Một số giải pháp phát triển thương mại quốc tế nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam

Mục lục Lời mở đầu Trong thời đại ngày nay “mở cửa”, “hội nhập” với thế giới để phát triển kinh tế đang là chiến lược của nhiều quốc gia. Bí quyết thành công của các nước công nghiệp mới là nhận thức được mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài. Trong các nội dung chủ yếu của kinh tế đối ngoại, hoạt động kinh tế xuất nhập khẩu và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chiếm vị trí quan trọng vì kết quả thực tế của mọi hoạt động kinh tế đối ngoại

doc46 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp phát triển thương mại quốc tế nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
suy cho cùng đều được thể hiện trong kim ngạch ngoại thương và số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hai hoạt động này có mối quan hệ tương hỗ nhau. Với bài viết này em muốn trình bày cách nhìn nhận của mình về mối quan hệ giữa thương mại quốc tế (TMQT) và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ nhận thức đó em chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển thương mại quốc tế nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam”. Với nội dung nghiên cứu này, ngoài phần lời mở đầu và phần kết luận chuyên đề thực tập được trình bày làm ba chương như sau: Chương I: Lý luận chung về TMQT và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chương này, đưa ra những vấn đề chung nhất về cơ sở lý thuyết của hoạt động thương mại quốc tế và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chương II: Thực trạng về mối quan hệ giữa TMQT và hoạt đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chương này, đánh giá sự tác động của TMQT đến hoạt đầu tư trực tiếp nước ngoài và ngược lại. Thông qua tình hình thực tiễn của Malaixia và Việt Nam. Chương III:Một số giải pháp phát triển TMQT nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Chương này, đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm phát triển ngoại thương Việt Nam, qua đó thúc đẩy việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế trường Đại học kinh tế quốc dân, đặc biệt là cô giáo, thạc sĩ Ngô Thị Tuyết Mai đã hướng dẫn tận tình để em hoàn thành chuyên đề thực tập này này. Chương I Lý luận chung về thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) I. Lý luận chung về thương mại quốc tế 1. Hoạt động thương mại quốc tế và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân. 1.1. Khái niệm thương mại quốc tế. Năm 1621 ở Anh một tác giả chủ nghĩa trọng thương Thomas Mun đã nói "thương mại là một hòn đá thử vàng với sự phồn thịnh của một quốc gia" và "không có phép lạ nào dễ kiếm tiền trừ thương mại". Chủ nghĩa trọng thương cho rằng "TMQT là sự trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia mà trong trao đổi phải có bên thua và bên kia được". Có nhiều tác giả khác định nghĩa TMQT là sự mở rộng hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá vượt ra khỏi phạm vi biên giới của một quốc gia, hay nói cách khác TMQT là sự mở rộng của thương mại trong nước trên phạm vi quốc tế. Vậy thực chất TMQT là gì? TMQT là sự trao đổi hàng hoá- dịch vụ giữa các quốc gia thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc về kinh tế giữa các nhà sản xuất hàng hoá riêng biệt của các nước. Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hay tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hay thực hiện một dịch vụ trên thị trường nhằm thu lợi nhuận. Kinh doanh xuất nhập khẩu là nội dung cơ bản của kinh doanh TMQT. Như vậy kinh doanh xuất nhập khẩu (XNK) hàng hoá là việc đầu tư công sức, tiền của thực hiện hoạt động XNK hàng hoá dịch vụ nhằm thu lợi nhuận. Kinh doanh XNK, hàng hoá được thực hiện theo quy luật cung cầu thị trường, người mua và người bán hay người xuất khẩu và người nhập khẩu gặp nhau trên thị trường quốc tế để thoả thuận về giá cả số lượng và chất lượng của hàng hoá-dịch vụ. 1.2. Đặc trưng của hoạt động tmqt. tmqt có ba đặc trưng cơ bản sau: - Kinh doanh tmqt được thực hiện bởi người mua và người bán có quốc tịch khác nhau, ở các nước khác nhau, hàng hoá được di chuyển vượt qua phạm vi biên giới của một quốc gia. Với đặc trưng này thì phân biệt rõ giữa kinh doanh TMQT với kinh doanh thương mại trong nước. Đối với kinh doanh thương mại trong nước, dòng lưu chuyển của dòng hàng hoá bị giới hạn trong phạm vi biên giới của một nước. -Dòng tiền thanh toán trong kinh doanh TMQT