Thông thường do các nhân tố vĩ mô gây ra bất lợi cho doanh nghiệp.Bao gồm những yếu tố như lạm phát, suy thoái kinh tế, khă năng thanh toán, dự trữ ngoại tệ,... 3.3. Rủi ro về pháp lý. Rủi ro về pháp lý có nguồn gốc từ sự thay đổi về luật pháp, sự mập mờ, chồng chéo và không thống nhất của các văn bản pháp quy; sự thiếu thông tin phổ biến pháp luật, thiếu chặt chẽ trong các hợp đồng kinh tế,... Loại rủi ro này thường xuất hiện nhiều ở những nước chuyển đổi,những nước mà nền kinh tế đang trong quá trình từng bước hội nhập,đặc biệt là đối với Việt Nam. Hậu quả rủi ro pháp lý là những tranh chấp, kiện tụng giữa các doanh nghiệp, tịch thu hàng hoá của chính quyền,... 3.4. Rủi ro về thông tin Xuất hiện khi những thông tin bị sai lệch, đến chậm hoặc do quá trình phân tích, xử lý thông tin thường dẫn đến việc chủ đầu tư có sự chậm trễ trong các quyết định và thất bại trong kinh doanh. 3.5. Rủi ro về cạnh tranh. Loại rủi ro này là những áp lực bất ngờ không lường trước của chủ đầu tư trước sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng, sự tăng nhanh bất thường về số lượng cũng như quy mô của các doanh nghiệp cùng ngành, sự xâm nhập mạnh mẽ của doanh nghiệp nước ngoài khi Chính phủ mở cửa kinh tế,...Rủi ro cạnh tranh có thể dẫn tới sự thu hẹp về thị trường, thậm chí dự án còn bị thôn tính và bị loại ra khỏi thị trường. 3.6. Rủi ro về văn hoá. Một trong những đặc trưng riêng cơ bản của các dự án FDI là nơi gặp gỡ,làm quen giữa các nền văn hoá khác nhau.Vì vậy, sự khác nhau về văn hoá đã và đang là nguyên nhân làm tăng cơ hội hiểu lầm đáng tiếc có thể dẫn công ty mất thị phần mục tiêu. Rủi ro về văn hoá bắt nguồn từ sự không am hiểu về phong tục, tập quán, lối sống, cách sống, ngôn ngữ sử dụng... 3.7. Rủi ro từ môi trường tự nhiên. Các yếu tố trên được nhắc đến có tác động mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh nói chung và đến các hoạt động của doanh nghiệp FDI nói riêng. Bên cạnh đó, còn có một số rủi ro từ việc ra quyết định ( xuất hiện do xác định sai mục tiêu, sai định hướng chiến lược kinh doanh, sai lệch về thông tin thị trường,... dẫn đến sự lực chọn về thời gian, địa điểm, phương thức, quy mô đầu tư,...); rủi ro từ việc xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư ( vấn đề thi công xây dựng các dự án đầu tư kéo dài,...); rủi ro từ những tác nghiệp sai lầm, ý thức, tinh thần trách nhiệm của các nhà đầu tư, các nhà quản lý và của các thành viên tổ chức,... cũng là những yếu tố tác động mạnh mẽ đến quá trình vận hành các doanh nghiệp. Có rất nhiều những nguyên nhân khác nhau do nhiều chủ thể mang lại những rủi ro và gây thiệt hại cho các dự án.Với mỗi nguyên nhân khác nhau cần đưa ra phương pháp quản lý phù hợp nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại có thể có. Dưới đây là một số phương pháp quản lý rủi ro đã được biết đến và sử dụng trong các hoạt động của dự án III. Quản lý rủi ro. 1. Phương pháp mà các nhà đầu tư lựa chọn để quản lý rủi ro Mỗi chủ thể tham gia vào hoạt động FDI đều có những phương thức quản lý khác nhau cho mỗi dự án trong tững giai đoạn .Dưới đây là một số phương pháp quản lý rủi ro mà các nhà đầu tư lực chọn để quản lý rủi ro trong các dự án FDI Xem: Khoa đầu tư, ĐH KTQD: Giáo trình quản lý dự án đầu tư, Võ Kim Sơn, Bùi Thế Vĩnh, Trần Thế Nhuận, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội 1996, tr 278-282 . 1.1. Né tránh rủi ro. Phương pháp đầu tiên được nhắc đến trong các phương pháp quản lý rủi ro là né tránh rủi ro. Theo đó với phương pháp này, nhà đầu tư không chấp nhận các dự án có độ rủi ro quá lớn, loại bỏ khả năng gậy thiệt hại của dự án. Trường hợp áp dụng: khi khả năng bị thiệt hại cao với mức độ lớn, gây tổn hại quá cao đối với nhà đầu tư. Phuơng pháp này có thể được sử dụng ngay trong giai đoạn đầu của dự án đầu tư, khi đánh giá mức độ rủi ro quá cao thì loại bỏ ngay trong đầu chu kỳ của dự án . Tuy nhiên vẫn có những rủi ro không thể né tránh được,khi đó chỉ có thể làm giảm thiệt hại của rủi ro chứ không thể loại trừ khả năng xảy ra. 1.2. Chấp nhận rủi ro. Đây là trường hợp các chủ đầu tư hoặc cán bộ dự án hoàn toàn có thể biết trước về rủi ro và thiệt hại khi nó xảy ra. Nhà đầu tư thường chỉ chấp nhận rủi ro khi thiệt hại không quá lớn và mức độ thiệt hại nhỏ. Ngoài ra, có những rủi ro mà đơn vị phải chấp nhận trong quá trình hoạt động của dự án và buộc phải sử dụng phương pháp này. 1. 3.Tự bảo hiểm. Là phương pháp quản lý rủi ro trong đó các nhà đầu tư chấp nhận rủi ro và tự nguyện kết hợp với nhau thành nhóm bao gồm nhiều dự án có cùng những rủi ro gần tương tự, đủ để dự đoán chính xác tần suất xảy ra cũng như mức độ thiệt hại.Từ đó, họ có chuẩn bị trước nguồn quỹ để bù đắp cho những thiệt hại khi nó xảy ra. Đây cũng là một hình thức chấp nhận rủi ro. Thường là sự kết hợp giữa các đơn vị trong cùng một công ty mẹ hoặc là cùng một ngành, thường có cùng các rủi ro. Lợi thế của phương pháp này là ngăn ngừa các thiệt hại,các thủ tục chi trả bảo hiểm cũng có thể được tiến hành nhanh gọn, giúp nâng cao khả năng sinh lời do có khả năng xoay vòng vốn. Tuy nhiên, với phương pháp này, đơn vị phải chi trả cho việc vận hành các chương trình bảo hiểm, phải mua và cung cấp nội