Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt

Lời nói đầu 1. sự cần thiết của đề tài: Thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đại hội Đảng toàn Quốc đã đề ra, gần 20 năm qua nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển toàn diện, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên mọi lĩnh vực kinh tế-chính trị-xã hội-an ninh quốc phòng. Thực chất công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng lãnh đạo đó là chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập chung bao cấp sang vận hành cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Hệ thống ngân hàng cũn

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đổi mới sâu sắc và toàn diện đã trở thành một trong những ngành đI đầu trong sự nghiệp đổi mới và đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Hoạt động ngày càng năng động và sáng tạo hơn, cơ chế chính sách cũng dần được hoàn thiện và đồng bộ, đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ổn định tiền tệ, lạm phát được kiểm soát một cách hợp lý, giá trị đồng tiền ổn định. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong thời gian qua cũng còn gặp không ít khó khăn trong việc đầu tư tín dụng. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh là điều tất yếu, song rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng nó không những gây ảnh hưởng lớn tới kết quả kinh doanh hoạt động của Ngân hàng thương mại mà còn ảnh hưởng tới toàn ngành Ngân hàng, thậm chí còn tác động xấu đến nền kinh tế. Vì vậy việc đề ra các biện pháp để hạn chế ngăn chặn rủi ro trong hoạt động Ngân hàng là cần thiết, đặc biệt là trong kinh doanh tín dụng. Đây không chỉ là mối quan tâm riêng của các NH mà còn là sự quan tâm chung của toàn ngành Ngân hàng. Với những kiến thức lý luận cơ bản tiếp thu tại trường và khảo sát thực tế trong thời gian thực tập tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt. Nhận thức rõ tính cấp thiết của vấn đề, ý thức trách nhiệm với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng liên doanh Lào-Việt. Em đã quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt” làm khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. mục đích nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề tín dụng Ngân hàng, đánh giá thực trạng thực tế ở Ngân hàng liên doanh Lào-Việt để đề xuất những giảI pháp nhằm hạn chế và phòng ngừa rủi ro tín dụng ở Ngân hàng liên doanh Lào-Việt. 3. đối tượng nghiên cứu: đối tựơng nghiên cứu của khoá luận là rủi ro tín dụng và rủi ro tín dụng ở Ngân hàng liên doanh Lào-Việt. 4. phương pháp nghiên cứu: Khoá luận sử dụng kết hợp một số phương pháp: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp khảo nghiệm tổng kết thực tiễn, phương pháp điều tra, tổng hợp thống kê, phân tích hoạt động kinh tế và xử lý hệ thống. 5. kết cấu khoá luận: Nội dung khoá luận được kết cấu thành 3 chương: Chươngi: Rủi ro và những biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng. Chươngii: thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt. Chươngiii: Một số giảI pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt. Em muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro để nâng cao chất lượng tín dụng làm cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng nói chung và Ngân hàng liên doanh Lào-Việt nói riêng thực sự có hiệu quả. Ngân hàng không chỉ đứng vững mà ngày càng phát triển xứng đáng với vai trò và vị trí của mình. Mặc dù đã cố gắng hết sức để hoàn thành bài viết một cách tốt nhất song quá trình thực hiện và hoàn thành chuyên đề là quá trình nghiên cứu lý luận cơ bản áp dụng vào thực tiễn muôn màu muôn vẻ nên không sao tránh khỏi những thiếu sót. Do đó em mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo trong khoa và các cô chú, anh chị tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt để em có thể hoàn thiện hơn những kiến thức cơ bản và thực tiễn của mình. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa đặc biệt là Thầy Nguyễn Văn Tiến cùng với các cô chú, anh chị đang công tác tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện và hoàn thiện đề tài này. Chương i Rủi ro và những biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng. 1.1-một số vấn đề cơ bản về NHTM: 1.1.1-Khái niệm NHTM: Hoạt động của NHTM chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay. Thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và các nghiệp vụ thanh toán Ngân hàng. Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM là huy động vốn, hoạt động tín dụng, dịch vụ thanh toán, ngân quỹ và các nghiệp vụ khác. Như vậy NHTM là doanh nghiệp thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và dịch vụ. NHTM giống như các doanh nghiệp khác hoạt động kinh doanh của NHTM cũng cần vốn riêng, có mua vào, có bán ra, có thu nhập chi phí, có nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách, đảm bảo kinh doanh có laĩ. Tuy nhiên khác với doanh nghiệp khác là NHTM không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá nhưng nó góp phần vào thúc đẩy các hoạt động này phát triển thông qua hoạt động cho vay vốn và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng khác. 1.1.2-Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường: NHTM ra đời cùng với sự phát triển sản xuất của hàng hoá. NHTM trở thành bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Trong những năm qua bằng các nghiệp vụ hoạt động của mình, hệ thống Ngân hàng nói chung và NHTM nói riêng đã góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới toàn diện xây dựng hoàn thiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai, NHTM còn rất cần thiết cho sự đổi mới và phát triển đất nước, tiếp tục ổn định tiền tệ, kiểm chế lạm phát, phát triển nền kinh tế với nhịp độ cao hơn từng bước đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, góp phần ổn định chính trị, xã hội. Đây chính là nhiệm vụ đặt ra cho ngành Ngân hàng phải thực hiện. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường hoạt động của NHTM có hiệu quả và đóng vai trò hết sức quan trọng. Thứ nhất: NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế: Để tăng thu nhập quốc dân cần có quy mô sản xuất và lưu thông hàng hoá để mở rộng cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Để làm việc được điều đó đòi hỏi nền kinh tế phải có vốn, ngược lại khi nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra được nhiều nguồn vốn, khi đó NHTM đứng ra nhận tiền nhàn dỗi từ các bộ phận dân cư, tổ chức kinh tế trong xã hội vào bất cứ thởi điểm nào với nhiều loại hình huy động để thu hút lượng vốn lớn trong xã hội để đáp ứng cho nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Góp phần tăng trưởng kinh tế, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Trong điều kiện kinh tế thị trường để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn lớn để đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh, mà vốn doanh nghiệp không thể đáp ứng được yêu cầu đó, lúc này NHTM là người cung cấp vốn doanh nghiệp có thể đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng kinh doanh. Thứ hai: NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế. Sản xuất phải dựa trên cơ sở nhu cầu thị trường nhằm thoả mãn trên mọi phương diện như: giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian, địa điểm v v… do vậy các doanh nghiệp cần nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm, do đó doanh nghiệp phải đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ đồng thời củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kinh tế nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Những hoật động này đòi hỏi phải có lượng vốn lớn vượt khỏi khả năng vốn tự có của doanh nghiệp mà cần phảI thông qua hoạt động tín dụng NHTM. Thứ ba: NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế: Trong nền kinh tế thị trường, NHTM hoật động có hiệu quả, thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. NHTM góp phần mở rộng hay thu hẹp khối lượng tiên cung ứng trong lưu thông và là người tổ chức thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước. Thông qua việc cấp các khoản tín dụng NHTM đã giúp cho việc tập trung phân bổ vốn giữa các vùng, ngành kinh tế tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng, ngành trong nền kinh tế. Mặt khác, do hoạt động kinh doanh của ngân hàng gắn liền với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể khác nên qua NHTM tình hình sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, lãI xuất tỷ giá… của nền kinh tế được phản hồi về cho Ngân hàng Trung ương qua đó chính phủ và ngân hàng Trung ương có chính sách điều tiết thích hợp với tổng tình hình cụ thể. Thứ tư: NHTM là cầu nối nền tài chính Quốc gia với nền tài chính Quốc tế: Khi các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày càng mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế, xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên cầu thiết. Vì vậy nền kinh tế của mỗi nước cũng phảI hoà nhập với nền kinh tế tài chính Quốc tế. NHTM cùng với các hoạt động của mình đóng vai trò quan trọng vào sự hoà nhập này. với các nghiệp vụ nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoáI và các nghiệp vụ ngân hàng khác. NHTM đã tạo điều kiện thúc đảy ngoại thương không ngừng mở rộng. Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, thông qua nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu, ngân hàng tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác với các nước ngoài. Đồng thời thanh toán với các tổ chức tài chính, NHTM và doanh nghiệp Quốc tế giúp cho việc thanh toán trao đổi mua bán diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, an toàn và hiệu quả. 1.1.3-Rủi ro trong kinh doanh của NHTM: 1.1.3.1-Khái niệm rủi ro: Trong nền kinh tế thị trừong, rủi ro được xem như là một yếu tố không thể tách rời với quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Những hoạt động kinh doanh mang lại càng nhiều lợi nhuận thì ẩn chứa rủi ro càng cao. Trong môi trường đố một số doanh nghiệp khác ngược lại càng đứng vững trước rủi ro đạt được thành công và phát triển. NHTM cũng như các doanh nghiệp khác hoạt động với mục đích là tìm kiếm lợi nhuận, do vậy cũng luôn gặp phải rủi ro. Người ta khẳng định rằng, hơn mọi doanh nghiệp khác, ngân hàng phải đối phó với các loại rủi ro rất đa dạng. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM là sự việc xảy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh ngân hàng. Ngày nay, các loại rủi ro này không chỉ xảy ra ở các lĩnh vực truyền thống của ngân hàng như: cho vay hay đầu tư chứng khoán mà nó có thể xảy ra ở tất cả các hình thức kinh doanh trong hoạt động ngân hàng. 1.1.3.2-Các loại rủi ro trong kinh doanh NHTM: 1.1.3.2.1-Rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng là rủi ro một hoặc một nhóm khách hàng không thực hiện được các nghĩa vụ tài chính đối với NHTM. Trong thực tế vì một lý do nào đó người đI vay lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính. Không thể khắc phục được buộc phảI đình sản xuất dẫn đến phá sản hoặc giảI thể. Khi đó các khoản vốn tín dụng mà NHTM cấp cho khách hàng không thể thu hồi dẫn đến NHTM bị ứ đọng vốn. Cho nên cho vay và thu hồi nợ chỉ là hành vi bắt đầu và kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, sự bất hợp lý một khâu trong sản xuất kinh doanh như: dự trữ, sản xuất hay tiêu thụ, thì sẽ kéo theo sự bất hợp lý của khâu khác dẫn đến quan hệ tín dụng sẽ kém hiệu quả. Thực tế những hoạt động thu lợi nhuận lớn thì sẽ gặp rủi ro càng cao và ngược lại trong khi người đI vay, trước sự hấp dẫn của khả năng sinh lời trong điều kiện tự do hoạt động sản xuất kinh doanh, đem vốn đầu tư vào các hoạt động này thì NHTM sẽ không bảo toàn được vốn, bị mất vốn là điều tất yếu. 1.1.3.2.2-Rủi ro về lãi suất: Trong cơ chế thị trường, lãi suất luôn biến động quá trình này có thể gây tổn thất cho NHTM, rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của yếu tố tiền tệ. Rủi ro lãI suất nảy sinh trong các trường hợp sau: Lạm phát tăng lãi suất buộc phải điều chỉnh theo su hướng tăng lên, chí phí cảu NHTM bỏ ra cũng tăng lên, do đó phải giảm thu nhập của NHTM. Do cơ cấu tài sản nợ và tài sản có của NHTM không hợp lý. NHTM dùng tài sản nợ ngắn hạn đầu tư vào tài sản có dài hạn. Nếu lãi suất ngắn hạn tăng, chi phí NHTM tăng lên, trong khi thu nhập ở tài sản có dài hạn vẫn giữ nguyên. Như vậy thu nhập của NHTM không đủ bù đắp chi phí kinh doanh, dẫn đến ăn mòn vào vốn. Ngoài ra rủi ro về lãi suất còn có nhiều yếu tố của nền kinh tế tác động như cung, cầu, yếu tố thị trường…Khi Nhà nước có quyết định điều chỉnh lãi suất theo hướng giảm xuống, trong khi tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn trả. Như vậy lãi suất cho vay bị giảm thấp, nhưng phần trả lãi cho những khoản tiền gửi có kỳ hạn không giảm tương ứng dẫn đến rủi ro lãi suất. 1.1.3.2.3-Rủi ro hối doái: Rủi ro hối đoái là những bất trắc xảy ra trong hoạt động của NHTM liên quan đến ngoại tệ do sự biến động của tỷ giá hối đoáI mà NHTM trực tiếp kinh doanh ngoại tệ. Kinh doanh mua bán ngoại tệ là một nghiệp vụ thông thường của các NHTM, nhưng cũng là một đòi hỏi khách quan từ phía khách hàng mà các NHTM phục vụ. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nghiệp vụ kinh doanh này, các NHTM thường gặp rủi ro về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền. Khi NHTM mua vào và dự trữ một loại ngoại tệ nào đó theo tỷ giá lúc mua. Nhưng khi có biến động về cung cầu về ngoại tệ hoặc do biến động về kinh tế, chính trị ở nước có ngoại tệ mà NHTM đang dự trữ, đều có thể dẫn đến tăng hoặc giảm đồng tiền nước đó. Đương nhiên đồng tiền tăng hơn lúc mua vào các NHTM sẽ được lợi, ngược lại sẽ bị lỗ. Mặt khác nếu trình độ cán bộ nghiệp vụ non kém, thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin, không nắm bắt luật pháp quốc tế cũng có thể gây nên rủi ro do sơ hở trong việc ký kết các hợp đồng thanh toán, dẫn đến tổn thất cho NHTM. 1.1.3.2.4_Rủi ro thanh toán: Rủi ro thanh toán là sự thiếu hụt về khả năng thanh toán chi trả của NHTM. Một NHTM hoạt động bình thường phải đảm bảo khả năng thanh toán, khả năng thanh toán tức là đáp ứng được các nhu cầu thanh toán hiện tại, đột xuất khi có vấn đề nảy sinh và đáp ứng được khả năng thanh toán trong tương lai. Khi NHTM thiếu khả năng thanh toán, nếu không được giải guyết kịp thời có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Khi NHTM thừa khả năng thanh toán sẽ dẫn đến ứ đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu nhập của NHTM giảm. Dẫn đến tình trạng trên là do sự mất cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn như một ngân hàng đã dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn dẫn đến thiếu hụt khả năng thanh toán cuối cùng. Mặt khác khi đến hạn, các khoản cho vay khó thu hồi được, uy tín của NHTM giảm sút làm cho khách hàng gửi tiền và khách hàng vay tiền thường phản ứng trước những khó khăn đó của NHTM bằng cách rút hết mức tín dụng hoặc số dư tiền gửi vì sợ có thể không rút được. Tất cả các khía cạnh trên dẫn đến những rủi ro trong thanh toán của NHTM. Ngoài những rủi ro nêu trên, trong hoạt động của NHTM còn chịu những rủi ro biến động của thiên nhiên mang lại như: thiên tai, hoả hoạn, động đất hoặc các rủi ro như trộm cắp lừa đảo, tham nhũng…. 