Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nông thôn phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước

LờI NóI ĐầU Từ nửa sau thế kỷ thứ XVIII, công nghiệp hoá với tư cách là một phương thức phát triển bắt đầu xuất hiện trên thế giới và ngày càng được phổ biến. Nhìn lại 200 năm về trước, tính từ giữa thập kỷ 90, ta có thể thấy, công nghiệp hoá được coi như một nấc thang tất yếu mà bất cứ một nước chậm phát triển nào cũng phải đi qua để trở nên giàu có và hùng mạnh. Việt Nam – một đất nước nông nghiệp , kém phát triển – cũng không nằm ngoài quy luật đó. Mỗi người con đất Việt khi xa quê hương vẫn

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1276 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nông thôn phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luôn mang trong mình một kỷ niệm thời ấu thơ trong trẻo, bình yên với những vùng nông thôn trù phú , bao quanh là những cánh đồng lúa xanh mướt, rộng lớn và thanh bình. Tuy nhiên, ngày nay Việt Nam đã vươn vai trở thành một đất nước giàu mạnh hơn. Nông thôn Việt Nam đã đổi mới, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn, phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng, chyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động , tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn . Đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đạt mức tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và thu nhập trên một đơn vị diện tích, tăng năng suất lao động , nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Như vậy, nông thôn Việt Nam đang hoà mình vào sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Song,muốn công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông thôn thì một trong những yếu tố mang tính quyết định là nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực có phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như chất lượng thì mới có thể công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn được . Công nghiệp hoá- hiện đại hoá tuy là phương thức chung đối với các nước nhưng trên thực tế , thời điểm xuất phát và nhịp độ tiến hành công nghiệp hoá ở từng nước lại không giống nhau. Tuy vậy, vượt qua được nấc thang ấy , hầu như quốc gia nào cũng coi quá trình làm giàu kho tàng trí tuệ của mình như là một yếu tố có tính tiên quyết để từ một nước có nền kinh tế yếu kém để trở thành một nước hùng mạnh. Phần I: Cơ sở lý luận của phát triển nguồn nhân lực . Khái niệm và phân loại Nguồn nhân lực . 1. Khái niệm Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với dân số , đó là một bộ phận quan trọng của dân số, đóng vai trò tạo ra của cải vật chất và văn hoá cho xã hội . Tuỳ theo trình độ phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc mà có các định nghĩa khác nhau về Nguồn nhân lực . Theo từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô thì: “Nguồn nhân lực là toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và tiềm tàng (có khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động)”. Theo từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Pháp thì Nguồn nhân lực ở phạm vi hẹp hơn. Nó không gồm những người có khả năng lao động nhưng không có nhu cầu làm việc . Như vậy với quan điểm này, Nguồn nhân lực mất hẳn một lực lượng có khả năng lao động nhưng vì lý do nào đó mà không có nhu cầu làm việc . Theo giáo trình môn kinh tế lao động của trường Đại Học Kinh tế quốc dân thì Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh. Trước hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường ( không bị khiếm khuyết hoặc dị tật bẩm sinh). Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế- xã hội là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này Nguồn nhân lực tương đương với Nguồn lao động. Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này Nguồn nhân lực bao gồm những người từ giới hạn dưới độ tuổi lao động trở lên( ở nước ta là tròn 15 tuổi). Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định quy mô Nguồn nhân lực, song đều nhất trí với nhau đó là Nguồn nhân lực nói lên khả năng lao động của xã hội . 2. Phân loại Nguồn nhân lực Căn cứ vào nguồn gốc hình thành chia Nguồn nhân lực làm ba loại. + Nguồn nhân lực có sẵn trong dân số: bao gồm những người nằm trong độ tuổi lao động có khả năng lao động , không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc . Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, khái niệm này còn gọi là dân số hoạt động, có nghĩa là tất cả những người có khả năng làm việc trong dân số tính theo tuổi lao động quy định (Luật Lao động của Việt Nam quy định tuổi lao động từ 15-55 tuổi đối với nữ, 15-60 tuổi đối với nam). Nguồn nhân lực này chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong dân số, thường từ 50% hoặc hơn nữa , tùy theo đặc điểm về dân số và nhân lực của từng nước. + Nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, có công ăn việc làm , đang hoạt động trong các ngành kinh tế văn hoá xã hội . Như vậy, giữa Nguồn nhân lực sẵn có trong dân số và Nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế có sự khác nhau.Sự khác nhau này là do một bộ phận những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau chưa tham gia vào hoạt động kinh tế (thất nghiệp, có việc làm nhưng không muốn làm việc, còn đang học tập, có thu nhập khác không cần đi làm…). + Nguồn nhân lực dự trữ là những người nằm trong độ tuổi lao động nhưng vì lý do nào đó chưa tham gia hoạt động kinh tế. Số người này đóng vai trò của một nguồn dự trữ về nhân lực. Họ gồm có : Những người làm công việc nội trợ gia đình, những người đang học các trường phổ thông và các trường trung học chuyên nghiệp, những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp (có nghề hoặc không có nghề) muốn tìm việc làm. Căn cứ vào vai trò của bộ phận Nguồn nhân lực chia Nguồn nhân lực làm 3 loại sau: + Nguồn nhân lực chính : gồm những người nằm trong độ tuổi có khả năng lao động. + Nguồn nhân lực phụ: gồm toàn bộ những người nằm ngoài độ tuổi lao động (trên dưới độ tuổi lao động) có thể và cần tham gia vào lực lượng sản xuất. + Nguồn nhân lực bổ sung. Để đánh giá Nguồn nhân lực quốc gia, người ta sử dụng một số chỉ tiêu sau: * Mức đảm nhiệm của một nhân khẩu = hoạt động * Mức đảm nhiệm của một nhân khẩu = hoạt động kinh tế * Mức đảm nhiệm về gia đình của nhân = khẩu hoạt động * Mức đảm nhận về gia đình của một nhân = khẩu hoạt động kinh tế b) Căn cứ vào trạng thái có việc làm hay không . Người ta chia ra: + Lực lượng lao động: bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp song đang có nhu cầu tìm việc làm. + Nguồn lao động: bao gồm những người thuộc lực lưượng lao động và những người thất nghiệp song không có nhu cầu tìm việc làm (tức là bao gồm những người đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp). Như vậy, với bất kỳ quốc gia nào thì Nguồn nhân lực cũng luôn là một bộ phận quan trọng của dân số. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Giữa kinh tế và Nguồn nhân lực luôn có mối quan hệ chặt chẽ, chịu sự tác động lẫn nhau. Thường người ta quan sát thấy: những nước kinh tế chậm phát triển có tốc độ tăng Nguồn nhân lực cao hơn cả. Các nhà kinh tế học cho rằng, tốc độ tăng Nguồn nhân lực hàng năm quá cao tại các nước chậm phát triển là thách thức lớn cho họ trong quá trình phát triển, đặc biệt ở giai đoạn đầu. Số lượng và chất lượng Nguồn nhân lực phản ánh sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Khi một quốc gia có Nguồn nhân lực có chất lượng cao thì quốc gia đó có một nền kinh tế xã hội phát