Một số giải pháp phát triển xuất khẩu hàng nông sản chế biến ở Việt Nam

Mục lục Trang LỜI MỞ ĐẦU Trên con đường hiện đại hoá, công nghiệp hoá, nông nghiệp Việt Nam đang từng bước tiến tới một nền sản xuất hàng hoá lớn, với sản phẩm ngày càng dồi dào, giá thành ngày càng hạ, cho đến nay, sản xuất nông nghiệp đã áp ứng tốt nhu cầu lương thực, thực phẩm cho 80 triệu dân và một số hàng nông sản xuất khẩu của ta đã đứng hàng thứ 2-thứ 3 trên thế giới. Tuy nhiên, thị trường năm qua cũng cho thấy tình trạng thừa ứ một số mặt hàng nông sản đã làm cho người nông dân được

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp phát triển xuất khẩu hàng nông sản chế biến ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mùa mà không vui, thu hoạch tăng mà vẫn nghèo túng. Để chặn đứng hậu quả đó, con đường đúng nhất là đẩy mạnh chế biến nông sản thực phẩm hàng hoá. Có thể thấy hàng hoá nông sản chưa qua chế biến thì giá trị của nó biến động lớn, không ốn định, còn khi đưa vào chế biến có quy hoạch thì sản lượng ổn định, chất lượng cao. Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động sản xuất của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế và phát triển trong mối quan hệ tuỳ thuộc vào nhau giữa các quốc gia. Việc mở của hội nhập kinh tế và tự do hoá thương mại toàn cầu chác chắn sẽ diễn ra sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt, mà trong cuộc chiến này, Việt Nam không tự xây dựng chiến lược nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường thì sẽ gặp nhiều khó khăn và thua thiệt. Việc gấp rút phân tích và đánh giá đúng đắn các lợi thế so sánh và các mặt bất lợi trong việc phất triển sản xuất- kinh doanh từng loại nông sản chế biến xuất khẩu, để đề ra một đối sách thích hợp là rất quan trọng. Với những ý nghĩa trên, em xin chọn đề án : “MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU HÀNG NễNG SẢN CHẾ BIẾN Ở VIỆT NAM.” NỘI DUNG 1. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản chế biến ở Việt Nam 1.1. Sơ lược về tình hình và vị trí của xuất khẩu hàng nông sản chế biến trong cơ cấu Kinh tế Quốc Dân Từ một nước hàng năm phải nhập khẩu lương thực, chỉ hơn một thập niên sau nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam đã chiếm lĩnh thị trường thế giới như gạo, hạt điều nhân, cà phê… Theo thời gian . Trong những năm qua, hàng hoá nông sản chế biến xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam ra thế giới không ngừng tăng trưởng cả về số lượng và giá trị. Xuất khẩu hàng nông sản chủ lực tăng lên khá cao, chẳng hạn ngành cao su xuất được 607.000 tấn đạt gần 1,3 tỷ USD trong năm 2006, đến năm 2007 kim ngạch xuất khẩu cao su tăng 16,5%, hạt điều tăng 13,5%, rau quả tăng 29%. Kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt 4.300 triệu USD, tăng hơn năm 1991 là 3,9 lần và chiếm 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong giai đoạn vừa qua, hàng nông sản vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam. Bình quân thời kỳ 1995-2000 kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản chiếm khoảng 70% và hàng thuỷ sản chiếm 25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản. Năm 2005 hàng nông lâm thuỷ hải sản xuất khẩu chiếm gần 25% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, với hơn 8 tỷ USD trong đó gạo 1,4 tỷ USD, mặt hàng gỗ và lâm sản chiếm với 1,6 tỷ USD, thuỷ sản 2,6 tỷ USD, cao su 787 triệu USD, cà phê 730 triệu USD, hạt điều gần 500 triệu USD, hồ tiêu 120 triệu USD. Xét về tốc độ gia tăng giá trị kim ngạch thì rau quả đã tăng rất nhanh, năm 1998 đạt 52 triệu USD thì năm 1999 là 105 triệu USD và năm 2000 đạt 205 triệu USD tăng gấp hai lần so với năm 1999. Thứ đến là hồ tiêu với chỉ số tăng 51%, rồi dến cà phê (28%) và cao su (22%). Khối lượng nông sản xuất khẩu tuy có tăng lên, năm sau cao hơn năm trước, nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu lại không tăng lên tương xứng, vì giá bán của ta giảm xuống. Ví dụ năm 1999 gạo của ta