1.2-một số vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng: 1.2.1-Khái niệm của tín dụng ngân hàng: Ngân hàng là loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với cộng đồng địa phương nói riêng. Đây là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán. Ngân hàng cũng thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Khả năng cho vay đối với khách hàng chính là lý do cơ bản để ngân hàng được phép hoạt động. Mọi người mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng địa phương thông qua việc cung cấp tín dụng, đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nhiệp và người tiêu dùng. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế. Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam thì: ‘Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng’ và ‘cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chíêt khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác’. Từ khái niệm trên, có thể thấy bản chất của tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản và có các đặc trưng sau: Thứ nhất: tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm tiền(cho vay), bất động sản(cho thuê). Trong những năm 1960 trở về trước, hoạt động tín dụng ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, hoạt động cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực(nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc thiết bị). Thứ hai: xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quan hệ tín dụng. Vì vậy khi xét duyệt cho vay, ngân hàng cần đặc biệt chú ý đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng chứ không chỉ các bảo đảm cho khoản vay đó. Thứ ba: giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này, phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định tỷ lệ lãI suất thực dương. Tuy nhiên, vì lãi suất chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số trường hợp cụ thể, lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Thứ tư: trong quan hệ tín dụng ngân hàng. Tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô đìêu kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước… thực chất là lệnh phiếu(promissory note), trong đó vên đI vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. 1.2.2-Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế Việt Nam: Theo đà phát triển của nền kinh tế thị trường và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các hình thức tín dụng ngân hàng ngày càng phong phú và hiện đại, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế ngày càng tăng lên. Trong nền kinh tế thị trường ai cũng muốn đồng vốn của mình phảI sinh lời. Những người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay số tiền đó, còn những nhà doanh nghiệp cũng vì mục đích sinh lợi của vốn mà rất cần vay thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, mua nguyên vật liệu, đặc biệt khi các doanh nghiệp đang thiếu vốn. Để giải quyết mâu thuẫn đó, ngân hàng thông qua quan hệ tín dụng thu hút những khoản tiền nhàn rỗi tạm thời của các chủ thể kinh tế, rồi mang cho vay đối với những người cần vốn. Hoạt động tín dụng góp phần đẩy mạnh các hoạt động đầu tư, thúc đẩy quá trình hình thành, phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các ngành các vùng và các thành phần kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vốn tín dụng ngân hàng với cơ chế hoạt động cơ bản là:"vay để cho vay"; ‘vay có hoàn trả theo thời hạn quy định cả vốn và lãi’; nếu quá hạn phải chịu lãi suất cao, đã thúc đẩy người đi vay nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn. 1.2.3-Các hình thức tín dụng ngân hàng: Phân laọi tín dụng ngân hàng là việc sắp xếp tín dụng ngân hàng theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại có cơ sở khoa học sẽ là tiền đề để thiết lập các quy trình tín dụng thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Người ta thường sử dụng những căn cứ sau: #. Theo thời hạn cho vay: - Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng. - Cho vay trung hạn là loại cho vay có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm(theo quy định hiện nay của ngân hàng Nhà nước Việt Nam). - Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20-30, một số trường hợp cá biệt có thể lên đến 40 năm. #. Theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: - Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. - Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phảI có bảo lãnh của người thứ ba. #. Theo phương pháp hoàn trả: - Cho vay có thời hạn là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng. - Cho vay không có thời hạn cụ thể là loại cho vay mà ngân hàng có thể yêu cầu người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thoả thuận trong hơp đồng. #. Theo mục đích: - Cho vay bất động sản. - Cho vay công nghiệp và thương mại. - Cho vay nông nghiệp. - Cho vay các định chế tài chính. - Cho vay cá nhân. - Cho thuê. #. Theo xuất xứ tín dụng: - Cho vay trực tiếp là khoản cho vay mà ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đI vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. - Cho vay gián tiếp là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các ngân hàng cho vay gián tiếp theo các loại sau: + Chiết khấu thương phíêu. + Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy nông nghiệp trả góp. + Nghiệp vụ thanh tín(nghiệp vụ mua các khoản phảI thu hay nghiệp vụ factoring). Ngoài các loại cho vay trên đây, ngân hàng còn thực hiện các nghĩa vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với nghiệp vụ này, ngân hàng không phải cung cấp bằng tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì ngân hàng(người bảo lãnh) phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì vậy, nghiêp vụ này còn được coi là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng ngân hàng là một sản phẩm hàng hoá của ngân hàng. Khi nền kinh tế càng phát triển thì các nhu cầu về tín dụng và dịch vụ ngân hàng càng phong phú, đa dạng. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, ngân hàng nào vận dụng một cách có chọn lọc, sáng tạo các hình thức tín dụng phù hợp với nền kinh tế, phù hợp với khách hàng thì ngân hàng đó sẽ trụ vững và ngày càng phát triển. 1.3 - rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng của NHTM: 1.3.1-Khái niệm đặc điểm rủi ro tín dụng: Nghiên cứu những đặc điểm cơ bản của rủi ro tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xác định, đo lường, quản lý và kiểm soát nó. Rủi ro tín dụng có những đặc điểm sau: -Rủi ro tín dụng mang tính chất gián tiếp. -Rủi ro tín dụng mang tính đa dạng và phức tạp. -Rủi ro tín dụng có tính tất yếu tức là luôn luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng của ngân hàng. 1.3.2-Phân loại rủi ro trong kinh doanh tín dụng: Từ nhiều góc độ và mục đích người ta có nhiều cách phân loại rủi ro và đặt ra nhiều biện pháp phòng ngừa khác nhau. Nhìn chung rủi ro mang đến có thể là thiên tai, là những biến động về kinh tế xã hội hoặc hành vi bất hợp pháp tác động lên một rộng lớn hay cục bộ. Kinh doanh tiền tệ trong nền kinh tế thị trường luôn đặt chủ thể kinh tế vào tình trạng phảI phòng ngừa rủi ro trước hết do tính tự phát vốn có của đồng tiền. Mọi biến động liên quan đến thị trường đều có thể tác động đến đồng tiền. Chiều hướng có thể tác động tốt cho chủ thể này, đồng thời tác động xấu cho chủ thể khác. Vậy nến toàn bộ các chủ thể kinh tế đều có nguy cơ gặp rủi ro thì các tổ chức