triển. Ngược lại, khi chất lượng đội ngũ nhân lực ở mức thấp thì nền kinh tế xã hội không thể phát triển cao. Qui mô Nguồn nhân lực phản ánh qui mô cơ cấu dân số. Nguồn nhân lực đông dồi dào là biểu hiện của một dân số với qui mô lớn và cơ cấu trẻ là tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác, chính sự phát triển kinh tế xã hội lại tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển một Nguồn nhân lực có trình độ cao. Thực tế trên thế giới, các nước chậm phát triển và đang phát triển thường có một Nguồn nhân lực với qui mô lớn nhưng chất lượng không cao. Còn các nước đã phát triển thì có một Nguồn nhân lực không mấy dồi dào nhưng có một trình độ cao. Những năm 50 và 60, tăng trưởng kinh tế chủ yếu là do công nghiệp hoá; thiếu vốn và nghèo nàn về cơ sở vật chất là không chủ yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu trắc lượng gần đây cho thấy chỉ một phần nhỏ của sự tăng trưởng kinh tế có thể được giải thích bởi khía cạnh đầu vào và nguồn vốn. Phần rất quan trọng của sản phẩm thặng dư gắn liền với chất lượng của lực lượng lao động (giáo dục, sức khoẻ và mức sống). Lịch sử các nền kinh tế thế giới cho thấy không có một nước giàu có nào đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao trước khi đạt được mức phổ cập phổ thông. Cách thức để thúc đẩy sản xuất, đến lượt nó thúc đẩy cạnh tranh, là phải tăng hiệu quả của giáo dục. Các nước và các lãnh thổ công nghiệp hoá mới thành công nhất như Singapo, Hồng Kông… có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong những thập kỷ 70 và 80 thường đạt mức phổ cập tiểu học trước khi các nền kinh tế đó cất cánh. Mặc dù vậy, các nghiên cứu cũng cho thấy thành công của Nhật Bản trong kinh tế không chỉ do phần đông dân cư có học vấn cao mà còn do các chính sách kinh tế, trình độ quản lý hiện đại của họ. Kết quả của đào tạo cùng với sự cạnh tranh trong đào tạo sẽ thúc đẩy các ngành công nghiệp và kinh doanh của các nước phát triển thu hút những nhà khoa học sáng giá nhất của họ và của nước ngoài. Khi cân bằng về sức mạnh khoa học kỹ thuật trên từng khu vực được thiết lập, những ước vọng và ý đồ đổi mới kỹ thuật công nghệ của các nước đang phát triển sẽ được thực hiện ngay trên đất nước của mình. Gần đây, nhiều sản phẩm của các nước châu á sản xuất ra không cần phải theo giấy phép và mang nhãn của công ty nước ngoài, hàng hoá do châu á sản xuất đã tràn ngập khắp thị trường thế giới. Con người hay nói chính xác hơn là Nguồn nhân lực đã tạo ra sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Con người trong quá trình lao động sản xuất và nghiên cứu đã tìm ra phát minh khoa học. Đồng thời, cũng chính họ đã áp dụng những thành tựu khoa học đó vào trong sản xuất và làm xuất hiện một hệ thống sản xuất linh hoạt đủ khả năng làm thay đổi nhanh chóng qui trình sản xuất, tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Như vậy, con người- với trí tuệ của mình trở thành động lực cho toàn bộ tương lai của nhân loại, thúc đẩy sự tiến vừa rộng vừa sâu của xã hội trên nền tảng khoa học – công nghệ để tạo ra bước tăng trưởng kinh tế mới. Cách mạng khoa học- kỹ thuật- công nghệ làm thay đổi tính chất và nội dung lao động nghề nghiệp của người lao động; đấy là việc sử dụng những công cụ, phương tiện hiện đại, phức tạp nên lao động trí óc đã dần dần thay thế lao động chân tay. Sự phát triển của khoa học-kỹ thuật-công nghệ đã làm xuất hiện những ngành nghề mới có hàm lượng khoa học cao; trong nội dung lao động của mỗi nghề đòi hỏi người lao động phải có tri thức, kỹ năng và kỹ xảo nghề nghiệp. Và đến một bước phát triển cao hơn thì người công nhân cần phải được trang bị kiến thức và chức năng mà trước đây chỉ có chuyên gia mới cần. Tiến bộ khoa học-công nghệ làm ảnh hưởng sâu sắc đến các ngành sản xuất