xuất khẩu được 4,5 triệu tấn tức là tăng 19,3% so với năm 1998 nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 9,1%. Cao su năm 1999 xuất khẩu 265 ngàn tấn, tăng hơn năm 1998 là 38,7% nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 14,8%... Theo thị trường. Thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam ngày càng mở rộng và thay đổi về cơ cấu thị trường. Sau khi hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa tan rã, thị trường này không còn nữa thì các nước Châu Á đã nhanh chóng trở thành các bạn hàng xuất khẩu chính của ta. Trong số các nước Châu Á thì Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò lớn, tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản chế biến của ta sang các nước đó cũng đã thay đổi theo hướng giảm dần và tăng ở các nước khối EU và Châu Mỹ. Nhật Bản trở thành bạn hàng lớn của xuất khẩu nông sản chế biến Việt Nam với các mặt hàng gạo. thịt chế biến. Vừa qua gạo Việt Nam tiếp tục trúng thầu tại nước này với 21.000 tấn gạo tẻ hạt dài. Và xuất khẩu các sản phẩm chế biến từ thịt lợn như: xúc xích, giăm bông… Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU nhiều năm gần đây thường xuyên chiếm 18%-19% kim ngạch xuất khẩu toàn ngành nông nghiệp nước ta. Những nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU ổn định và liên tục tăng từ năm 2000 đến nay là : điều nhân 32%/ năm, chè 35,8%/ năm, cao su sơ chế 44,7%/ năm, rau quả 35,5%/năm. Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản đang khai thác tốt và có thị phần tương đối lớn ở khu vực này: tại Bỉ chiếm 10,1% thị trường nhập khẩu, Pháp chiếm 48,5%, Đức chiếm 57%, Italy chiếm 49,6%, Tây Ban Nha chiếm 53,9%, Anh chiếm 64,2 Theo mặt hàng Trong hoàn cảnh nông nghiệp, Việt Nam vẫn còn nặng về các sản phẩm trồng trọt, xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm thô, ít qua chế biến, sự tác động của tính chất giá cả các sản phẩm nông nghiệp trên thế giới và các xu hướng thứ sinh đối với sản xuất các sản phẩm nông nghiệp có phần không thuận lợi. Sự giao động về giá cả các sản phẩm nông nghiệp trên thế giới luôn ở mức độ cao và xảy ra thường xuyên, bởi nguyên nhân chủ yếu là sự bất ổn định của sản xuất nông nghiệp ( sự phụ thuộc vào thiên nhiên). Các sản phẩm thô có biên độ dao động cao hơn các sản phẩm đã qua chế biến. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được cải thiện theo chiều hướng đa dạng hoá, giảm tỷ trọng loại hàng nông sản chưa qua chế biến. Trong hàng nông sản xuất khẩu, lúa gạo vẩn chiếm tỷ trọng cao nhất( 23,8%), thứ đến là cà phê( 13,5%), hạt điều(4,4%) và cao su( 3,2%). Thực phẩm là mặt hàng xuất khẩu chiếm kim ngạch khá lớn của VIệt Nam. Song tỷ trọng công nghiệp chế biến một số nông sản còn thấp so với nguyên liệu hiện có, như mía đường 30%, chè 55%, rau quả 5%... Việt Nam trở thành đối thủ cạnh tranh của Thái Lan về gạo, với Ấn Độ về điều nhân, với Brazil về cà phê và không có đối thủ về hồ tiêu. Theo số liệu thông kê, hiện nay tổng công suất của cơ sở công nghiệp chế biến trên cả nước khá cao. Ví dụ năng lực chế biến gạo theo quy mô công nghiệp ở cả ba công đoạn: xay xát, đánh bóng, phân chia chủng loại sản phẩm được trên 22 triệu tấn một năm. Những nhà máy, dây chuyền công nghiệp chế biến cà phê trên cả nước có tổng công suất tới gần 150.000 tấn một năm. Năng lực chế biến đường đạt gần 3,5 triệu tấn mía/ năm. Năng lực chế biến cao su khô là 250.000 tấn/ năm, chế biến hạt điều đạt 200.000 tấn/ năm. Cả nước có 60 nhà máy chế biến rau quả với tổng công suất 180.000 tấn một năm. Có thể nói, trong những năm qua, ngành công nghiệp chế biến nông sản ở nước ta đã được Nhà nước quan tâm chỉ đạo, đạt sự tăng trưởng, phát triển đáng kể. Bằng chứng là có tới gần 30 phân ngành công nghiệp chế biến khác bao trùm hầu hết sản phẩm nông nghiệp như lúa gạo, cao su, cà phê, hạt điều, mía đường, bột ngọt, hạt tiêu… Tổng số lao động làm việc ở ngành công nghiệp chế biến hiện nay là gần 3,5 triệu người. Một số cơ sở