bộ các dịch vụ nhằm ngăn ngừa thiệt hại bà khi rủi ro xảy ra cần có người theo dõi và quản lý chương trình tự bảo hiểm. Điều này dẫn đến việc chi phí bỏ ra khá lớn.Trên thực tế do đaay cũng là hình thức chấp nhận rủi ro nên bản thân nó cũng mang yếu tố rủi ro với mong đợi là rủi ro sẽ không xảy ra. 1.4. Ngăn ngừa thiệt hại. Ngăn ngừa thiệt hại là phương pháp bao gồm những hoạt động nhằm giảm tính thường xuyên của thiệt hại khi nó xuất hiện. Để có thể thực hiện các hoạt động này đòi hỏi phải xác định đúng các nguyên nhân gây nên chúng. ó có thể xuất phát từ các nhân tố của môi trường đầu tư hoặc ngay từ những vấn đề bên trong của dự án. Biện pháp mà các nhà đầu tư có thể áp dụng là phát triển các hệ thống an toàn, đào tạo lại đội ngũ lao động hay thuê người bảo vệ… 1.5. Giảm bớt thiệt hại. Chủ đầu tư và các bộ quản lý dự án sử dụng các biện pháp đo lường,phân tích và đánh giálại các rủi ro một cách liên tục và xây dựng các kế hoạch cụ thể để làm giảm mức độ thiệt hại khi nó xảy ra. 1.6. Chuyển dịch rủi ro. Chuyển dịch rủi ro là biện pháp trong đó các bên liên kết với nhau để cùng chịu rủi ro. Nó giống với biện pháp bảo hiểm ở điểm là có sự chuyển dịch từ cá nhân sang nhóm sự bất định của các rủi ro có thể xảy ra hay nói cách khác là cùng có sự liên kết của nhiểu chủ thể nhằm quản lý rủi ro. Tuy nhiên, chuyển dịch rủi ro chỉ là một bộ phận của bảo hiểm vì ngoài chuyển dịch rủi ro thì bảo hiểm rủi ro còn giúp dự đoán thiệt hại bằng quy luật số lớn trước khi nó xuất hiện, nhờ đó mà giảm được thiệt hại do rủi ro mang lại. 1.7. Bảo hiểm. Với các quan điểm khác nhau thì bảo hiểm được hiểu khác nhau.Theo quan điểm của các nhà quản lý bảo hiểm thì bảo hiểm là sự chuyển dịch rủi ro theo hợp đồng. Còn theo quan điểm xã hội thì nó không chỉ là sự chuyển dịch mà còn giúp giảm rủi ro vì nhóm người có những rủi ro tương tự tự nguyên kết hợp với nhau dự đoán và từ đó giảm thiểu các thiệt hại mà rủi ro mang lại. Bảo hiểm là công cụ quản lý rủi ro phù hợp khi khả năng thiệt hại thấp nhưng mức độ thiệt hại lại có thể rất cao . 2. Quản lý Nhà Nước đối với các dự án FDI Theo Vũ Chí Lộc Vũ Chí Lộc: Giáo trình đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 1997, tr 85-86. thì hoạt động đầu tư nước ngoài không chỉ là bộ phận của lĩnh vực kinh tế đối ngoại mà đó còn là bộ phận của nền kinh tế quốc dân và vì vậy Nhà Nước là chủ thể quan trọng quản lý nguồn vốn FDI. Quản lý của Nhà Nước đối với các dự án FDI là nhằm thực hiện một cách tốt nhất định hướng của Luật đầu tư là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vào công cuộc phát triển kinh tế. Bên cạnh đó còn nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà Nước là thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các công ty nước ngoài, tạo việc làm, khai thác các tiềm năng của đât nước và phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quản lý Nhà Nước đối với các dự án FDI còn nhằm đảm bảo hoạt động đầu tư tuân thủ pháp luật Việt Nam, giữ vững độc lập, chủ quyền đất nước. Ngoài ra còn tô trọng quyền của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đảm bảo tính công bằng, bình đẳng và cùng có lợi cho cả đôi bên. 2.2. Vai trò. Quản lý Nhà Nước theo Vũ Chí Lộc là hoạt động chấp hành và điều hành của Nhà Nước, được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi cơ quan hành chính Nhà Nước có nội dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, các nghị quyết của cơ quan quyền lực Nhà Nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo thực hiện một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hoá, xã hội và chính trị nước ta. Đây là hoạt động mang tính chủ động, sáng tạo theo từng đối tượng chủ thể, địa điểm.. từ đó dưa ra các biện pháp cụ thể. 2.3. Các hoạt động cơ bản. Theo luật Đầu tư Xem: Điều 80, Pháp luật mới về đầu tư kinh doanh, Hội Luật gia Hà Nội, Trung tâm thông tin tư vấn pháp luật, NXB Lao động Xã hội, năm 2006 (2006), hoạt động quản lý của Nhà Nước đối với FDI bao gồm những nội dung cơ bản sau: - Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các chính sách đầu tư phát triển. - Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư. - Hướng dẫn hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện các dự án đầu tư, giải quyết những vướng mắc, yêu cầu của các nhà đầu tư. - Cấp và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư. - Hướng dẫn, đánh giá hiệu quả đầu tư, kiểm tra, thanh tra và giám sát hoạt động đầu tư, giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong hoạt động đầu tư. - Tổ chức hoạt động đào tạo nguồn nhân lực liên quan đến hoạt động đầu tư. - Tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư. 2.4. Các phương pháp quản lý Nhà Nước. Nhà nước sử dụng các công cụ là pháp luật, các kế hoạch, chính sách, tài sản quốc gia,.. để quản lý nền kinh tế. FDI cũng như các bộ phận khác của nền kinh tế, chịu sự quản lý của Nhà nước với những phương pháp quản lý khác nhau. Phương pháp quản lý của Nhà Nước về kinh tế bao gồm tổng thể các cách thức tác động có chủ đích có thể có của Nhà Nước lên nền kinh tế quốc dân góp phần tăng trưởng, ổn định kinh tế và bằng kinh tế. 2.4.1. Phương pháp hành chính. Phương pháp hành