tín dụng gặp rủi ro nhất vì rủi ro tác động từ nhiều phía vào cả tài sản nợ và tài sản có của tổ chức này. Ngoại trừ phảI tính đến các nguy cơ rủi ro thuần tuý như thiên tai, dịch hoạ… Trong nghiệp vụ tín dụng các ngân hàng cần phảI xem xét và nhận biết các loại rủi ro khác nhau. Có nhiều tiêu chuẩn khác nhau để phân loại rủi ro trong tín dụng ngân hàng. Nhìn chung, trong thực tiễn từ hoạt động tín dụng ngân hàng có những rủi ro sau: 1.3.2.1- Rủi ro ở khâu huy động vốn: ở khâu này thường xảy ra một trong hai trường hợp: thừa hoặc thiếu vốn: + Trường hợp thừa vốn: Tức là vốn bị ứ đọng không cho vay và đầu tư được vì vậy sẽ không sinh lãI, khi đó ngân hàng phảI trả lãI hàng ngày cho người gựi tiền vào ngân hàng. Ngân hàng bị ứ đọng vốn, thì cũng có nghĩa là các thiệt hại ngân hàng diễn ra, nếu quá trình này kéo dài ở mức độ lớn có thể dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh. + Trường hợp thiếu vốn: Xảy ra khi ngân hàng không thể đáp ứng được các nhu cầu cho vay và đầu tư, nhu cầu thanh toán của khách hàng, rủi ro này xuất phát từ chức năng chuyển hoá các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn của ngân hàng hoặc do mất lòng tin mà hàng loạt khách hàng đến rút tiền, khiến cho ngân hàng không thể chi trả cùng một lúc. Trong bối cạnh đó ngân hàng khó huy động được nguồn vốn dồi dào, làm cho kinh doanh có thể bị thu hẹp và nguy cơ vỡ nợ rất có thể xuất hiện. 1.3.2.2- Rủi ro ở khâu cho vay: Rủi ro ở khâu này thường chiếm tỷ lệ cao hơn so với các khâu khác. Đó là rủi ro gắn liền với hoạt động cho vay của ngân hàng. Cho vay bao giờ cũng gần rủi ro và xảy ra mất mát, vậy việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm chính của nhà ngân hàng. Rủi ro ở khâu này bao gồm: + Rủi ro do mất vốn: Ngân hàng cho vay ra nhưng không thu hồi được vốn về, loại rủi ro này rất nguy hiểm, vì vốn cho vay của ngân hàng phần lớn là vốn huy động vốn để cho vay. Nên khi mất vốn ngân hàng sẽ mất lòng tin với người gửi tiền và ngân hàng dẫn đến nguy cơ bị phá sản. + Rủi ro do sai hẹn: Ngân hàng không thu được nợ đúng với hạn đã thoả thuận với khách hàng gây chậm vốn luân chuyển. Với loại rủi ro này ngân hàng rất dễ bị mất khả năng thanh toán. + Rủi ro đạo đức: Vì mục đích của hoạt động tín dụng là kinh doanh tiền tệ, nguyên liệu chính của nó là tiền nên trong tín dụng luôn luôn chứa đựng nguy cơ rủi ro đạo đức. Mà tín dụng ngân hàng và sự chuyển quyền sở hữu tạm thời về tiền từ ngân hàng sang người đI vay trên nguyên tắc vay mượn có hoàn trả. Do đó dễ dẫn đến hiện tượng vốn vay của ngân hàng bị chiếm đoạt hoặc bị sử dụng sai mục đích, đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng, giảI trí…Mà vốn cho vay của ngân hàng không được đưa vào sản xuất kinh doanh để có thể tạo ra lợi nhuận hoàn trả vốn và lãI cho ngân hàng. Chính vì vậy, rủi ro đạo đức là một trong những nguyên nhân gây rủi ro cho ngân hàng từ phía khách hàng và cả trong bản thân ngân hàng. 1.3.3- Nguyên nhân gây rủi ro trong kinh doanh tín dụng của NHTM: 1.3.3.1-Nguyên nhân từ môI trường kinh doanh: Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng cũng như doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có nhiều khả năng trả nợ cho ngân hàng. Ngược lại khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, mất ổn định đã làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, sản xuất bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hoá bị ứ đọng. Điều này đã làm cho doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. 1.3.3.2 -Nguyên nhân do khách quan: Trong môi trường mà ngân hàng hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro, chúng tác động đến hoạt động kinh doanh ngân hàng bằng nhiều cách hoặc làm suy yếu khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng hoặc gây cho ngân hàng những thiệt hại về tài chính. Những rủi ro này do khách quan đem lại nên rất khó kiểm soát chúng. Trong thực tế người ta có thể kiểm soát và hạn chế rủi ro trên cơ sở dự báo, dự đoán dựa vào diễn biến thị trường tài chính tiền tệ, thiên nhiên, thay đổi chính sách kinh tế của nhà nước, tình hình phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội trong và ngoài nước, tác động của chu kỳ phát triển của nền kinh tế tại thời điểm. 1.3.3.3-Nguyên nhân từ chủ quan về phía ngân hàng: Xuất phát từ trình độ còn non yếu của một số cán bộ tín dụng, thực hiện chưa đúng quy trình nghiệp vụ, nắm bắt thông tin chưa đầy đủ, đánh giá khách hàng chưa đúng, thiếu khả năng phân tích tài chính, thiếu kiến thức về hoạt động kinh doanh của khác hàng, xác định mức vay, kỳ hạn vay không chính xác. Do trình độ quản lý hạn chế, vận dụng thể lệ chưa linh hoạt, rập khuôn máy móc hoặc không đúng, lạm dụng chức quyền, dẫn đến tham ô mất mát,… làm cho vốn bị thất thoát, chất lượng đầu tư vốn bị giảm thấp. Do chính sách tín dụng của ngân hàng không hợp lý, thể lệ cho vay có những khe hở để khách hàng lợi dụng chiếm dụng vốn hoặc sử dụng vốn của ngân hàng mà ngân hàng không kiểm soát được. Do hoạt động kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng đối với khách hàng không thường xuyên, không chặt chẽ, thiếu sự đồng bộ sẽ gây ra những hậu quả xấu trong quản lý. 1.3.3.4-Nguyên nhân từ phía khách hàng: Do sản xuất kinh doanh của khác hàng không ổn định, phương án sản xuất kinh doanh luôn thay đổi, thu nhập không thường xuyên,…khả năng thanh toán không đảm bảo dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp, mất vốn. Do năng lực tài chính và năng lực pháp lý của khách hàng còn kém nên việc chấp hành không nghiêm dẫn đến việc rang buộc trách nhiệm trước pháp luật khó khăn, pháp luật không bảo vệ được quyền lợi cho ngân hàng, ngân hàng phảI chịu rủi ro. Do người vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ có thể do những bất khả kháng như chết, mất tích, bệnh tật hoặc có ý chây ỳ không trả nợ… 1.3.4-Hậu quả của rủi ro tính dụng: Nghiên cứu phân loại rủi ro tín dụng và các nguyên nhân biến cố gây ra rủi ro tín dụng cho ta thấy: một chủ thể kinh tế nằm ở trung tâm của nền kinh teé mối nước cũng như trên phạm vi thế giới hệ thống tài chính kinh doanh tiền tệ chịu nhiều tác động từ bên ngoài và rất nhảy cảm đối với những tác động đó. Những rủi ro tín dụng tác động vào hệ thống tài chính nhẹ thì cũng làm phá sản một số ngân hàng có năng lực kinh doanh kém, nặng thì kéo theo sự suy yếu khủng hoảng của cả hệ thống tài chính. Từ đấy gây ra những tổn thất lớn cho nền kinh tế. Nó không chỉ tác động đến nền kinh tế một nước mà do đặc trưng của nền kinh tế thế giới ngày nay là sự đan xen tác động chặt chẽ lẫn nhau trong hoạt động đầu tư vốn nước ngoài dẫn đến sự khủng hoảng của hệ thống tài chính và ngân hàng của các nước trên thế giới. Rủi ro tín dụng có thể gây ra hậu quả tiêu cực tới mọi đối tượng trong xã hội, làm giảm lòng tin của công chúng vào sự vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, cũng như hiệu lực của các chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ. 