công nghiệp chế biến đã có công nghệ đạt trình độ quốc tế và khu vực. 1.2. Đặc điểm về hàng nông sản chế biến Về sản phẩm: Tuy chủng loại hàng hoá xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng nhìn chung thì diện mặt hàng còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng loại, về chất lượng tương đối thấp, chưa ổn định, chỉ tiêu chưa cao. Xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một vài mặt hàng chủ lực, truyền thống như gạo, cà phê, cao su…mà phần lớn chúng đều tiềm ẩn nguy cơ tăng trưởng chậm dần do gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu như diện tích có hạn. Những mặt hàng kém chất lượng vẫn tham gia vào xuất khẩu đã làm nảy sinh nhiều khó khăn không đáng có, làm giảm uy tín hàng hoá Việt Nam. Nguyên thứ trưởng Lương Văn Tự- Bộ Thương mại dẫn ra rằng sản phẩm chè là một điển hình : “Tạo công ăn việc làm cho dân bằng việc cho ra đời những cơ sở chè, trong khi nhà máy thiếu nguyên liệu chế biến đã làm cho chất lượng chè thấp”. Về giá: Giá bán vẫn còn thấp và hầu như bị khách hàng nước ngoài chi phối. Giá xuất khẩu sản phẩm chế biến của Việt Nam thường thấp hơn các nước trong khu vực từ 10-15%, chưa nói đến các nước phát triển. Mặt hàng gạo dù có sự cải thiện đáng kể về giá so với Thái Lan nhất là gạo cấp thấp và trung bình, nhưng giá gạo bình quân vẫn thấp hơn Thái Lan 60 USD/ tấn. Hồ tiêu Việt Nam xuất khẩu kém giá của các nước khác vài trăm tấn, mặt hàng cà phê, điều nhân cũng tương tự. Tất cả đều do vấn đề chất lượng sản phẩm và uy tín doanh nghiệp cũng như thiếu sự liên kết giữa những nhà sản xuất và xuất khẩu. Một vấn đề nóng về xuất khẩu nông sản hiện nay là tình trạng một số doanh nghiệp xuất khẩu “tự nguyện” đua nhau giảm giá xuất khẩu như gạo cao cấp (5% tăm) từ 260 USD/tấn xuống 240 USD/ tấn, trong khi các doanh nghiệp Thái Lan vẫn ký bán giá cao (300-303 USD/ tấn). Hạt điều của Việt Nam cũng lâm vào tình trạng tương tự. Về kênh phân phối: Kênh phân phối còn yếu kém, rời rạc. Tuy chúng ta có cộng đồng người Việt ở nước ngoài khá đông nhưng chưa tận dụng được lợi thế này để xây dựng mạng lưới thương mại cho hàng nông sản. Về xúc tiến thương mại: Doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư cho chiến lược chất lượng sản phẩm gắn liền với xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm. Mẫu mã bao bì hàng chế biến nông sản của Việt Nam còn sơ sài, đơn điệu. Mặt khác ý thức về tầm quan trọng của công tác xúc tiến thương mại chưa cao, giới thiệu quảng bá hàng hoá của các doanh nghiệp nước ta nói chung, doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. 1.3 . Những điểm mạnh của công nghiệp chế biến nông sản Việt Nam với điều kiện thuận lợi về đất đai và khí hậu ( nhiệt đới ở phía Nam và Á nhiệt đới ở phía Bắc), với nhiều chủng loại rau quả, trái cây đặc trưng, có lợi thế so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất thuận lợi cho việc phát triển sản xuất một số loại rau quả, trái cây vụ đông có hiệu quả như cà chua, cải bắp, tỏi, khoai tây… Trong khi cũng vào thời gian này ở các vùng Viễn Đông của Liên Bang Nga và thậm chí ở cả Trung Quốc đang bị tuyết dày bao phủ không thể trồng trọt được gì nhưng những nơi này lại là thị trường tiêu thụ lớn và tương đối dễ tính. Các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Phillipin lại kém lợi thế hơn so với Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên sinh thái, cả về kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất và tính cần cù lao động trong việc trồng trọt các loại nông sản đó. Một số ít nông sản được các nước phát triển ở Châu Âu, Bắc Mỹ ưa chuộng như nhân hạt điều, dứa, lạc lại có thể trồng ở Việt Nam trên các đất bạc màu, đồi trọc ( như điều) hay trên đất phèn (như dứa). Nhiều sản phẩm nông sản chế biến được sản xuất trên dây chuyền hiện đại. Trong lĩnh vực này, nhiều dây chuyền mới đã được chuyển giao vào Việt Nam như dây chuyền sản xuất các loại rau quả hộp, nước trái cây, một số liên doanh đã