chính Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu: Giáo trình quản lý Nhà Nước về kinh tế, ĐH KTQD, Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội 2005, tr 138. là cách thức tác động trực tiếp của Nhà Nước thông qua các quyết định dứt khoát có tính bắt buộc lên đối tượng quản lý Nhà Nước về kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu của quản lý kinh tế vĩ mô trong những tình huống nhất định. Phương pháp này có tính bắt buộc những đối tượng chịu sự quản lý phải tuân thủ các quy định của pháp luật và mang tính quyền lực theo đúng thẩm quyền pháp luật. Từ đó góp phần xác lập trật tự kỷ cương, kết nối các phương pháp khác, giải quyết các vấn đề một cách nhanh chóng. Thực hiện quản lý theo phương pháp này là Nhà Nước tác động._. vào nền kinh tế theo hai hướng: Thứ nhất, là về mặt tổ chức. Xây dựng và không ngừng hoàn thiện khung pháp luật áp dụng cho từng đối tượng chịu sự quản lý. Từ đó tạo hành lang pháp lý ổn định, an toàn và phù hợp cho các đối tượng, tạo niểm tin cho người dân. Bên cạnh đó là việc cụ thể hoá khung pháp luật và các kế hoạch thị trường thông quan các công cụ khác nhau trong xét duyệt, kiểm định chất lượng, giấy phép kinh doanh,.... Phương pháp này có hiệu lực nhanh, ngay khi ban hành tuy nhiên lại có một nhược điểm rất lớn là có thể phát sinh hiện tượng lạm dụng hành chính và phụ thuộc quá nhiều vào đội ngũ cán bộ hành chính trong bộ máy Nhà Nước. Thứ hai, phương pháp hành chính phải gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm của cấp ra quyết định. Điều này có vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế nói chung và quản lý FDI noi riêng, phân định rõ ràng quyền hạn trách nhiệm của các cấp quản lý. 2.4.2. Phương pháp kinh tế. Đây là một trong những phương pháp hữu hiệu mà Nhà Nước sử dụng tác động một cách gián tiếp dựa trên những lợi ích kinh tế. Với phương pháp này, Nhà Nước hạn chế sự bắt buộc, cưỡng chế lên các đối tượng và chủ yếu mang tính hướng dẫn nhằm làm cho các đối tượng quản lý quan tâm tới hiệu quả cuối cùng của các hoạt động, chủ động hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Hướng vào lợi ích cuả các đối tượng, đưa ra các điều kiện khuyến khích kinh tế và những phương tiện vật chất, phương pháp kinh tế được áp dụng tác động nhạy bén, linh hoạt và phát huy được tính chủ độnh sáng tạo cuat người lao động cũng như của các tổ chức. Cũng như những phương pháp khác, phương pháp kinh tế tác động vào nền kinh tế theo những hướng khác nhau Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu: Giáo trình quản lý Nhà Nước về kinh tế, ĐH KTQD, Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội 2005, tr 143-144. : Trước tiên là định hướng chung cho sụ phát triển bằng các mục iêu và nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tế của toàn bộ hệ thống. Cụ thể hoá bằng các chỉ tiêu cho từng thời điểm, đối tượng cụ thể trong các tổ chức khác nhau. Nhà Nước sử dụng các định mức kinh tế như thuế, lãi xuất ngân hang, và các đòn bẩy kích thích kinh tế nhằm lôi cuốn, khuyến khích các tổ chức và cá nhân hoạt động mang lại lợi ích thống nhất giữa cá nhân và tập thể, lợi ích quốc gia. Các chính sách ưu đãi cũng được Nhà Nước đưa ra để điều chỉnh hoạt động chung của cả nước, không những chỉ có trong nước mà còn thu hút từ các Kiều bào sống xa tổ quốc. 2.4.3. Phương pháp tâm lý giáo dục Xem: Bài giảng môn Quản lý tổ chức công II, Nguyễn Thị Ngọc Huyền, Năm học 2007-2008 Nhà Nước tác động vào nhận rhức và tình cảm của con người thuộc đối tượng quản lý Nhà Nước về kinh tế, từ đó nâng cao tinh thần tự giác, tích cự và nhiệt tình của những người lao động trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao. Dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý, phương pháp giáo dục mang tính thuyết phục, giáo dục con người những đường lối chủ trương của chính phủ, ý thức lao động sáng tạo, có hiệu quả của người lao động. Bên cạnh đó, Nhà Nước giáo dục nhằm xoá bỏ những lề lối cũ lạc hậu như tàn dư của phong kiến, tư sản và hướng người lao động theo tác phong công nghiệp hiện đại. Phương tiện được Nhà Nước sử dụng là các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức đoàn thể, hội nghị tổng kết của các tổ chức đơn vị, các phong trào thi đua, tấm gương của các doanh nghiệp Nhà Nước làm ăn có hiệu quả. Chương II Tổng quan về các dự án FDI và phân tích các rủi ro trong các dự án FDI tại Việt Nam từ năm 1987 đến nay I. Đầu tư trực tiếp vào Việt Nam 1. Các hình thức đầu tư cơ bản - Doanh nghiệp liên doanh: Là doanh nghiệp được thành lập do các dự án đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh. - Doanh nghiệp 100% vốn FDI: Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: Là hình thức đầu tư trong đó các bên ký kết văn bản để tiến hành đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Trong đó, có quy định trách nhiệm và phân chia các kết quả kinh doanh cho các bên mà không thành lập pháp nhân mới. Các doanh nghiệp này được hợp tác với các cá nhân tổ chức nước ngoài để thực hiện các hợp đồng hợp tác kinh doanh Võ Thanh Thu, Ngô Thị Ngọc Huyền, Nguyễn Cương: Kỹ thuật đầu tư trực tiếp nước ngoài, NXB Thống Kê, 05/2004, tr 114 - Các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT: là hình thức đầu tư có sự ký kết văn bản giữa cơ quan Nhà Nước có them quyền của Việt Nam và Nhà Nước đầu tư nước ngoài để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định và khi kết thúc thời hạn này, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà Nước Việt Nam. - Hình thức công ty mẹ-con: đây là hình thức được thực hiện rất ít ở Việt Nam, khi các tập đoàn lớn mở thêm những công ty con ở nước nhận đầu tư và mang các yếu tố nước ngoài. 