có thể là đồng tiền một trong các nước (nhiều hơn hai nước) tham gia vào hoạt động XNK và cũng có thể là một đồng tiền của nước khác. Sử dụng đồng tiền nào trong thanh toán hợp đồng XNK phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên tham gia hợp đồng. Đồng tiền được sử dụng thường là các đồng tiền mạnh có sức mua lớn trên thị trường thế giới. -Kinh doanh TMQT chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố phức tạp liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, quốc tịch giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động TMQT như: ngôn ngữ, tôn giáo, pháp luật, văn hoá... , sự khác nhau về ngôn ngữ đòi hỏi phải có ngôn ngữ thống nhất được các bên cùng hiểu, cùng chấp nhận đồng thời các bên cũng cần thoả thuận rõ về các quy phạm pháp luật áp dụng trong ký kết, thực hiện và giải quyết tranh chấp trong hợp đồng. 1.3. Vai trò của hoạt động TMQT. Như đã trình bày ở trên, TMQT là sự trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Đây là hình thức trao đổi tích cực nó vừa biểu hiện mối quan hệ xã hội vừa phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt ở các quốc gia. Một quốc gia cũng như một cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có thể thoả mãn đầy đủ nhu cầu của mình, cho dù đó là những nhu cầu có khả năng thanh toán. Thông qua TMQT, cho phép một nước mở rộng được khả năng tín dụng, tận dụng được trang thiết bị máy móc của một nước khác mà những điều kiện sản xuất của nước mình chưa cho phép. Hơn thế nữa, TMQT cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với danh giới của đường khả năng sản xuất trong nước đó nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp. Những lợi điểm này bắt nguồn từ lợi thế so sánh giữa các quốc gia và thông qua đó đẩy mạnh tính chuyên môn hoá của mỗi nước. Chính vì vậy mà TMQT hay nói cách khác là quan hệ XNK trở thành một vấn đề sống còn đối với một quốc gia. Xu hướng bình thường hoá và đa phương hoá trên thị trường quốc tế hiện nay cũng một phần xuất phát từ những vấn đề mang tính then chốt này. Bởi vì, quan điểm chung là đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của nước mình không chỉ bằng tiềm lực sẵn có trong nước mà còn bằng việc tận dụng những tiềm năng của nước ngoài. XNK là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi buôn bán riêng rẽ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền kinh tế thương mại có tổ chức từ bên trong ra bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân hay nói cách khác, vấn đề XNK là một vấn đề mang tính quốc gia. Hiệu quả của hoạt động XNK có thể đem lại những đột biến rất cao trong nền kinh tế. Mặt khác nó cũng có thể gây ra những thiệt hại không thể lường trước được, vì lúc đó nền kinh tế trong nước sẽ phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước không dễ dàng khống chế được. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần như ở nước ta hiện nay, việc đẩy mạnh hoạt động ngoại thương là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Nhưng muốn hoạt động này thực sự đem lại hiệu quả cao cho đất nước, chúng ta phải xác định được những điều có lợi và bất lợi của hoạt động này. Ta có thể thấy hoạt động TMQT có những ưu điểm: -Nó phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mọi người, mọi đối tượng, mọi tổ chức, mọi ngành nghề , mọi địa phương trong xã hội. -Thông qua hoạt động TMQT, một nước có thể mở rộng được khả năng tiêu dùng của mình. Nó cho phép đáp ứng nhu cầu tiêu dùng một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước và cũng thông qua đó những tiềm lực, những lợi thế của đất nước sẽ được khai thác một cách triệt để hơn, khả năng chuyên môn hoá trong các ngành sản xuất dần dần được hình thành và có động lực để không ngừng phát triển. -Hoạt động TMQT đáp ứng được các nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của sản xuất, tiêu dùng. Thông qua việc nhập khẩu, sự mất cân đối trong sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu sẽ dần được khắc phục. Nhập khẩu kịp thời cung cấp các hàng hoá cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng, giúp cho nền kinh tế thoát khỏi những cơn sốt giá cả một cách nhanh chóng, tránh những đột biến nguy hiểm như sự lên giá của một mặt hàng có thể kéo theo sự lên giá của các mặt hàng khác, gây ra sự rối loạn đình trệ trong sản xuất. -Hoạt động thương mại quốc tế tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài, tạo ra sự theo dõi kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể, sự cạnh tranh này sẽ có tính chất làm cho chất lượng nền kinh tế trong nước được nâng cao. -Hoạt động TMQT đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng cao do đó nó dẫn tới việc xoá bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh doanh sản phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được. Đồng thời qua đó các cơ chế quản lý của nhà nước cũng như của mỗi địa phương về XNK sẽ được hoàn thiện từng bước, vì nó có những đòi hỏi mang tính tích cực của các chủ thể tham gia XNK trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên hoạt động TMQT cũng đem lại những bất lợi sau: - Thứ nhất: vì tồn tại cạnh tranh nên dễ dẫn tới những rối ren trong quan hệ mua bán. Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ, kịp thời sẽ gây ra các thiệt hại về kinh tế trong quan hệ với nước ngoài. Các hiện tượng xấu về kinh tế, tư tưởng... cũng dễ có đất phát triển như buôn lậu trốn thuế. -Thứ hai: Sự cạnh tranh sẽ dẫn đến sự thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh doanh bằng các biện pháp xâú như phá hoại công việc của nhau, gây cản trở phức tạp cho nhau, cũng như các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh khác. -Thứ ba: Hoạt động nhập khẩu và hoạt động xuất khẩu là hai hoạt động mang tính bổ trợ cho nhau. Nhập khẩu cung cấp đầu vào cho quá trình sản xuất như nguyên vật liệu, trang thiết bị máy móc và giúp cho đất nước có thể xuất khẩu là biểu hiện tích cực của mình. Ngược lại, xuất khẩu là biểu hiện tích cực của nền kinh tế, nhờ có xuất khẩu mà có được ngoại tệ để tiến hành thực hiện hoạt động nhập khẩu, dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh thì một nước không thể chỉ hoàn toàn xuất khẩu ( đây là hiện tượng bất khả thi ) nhưng cũng không chỉ hoàn toàn nhập khẩu. Bởi vì mục đích quan trọng nhất của các hoạt động này là nhằm nâng cao tiêu dùng trong nước, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của người tiêu dùng. 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh TMQT XNK là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống. Song việc mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp hơn mua bán trong nước. Các bạn hàng trong giao dịch mua bán ở đây là những người có quốc tịch khác nhau, thị trường ở đây là những thị trường lớn rất khó kiểm soát, mua bán trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là đồng tiền mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau, phải tuân theo những tập quán, thông lệ quốc tế cũng như của địa phương... . Do đó hoạt động này cũng chịu ảnh hưởng của các nhân tố rất khác nhau, ta có thể thấy một số nhân tố chính ảnh hưởng đến hoạt động XNK sau: 2.1. ảnh hưởng của chế độ, chính sách và luật pháp quốc tế. Đây là một nhân tố thuộc tầm vĩ mô mà bất kỳ đơn vị kinh doanh nào tham gia vào hoạt động XNK cũng phải tuân thủ một cách vô điều kiện. Nó thể hiện quan điểm khác nhau của mỗi nước đối với vấn đề kinh doanh XNK, nó tạo ra sự thống nhất chung trên trường quốc tế. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong hoạt động kinh doanh XNK. Ngoài luật pháp quốc tế, hoạt động XNK của một nước còn chịu ảnh hưởng các chế độ pháp luật, chính sách nhập khẩu của chính nước đó. Sự tuân thủ này vừa là trách nhiệm vừa là quyền hạn đối với các đơn vị tham gia, qua đây các đơn vị kinh doanh vừa có quyền tự chủ hơn trong hoạt động của mình, xác định được những điều kiện bắt buộc mình phải trải qua đồng thời nó tạo ra tâm lý tin tưởng. 2.2. ảnh hưởng của việc biến động thị trường trong và ngoài nước. Thị trường bao giờ cũng là nhân ố hàng đầu trong kinh doanh, sự biến động của thị trường trong và ngoài nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến xu hướng xuất nhập khẩu. XNK như một chiếc cầu nối giữa các thị trường, tạo ra sự phù hợp gắn bó cũng như thể hiện sự tác động qua lại của chúng với nhau. Thông qua việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, doanh nghiệp sẽ quyết định việc XNK mặt hàng nào có lợi, thậm chí cả thời điểm nào có lợi nhất và thông qua thị trường trong nước sẽ quyết định phải nhập khẩu mặt hàng nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng giá cả và cả người cung ứng phải như thế nào là hợp lý nhất. 2.3. ảnh hưởng của nền sản xuất trong và ngoài nước. Sự hưng thịnh hay tụt hậu của nền sản xuất trong và ngoài nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động XNK. Nếu sản xuất trong nước phát triển hàng hoá trong