được thành lập ở Việt Nam. Nhiều loại thiết bị chế biến đã được đưa vào Việt Nam thuộc loại tiên tiến và hiện đại bậc nhất thế giới như dây chuyền xay xát gạo Satake của Nhật Bản, dây chuyền sản xuất bột mỳ của Singapo, Inđônêxia, các dây chuyền chế biến rau quả của ý, Hà Lan, các dây chuyền chế biến thịt của úc, các dây chuyền chế biến chè của Nhật bản, Bỉ, Đài Loan, các nhà máy đường của Anh, Pháp, Ấn Độ, liên doanh chế biến sữa và các sản phẩm sữa, liên doanh sản xuất bia, nước giải khát… Các công nghệ mới này góp phần tạo ra một khối lượng hàng nông sản xuất khẩu lớn, chất lượng cao và giá thành hạ, có khả năng cạnh tranh trên thế giới. Tốc độ phát triển của ngành hàng này rất nhanh. Theo Bộ trưởng bộ Công nghiệp Hoàng Trung Hải, những năm qua, tốc độ tăng trưởng công nghiệp chế biến luôn đạt khá, 13% ( năm 2001) và gần 16% ( năm 2002). Việc áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới, các giống mới với các đặc tính chất lượng cao đã làm cho năng suất các loại cây trồng tăng cao, dẫn tới sản lượng ngày càng lớn. Trước đây, Việt Nam trồng dứa Victoria, năng suất chỉ đạt 10 tấn/ ha, nay chuyển sang trồng giống Cayen năng suất có thể đạt 68-80 tấn/ ha, các giống mía của Việt Nam trước đây chỉ đạt 30-40 tấn/ ha, nay nhờ nhập nội các giống mía của Ấn Độ, Đài Loan, Châu Mỹ La Tinh đã đạt 80-120 tấn/ ha. Không chỉ bằng giống mới mà việc áp dụng các công nghệ mới trong canh tác cũng làm tăng năng suất gấp 5-6 lần. Nhờ đó giá nguyên liệu hạ, chất lượng nông sản tốt nên hiệu suất thu hồi cao, dẫn tới giá thành sản phẩm chế biến cũng rẻ hơn. So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu khác như hàng dệt may, giầy da hay cơ khí, điện tử, lắp ráp… thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng chế biến rất thấp, do đó thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản chế biến xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều. Ví dụ chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ ( phân bón, thuốc trừ sâu bệnh và các loại hoá chất, xăng dầu, máy móc…) chỉ chiếm từ 15%-20% giá trị xuất khẩu kim ngạch gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đã tạo ra từ 80%-85% thu nhập ngoại tệ thuần cho đất nước, chỉ số này đối với nhân hạt điều xuất khẩu là khoảng 27% đến 73%. Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng những nhà máy lớn, các khu công nghiệp để sản xuất- kinh doanh những mặt hàng tiêu tốn nhiều ngoại tệ. Ngành công nghiệp chế biến cần sử dụng nhiều lao động trong quá trình sản xuất- kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay của ngành vì hàng năm nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người bước vào tuổi lao động. Trong khi đó, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn các nước khác trong khu vực, phổ biến với mức 1- 1,2 USD/ ngày công lao động như trong sản xuất lúa gạo, cà phê. Tuy nhiên lợi thế này sẽ không được tồn tại lâu dài do sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và thế giới. Thể chế chính trị ổn định và hệ thống luật pháp của Việt Nam ngày càng hoàn thiện. Những chính sách mới của Nhà nước đang tạo cho Việt Nam thụân lợi để mở rộng thị trường nông sản và xuất khẩu như: chính sách ưu đãi thuế cho các mặt hàng xuất khẩu, chính sách khuyến khích hoạt động chuyển giao công nghệ và lĩnh vực công nghiệp chế biến, thời gian qua chính phủ Việt Nam đã có những chính sách khá mạnh trong việc thu hút vốn đầu tủ trực tiếp nước ngoài FDI và công nghệ hiện đại vào lĩnh vực này, chính sách trang trại đang cho phép những chủ doanh nghiệp tư nhân có vốn, có kiến thức, tham gia mở rộng và ổn định thị trường nông sản, chính sách thuế nông nghiệp theo chất lượng đất đai ổn định trong nhiều năm và các chính sách khuyến nông khác đã giúp cho hàng triệu nông dân tiếp cận với công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học. Những chính sách này đang tạo ra một môi trường sản xuất và kinh doanh hàng chế biến nông sản sôi động, có chiều