1.3.5- Các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng NHTM: Rủi ro là người bạn._. đồng hành với hoạt động sản xuất kinh doanh của NHTM, không thể đặt một vấn đề về hạn chế rủi ro mà chỉ có thể phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro ngân hàng phải coi trọng chất lượng tín dụng hơn là tăng trưởng tín dụng. Nói thế không phải là chỉ coi trọng chất lượng tín dụng mà để hoạt động kinh doanh phát triển tốt phải đi đôi giữa phát triển tín dụng và phòng ngừa rủi ro. Có những ngân hàng quá non nóng trong việc cho vay nên dẫn tới rủi ro lớn, chừng nào ta chưa hiểu rõ về khách hàng thì chưa nên cho vay. Không thể coi tài sản bảo đảm là nguồn thu nợ chủ yếu mà khi cho vay phải nhìn vào nguồn trả nợ từ lợi nhuận dự án đem lại ta cho vay, nên tài sản bảo đảm chỉ là nguồn dự phòng (nguồn trả nợ thứ hai) mà thôi. Cho vay đối với khách hàng trên cùng địa bàn thì rủi ro thấp hơn so với khách hàng khác địa bàn vì việc kiểm tra, kiểm soát vốn vay của khách hàng khác địa bàn khó hơn cùng địa bàn. Để thực hiện tốt các nguyên tắc trên NHTM phải có biện pháp hữu hiệu trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh cụ thể: 1.2.5.1-Nghiên cứu và nhận định khách hàng: Đây là giảI pháp đầu tiên mà các NHTM cần quan tâm và được quan tâm đầu tiên là khách hàng: họ là ai?, họ đến ngân hàng với mục đích gì? và khả năng đáp ứng của ngân hàng là bao nhiêu cho đủ?,… để từ đó đưa ra quyết định quan hệ với khách hàng để hai vên cùng có lợi. Trong kinh doanh tín dụng thì việc hiểu được hoạt động của từng khác hàng là rất cần thiết, bởi vì ngân hàng giao vốn cho khách hàng sử dụng và hy vọng sau thời gian sẽ thu hồi về một số tiền lớn hơn bao gồm cả gốc và lãi. Do vậy để hạn chế rủi ro các NHTM cần phảI nghiên cứu về khách hàng một cách toàn diển trước khi quyết định cho vay, đồng thời giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn sau khi cho vay, cần nghiên cứu trên các phương diện sau: 1.2.5.1.1-Nghiên cứu về năng lực quản lý: Đây là cơ sở đầu tiên để các NHTM nhận định về khách hàng và có quyết định thiết lập guan hệ tín dụng hay không vì ngân hàng và khách hàng là 2 chủ thể tham gia quan hệ kinh tế nó đòi hỏi khách hàng phải có đủ năng lực pháp lý, tư cách pháp nhân. Việc ngân hàng lựa chọn quan hệ tín dụng với khác hàng có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý sẽ tránh được tình trạng không có người nhận nợ trực tiếp hoặc người nhận nợ không đủ tư cách. Ngân hàng sẽ thực sự trở thành chủ nợ và được pháp luật bảo đảm quyền lợi, quyền đòi nợ nếu có xảy ra tranh chấp giữa ngân hàng với người vay vốn. 1.2.5.1.2- Nguyên cứu khả năng tài chính của khách hàng: Quan tâm đến năng lực của khách hàng thì chưa đủ, ngân hàng còn phảI quan tâm đến khả năng tài chính của họ, nếu khả năng tài chính của người đi vay mạnh họ sẽ có khả năng trả nợ ngân hàng cả gốc và lãi tiền vay đúng hạn ngay cả khi sử dụng tiền vay của ngân hàng có bất trắc xảy ra do cơ chế thị trường cạnh tranh không tốt,… Ngược lại khi người vay gặp khó khăn về tài chính, họ không có thu nhập hoặc thu nhập không ổn định thì những khoản nợ phải trả cho ngân hàng sẽ không đảm bảo thanh toán đúng hạn từ đó cũng gây nên rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Nghiên cứu tình hình tài chính của khách hàng bao gồm rất nhiều vấn đề như: tình hình đảm bảo vốn vay trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong đó thừa vốn vay hay thiếu vốn, nguyên nhân do chiếm dụng hay bị chiếm dụng nguồn vốn hay sử dụng vốn như thế nào, biến động về kết cấu của nguồn vốn trong từng thời kỳ là hợp lý hay không hợp lý… Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả là ngân hàng phảI đánh giá được khả năng trả nợ của người vay. Bởi vì rủi ro phổ biến nhất và cũng là rủi ro cổ điển nhất của ngân hàng và khả năng chi trả của người vay. Đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng là ngân hàng phảI đánh giá được khả năng trả nợ của người vay tức là ngân hàng phải đánh giá được các chỉ tiêu. Đánh giá cơ cấu vốn doanh nghiệp: phải quan tâm chỉ tiêu vốn tự có/tổng số vốn huy động của doanh nghiệp, nếu tỷ lệ này càng cao thì càng tốt vì khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt hơn. Các NHTM thường chấp nhận tỷ lệ(40 vốn tự có/ 100 vốn huy động). #.Đánh giá khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán chung: K1 K1= Tổng tài sản có có khả năng thanh toán Tổng các khoản nợ phải thanh toán - Nếu K1>1: Doanh nghiệp đảm bảo khả năng trả nợ. #. Tổng tài sản có thể dùng thanh toán bao gồm: - Vốn bằng tiền: Gồm tiền mặt tại quỹ đơn vị và tiền gửi ngân hàng. - Tổng giá trị thành phẩm của doanh nghiệp. - Giá trị các giấy tờ có giá. - Các khoản phải thu có thể thu hồi được. #. Tổng các khoản nợ phải thanh toán bao gồm: - Nợ ngân hàng. - Nợ ngân sách(thuế + các khoản phải nộp). - Nợ bạn hàng. - Các khoản nợ khác. K2= Vốn bằng tiền Các khoản nợ đến hạn thanh toán K2 luôn luôn >1 về mặt lý thuyết, nhưng trên thực tế đơn vị có tiền mặt tại quỹ và tiền gửi thanh toán tại ngân hàng thì chưa chắc đã tốt vì không có khả năng sinh lời ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó đứng trên phương diện quản lý thực tế ngân hàng có thể chấp nhận hệ số K2 >0,5 số thiếu khi cần thiết có thể chuyển hoá từ các loại vốn khác. Nếu hệ số này giảm thấp dưới 0,5 thì có nghĩa tình hình tài chính của doanh nghiệp đang ở mức báo động và dễ vỡ nợ. #.Đánh giá lợi nhuận của doanh nghiệp: Lợi nhuận / tổng vốn hoạt động của doanh nghiệp (tức 1 đồng vốn đưa vào hoạt động sẽ sinh lời bao nhiêu). Lợi nhuận/vốn tự có (tức 1 đồng vốn tự có sinh được bao nhiêu lợi nhuận). Lợi nhuận/lãi phải trả (lãi phải trả cho doanh nghiệp so với tổng lợi nhuận thu được). Đây là một trong các chỉ tiêu quan trọng được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Bởi vì thông qua chỉ tiêu này ngân hàng có thể dự đoán được khả năng trả nợ của doanh nghiệp, ngân hàng phải xem xét tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp có lớn hơn lãi xuất vay vốn ngân hàng hay không để từ đó thấy được trong năm doanh nghiệp làm ăn có lãi và có khả năng trả tiền vay cả gốc và lãi cho ngân hàng, ngoài ra họ còn tích luỹ. Những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận < lãi suất tiền vay ngân hàng thì doanh nghiệp đó không có khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng. Bởi hoạt động của họ rất kém, hiệu quả thấp. Do đó NHTM sẽ không cho các doanh nghiệp này vay vốn để đề phòng rủi ro. Như vậy thông qua các chỉ tiêu cơ bản, sử dụng các báo cáo tài chính là ngân quỹ… Cán bộ tín dụng ngân hàng có thể tự đánh giá được tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng qua đó đi đến quyết định cho vay hay không, việc nghiên cứu này giúp cho NHTM đảm bảo an toàn vốn hạn chế được rủi ro. 1.2.5.1.3- Nghiên cứu năng lực kinh doanh của khách hàng trên thị trường: Một doanh nghiệp có năng lực kinh doanh là doanh nghiệp có khả năng khai thác được nguồn cung cấp nguyên liệu hợp lý nhất. Có chi phí thấp nhất nhưng vấn đảm bảo cung cấp đầy đủ số lượng, chất lượng, đúng hạn, phù hợp với quy trình công nghệ theo yêu cầu chất lượng sản phẩm của donah nghiệp. Doanh nghiệp có năng lực kinh doanh còn phải nhạy bén với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng, có thị trường tiêu thụ rộng, số lượng sản phẩm cung cấp mời chào phù hợp với khả năng tiêu thụ của thị trừong chất lượng sản phẩm được nâng cao và ngày càng hoàn thiện. Năng lực kinh doanh của một doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố mang tính chủ quan như chất lượng công tác quản lý của một doanh nghiệp, tính hữu hiệu của quảng cáo, chiến lược khách hàng, chiến lược sản phẩm, khả năng cạnh tranh và phẩm chất của lực lượng lao động có ý nghĩa quyết định. Việc nghiên cứu năng lực kinh doanh của khác hàng giúp ngân hàng biết được khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trên thương trường không chỉ ở hiện tại mà trong cả tương lai. Từ đó có quyết định cho vay vốn khách hàng đảm bảo có hiệu quả và thu hồi được nợ. Ngoài ra thông qua việc phân tích hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường cung cấp và thị trường tiêu thụ ngân hàng có thể dự đoán được biến động của thị trường có ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Từ đó có quyết định xử lý kịp thời đối với các khoản tiền ngân hàng cho khách hàng vay, hạn chế mất vốn đồng thời giúp khách hàng được những biện pháp khắc phục khó khăn duy trì kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình để đảm bảo trả nợ đúng hạn. 1.2.5.1.4-Nghiên cứu năng lực phẩm chất của người điều hành: Yếu tố con người là quan trọng và không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh nhất là người lãnh đạo quyết định sự thành bại của doanh nghiệp, vì vậy việc nghiên cứu năng lực phẩm chất của người điều hành trước hết là nghiên cứu về năng lực quản lý, trình độ tổ chức điều hành công việc, kinh nghiệm kinh doanh được thể hiện ở kết quả kinh doanh, khả năng tạo ra lợi nhuận. Đối với cá nhân năng lực của họ tuỳ thuộc vào yếu tố như giáo dục, đạo đức, sức khoẻ, kỹ năng, tính năng động, biết sáng tạo và tăng lợi nhuận nhưng trong đó chất lượng quản lý được coi là yếu tố chính. Những người lãnh đạo năng lực là người biết nắm lấy thời cơ kinh doanh, biết vận dụng cơ hội để kinh doanh, biết lựa chọn mặt hàng phù hợp thị hiếu tiêu dùng và chiếm ưu thế trên thị trường. Năng lực và phẩm chất người điều hành còn thể hiện tư cách và uy tín của họ, nếu có năng lực mà không có uy tín thì ngân hàng không thể cung cấp vốn tín dụng cho họ. Do vậy, trước khi cấp tín dụng cho khách hàng đòi hỏi ngân hàng phải xem xét năng lực phẩm chất đạo đức người vay và hồ sơ quá khứ của họ. 1.2.5.1.5- Nghiên cứu tình hình công nợ của người vay: Mọi hoạt động kinh doanh của khác hàng không chỉ đơn thuần sử dụng vốn tự có của mình hoặc dựa vào vốn tín dụng của ngân hàng mà khi có nhu cầu về vốn khách hàng có thể vay nhiều người, nhiều ngân hàng hay các Tổ chức tín dụng khác. Như vậy cùng một lúc người vay có thể vay nợ ở nhiều nơi, nhưng vấn đề đặt ra là doanh nghiệp có sử dụng vốn vay này cho mục đích kinh doanh của mình hay không, hay là doanh nghiệp đI vay nơI này để trả nợ nơi khác như một vòng luẩn quẩn. Nếu ngân hàng mà không xem xét tình hình công nợ của khách hàng mà cứ chủ quan cho vay để thanh toán nợ vay khác thì khả năng bị mất vốn không đúng hẹn là rất lớn. Do vậy, ngân hàng phải nắm được tình hình công nợ của khách hàng và khả năng của họ trên cơ sở các khoản phải thu, phải trả đối với bạn hàng. 1.2.5.2-Thông tin rủi ro về khách hàng: Để có được thông tin rủi ro về khách hàng, ngân hàng sẽ thu thập từ nhiều nguồn: Từ bản thân người đi vay, từ các bạn hàng-người vay tại hội nghị khách hàng, quan hệ mua bán của khách hàng trên thị trường hoặc mua thông tin từ các báo chí cung cấp. Qua phỏng vấn trực tiếp và những hồ sơ tài liệu mà khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng nắm được lý do xin vay và yêu cầu xin vay có đáp ứng được đòi hỏi khác nhau do chính sách cho vay của ngân hàng ấn định hay không. Để tìm hiểu kỹ về khách hàng phảI lưu giữ hồ sơ khách hàng, thành lập một bộ phận chuyên trách về thông tin và rủi ro tín dụng tạo điều kiện cho ngân hàng theo dõi sự vận động của vốn tín dụng để kịp thời hạn chế rủi ro. Muốn có được thông tin phục vụ cho công tác tín dụng thì phảI có quá trình thu thập, xử lý, cung cấp thông tin. Hiện nay ở nước ta công tác thông tin phòng ngừa rủi ro đang phát triển ở giai đoạn đầu và được lãnh đạo NHTM và các tổ chức tín dụng đặc biệt quan tâm. Tuy hoạt động hiệu quả này còn chưa cao song cũng đã cung cấp được những thông tin có giá trị tham khảo tốt cho một số tổ chức trong việc quyết định tín dụng. Như vậy thông tin rủi ro nhằm mục đích bảo toàn vốn cho khách hàng trong kinh doanh tín dụng là hết sức cần thiết. Ngân hàng cần tổ chức và xử lý thông tin như thế nào để bảo đảm chính xác và không ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của khách hàng. 1.2.5.3- Nghiên cứu và sử dụng các bảo đảm tín dụng chắc chắn: Trong kinh doanh tín dụng ngân hàng, việc thu hồi vốn ngắn hạn, nguồn thứ nhất là tiền bán hàng và cung ứng dịch vụ của khách hàng, còn cho vay trung dài hạn nguồn thu là khấu hao TSCĐ và lợi nhuận của dự án đầu tư mang lại. Tuy nhiên nếu nguồn thu này không chắc chắn buộc ngân hàng phảI thiết lập cơ sở pháp lý, để có thể làm nguồn thu thứ hai nhằm giảm rủi ro, để đảm bảo cho ngân hàng có cơ sở thu hồi nợ một cách chắc chắn và gắn trách nhiệm của người vay vốn với những khoản vay do đó vốn tín dụng sẽ được sử dụng hiệu quả hơn, cũng từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng thị trường tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn, do vậy thiết lập bảo đảm tín dụng như một biện pháp quan trọng hỗ trợ cho việc quản lý tín dụng bảo đảm khả năng thu hồi nợ cho khách hàng. Sử dụng các hình thức bảo đảm là yêu cầu cần thiết khách quan nó là một trong những nguyên tắc trong kinh doanh tín dụng, đảm bảo đồng vốn của ngân hàng cho vay ra có hiệu quả thu hồi được cả gốc và lãI, hạn chế rủi ro. Sử dụng các hình thức đảm bảo không phải là giải pháp có thể loại bỏ được hoàn toàn rủi ro. Hơn nữa bản thân nó chứa đựng rủi ro không nhỏ, những thịêt hại nảy sinh như việc giảm giá trị đối tượng làm bảo đảm. Mỗi một lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có những nét đặc thù riêng, xuất phát từ lĩnh vực hoạt động, mục đích kinh doanh sử dụng tiền vay của khách hàng, năng lực của người đi vay, đặc điểm vận động của đối tượng kinh tế vay… Ngân hàng sẽ quyết định có cần thiết phải bảo đảm tín dụng hày không, được quy định và thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. 1.2.5.4-Tăng cường công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay: Để hạn chế rủi ro ngân hàng cần tổ chức kiểm tra đơn vị vay về việc vay vốn, sử dụng vốn vay, trả nợ một cách thường xuyên trong suet quá trình cho vay bao gồm: kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Việc kiểm tra trước khi cho vay giúp cho ngân hàng có được thông tin đầy đủ về khách hàng vay vốn từ đó có quyết định cho vay đúng đắn góp phần hạn chế rủi ro. Kiểm tra trong và sau khi cho vay giúp cho ngân hàng phát hiện được những khoản vay có vấn đề để có được những biện pháp xử lý kịp thời trên cơ sở đó mà có thể phòng ngừa và hạn chế được rủi ro cho ngân hàng. 1.2.5.5-Ngân hàng phảI thiết lập quỹ dự phòng rủi ro: Quỹ này dùng để bù đắp các khoản rủi ro tổn thất, trong rủi ro tín dụng cần được bù đắp để bảo đảm cho hoạt động ngân hàng được bình thường và đảm bảo chấp hành các quy định an toàn của ngân hàng Trung ương. Nguồn bù đắp đáng kể nhất là quỹ dự phòng rủi ro, quỹ này được dùng để bù đắp những tổn thất trong hoạt động tín dụng. Do vậy để hạn chế rủi ro tín dụng cần thiết phảI thiết lập qũy dự phòng rủi ro. Tuy nhiên trước khi sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất, giá trị bù đắp bằng tiền bồi thường của tổ chức, cá nhân và các tổ chứuc của bảo hiểm. Sau đó mới tiến hành xoá các khoản nợ không có khả năng thu hồi bằng nguồn vốn của quỹ dự phòng. Chươngii Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng liên doanh lào-việt, chi nhánh hà nội. 2.1-kháI quát về ngân hàng liên doanh lào-việt, chi nhánh hà nội(lvb, chi nhánh hà nội) 2.1.1- Quá trình thành lập và cơ cấu tổ chức của LVB, chi nhánh Hà Nội: 2.1.1.1- Lịch sử hình thành của LVB, chi nhánh Hà nội: Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước của hai nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào về việc phát triển mạnh mẽ quan hệ hữu nghị hợp tác đặc biệt Việt-Lào về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học- kỹ thuật, ngân hàng liên doanh Lào-Việt (LVB) đã được thành lập vào ngày 22-06-1999 tại thủ đô Vietiane nước CHDCND Lào. Gần một năm sau