nước sẽ tạo ta sự cạnh tranh gay gắt với hàng ngoại nhập dẫn tới nhu cầu hàng nhập khẩu sẽ giảm còn nếu sản xuất kém phát triển, hàng hoá nội địa sẽ không đủ khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu thì xu hướng nhập khẩu sẽ tăng. Nhất là đối với hàng hoá đòi hỏi kỹ thuật cao để trang bị sự hiện đại tối thiểu nhằm phục vụ phát triển kinh tế cũng như đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của tiêu dùng trong nước, việc chấp nhận là tất yếu. Cùng với sự vận động ấy, ngược lại sự phát triển của nền sản xuất ngoài nước sẽ làm tăng nhu cầu nhập khẩu tạo ra những sản phảm mới thuận tiện, hiện đại với chi phí có thể chấp nhận được. Còn nếu sản xuất nước ngoài kém phát triển, đây sẽ là một hệ thống rất hấp dẫn mà các nhà kinh doanh trong nước sẽ quan tâm. Nhu cầu nhập khẩu của thị trường bên ngoài trở thành tất yếu và điều này sẽ tác động đến việc xuất khẩu hàng hoá của các nhà kinh doanh trong nước. Tuy nhiên các biểu hiện trên không có tính tuyệt đối mà nó chỉ là một trong các yếu tố dẫn đến xu hướng thay đổi trong hoạt động XNK. Thông thường một chính phủ bao giờ cũng có những chính sách để bảo hộ sản xuất trong nước mình phát triển nhằm tránh sự mất cân đối trong nền kinh tế hoặc sự quá phụ thuộc vào nước ngoài ở một mặt hàng nào đó mà sản xuất trong nước vẫn có khả năng tuy với chi phí cao hơn hoặc chất lượng thấp hơn. Hoặc đôi khi để tránh sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh khuyến khích sản xuất phát triển mà nhà nước sẽ ban hành các chính sách nhằm khuyến khích hoạt động nhập khẩu một loại hàng. 2.4. ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ xuất ngoại tệ của hàng XNK. Tỷ giá hối đoái là giá cả một đồng tiền quốc gia có thể đổi lấy một đồng tiền khác. Nếu tỷ giá hối đoái cao thì việc nhập khẩu được khuyến khích còn nếu tỷ giá hối đoái thấp thì việc xuất khẩu được khuyến khích. Điều này giải thích tại sao có những nước đã tiến hành phá giá đồng tiền nước mình để thúc đẩy xuất khẩu. Do vậy sự biến động của tỷ giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động XNK. Đối với tỷ xuất ngoại tệ thì khác, trong nhập khẩu tỷ xuất ngoại tệ là tổng số tiền bán ra khi chi ra đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu. Nếu tỷ xuất ngoại tệ mặt hàng đó lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu là có hiệu quả. Trong trường hợp xuất khẩu, nó là số tiền bản tệ phải chi ra để có thể thu được một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất đưa ra thấp hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc xuất khẩu là có hiệu quả. 2.5. ảnh hưởng của môi trường chính trị và môi trường văn hoá xã hội. Các mối quan hệ XNK là các mối quan hệ thoả thuận, tự nguyện trên cơ sở hai bên đều có lợi, không có một quyền lực chính trị nào ép buộc. Tuy nhiên các quan hệ này chỉ được phát triển trên cơ sở có một sự ổn định chính trị trong nước, các doanh nghiệp trong và ngoài nước mới yên tâm tiến hành hoạt động XNK. Trong hoạt động kinh doanh XNK thì môi trường văn hoá xã hội, phong tục tập quán có ảnh hưởng rất sâu sắc. Trên thực tế cho thấy chỉ những phong tục tập quán tiêu dùng rất nhỏ cũng có thể làm ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng, kích cỡ của các mặt hàng XNK. II. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1. Khái niệm đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.1. Khái niệm và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài. a. Khái niệm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. b. Bản chất: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế được đặc trưng bởi quá trình xuất khẩu tư bản từ nước này sang nước khác, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là một hoạt động kinh doanh, một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ là sự khác biệt về quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc tư bản bắt buộc phải vượt qua khỏi tầm kiểm soát của một quốc gia. Việc di chuyển tư bản này nhằm mục đích phục vụ kinh doanh tại các nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời lại là điều kiện để xuất khẩu máy móc, vật tư, nguyên liệu và khai thác tài nguyên của nước chủ nhà. 2.2. Đặc điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. a. Về kinh tế: Đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vốn vào nước tiếp nhận và đi kèm với vốn là cả kỹ thuật, công nghệ, bí quyết kinh doanh và năng lực Marketing. Chủ đầu tư đưa vốn vào đầu tư là tiến hành tổ chức sản xuất kinh doanh và sản phẩm làm ra được tiêu thụ ở thị trường nước sở tại hoặc thị trường quốc tế. Việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài phát sinh nợ cho nước nhận đầu tư. Thay cho lãi xuất, nước nhận đầu tư được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả.Bên cạnh đó, nước sở tại còn có điều kiện để phát triển tiềm năng trong nước. Chủ thể đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này chiếm 90% khối lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới. b. Về mặt pháp lý. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm là: chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo luật đầu tư của mỗi nước. Đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư vốn của tư nhân do cá chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lãi,lỗ. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. a. Năng lực tăng trưởng của nền kinh tế. Xét về lâu dài thì đây là nhân tố quan trọng nhất để xác định triển vọng thu hút và hiệu quả sử dụng của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài không tự chảy vào các nước đang phát triển nếu như triển vọng và năng lực phát triển nền kinh tế không sáng sủa và lâu bền. Một năng lực tăng trưởng kinh tế là sự ổn định chính trị kinh tế xã hội, một cơ cấu thích hợp và năng động cao, có lợi thế so sánh của đất nước lớn, có hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật cao. Thật vậy, năng lực phát triển có vai trò nổi bật trong việc thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bởi vì chẳng ai muốn đầu tư vào nơi mà triển vọng tăng trưởng mù mịt. Điều đó có nghĩa là nếu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được sử dụng một cách có hiệu quả thì khả năng nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài càng lớn. Khi đó cơ hội tăng trưởng nhanh vững chắc của quốc gia đó càng trở nên hiện thực và năng lực thu hút sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài càng cao hơn. b. Các yếu tố kinh tế vĩ mô. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô là sự ổn định các yếu tố kinh tế vĩ mô và gắn liền với năng lực tăng trưởng. Sự ổn định đó sẽ kiểm soát nhịp độ tăng trưởng nhanh và lâu bền và sẽ không gây ra một trạng thái "quá nóng" trong đầu tư. Một số yếu tố kinh tế vĩ mô liên quan tới vấn đề thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như là: -Yếu tố lạm phát và ổn định tiền tệ: Yếu tố này là tiêu chuẩn số một để có thể ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Việc ổn định lạm phát và giá trị tiền tệ sẽ tác động trực tiếp đến đồng vốn của đầu tư nước ngoài. Nếu lạm phát cao, giá trị tiền tệ mất ổn định sẽ tác động trực tiếp đến đồng vốn của đầu tư nước ngoài, lúc đó nhà đầu tư không những không thu hồi được vốn mà còn mất hết vốn. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á vừa qua là một bài học thực tiễn cho vấn đề này. -Lãi suất: Về lý thuyết mức lãi suất của nước tiếp nhận vốn đầu tư cao so với lãi suất quốc tế thì sức hút đối với nhà đầu tư nước ngoài càng mạnh. Với lãi suất cao còn có tác dụng căn bản là cho phép huy động được nhiều vốn trong nước lớn. Đây là nguồn vốn đối ứng trong nước cực kỳ quan trọng để thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hiệu quả hơn. Với lãi suất cao, ổn định không những thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn là vũ khí hiệu nghiệm để ngăn chặn được việc đào thoát vốn ra nước ngoài. Tuy vậy nếu tăng quá cao lãi suất có nghĩa là phí tổn trong đầu tư cao và khi phí tổn cao sẽ làm giảm lợi nhuận thực của nhà đầu tư. -Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái tác động lớn tới sức hấp dẫn và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ giá hối đoái thấp làm tăng xuất khẩu, từ đó làm tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Mặt khác tỷ giá hối đoái thấp tức là giá trị đồng tiền trong nước giảm so với ngoại tệ, điều này làm cho giá hàng nhập khẩu đắt và giá hàng xuất khẩu rẻ. Nếu kéo dài tình trạng này thì trong dài hạn nó làm tổn hại đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, do đó nó ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy một tỷ giá hối đoái phù hợp sẽ tạo khả năng thúc đẩy xuất khẩu, nền kinh tế tăng trưởng vững chắc và từ đó nó có vai trò trực tiếp to lớn tới huy động và sử dụng thật sự có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. -Nợ nước ngoài và cán cân thanh toán quốc tế: tình trạng nợ nước ngoài và cán cân thanh