sâu và hiệu quả ngày càng tăng, làm tăng thêm tính hấp hẫn của môi truờng đầu tư trong lĩnh vực này. Trong những năm qua, Nhà Nước đã quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác chế biến, kinh doanh xuất khẩu có năng lực và trình độ ở trong nước và nước ngoài. Quan hệ thương mại của ta với các nước trên thế giới ngày càng phát triển, mở rộng. Sau nhiều năm mở cửa, quan hệ thương mại của ta với nhiều nước trên thế giới đã ngày càng mở rộng, nhất là trao đổi buôn bán với các nước ASEAN, với Nhật, Mỹ và với EU. Nhiều thị trường tiếp tục đặt mua các loại nông sản của Việt Nam trông điều kiện giá như hiện tại, đồng thời đang có những khả năng mới cho việc mở rộng thị trường. Đó là: nhiều công ty nước ngoài bán máy móc, thiết bị cho Việt Nam với điều kiện cho vay vốn và trả chậm bằng hàng hoá, nhiều doanh nghiệp nước ngoài sẵn sàng đầu tư vào Việt Nam với điều kiện xuất khẩu một phần hoặc toàn bộ sản phẩm ra nước ngoài ( như liên doanh sản xuất thịt lợn ở Bình Dương, bột mỳ cao cấp ở Bà Rịa- Vũng Tàu, liên doanh chế biến chè, hồ tiêu…) 1.4 Những điểm yếu của công nghiệp chế biến nông sản Về nguyên liệu, công nghệ trồng và thu hoạch, bảo quản còn rất lạc hậu: Việt Nam chưa hình thành được các vùng chuyên canh sản xuất hàng tươi sống và vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến lớn theo yêu cầu kỹ thuật và kinh tế. Phần lớn các loại cây con, giống hiện đang được nông dân sử dụng có năng suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới và các đối thủ cạnh tranh trong khối ASEAN. Trên địa bàn cả nước chưa hình thành được hệ thống cung ứng giống tốt cho người sản xuất. Năng suất lúa của Việt Nam chỉ bằng 61% năng suất lúa của Trung Quốc và thấp hơn nhiều so với lúa của Nhật Bản, Italy, Mỹ. Năng suất cà chua của ta chỉ bằng 65% năng suất cà chua thế giới, cao su Việt Nam mới đạt 1,1 tấn/ ha, so với năng suất thế giới là 1,5-1,8 tấn/ ha, thấp hơn tới 30-40%. Nông sản được thu mua lẻ tẻ trong dân nên chất lượng không đồng đều, gây khó khăn trong việc kiểm soát đầu vào nguyên liệu của nhà máy chế biến. Máy móc, thiết bị phuc vụ chế biến còn lạc hậu: Việt Nam là một nước nông nghiệp có nguồn nông sản nguyên liệu dồi dào, nhưng thiết bị công nghệ chế biến nông sản không đủ năng lực sản xuất hàng xuất khẩu. Có thể điểm qua các số liệu sau: -128 nhà máy xay xát gạo, tổng công suất 2,4 triệu tấn nhưng thiết bị từ những năm 60 ( ở miền Bắc) và những năm 80 ( ở miền Nam). -18 nhà máy chế biến rau quả, chưa đảm bảo chế biến được 5% sản lượng rau quả, chưa đáp ứng chỉ tiêu xuất khẩu. -30 nhà máy chế biến thịt của cả nước, chỉ đạt tỷ lệ chế biến 1,5%. - Các khu vực chế biến dầu thực vật, chè, cà phê, cao su cũng chưa được đầu tư thích đáng, thiết bị cũ, hiệu quả thấp. Đa số địa phương khi xây dựng nhà máy chế biến đều nhập công nghệ trung bình hoặc đã lạc hậu hàng chục năm. Hiện nay có tới 60% nhà máy, dây chuyền sản xuất của ngành công nghiệp chế biến có “tuổi thọ” hơn 20 năm. Thiết bị công nghệ cho công nghiệp chế biến chậm đổi mới. Hệ số đổi mới những năm qua của công nghiệp chế biến mới đạt mức 7%/ năm, chỉ bằng 1/2 đến 1/3 mức tối thiểu của các nước. Do đó khi bước vào sản xuất công suất thấp, tiêu thụ năng lượng nhiều nên thiếu sức cạnh tranh. Nhiều chuyên gia thương mại xuất nhập khẩu đã khẳng định những loại sản phẩm như gạo, cà phê, cao su, hạt điều của nước ta rất tốt nhưng công nghiệp chế biến thấp nên luôn luôn bị “rớt giá” từ 10%-15% so với sản phẩm cùng loại của nước ngoài. Kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hoá nông sản nhất là hàng tươi sống rất yếu kém. Tỷ lệ hao hụt trong khâu thu hoạch và bảo quản vẫn còn cao dẫn đến giá thành chế biến cao. Tỷ lệ thất thoát ở các khâu thu hoạch và sau thu hoạch lớn, như lương thực là 8-10% ( riêng Đồng bằng sông Cửu Long là 15%), rau quả 7-8%. Tổ chức liên kết trong sản xuất và kinh doanh chế biến nông sản còn chưa đảm bảo tạo ra sức mạnh tổng hợp cũng như bảo đảm mối liên hệ sản