2. Cơ cấu và khu vực phân bổ FDI Suốt giai đoạn 1988-2007, cơ cấu và khu vực phân bổ FDI đã trải qua rất nhiều thăng trầm. Từ năm 1991 đến 1995, vốn thực hiện đạt 6,5 tỷ USD và đã tăng gấp 2 lần trong giai đoạn 1996-2000. Cho đến giai đoạn 2001-2005, vốn thực hiện đạt 14,3% tỷ USD, tăng 7% so với giai đoạn trước đó và tăng 30% so với mục tiêu định hướng đạt được là 11 tỷ USD. Như vậy vốn thực hiện có xu hướng nhưng tốc độ chậm trong khi vốn đăng ký và số dự án mới biến động. Biểu đồ phân bổ nguồn vốn FDI theo năm giai đoạn 1988-2007 Hai năm gần đây, vốn thực hiện tăng 24,2 % năm 2006 so với năm 2005 và đạt 2,96 tỷ USD vào năm 2007. Có thể they số dự án tăng bình quân trong các giai đoạn có nhiều biến động, 300 dự án trong giai đoạn 1991-1995 và 340 dự án vào năm 1996-2000, 616 dự án giai đoạn 2001-2005 và đến năm 2006, 2007 đạt con số kỷ lục 800 dự án mới cấp phép. 2.1. Về cơ cấu vốn đầu tư theo ngành: Theo số liệu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư Nguồn Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết 31/12/2007. , trong giai đoạn 1988-2007, tổng vốn đầu tư cung như đầu tư thực hiện tập trung chủ yếu trong các dự án thuộc ngành công nghiệp và xây dựng, chiếm khoảng 62% tổng vốn đầu tư và chiếm tới 69% vốn thực hiện với 5,819 dự án đầu tư.Tiếp đến là ngành dịch vụ với 21% tổng số dự án với hơn 29 tỷ USD tổng vốn Cơ cấu đầu tư thực hiện theo ngành đầu tư và hơn 7 tỷ USD đầu tư cho việc thực hiện dự án. Ngành nông lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng thấp nhất trong các dự án FDI, có khoảng 929 dự án với hơn 2 tỷ USD đầu tư thực hiện. Nếu như trong giai đoạn 1990-2000, nguồn vốn FDI thường tập trung vào những ngành công nghiệp khai khoáng và thay thế hàng nhập khẩu thì bắt đầu từ năm 2000, các dự án FDI đã chuyển hướng sang các ngành như công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ (gần 5000 dự án cho cả hai ngành đến hết năm 2007). Đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ cũng gia tăng qua các thời kỳ. Trong 5 năm 2001 -2005, lĩnh vực dịch vụ đã chiếm 21% tổng vốn ĐTNN đăng ký và gần 13% vốn thực hiện. Từ những số liệu thống kê cho thấy các dự án FDI vào Việt Nam cũng có sự chuyển đổi theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá theo hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Tính đến hết ngày 22/03/2008, quý I năm 2008 đã cấp mới 147 dự án trong đó chủ yếu vẫn tập trung vào ngành công nghiệp xây dựng có 79 dự án với vốn pháp định 516,941,200 USD 54% tổng vốn đầu tư. Tiếp đến vẫn là ngành dịch vụ với 59 dự án, tổng vốn đầu tư chỉ là 40% nhưng lại chiếm 86% vốn pháp định. Trong số những dự án còn lại, có 49 lượt đầu tư tăng vốn với tổng vốn đầu tư tăng thêm là hơn 280 triệu USD, 88% vốn đầu tư tăng thêm là trong ngành công nghiệp. 2.2. Về cơ cấu vốn đầu tư theo vùng: Việt Nam với 64 tỉnh thành đều đã có sự có mặt của các dự án FDI trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư giữa các vùng còn diễn ra chậm nên sau gần hai mươi năm tỷ trọng đầu tư không có quá nhiều sự thay đổi. FDI tập trung vào khu vực phía Nam với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% vốn đăng ký. Nhiều nhất vẫn là vào thành phố Hồ Chí Minh với 2399 dự án, chiếm 36,9% vốn đăng ký của toàn vùng. Tiếp đến phải kể đến Đồng Nai với 917 dự án và 11,6 tỷ USD vốn đăng ký ; Bình Dương 8,5 tỷ USD vốn đăng ký cho 1,581 dự án FDI, Nguồn Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết 31/12/2007. ...Tập trung nhiều nhất vẫn là ở vùng Đông Nam Bộ với nguồn lao động dồi dào và có trình độ kỹ năng. Riêng trong giai đoạn 2001-2005 đã thu hút hơn 12,5 tỷ USD vốn đăng ký chiếm 60% tổng vốn đăng ký trong cả nước và 5,9 tỷ USD vốn thực hiện Khu vực phía Bắc đứng đầu là Hà Nội với 1101 dự án, chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn đầu tư thực hiện trong cả vùng. Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương,... giữ các vị trí tiếp theo với lần lượt tổng vốn đăng ký là 2,7 tỷ , 2,03 tỷ và 1,83 tỷ USD. 2.3. Về cơ cấu vốn đầu tư theo hình thức đầu tư: Đến hết quý I năm 2008, ở Việt Nam có 6 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó có hai hình thức mới được thí điểm vào những năm 2001-2005. Trong suốt giai đoạn 1988-2007, hình thức 100% nốn nước ngoài vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất với 6,743 có tổng vốn đầu tư hơn 52 tỷ USD chiếm 39% tổng vốn thực hiện. Tuy con số này thấp hơn 71% tổng vốn đăng ký trong giai đoạn 2001-2005 nhưng nó không có nghĩa là số dự án theo hình thức này giảm mà đã có sự gia tăng của những hình thức khác trong những năm gần đây. Các hình thức khác như liên doanh hay hợp đồng hợp tác kinh doanh giữ các vị trí sau do những vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư. Có 1640 dự án hoạt động theo hình thức liên doanh với 24,75 tỷ USD vốn đầu tư và 11,14 tỷ USD đầu tư thực hiện. Hình thưc hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng chỉ chiếm 5% tổng vốn đầu tư và 19% đầu tư thực hiện. Thấp nhất vẫn là ba hình thức còn lại với số dự án không đáng kể với 1% số dự án, chiếm khoảng 4% tổng số vốn đầu tư và 3% đầu tư thực hiện của các dự án FDI. Trong 3 tháng đầu năm 2008, có đến 77% vốn pháp định thuộc về các dự án 100% vốn nước ngoài với tổng vốn đầu tư là hơn 3,4 tỷ USD. Số dự án còn lại thuộc về các hình thức còn lại : 25 dự án liên doanh, 1 dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh và 8 công ty cổ phần, không có dự án nào có hình thức công ty mẹ-con được cấp phép. Cũng có thể nhìn thấy rằng có những hình thức có tổng vốn đầu tư không lớn nhưng lại có sự đầu tư thực hiện cao hơn. Ví dụ như hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và công ty cổ phần. Điều này là do tính chất và điều kiện hoạt động của các dự án này ở Việt Nam quyết định. 2.4. Về cơ cấu vốn đầu tư theo đối tác: Hết năm 2007, các dự án FDI vào Việt Nam đã có sự tham gia của 82 nước và các vùng lãnh thổ. Nhưng từ thống kê của Bộ Kế Hoạch và Đầu tư thì chủ yếu nguồn vốn đầu tư vẫn xuất phát tư những nước trong khu vực Châu á. Cụ thể là 6 nước Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, British Virginlsland đầu tư 5,490 dự án vào Việt Nam, chiếm 70% tổng vốn đầu tư và 62% đầu tư thực hiện. Đứng đầu vẫn là Hàn Quốc với 21% số dự án với 17% tổng vốn đầu tư. Các nước Châu Âu và Châu Mỹ có các dự án còn rất khiêm tốn vào Việt Nam mặc dù các nước này có tiềm năng rất lớn. Đây có thể được coi là vuìng đất tiềm năng để Việt Nam có thể giai tăng FDI bằng các giải pháp tăng cường thu hút. Nếu như trên thế giới, nguồn vốn FDI chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển thì ở Việt Nam, so với các nước trong khu vực Đông Nam á như Thái Lan, Malaysia,.. nguồn vốn này còn chiếm tỷ trọng thấp. Cuối năm 2005, có hơn 100 trong tổng số 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới có các dự án đầu tư tại Việt Nam nhưng con số này ở Trung Quốc đã là trên 400 công ty xuyên quốc gia. Điều này cho thấy môi trường đầu tư ở Việt Nam còn làm nhièu nhà đầu tư cảm thấy lo ngại. Đến nay Nhà Nước đã có những chính sách 12 Khuyến khích các Kiều bào ở khắp nơi trên thế giới đầu tư về nước nhưng trên thực số con số này có tăng nhưng chưa đáng kể. Việt Kiều từ gần 30 nước với hơn 160 dự án được cấp phép đầu tư vào Việt Nam. Xét theo đối tác đầu tư thì có thể nhận thấy các dự án đầu tư vào Việt Nam vẫn còn tồn tại với quy mô vừa và nhỏ. Vốn bình quân trên mỗi dự án FDI thay đổi theo các thời kì. Con số này vào 1988-1990 là 7,5 triệu USD, giai đoạn 1991-1995 là 12,5 triệu USD và tăng lên 15,2 triệu trong giai đoạn 1996-2000, đạt mức 5,2 triệu USD trong 5 năm 2001-2005. Trong hai năm 2006 và 2007 con số này cũng có sự giai tăng, diều này cho thấy xu hướng gia tăng của các dự án quy mô nhỏ và vừa. 3. Đóng góp của FDI vào nền kinh tế Việt Nam. 3.1. Về kinh tế 3.1.1. Đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động và nâng cao năng lực sản xuất FDI ngày càng khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế. Nhiều dự án đầu tư được thực hiện và đưa vào sản xuất phát huy hiệu quả hoạt động và tạo nền tảng phát triển cho các giai đoạn sau đó. Những khu vực có FDI đã chứng tỏ mức tăng trưởng công nghiệp cao hơn, tăng tỷ trọng công nghiệp ở các khu vực này lên 40% vào năm 2004 và 41% vào các năm sau đó trong khi vào năm 1991 con số này chỉ là 23,79%. Trong giai đoạn 2001-2005, giá trị sản xuất công nghiệp của những khu vực có FDI chiếm 42,5% so với cả nước, đạt cao nhất vào năm 2004-2005 với 43,7%, đặc biệt con số này đạt đến 65-70% của toàn bộ địa bàn có nguồn vốn FDI như ở Bình Dương, Vĩnh Phúc, Đồng Nai,... Các ngành công mới cũng có nhiều hơn các cơ hội để phát triển như công nghiệp dầu khí, công nghệ thông tin, điện tử, công nghiệp chế biến nông sản, thép, xe máy, ô tô,... Riêng ngành dầu khí, thiêt bị máy tính, máy giặt, điều hoà thì có sự đóng góp của 100% vốn nước ngoài. Riêng các ngành khác, con số này cũng rất cao: 76% dụng cụ y tế, 55% sản xuất sợi,... Có thể nói, FDI đã tạo nguồn sinh khí mới cho công nghiệp Việt Nam với những bước tăng trưởng vượt bậc. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần hình thành và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất mới, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho nhiều vùng đất. Bên cạnh đó tạo công ăn việc làm cho rất nhiều lao động, giúp họ nâng cao trình độ để phù hợp với điều kiện làm việc mới. 3.1.2. FDI là nguồn bổ sung quan trọng cho nguồn vốn đầu tư góp phần phát triển xã hội và tăng trưởng của nền kinh tế. Sự có mặt của FDI đã góp phần rất lớn cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể được chứng minh bằng những con số về tỷ lệ tăng trưởng bình quân GDP hàng năm theo sự gia tăng của tỷ trọng FDI đầu tư vào Việt Nam. Giai đoạn 1991-1995 có sự gia tăng mạnh mẽ của vốn FDI trên tổng vốn đầu tư, nếu như năm 1991 chỉ là 13% thì đến năm 1995 đã là 32,3%. Theo đó, GDP trong giai đoạn này cũng đạt con số 8,18% với 11,3% ngành công nghiệp, dịch vụ 7,2 % và nông lâm là 2,4 %. Những năm tiếp sau đó, cùng với sự gia tăng của FDI thì đóng góp vào tổng sản phẩm xã hội cũng gia tăng. Đến năm 2006 và 2007, nền kinh tế tăng trưởng cao nhất với 8,33 % GDP với tổng vốn FDI chiếm 16% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. 