toán quốc tế của nước nhận đầu tư có ảnh hưởng mạnh đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dài hạn. Thật vậy, nếu một nền kinh tế mà nợ nước ngoài nhiều và cán cân thanh toán quốc tế thường xuyên bị thâm hụt thì khả năng trả nợ sẽ thấp và hàng năm nước đó phải trích ra nhiều nguồn lực để trả nợ, do đó phần thặng dư dành cho đầu tư sẽ rất ít ỏi. Thật sự, là không có một công ty nước ngoài nào lại muốn đầu tư vào nơi ít có khả năng thu hồi vốn. c. Các chính sách quốc tế. Các chính sách kinh tế của nước chủ nhà có tác động rất lớn đối với việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vì các chính sách này sẽ điều chỉnh, quy định quyền lợi, nghĩa vụ của các nhà đầu tư. Một số chính sách tiêu biểu liên quan trực tiếp đến thu hút và sử dụng vồn đầu tư trực tiếp nước ngoài là: -Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của nhà đầu tư. Do đó, ưu đãi về thuế có tác động rất lớn đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. -Chính sách tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến huy động nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo lý thuyết nếu mức lãi suất trong nước cao thì khả năng hấp dẫn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao và ngược lại. -Chính sách thương mại: Chính sách này ảnh hưởng rất lớn tới việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất là chinh sách ngoại thương. Mức thuế nhập khẩu cao, Quota xuất khẩu thấp sẽ cản trở rất mạnh tới lĩnh vực xuất nhập khẩu. Từ đó, sẽ cản trở tính hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là sản xuất hàng hoá hướng về xuất khẩu. d. Môi trường pháp lý. Yếu tố này có thể làm hạn chế hay cản trở hoàn toàn hoạt động của các công ty nước ngoài trên nước sở tại. Một điều tất nhiên nếu nước chủ nhà không đảm bảo về quyền sở hữu tài sản, môi trường cạnh tranh lành mạnh thì sẽ chẳng có nhà đầu tư nước ngoài nào giám vào nước họ. Dễ nhận thấy rằng, môi trường pháp lý thuận lợi an toàn hơn cho vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì khả năng thu hút vốn càng cao. 2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang phát triển. 2.1. Tác động tích cực. a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn bổ sung vốn quan trọng để các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bù đắp cho sự thiếu hụt của nguồn vốn trong nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là mọt hình thức huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, nó có ưu thế hơn hẳn so với các hình thức huy động vốn khác như việc vay vốn nước ngoài luôn đi cùng với một mức lãi suất nhất định và đôi khi trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Ngoài ý nghĩa tăng trưởng vốn đầu tư nội địa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn bổ sung đáng kể nguồn thu ngân sách của chính phủ các nước đang phát triển thông qua thuế từ các xí nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài. Đây là nguồn thu quan trọng cho vốn ngân sách và nguồn ngoại tệ để đầu tư các dự án công cộng trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá. Vốn đầu tư ở các nước đang phát triển tăng và làm tăng đầu tư, nhờ đó các nhân tố như lao động được sử dụng tăng lên, năng suất lao động tăng lên theo. Qua đó làm tăng trưởng nền kinh tế của đất nước này. Qua đây, ta thấy rõ vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế và cả tiết kiệm của các nước đang phát triển. b. Tạo công ăn việc làm và nâng cao chất lượng lao động. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng thu hút một lượng lớn lao động, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp ở các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo công ăn việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong các công ty có vốn trực tiếp nước ngoài và nó còn tạo ra cơ hội việc làm trong các tổ chức khác của nước sở tại, khi mà các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước, hoặc thuê họ qua các hợp đồng gia công chế biến. Đầu tư nước ngoài còn góp phần phát triển nguồn nhân lực nâng cao kỹ năng quản lý kinh doanh cho nước sở tại. Chính các chủ đầu tư nước ngoài tổ chức mở các lớp đào tạo về quản lý, kỹ năng làm việc đã góp phần tích cực vào việc bồi dưỡng đào tạo đội ngũ lao động ở các nước sở tại. Để cán bộ và công nhân của nước sở tại có khả năng quản lý và sử dụng công nghệ tiên tiến và yêu cầu của công việc. Đó chính là đội ngũ nòng cốt trong việc học tập, tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, năng lực quản lý điều hành tiên tiến của nước ngoài. Mặt khác các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động đã cố gắng nâng cao chất lượng để thích ứng với trình độ khoa học, kỹ thuật tiên tiến. c. Nâng cao năng lực công nghệ. Song song với việc tạo nguồn vốn bổ sung cho các nước đang phát triển đầu tư phát triển trực tiếp nước ngoài còn là một kênh quan trọng để đưa kỹ thuật mới, kỹ năng sản xuất mới vào các nước đang phát triển. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước sở tại có thể tiếp nhận được công nghệ này. Qua đó đầu tư đầu tư nước ngoài có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật của nước nhận đầu tư, như góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất thay đổi cấu thành sản phẩm và xuất khẩu, thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi công nghệ cao. Qua chuyển giao công nghệ, làm trình độ công nghệ của nước sở tại ngày một cao hơn, từ đó nâng cao dần năng lực của nước sở tại. d. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế Trong điều kiện nền kinh tế mở các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực và điều kiện cho sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một động lực mạnh mẽ có ý nghĩa to lớn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua đó các nước đang phát triển sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia vào quá trình liên kết giữa các nước đòi hỏi các nước phát triển phải tự thay đổi cơ cấu kinh tế của nước mình cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu ở các nước phát triển sẽ ngày càng tiến bộ hơn phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của thế giới. 2.2. Tác động tiêu cực. a. Về kinh tế. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều khi làm lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài vượt qua lơị ích của nước sở tại nhận được. Vì để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước nhận đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như: giảm thuế, miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài hoặc việc trả tiền của họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một số dịch vụ trong nước thấp hơn so với nhà đầu tư trong nước. Ngoài ra còn có trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài thường tính giá cao cho những nguyên vật liêụ, bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập vào để thực hiện đầu tư. Việc làm này đã mang lại nhiều lợi cho chủ đầu tư, chẳng hạn chốn được thuế của nước sở tại đánh vào lợi nhuận của chủ đầu tư. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng chỗ sơ hở của pháp luật và thiếu kinh nghiệm quản lý của nước sở tại để chốn thuế gian lận và vi phạm những quy định về bảo vệ môi trường sinh thái và những lợi ích khác của nước sở tại. b. Về chuyển giao công nghệ Là một mặt tác động lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng còn tồn tại nhiều hạn chế và tiêu cực, không chuyển giao đúng quy định ( chuyển giao còn nhỏ giọt , từng phần và thông thường là công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm với giá cao hơn giá mặt bằng quốc tế, vì rất khó tính được giá trị thực của máy móc chuyển giao đó nên hiệu quả bị thua thiệt trong thu lợi nhuận ). Từ thực tế trên, việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây ra nhiều thiệt hại cho nước nhận đầu tư. c. Về cơ cấu. Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều khi sản xuất và bán những hàng hoá không thích hợp cho các nước đang phát triển thậm chí đôi khi còn có hại cho sức khoẻ con người và gây ô nhiễm môi trường. Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cho cơ cấu đầu tư theo ngành và theo lãnh thổ của nước chủ nhà bất hợp lý gây ra tình trạng đầu tư tràn lan kém hiệu quả và tài nguyên thiên nhiên bị khai thác qúa mức. Vì mục tiêu của nhà đầu tư là kiếm lợi nhuận nên họ đầu tư vào những nơi có lợi nhất do vậy khi lượng vốn nước ngoài tăng thêm thì sẽ gây ra sự mất cân đối giữa các vùng sự mất cân đối này có thể gây nên bất ổn về chính trị. Chương II thực trạng về mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài. I. Mối quan hệ giữa TMQT và đầu tư trực tiếp nướcngoài. Đứng trên góc độ phân tích về mặt lý thuyết có thể thấy giữa TMQT và đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Thật vậy, nếu xét trên bình diện một quốc gia ta có thể ví hoạt động như là khâu nhập._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0001.doc