đó, ngày 27-03-2000 được sự chỉ đạo của Chính phủ và ngân hàng trung ương hai nước, LVB đã được cấp phép mở chi nhánh tại Hà Nội, chi nhánh đầu tiên của hệ thống ngân hàng liên doanh Lào-Việt, với vốn đóng góp ban đầu của mỗi bên là 50% trong 10.000.000$. Sự ra đời của chi nhánh Hà nội đánh dấu một bước phát triển rất quan trọng của hệ thống LVB nói riểng và quan hệ hợp tác kinh tế toàn diện giữa hai nước Việt-Lào nói chung. LVB thực hiện chức năng kinh doanh của một Ngân hàng thương mại tiên tiến với công nghệ hiện đại, phương thức giao dịch một cửa, với phương châm phục vụ là “ thuận lợi, nhanh chóng, chính xác và an toàn”. Trong 6 năm qua, chi nhánh đã không ngừng nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn thử thách, tận dụng thời cơ để từng bước ổn định và phát triển hoạt động kinh doanh. Chi nhánh ra đời và hoạt động trong một môI trường hoạt động kinh doanh cạnh tranh vô cùng khắc nghiệt: nơI có rất nhiều tổ chức tín dụng với nhưng lợi thế về qui mô, uy tín và các quan hệ truyền thống, cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng diễn ra gay gắt. Trong khi mức vốn điều lệ của chi nhánh cũng như toàn hệ thống quá nhỏ, do đó việc tạo lập uy tín, thu hút khách hàng, xâm nhập để chiếm lĩnh thị trường, thị phần là hết sức khó khăn. Là một chi nhánh ngân hàng nước ngoài nên hoạt động kinh doanh bị nhiều hạn chế như: không được phép huy động tiết kiệm ngoại tệ, không được phép mở phòng giao dịch, bàn tiết kiệm…Đó là trở ngại rất lớn trong quá trình phát triển của chi nhánh. Trước những khó khăn thử thách trên, chi nhánh đã tranh thủ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các Bộ ngành có liên quan. Đặc biệt với sự quan tâm chu đáo về mọi mặt của hai ngân hàng mẹ, chi nhánh đã từng bước ổn định và phát triển, kinh doanh ngày càng hiệu quả, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Trong suốt 6 năm qua, chi nhánh luôn ý thức được vai trò, nhiệm vụ chủ yếu của mình là làm thế nào góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước Việt Nam- Lào. Chi nhánh đã chủ động tìm kiếm và thiết lập quan hệ làm ăn kinh tế lâu dài với nhiều doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh với nước bạn Lào. Chi nhánh đã kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, thi công và kinh doanh với nước bạn Lào, trong đó đặc biệt là các đơn vị thành viên của tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, tổng công ty xây dựng miền trung tham gia thi công các công trình như: Đập chứa nước Thuỷ lợi Nâm Tiên, Thuỷ lợi Thaphanongphong, Nhà bảo tàng Chủ tịch Kaysỏn Phomvihan, trường Đại học Quốc gia Lào, Đường 18B…Với vai trò làm cầu nối thanh toán giữa hai nước Việt Nam-Lào chi nhánh đã thành lập đường dây thanh toán trực tiếp với Hội sở chính thuận lợi nhanh chóng, chính xác với nhiều hình thức thanh toán đa dạng như: mở tài khoản điều hành từ xa, nhờ đó khách hàng ở Việt Nam thực hiện điều hành tài khoản của mình đã mở ở Lào và ngược lại… Thông qua hội sở chính, kênh thanh toán của chi nhánh có thể đi đến tất cả các ngân hàng tại Lào, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng như: chuyển tiền thanh toán hợp đồng kinh tế, chuyển tiền viện trợ của chính phủ, của tổ chức, chuyển tiền cho người thân học tập, du lịch… Bằng nhiều loại tiền tệ như: LAK, VND, USD, THB… trong đó chi nhánh đặc biệt chú trọng việc thanh toán bằng VND và LAK. Sâu 6 năm hoạt động, hệ thống ngân hàng Lào-Việt nói chung và chi nhánh Hà Nội nói riêng đã thiết thực góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước, điển hình là việc triển khai nhanh, có hiệu quả chủ trương của chính phủ về thực hiện thanh toán chuyển tiền bàng đồng Việt Nam và kịp Lào; bước đầu làm tốt vai trò trung tâm thanh toán, tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho các doanh nghịêp hai nước trong thanh toán; phát triển các nghiệp vụ và dịhc vụ ngân hàng tiên tiến, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của khách hàng; hoạt động kinh doanh an toàn và có hiệu quả; làm tốt nhiệm vụ ngân hàng đại lý tiếp nhận và giảI ngân các dụ án sử dụng vốn theo hiệp định của Chính phủ hai nước và mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng trong và ngoài nước để từng bước hội nhập và phát triển. Từ kết quả đạt được nêu trên của chi nhánh, đã khẳng định một hướng đI đúng, một sự đầu tư hiệu quả. Sự ra đời của chi nhánh Hà Nội ngân hàng liên doanh Lào-Việt là một điều tất yếu của sự phát triển hợp tác kinh tế toàn diện, là mắt xích quan trọng thắt chặt tình đoàn kết, gắn bó keo sơn, bền vững giữa hai nước Việt Nam-Lào. 2.1.1.2-Cơ cấu tổ chức của LVB, chi nhánh Hà nội: LVB Chi nhánh Hà nội có trụ sở ở 17B - Hàn Thuyên, Quận Hai Bà Trưng, Thủ đồ Hà nội. Ngày 27/03/2001, Chính phủ của hai nước đã Quyết định thành lập lại LVB chi nhánh Hà nội theo qui chế doanh nghiệp của hai nước. Song song với việc sắp xếp lại tổ chức, LVB chi nhánh Hà nội đã xây dựng những văn bản pháp qui qui định chức năng nhiệm vụ của các phòng ban. Để phù hợp với nền kinh tế thị trường. Vai năm qua cùng với các ngân hàng thương mại khác, LVB chi nhánh Hà nội tiến hành đổi mới về bộ máy tổ chức. Mô hình tổ chức này đã giúp cho ban giám đốc tập trung sự chỉ đạo, nghiên cứu, hoạch định chiến lược kinh doanh sát với nền kinh tế thị trường. Mô hình tổ chức ngân hàng liên doanh lào-việt, chi nhánh hà nội Ban giám đốc Phòng hành chính tổng hợp Phòng kinh doanh Phòng kế toán Kiểm soát nội bộ Thanh toán quốc tế C-vay và B-lãnh Huy động vốn Giao dịch Kho quỹ Điện toán Mô hình tổ chức hệ thống ngân hàng liên doanh lào-việt Ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam Ngân hàng ngoại thương lào Hội sởchính HĐQT Ngân hàng liên doanh lào việt P. kiểm soát nội bộ P. nghiệp vụ bán lẻ P. nghiệp vụ kinh doanh Chi nhánh tại hà nội Ban tổng giám đốc P. kế toán tài chính - ĐT Chi nhánh tại champasak Chi nhánh tại TPHCM Văn phòng Thành viên hội đồng quản trị ngân Ông Lê Đào Nguyên PhóTGĐ ngân hàng ĐT và PT Việt Nam chủ tịch hội đồng quản trị Bà Phasy Phommakone Phó TGĐ ngân hàng ngoại thương Lào phó chủ tịch hội quản trị. Bà Bounta Daravy Uỷ viên. Ông Lê Mạnh Hà Uỷ viên Ông Phạm Quốc Hùng Uỷ viên Ông Phansana Khounnouvong Uỷ viên Thành viên ban tổng giám đốc ngân hàng liên doanh Lào-Việt Bà Bounta Daravy Tổng giám đốc Ông Lê Mạnh Hà Phó tổng giám đốc thứ nhất Bà Manivong Sayaseng Phó tổng giám đốc Thành viên ban giám đốc chi nhánh hà nội qua các nhiệm kỳ Ông Lê Mạnh Hạ Giám đốc chi nhánh nhiệm kỳ I Ông Lê Viết Dung Giám đốc chi nhánh nhiệm kỳ II Ông Santy Phonmeuanglao Phó giám đốc chi nhánh nhiệm kỳ I Ông Bouvanh Simalivong Phó GĐ chi nhánh nhiệm kỳ II 2.1.2-Khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh tại LVB, chi nhánh Hà Nội: 2.1.2.1-Hoạt động huy động vốn: Với phương châm hoạt động là “đi vay để cho vay” LVB, chi nhánh Hà Nội đã hết sức coi trọng công tác huy động vốn và coi đây là một trong những hoật động chủ yếu để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. LVB, chi nhánh Hà Nội luôn chú trọng đến công tác huy động vốn tại chỗ, đã đưa ra nhiều hình thức huy động vốn và biện pháp nhằm khai thác các nguồn vốn trên địa bàn như: Tổ chức mạng lưới tiết kiệm rộng khắp với các hình thức huy động phong phú, đa dạng, tổ chức và thực hiện tốt dịch vụ ngân hàng, coi trọng chiến lược khác hàng trong công tác huy động vốn…Nhờ đó: Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2004 đạt 162,183 triệu đồng(10,282 ngàn USD quy đổi) tăng 21% so với đầu năm. Vốn huy động từ tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm của khách hàng đạt 36,797 triệu