3.1.3. Các dự án FDI đóng góp vào NSNN và cân đối thu-chi ngân sách trong giai đoạn mới. Từ hiệu quả kinh tế mà các dự án FDI mang lại, đóng góp từ các dự án này cho NSNN cũng ngày càng tăng, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách. Trong năm năm 1996-2000, các doanh nghiệp FDI hoạt động trong ngành dầu thô đã nộp vào ngân sách 1,49 tỷ USD trong khi con số này trong giai đoạn 1991-1995 chỉ là 0,33 tỷ USD. Thu ngân sách từ tất cả các doanh nghiệp có FDI cũng có con số rất lớn. Cụ thể là 3,6tỷ USD trong 2001-2005, tăng bình quân 24%/năm. Riêng trong hai năm gần đây, khu vực này đã nộp 3 tỷ USD vào NSNN, gấp đôi giai đoạn 1996-2000 và chỉ trong hai năm đã bằng 83% 5 năm của giai đoạn trước đó. FDI có tác động tích cực cho việc cân đối NSNN khi tăng thêm nguồn thu cho ngân sách và đồng thời cải thiện cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển một nguồn vốn lớn vào Việt Nam. Đây cũng là hình thức giúp mở thêm nguồn thi ngoại tệ qua việc có mặt của các khách quốc tế đến Việt Nam, các hoạt động của các dự án FDI ở Việt Nam như thuê đất, mua máy móc thiêt bị,... 3.1.4. FDI như đã biết cũng là một hình thức chuyển giao công nghệ. FDI góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ các nước đầu tư vào Việt Nam.Với nền kinh tế ngày một phát triển thì công nghẹ cũng trở thành một đầu vào cơ bản của nền kinh tế. Có thể thấy rõ hơn điều nay ở một số ngành như viễn thông, khai thác khoáng sản, ngành hoá chất, cơ khí chế tạo, tự động hoá,... Đặc biệt gần đây, tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ USD vào Việt Nam để thực hiện dự án sản xuất các linh kiẹn điện tử cao cấp thù đã góp phần giai tăng các dự án FDI cho ngành công nghệ cao vào Việt Nam. Một số tập đoàn lớn như Panasonic, Ritech, Cnon,... cũng mở rộng những dự án này ở Việt Nam. Trên thực tế trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ cao ở khu vực có sự tham gia của FDI luôn cao hơn ở những khu vực khác, điều này lý giải cho những đóng góp của các dự án FDI vào chuyển giao công nghệ mới vào Việt Nam. Bên cạnh đó, hình thức đầu tư này còn giúp đưa những phương thức quản lý mới, tiên tiến trên thế giới vào Việt Nam giúp tăng cường hiệu quả hoạt động của các dự án. 3.1.5. FDI góp phần hội nhập kinh tế Việt Nam với thế giới và lan toả khắp các thành phần của nền kinh tế trong nước. Sự tham gia của FDI vào nền kinh tế giúp mở rộng nguồn vốn đầu tư và quy mô sản xuất. Sự liên quan chặt chẽ của các thành phần kinh tế kéo theo sự lan toả đến các thành phần kinh tế khác ngoài khu vực có FDI. Giữa các doanh nghiệp hoạt động trong nước đã có sự chuyển giao công nghệ, vốn và năng lực kinh doanh do có sự hợp tác với các doanh nghiệp có yếu ố nước ngoài. Đồng thời sự tham gia của các dự án FDI cũng tạo động lực cho sự phát triển vì giữa các doanh nghiệp có sự cạnh tranh để có được thị trường lớn hơn, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá. Song song với những tác động đối với các thành phần kinh tế trong nước, FDI còn đưa Việt Nam tiến sâu hơn vào hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những khu vực có FDI, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu tăng rất nhanh và cao hơn mức bình quân trong cả nước. Xuất khẩu trong khu vực này trong giai đoạn 1996-2000 là 10,6 tỷ USD ( không kể dầu thô), chiếm 23% tổng kim ngạch xuất khẩu trong cả nước. Đến năm 2000 con số này là 25% và đến ba năm gần đây là hơn 55%, đạt mức cao nhất trong hai mươi năm trở lại đây. Một số doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu hàng năm khá lớn: Vietxopetro 4-5 tỷ USD; Công ty Fujisu trên 300 triệu USD, riêng năm 2000 là 586 triệu USD; Công ty Canon hơn 200 triệu USD vào năm 2004 và trên 400 triệu USD vào năm 2005; Taekang Vietnam, Pou Chen hàng năm xuất khẩu trên 120 triệu USD. Thông quan mạng lưới tiêu thụ của các công ty xuyên quốc gia hàng hoá và sản phẩm của Việt Nam đã được bạn bè quốc tế biết đến. Tỷ trọng xuất khẩu một số mặt hàng cao như 100% dầu khí, 35% hàng may mặc, 42% hàng da giày,.. Việc có mặt của các du khách cũng như các doanh nhân nước ngoài đến Việt Nam góp phần phát triển các ngành như du lịch khách sạn, đồng thời gia tăng lượng tiêu thụ trong nước. Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập mới, các lĩnh vực tài chính và ngân hàng cũng đang từng bước hội nhập với kinh tế thế giới. 3.2. Về mặt xã hội. 3.2.1. FDI chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao quan hệ hợp tác giữ Việt Nam và thế giới. Trước đây, việc đóng cửa về kinh tế đã gây ảnh hưởng làm trì trệ nền kinh tế Việt Nam. Cho phép các dự án FDI vào Việt Nam gióp phần cải thiện quan hệ giữa Việt Nam với nhiều nước trên thế giới, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá, thúc đẩy Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam đã chính thức tham gia vào các tổ chức như ASEAN, APEC, ASEM và gần đây nhất là WTO. Bên cạnh đó cũng đã ký hết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, đặc biệt là hai hiệp định: Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ ( BTA) và HIệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Qua các dự án FDI thành công ở Việt Nam và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã góp phần đưa hình ảnh của Việt Nam đến gần hơn với bạn bè quốc tế và ngày càng có vị thế cao hơn trong nền kinh tế quốc tế. 3.2.2. Các dự án FDI mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, đào tạo năng lực cho đội ngũ lao động góp phần nâng cao năng suất lao động. Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho khoảng 1,2 triệu lao động trực tiếp, chiếm hơn 17% tổng số lao động có việc làm tại Việt Nam. Riêng trong 5 năm 2001-2005, khu vực có vốn ĐTNN đã thu hút thêm khoảng 62 vạn lao động. Trung bình trong 5 năm 2001-2005, tốc độ thu hút lao động của khu vực có vốn ĐTNN tăng 22% /năm. Bên cạnh số lao động trực tiếp nói trên, khu vực ĐTNN còn gián tiếp tạo thêm việc làm cho khoảng 2 triệu lao động gián tiếp trong lĩnh vực dịch vụ, công nghiệp phụ trợ. Hàng năm khu vực kinh tế ĐTNN tạo ra một khoản thu nhập cho người lao động khoảng 1,4 tỷ USD. Trong khoảng 1 triệu lao động trực tiếp có 10.000 cán bộ quản lý; 30.000 cán bộ kỹ thuật. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức lao động tiên tiến. Một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại. 3.3. Về môi trường. Nhìn chung các doanh nghiệp ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam và có kết quả bảo vệ môi trường tốt hơn so với số đông các doanh nghiệp trong nước, vì họ có khả năng tài chính và khả năng tiếp cận với các kỹ năng quản lý môi trường. ĐTNN cũng tạo điều kiện làm cho nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên... được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn. Theo thống kê năm 2002 của Viện Quản lý kinh tế trung ương có 77% doanh nghiệp có kết quả về các thông số gây ô nhiễm môi trường thấp hơn tiểu chuẩn cho phép của Việt Nam. ĐTNN đã tác động tích cực tới kết quả môi trường của các nhà cung cấp đầu vào và các công ty vệ tinh thông qua việc hỗ trợ, tư vấn về hệ thống quản lý môi trường hoặc các giải pháp xử lý môi trường. Thông qua các đối tác nước ngoài trong liên doanh, các đối tác Việt Nam có thể học hỏi, được hỗ trợ và tư vấn để cải thiện kết quả môi trường. Doanh nghiệp ĐTNN có thể trở thành những "mô hình mẫu" giới thiệu những kiến thức quản lý môi trường hiện đại vào Việt Nam cũng tinh thần sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường, đồng thời tạo áp lực để các doanh nghiệp trong nước cải thiện kết quả môi trường của mình. II. Phân tích một số rủi ro xảy ra trong hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 1. Một số rủi ro thường gặp 1.1. Rủi ro từ môi trường pháp lý 1.1.1. Hệ thống pháp luật Môi trường pháp lý được thể hiện bởi hệ thống pháp luật quy định về hoạt động thu hút vốn FDI. Hiện nay mặc dù đã có những cải thiện đáng kể và đột phá trong việc cải thiện môi trường pháp lý của Việt nam, tuy nhiên hệ thống pháp luật vẫn đang là một trong những vấn đề làm các nhà đầu tư than phiền khi quyết định đầu tư vào Việt Nam. - Pháp luật có nhiều điểm mập mờ, chòng chéo và thiếu tính nhất quán thể hiện qua các văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của các dự án FDI, đặc biệt là những mặt hàng đặc biệt như ô tô, xe máy,… Điều này có nguyên nhân từ việc quá nhiều ban, ngành đảm trách và quản lý. Lại có những quy phạm mới hoàn toàn hay bộ phận làm chính những người quản lý gặp nhiều vấn đề trong việc thực hiện các hoạt động. Điều này làm các dự án FDI không thể tiến hành thuận lợi, đôi khi còn gây những thiệt hại không đáng có. - Thay đổi đột ngột, khó dự đoán: hiện nay cũng như trước đây, đòi hỏi cấp thiết là cần phải có một hệ thống chính sách môI trường đầu tư thống nhất từ đầu đến cuối và dễ dàng tiên đoán trước nhằm giúp các nhà đầu tư cảm thấy yên tâm đầu tư và ít bị động trong các hoạt động của các dự án đầu tư. Ngày 3/12/2002,Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định 175/2002/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Việt nam ô tô đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2002, trong đó khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất phụ tùng ô tô ( nhất là các linh kiện cho động cơ ). Tuy nhiên, chỉ sau một ngày Bộ Tài chính lại ban hành Công văn số 146/2002/QĐ-BTC về việc sửa đổi mức thuế xuất nhập khẩu xe và phụ tùng, linh kiện ô tô. Và với quyết định này, thuế xuất nhập khẩu mặt hàng này sẽ tăng 2-4 lần trong năm 2003 và 3,5-7 lần trong năm 2004. Sự mâu thuẫn giữa quyết định và công văn này đã gây nên cú sốc lớn và nhiều những phản ứng từ phía các nhà đầu tư vì họ gặp nhiều khó khăn. Đây là một ví dụ điển hình cho việc thay đổi đột ngột của một vài điểm trong pháp luật gây cản trở cho các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư cho một lĩnh vực nào đó. - Thiếu đồng bộ, rõ ràng: Các văn bản hướng dẫn thường ban hành chậm và đôi khi rất khó hiểu làm cho việc thực hiện và vận dụng theo nhiều ý khác nhau, thiếu tính đồng bộ. Đồng thời các văn