xuất giữa các ngành, các khâu trong phát triển chế biến. Năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu trong diều kiện tự do hoá thương hoá, đặc biệt là khâu marketing, dự tính, dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất- chế biến- xuất khẩu, giữa các khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thị sản phẩm đầu ra, giữa các khâu kỹ thuật với khâu kinh tế… chưa thiết lập được một cách vững chắc để đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Tác động của công nghiệp chế biến, nhất là chế biến đồ uống từ hoa quả để tiêu thụ nông sản, đến việc thay đổi cơ cấu và phát triển cây trồng, vật nuôi chưa mạnh. Việc phát triển ngành công nghiệp chế biến phụ thuộc khá nhiều vào khả năng cung cấp nguyên liệu cả về số lượng và chất lượng, nhưng hiện nay việc cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thường xuyên không ổn định vì chưa có vùng cây công nghiệp chuyên canh tập trung. Hầu hết các vùng cây công nghiệp do hộ nông dân quản lý nên thường tự ý thay đổi cơ cấu cây trồng theo sự biến động của thị truờng. Một số địa phương nôn nóng muốn chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bàn nhanh, đôi khi bỏ qua khâu quy hoạch dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp chế biến lúc thừa, lúc thiếu nguyên liệu thường xảy ra. Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Hoàng Trung Hải cho rằng: “ Đây cũng là trách nhiệm của các nhà đầu tư trong việc xây dựng nhà máy chế biến. Trước tiên phải phát triển nguyên liệu cho chính nhà máy của mình, chứ không thể đổ lỗi cho nông dân. Anh muốn nhà máy của anh hoạt động có hiệu quả thì phải quy hoạch, có vùng nguyên liệu, và nó phải phù hợp với vùng nguyên liệu chung của ngành NN-PTNT”. Các mặt hàng chế biến của Việt Nam chưa có thương hiệu rõ rệt, uy tín và chỗ đứng trên thị trường thế giới. Nhiều năm qua, hàng nông sản chủ lực của Việt Nam như gạo, hạt điều, cao su, cà phê, hạt tiêu,.. đã được tổ chức sản xuất và tiêu thụ tốt, tăng nhanh sản lượng nhưng hàng nông sản Việt Nam chưa có thương hiệu rõ rệt, đa số người tiêu dùng nước ngoài không biết đến sự tồn tại của hàng nông sản Việt Nam, có lúc gạo ngon Việt Nam lại được đóng gói mang thương hiệu Thái Lan. Ông Nguyễn Văn Lạng - Chủ Tịch UBND tỉnh Đắk Lắk , “ thủ phủ cà phê Việt Nam”, cũng bức xúc “ Chỉ riêng mặt hàng cà phê Việt Nam đã bị thiệt hại khoảng 100 triệu USD mỗi năm do không bán trực tiếp cho những công ty nứớc ngoài mà phải tiêu thụ qua trung gian…”. Theo Bộ NN-PTNT, hồ tiêu Việt Nam đã được xuất khẩu đến hơn 70 quốc gia ở khắp thế giới. Tuy nhiên, hầu hết lượng tiêu xuất khẩu không xuất trực tiếp được mà phải xuất cho các công ty trung gian của Singapore, Hà Lan, Đức…để các công ty này tiếp tục xuất khẩu vào các nước khác với thương hiệu của họ. Do doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đầu tư cho chiến lược sản phẩm gắn liền với xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm. Mẫu mã, bao bì hàng nông sản chế biến còn quá sơ sài, đơn điệu. Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu còn chưa hiểu biết về nhu cầu thị trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài. Thiếu chiến lược xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chủng loại hàng hoá còn dàn trải. Nhận thức về thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp chưa đầy đủ, việc sản xuất chế biến và tiêu thụ hàng nông sản chưa đa dạng, chưa chuyên sâu, nắm bắt thị hiếu tiêu dùng còn yếu. Những quốc gia thuộc thị trường EU, Mỹ, .. chưa có nhiều thông tin về hàng hoá Việt Nam, ngược lại các doanh nghiệp xuất khẩu của chúng ta cũng thiếu thông tin, chưa nói đến là cập nhập được thông tin ngay ở thị trường mà doanh nghiệp đã xuất khẩu. Khả năng thu thập thông tin, phân tích thị trường của các cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Các nghiên cứu sâu về thị trường đối với hàng nông sản chế biến mới chỉ triển khai có tính chất đơn lẻ, chưa tập hợp thành các tài