đồng(2,333ngàn USD) chiếm 23% vốn huy động tại chỗ. Trong đó tiền gửi tiết kiệm dân cư đạt 936 ngàn USD quy đổi, bằng 84% so với đầu năm. Cơ cấu gửi tiết kiệm tăng theo xu hướng tăng tiền gửi có kỳ hạn dài, trong đó tiền gửi 12 tháng trở lên đạt 696 ngàn USD, chiếm 74% tổng tiền gửi tiết kiệm. Đến 31/12/2004 tổng dư nợ vay của Chi nhánh tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là 182,296 triệu VND, bằng 116% so với thời điểm 31/12/2003. Tổng nguồn vốn huy động tại chỗ đến 31/12/2005 đạt 355 tỷ đồng(22,3 triệu USD), tăng 117% so với đầu năm và chiếm 73% trên tổng nguồn vốn của chi nhánh. Vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng là tổ chức, cá nhân đạt hơn 47 tỷ đồng, tăng 29% so với đầu năm và chiếm 13,4% vốn huy động tại chỗ, số dư tiền gửi tiết kiệm dân cư đến 31/12/2005 đạt hơn gần 16 tỷ đồng, bằng 105% so với đầu năm, trong đó tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam đạt 11,5 tỷ đồng, tăng 63% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong tổng nguồn vốn huy động thì tiền gửi có kỳ hạn nhận của các tổ chức tín dụng khác chiếm tỷ trọng lớn nhất, tính đến 31/12/2005 đạt gần 284 tỷ đồng, chiếm 80% trên tổng vốn huy động. Đây là nguồn vốn có thời gian nhận gửi rất ngắn, không ổn định và thường mang tính thời điểm, cần phảI có nguồn vốn vay hạn mức từ ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam làm hậu thuẫn. Tổng nguồn vốn huy động đến thời điểm 31/12/2006 đạt 30,5 triệu USD quy đổi, tăng 37% so với đầu năm và chiếm 87% trên tổng nguồn vốn của chi nhánh. Trong đó, vốn huy động từ khách hàng là tổ chức kinh tế, cá nhân bằng 135% so với kế hoạch giao, đạt gần 6,1 triệu USD quy đổi, tăng 106% so với đầu năm và chiếm 20% tổng vốn huy động. Số dư tiền gửi tiết kiệm dân cư đến 31/12/2006 đạt hơn 3,3 triệu USD quy đổi, gấp 3,25 lần so với đầu năm. Trong tổng nguồn vốn huy động thì tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức tín dụng khác chiếm tỷ trọng lớn nhất, tính đến 31/12/2006 đạt 23,15 triệu USD quy đổi, chiếm 76% trên tổng vốn huy động. Đây là nguồn vốn có thời gian nhận gửi rất ngắn, không ổn định và thường mang tính thời điểm trước kia chi nhánh cần phảI có nguồn vốn hỗ trợ từ BIDV làm hậu thuẫn, tuy nhiên, BIDV đã chuyển nguồn vốn vay khác thấu chi sang cơ chế tiền gửi liên ngân hàng với lãI suet thị trường, vay trả theo thời hạn quy định của hợp đồng. Chính vì vậy việc cân đối nguồn dự trữ thanh toán của chi nhánh hiện đang gặp rất nhiều khó khăn. Bảng1: tình hình vốn huy động của LVB, chi nhánh Hà Nội. Đơn vị triệu đồng 31/12/2004 31/12/2005 31/12/2006 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng nguồn vốn 398 100 484,39 122 563,32 142 Tổng vốn huy động 162,18 100 354,86 219 491,12 303 Tổng dư nợ vay tại NH đầu tư và phát triển VN 182,29 100 406,1 223 457,67 251 (Báo cáo tổng kết năm 2004,2005,2006 của LVB, chi nhánh HN) Qua biểu trên ta thấy rằng nguồn vốn huy động qua các năm của chi nhánh tăng lên đáng kể tạo điều kiện thuận lợi cho chi nhánh chủ động trong việc sử dụng vốn là cơ sở để tổ chức hoạt động kinh doanh mở rộng qui mô hoạt động của mình. Mặc dù lãi suất huy động trong thời gian gần đây liên tục giảm thấp và sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trên địa bàn ngày càng trở lên gay gắt và quyết liệt, song LVB, chi nánh Hà Nội vẫn duy trì hoật động bằng nhiều biện pháp tích cực mở rộng mạng lưới trên địa bàn giữ vững thị trường, giữ vững khách hàng, vận động các doanh nghiệp trên địa bàn gửi vốn ổn định, mở rộng các hình thức huy động cơ chế lãi suất linh hoạt hấp dẫn, phong cách giao dịch đổi mới, công nghệ thanh toán điện tử chính xác, thuận tiện đã nâng cao được uy tín vị thế của mình trên thị trường tạo được niềm tin thu hút khách hàng. Thực hiện tốt cơ chế tài chính tạo động lực để cán bộ ngân hàng có tinh thần trách nhiệm cao, có thái độ phục vụ tốt có tín nhiệm trong công tác, từ đó ngân hàng đã tạo lập được nguồn vốn ổn định và khá vững chắc có điều kiện phát huy tín dụng. Với chất lượng công tác quản lý điều hành tốt công tác huy động vốn của LVB, chi nhánh Hà Nội tạo tiền đề cho việc thực hiện tốt phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch của những năm tiếp theo. 2.1.2.2-Hoạt động sử dụng vốn: Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn thì việc sử dụng vốn là điều sống còn của ngân hàng, từ nhận thức đó LVB, chi nhánh Hà Nội xác định nâng cao chất lượng tín dụng và uy tín đối với khách hàng là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. LVB, chi nhánh Hà Nội đã đa dạng hoá các hình thức tín dụng phù hợp với nhiều loại cho vay như cho vay ngắn hạn, trung, dài hạn, cho vay ưu đãI hộ nghèo,… và đầu tư theo hướng chọn lọc trên cơ sở phân loại khách hàng, đầu tư vào các doanh nghiệp, các bộ làm ăn có lãI, đầu tư vào các hộ nghèo thiếu vốn sản xuất. Bảng 2: Tình hình cho vay tại LVB, chi nhánh Hà Nội: Đơn vị 1000 USD Chỉ tiêu Năm2004 Năm2005 Năm2006 Số tiền % Số tiền % Số tiền % I.D.số cho vay 28,025 100 24,9 100 30,3 100 1.Ngắn hạn 18,567 66,3 16.93 68 25,423 84 2.Trung, dài hạn 9,483 33,7 7.97 32 11,43 16 II,D.số thu nợ 13,589 100 23,00 100 28,8 100 1.Ngắn hạn 9.87 72,6 17,376 75,5 21,44 74.4 2.Trung, dài hạn 3,72 27,4 5,624 24,5 7,356 25.5 III.Dư nợ 23,577 100 25,232 100 28,436 100 1.Ngắn hạn 16,872 71,6 17,788 70,5 19,194 67,5 2.Trung, dài hạn 6,70 28,4 7,444 29,5 9,242 32.5 Nợ quá hạn 482 528 642 (Nguồn báo cáo thống kê LVB, chi nhánh Hà Nội) Qua bảng số liệu trên cho thấy tình hình phát triển tín dụng tại LVB, chi nhánh HN trong 3 năm(2004-2006) như sau: #.Năm 2005: -Doanh số cho vay đạt 24,9 ngàn USD giảm 11,2% so với năm 2004, trong đó cho vay ngắn hạn đạt 16,93 ngàn USD giảm8,2% so với năm 2004, cho vay trung, dài hạn đạt 7,97 ngàn USD giảm16% so với năm 2004. -Doanh số thu nợ đạt 23 ngàn USD tăng 69% so với năm 2004, trong đó thu nợ ngắn hạn đạt 17,376 ngàn USD tăng 76% so với năm 2004, thu nợ trung, dài hạn đạt 5,624 ngàn USD tăng 51% so với năm 2004. -Dư nợ đạt 25,232 ngàn USD tăng 7% so với năm 2004, trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 17,788 ngàn USD tăng 5,4% so với năm 2004, dư nợ trung, dài hạn đạt 7,444 ngàn USD tăng 11% so với năm 2004. #.Năm 2006: -Doanh số cho vay đạt 30,3 ngàn USD tăng 8,1% so với năm 2004, trong đó cho vay ngắn hạn đạt 25,423 ngàn USD tăng 36,9% so với năm 2004, cho vay trung, dài hạn đạt 11,43 ngàn USD tăng 20,5% so với năm 2004. -Doanh số thu nợ đạt 28,8 ngàn USD tăng 111,9% so với năm 2004, trong đó thu nợ ngắn hạn đạt 21,44 ngàn USD tăng 117,2% so với năm 2004, thu nợ trung, dài hạn đạt 7,356 ngàn USD tăng 97,7% so với năm 2004. -Dư nợ đạt 28,436 ngàn USD tăng 20,6% so với năm 2004 trong đó dư nợ ngắn hạn dạt 19,194 ngàn USD tăng 13,7% so với năm 2004, dư nợ trung, dài hạn đạt 9,242 ngàn USD tăng 37,9% so với năm 2004. Cùng với việc củng cố và phát triển chọn lọc quan hệ tín dụng với các khách hàng đã và đang vay vốn. Chi nhánh cũng luôn chú trọng và đẩy mạnh thực hiện đa dạng hoá đối tượng, loại hình khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. Tính đến 31/12/2006 dư nợ của các doanh nghiệp có vốn Nhà nước đạt 11,8 triệu USD quy đổi, chiếm 41,5% trên tổng dư nợ( trong đó dư nợ vay của các doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá là 5,2 triệu USD quy đổi). Dư nợ vay của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 13 triệu USD quy đổi, tăng 2,4% so với năm 2005 và chiếm 45,8 % tổng dư nợ. Dư nợ cho vay tư nhân, cá thể đạt 3,6 triệu USD quy đổi, ch._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7589.doc
Tài liệu liên quan