bản, mang tính tham chiếu quá nhiều, gây sự phụ thuộc của các nhà đầu tư khi thực hiện theo văn bản nàylại phải tham khảo lại rát nhiều những văn bản cũ. Thêm nữa, việc giải thích và thực thi luật pháp phụ thuộc quá nhiều vào các cơ quan hành chính tư trung ương đến điạ phương. Trong khi đó, ở một số địa phương, việc thực hiệndự án gặp nhiều khó khăn, thậm chí phải giải thể do sự thiếu nhất trí trong các cơ quan lãnh đạo và trong dư luận xã hội đối với các dự án. Đôi khi nguyên nhân xuất phát từ việc các cơ quan địa phương tự đề ra những quy định riêng về thẩm định các dự án trái với các quy định của Nhà Nước, gây nên những hoài nghi về chính sách của Nhà Nước từ phía các nhà đầu tư. 1.1.2. Khả năng xử lý hành chính. Môi trường pháp lý bao gồm không chỉ hệ thống pháp luật mà còn có chất lượng của bộ máy hành chính và khả năng thực hiện các chính sách của bộ máy đó. Tốc độ xử lý hành chính của Việt Nam hiện nay rất chậm so với nhiều nước trong khu vực. Theo điều tra của tổ chức xúc tiến thương mại của Nhật Bản ( JETRO ) năm 2000, có tới 42% tổng số doanh nghiệp Nhật Bản được điều tra cho rằng khó khăn lớn nhất của họ khi hoạt động tại Việt Nam là do thủ tục hành chính. Trong khi đó, ở Thái Lan chỉ là 13%, Philipine là 18% và ở Indonesia 22%. Có thể thấy chính sự chậm trễ trong các thủ tục hành chính đang làm nản lòng các nhà đầu tư và gây khó khăn, làm chậm tiến trình kinh doanh, thậm chí lỡ mất cơ hội tìm kiếm lợi nhuận của các nhà đầu tư. Ngoài ra, việc quản lý hành chính lỏng lẻo còn là nguyên nhân cho nạn kinh doanh trái phép, buôn lậu, trốn lậu thuế, gian lận thuơng mại,…ảnh hưởng đến các kênh phân phối của các nhà sản xuất. Nguyên nhân nữa được nhắc đến là do lối tác nghiệp vội vàng, sai lầm của như các cơ quan hành chính. Đôi khi là sự chậm trễ trong công tác cập nhật, nhận và truyền thông tin..giữa các đơn vị trên mạng thông tin của Cục Hải Quan chưa ăn khớp gây cản trở trong việc làm các thủ tục. 1.2. Rủi ro từ môi trường kinh tế. 1.2.1. Nguyên nhân từ khủng hoảng kinh tế thế giới. Môi trường kinh tế thế giới ảnh hưởng đến tất cả các nước trên thế giới. Do ảnh hưởng lan tràn của các cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ đã gây hậu quả nặng nề cho các quốc gia, buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải xem xét lại chiến lược đầu tư tập trung, ổn định tình hình kinh tế trong nước họ bằng cách rút vốn về nước hoặc cắt dần vốn đầu tư để có khả năng để đối phó với những biến động trong nước. Chính vì vậy, dòng vốn đầu tư chảy vào Việt Nam có nhiều biến động theo chiều hướng của nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam bị ảnh hưởng bởi tình hình suy thoái kinh tế và khủng hoảng nên hàng hoá xuất khẩu của các dự án FDI bị sụt giảm, hiệu quả hoạt động không cao làm một số dự án bị giãn tiến độ hoặc tạm thời đình hoãn, trong đó có những dự án bị buộc phải giải thể. 1.2.2. Rủi ro xuất phát từ những vấn đề của nền kinh tế trong nước. Trong những năm gần đây, Việt Nam mặc dù vẫn được đánh giá là nền kinh tế tương đối ổn định về mặt vĩ mô: lạm phát thấp, cán cân thanh toán quốc tế tương đối tổng thể thặng dư, thâm hụt ngân sách trong tầm kiểm soát, vấn đề chênh lệch tỷ giá… Tuy nhiên, xét một cách toàn diện thì nền kinh tế Việt Nam vẫn còn chứa đựng khá nhiều những rủi ro như khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân vãng lai và nợ nước ngoài, các chính sách tiền tệ và tỷ giá, tính ổn định của đồng tiền Việt Nam, tính vững chắc của hệ thống tài chính,… Những yếu tố này có ảnh hưởng xấu và gây những tác động làm hạn chế và kìm hãm hoạt dộng của các dự án FDI ở Việt Nam. Mặc dù đời sống xã hội của người dân Việt Nam đã dần được cải thiện, mức nhu cầu tiêu dùng cũng tăng khá nhanh qua nhiều năm nhưng sức mua và dung lượng thị trường vẫn còn twong đối thấp. Trong khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài đã ngày càng thấy rõtầm quan trọng của nhân tố thị trường đối với việc thu hút vốn FDI vì quy mô và tính chất của thị trường quyết định tính chất và quy mô của sản xuất và lợi nhuận thu được. Vì vậy, các nhà đầu tư luôn có xu hướng hướng vào những thị trường tiềm năng có quy mô lớn như Trung Quốc để đầu tư vì những nơi đó thị trường lớn và giá thành nhân công rẻ. Tuy nhiên quy mô thị trường không chỉ phụ thuộc vào dân số mà còn phụ thuộc vào mức sống của người dân, nó có tác động đến sức mua của dân chúng, làm tăng quy mô của thị trường theo chiều sâu. 1.3. Rủi ro từ môi trường tự nhiên. Điều kiện tự nhiên cũng là một trong những vấn đề gây e ngại cho các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào Việt Nam. Đến cuối năm 2007, đã có 768 dự án đầu tư vào nagnhf nồn- lâm nghiệp với tổng vốn đăng ký hơn 3,8 tỷ USD. Tuy nhiên trong các dự án này lại thành công không nhiều do thường xuyên gặp rủi ro về thiên tai, dịch bệnh như hạn hán, cháy rừng, sét đánh, bão lụt, dịch bệnh do ô nhiễm nguồn nước,… Bên cạnh đó, các vùng nguyên liệu như rừng cao su, mía, gỗ,… phục vụ cho sản xuất đang liên tục bị con người tàn phá, lấn chiếm. Hai nguyên nhân này đã ảnh hưởng đến chất lượng nguyên liệu, sản phẩm và khiến cho ng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12223.doc
Tài liệu liên quan