liệu tham khảo. Chất lượng tương đối thấp, các chỉ tiêu chưa cao, chưa đồng đều. Chất lượng là vấn đề luôn được đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thực phẩm. Khi cách cửa WTO hé mở cũng là lúc chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến chất lượng các mặt hàng nông sản xuất khẩu. Vấn đề chất lượng, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đang làm cho khoảng cách giữa hàng nông sản Việt Nam với thế giới ngày một doãng ra. Tại hội thảo Quản lý chất lượng hàng nông sản xuất khẩu diễn ra ngày 6/4/07 tại Hà Nội của Bộ NN-PTNT cho thấy tốc độ tăng nhưng chất lượng thì…thật đáng buồn. Hầu hết các cơ sở chế biến và kinh doanh chỉ phấn đấu đạt chất lượng theo yêu cầu của khách hàng, chứ chưa áp dụng các tiêu chuẩn riêng biệt để có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Nhiều người cho rằng, nếu xử lý tốt khâu thu hoạch, cà phê của ta sẽ có 40% đạt chất lượng xuất khẩu loại I. Về cao su, chất lượng cao su sơ chế chưa ổn định và chỉ tiêu chưa cao, chưa đồng đều, đặc biệt là các nhà máy, cơ sở nhỏ ở địa phương. Với chè và rau quả còn đáng lo ngại hơn. Chất lượng chè hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Các loại chè tốt như P, OP, FOBP mới chỉ đạt trên dưới 50% sản lượng chè xuất khẩu. Hàm lượng tạp chất cao, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật nhiều, hương vị, màu sắc chưa hấp hẫn khách hàng là cản trở lớn nhất của sản phẩm này. Rau quả tươi thì kém quá xa về chất lượng so với các nước trong khu vực. Nhận thức của các cơ quan quản lý Nhà nước còn mơ hồ, hành lang pháp lý còn “mỏng”. Nguyên nhân quan trọng làm công nghiệp chế biến chưa phát triển đủ tầm là do công tác quy hoạch. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, quy hoạch của chúng ta hiện rất kém, làm giảm hiệu quả và chậm tốc độ phát triển của công nghiệp chế biến. Sự quản lý lơi lỏng trong phát triển vùng nguyên liệu dẫn đến tự phát. Thủ tướng đặc biệt chú trọng công tác quy hoạch vùng nguyên liệu có định hướng cho công nghiệp chế biến. 1.5 Những cơ hội của công nghiệp chế biến nông sản Thị trường hàng nông sản thế giới luôn chứa đựng những xu hướng phát triển mới theo nhiều phương diện khác nhau cả về sản xuất, tiêu thụ, giá cả và những thương lượng buôn bán giữa các quốc gia và các khu vực với nhau. Tất cả đều đó đang mở ra những thách thức và cơ hội đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế nói chung và phát triển công nghiệp chế biến nói riêng. Sự gia tăng về dân số là một thách thức lớn đối với nền kinh tế và đối với vấn đề an ninh lương thực toàn cầu nói riêng. Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, dân số thế giới sẽ tăng thêm 2,5 tỷ người vào năm 2020, trong đó riêng Châu Á là 1,5 tỷ người. Điều này sẽ làm tăng đáng kể khối lượng nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là các sản phẩm lương thực, thực phẩm. Theo dự báo của Tổ chức Lương nông thế giới (FAO), nhu cầu hàng nông sản toàn cầu càng tăng thêm do mức tăng trưởng kinh tế thế giới tăng 3,4-3.5%/ năm. Do đó, có thể thấy rằng, thị trường thế giới đang tạo ra cơ hội lớn cho nông sản chế biến Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Việt Nam sẽ nằm trong khu vực sôi động của thị trường hàng nông sản thế giới, do đó có điều kiện để tiếp cận thị trường và tăng cường buôn bán các sản phẩm nông nghiệp với các thị trường khác. Thị trường hàng nông sản thế giới vẫn đang có xu hướng chuyển dần về khu vực các nước đang phát triển, nhất là các nước khu vực Châu Á. Nhóm các nước này ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong giá trị thương mại quốc tế về các sản phẩm nông nghiệp, nhất là giá trị xuất khẩu. Thị trường các nước đang phát triển không phải là những thị trường khó tính và mức bảo hộ thấp sẽ mang lại những cơ hội tiếp cận thị trường tốt cho các sản phẩm chế biến của Việt Nam. Đồng thời với quá trình phát triển thị trường các sản phẩm nông sản sẽ là việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả các sản phẩm nông nghiệp của các nước đang phát triển. Điều này sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia thị trường công nghệ phục vụ cho sản xuất chế biến, đặc biệt trong môi trường có nhiều điểm tương đồng giữa các nước trong khu vực. Trên thị trường thế giới đang diễn ra hướng gia tăng nhanh chóng giá trị xuất nhập khẩu các sản phẩm chế biến như thịt chế biến, dầu mỡ, sữa của nhóm các nước đang phát triển. Đây là cơ hội lớn để thúc đẩy ngành chăn nuôi trong nước, cải thiện cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam, đồng thời tạo ra khả năng chống lại dao động cao của giá các sản phẩm trồng trọt, mang lại sự ổn định hơn cho sản xuất nông nghiệp trong nước. Nhu cầu về hàng nông sản của thị trường thế giới đặc biệt là thị trường Mỹ, EU còn rất lớn và có xu hướng tăng lên, trong đó có nông sản chế biến. Việt Nam đã tham gia vào các tổ chức hợp tác khu vực và thế giới như APEC, ASEAN, WTO… 1.6 Những thách thức của công nghiệp chế biến nông sản: Các lợi thế tương đối của sản xuất nông nghiệp Việt Nam sẽ bị hạn chế do tính chất tương đồng của các sản phẩm trong cùng một khu vực tự nhiên, mức độ chênh lệch về giá lao động. Nếu không tiếp cận được các thị trường tiêu thụ trực tiếp và xây dựng chiến lược, sản phẩm thích hợp thì Việt Nam có nguy cơ trở thành nứơc xuất khẩu nguyên liệu thô, ít qua chế biến sang các nước khác trong khu vực. Đồng thời với khả năng tăng xuất khẩu là sức ép về tăng nhập khẩu hàng nông sản nước ta. Xu hướng phát triển của thị trường nông sản thế giới sẽ chịu tác động lớn của các cuộc thương lượng mậu dịch mang tầm quốc tế,Việt Nam sẽ phải đối mặt với sản phẩm của các thành viên trong tổ chức WTO cả ở thị trường trong nước và nước ngoài. Những khó khăn về cạnh tranh thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam sẽ lớn hơn khi mà sản xuất chế biến vẫn trong tình trạng lạc hậu. Khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài của các sản phẩm chế biến của Việt Nam còn ở mức độ thấp so với yêu cầu thị trường thế giới và so với sản phẩm của các nước khác trong khu vực, do đó, sẽ bất lợi lớn nếu không có chiến lược phát triển sản phẩm này một cách thận trọng. Nhiếu đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất và chế biến trong khu vực, thế giới, đặc biệt là Trung Quốc, Mỹ…vì vậy sản phẩm của Việt Nam phải cạnh tranh rất gay gắt ở các thị trường này. Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm đối với mặt hàng nông sản tươi và đã qua chế biến ngày càng gay gắt, khắt khe và phức tạp, đặc biệt là đối với thị trường nước ngoài. Những đối xử bất công của những nước công nghệ hiện đại với các nước đang phát triển trong trao đổi thương mại. 2. Hệ thống các quan điểm cơ bản định hướng phát triển xuất khẩu mặt hàng chế biến nông sản 2.1 Các quan điểm định hướng phát triển công nghiệp chế biến nông sản 10 năm tới cần hướng mọi nỗ lực vào xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý, gắn kết nông nghiệp- công nghiệp chế biến và các hoạt động dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp cũng như tiêu thụ sản phẩm. - Để triển khai các đề án chế biến lớn, Công nghiệp Chế Biến cần tập trung vào các trọng tâm sau: .Về lương thực: nâng cao chất lượng hạt gạo tương đương của Mỹ, Thái Lan, bảo đảm chế độ phơi sấy, bảo quản, vận chuyển, xay xát, hạ tỷ lệ tấm, tỷ lệ rạn vỡ, thời gian lại cám, tỷ lệ tạp chất, hạt bầu, độ trắng đục…hạ giá thành gạo xuất khẩu đến mức thấp nhất, sử dụng thiết bị sấy hiện đại, các kho chứa có thể đảo hạt, bảo đảm tiêu chuẩn về nhiệt độ và độ ẩm, các thiết bị vận chuyển bốc dỡ bằng sức gió. .Về đường mía: đưa các giông mới chiếm tỷ lệ cao nhất, từng bước tập trung , thu hẹp diện tích vùng chuyên canh để đầu tư cho khâu thuỷ lợi, cơ giới hoá khâu thu hoạch và vận chuyển mía. Các nhà máy đường đầu tư thêm dây chuyền tận dụng phụ phẩm làm phân vi._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36030.doc
Tài liệu liên quan