nông, lâm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp truyền thống đặc biệt là tiến bộ công nghệ sinh học. Người nông dân, người thợ thủ công, các nhà chuyên môn và cán bộ quản lý cũng phải luôn đổi mới, bổ sung kiến thức mới tiến kịp sự thay đổi nhanh chóng của kỹ thuật canh tác, cây trồng, vật nuôi… Cùng với tiến bộ của công nghệ, tỷ lệ giữa các thành phần cần cho sản xuất cũng thường xuyên thay đổi: các nhà phát minh và đổi mới công nghệ, các nhà quản lý, các nhà kỹ thuật và công nghệ, công nhân lành nghề, công nhân bán lành nghề, lao động giản đơn. Bởi vậy cơ cấu, chất lượng Nguồn nhân lực cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của công nghệ. Nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ là nguồn để xuất khẩu lao động sang các khu vực, các quốc gia phát triển hơn. Lao động xuất khẩu đem lại một khối lượng lớn ngoại tệ; đồng thời, thực hiện sự phân công lao động giữa các khu vực, các quốc gia. Tóm lại, Nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó là một nhân tố đầu vào quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là chủ thể vận hành sản xuất và các hoạt động xã hội. Một sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia trong tương lai được quyết định bởi sự phát triển của chính Nguồn nhân lực cuả quốc gia đó. 3. Vai trò của phát triển Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá của nước ta. a) Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ tận dụng được tối đa nguồn lao động dồi dào và ngày một gia tăng, phát huy vai trò của tiềm năng con người ở nông thôn (cả về số lượng và chất lượng). Quá trình phát triển kinh tế-xã hội nông thôn phải hướng tới việc khắc phục tình trạng thiếu việc làm đang diễn ra bức xúc hiện nay ở nông thôn, nhất là vùng đồng bằng Sông Hồng, đồng bằng Sông Cửu Long. Quyền và nghĩa vụ của người lao động sẽ được thực hiện nhằm khai thác tiềm năng lợi thế của vùng, từng địa phương về lao động. Người lao động sẽ có cơ hội, điều kiện để phát huy tính năng động, sáng tạo, cống hiến được nhiều hơn giá trị cho xã hội. Thực tiễn trong những năm qua đã cho thấy, bất cứ ở đâu, khi nào nếu các địa phương có biện pháp tích cực để tận dụng nguồn lao động dư thừa ở nông thôn vào quá trình sản xuất như mở mang ngành nghề, dịch vụ, đầu tư cho thâm canh tăng năng suất, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, đẩy mạnh chăn nuôi, bố trí sắp xếp con người hợp lý… thì GDP sẽ tăng lên, nền kinh tế sẽ phát triển và địa phương đó đời sống người lao động được nâng cao lên một bước, bộ mặt nông thôn không ngừng đổi mới. b) Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ khai thác được tối đa những nguồn lực quan trọng còn tiềm ẩn trong khu vực kinh tế nông nghiệp ở nông thôn. ở nước ta hiện nay, những tiềm năng về nguồn lực nông thôn còn rất lớn cả về nhiên liệu, năng lực, khoáng sản, đất đai, rừng, biển, cảnh quan địa lý, vốn nhàn rỗi, ngành nghề truyền thống… các tiềm năng ấy vẫn mãi mãi là tiềm năng nếu con người không hướng vào khai thác và sử dụng phát huy nguồn nhân lực nông thôn là nhân tố quyết định để biến những tiềm năng ấy thành hiện thực bằng các chính sách khuyến khích người lao động, nhiều địa phươngđã khai thác được các lợi thể của mình như tập trung đầu tư khai thác có hiệu quả toàn bộ tiềm năng đất đai bằng thâm canh, tăng vụ, thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi hợp lý, đầu tư khai hoang, phục hoá, mở rộng diện tích tại chỗ… Sử dụng, phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ đảm bảo cho mọi người có việc làm, thu nhập, đời sống ổn định, cũng từ đó mà các phong trào khác có cơ sở để phát triển. c) Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ thúc đẩy được phát triển nông nghiệp và thực hiện được vấn đề cơ bản của nông thôn, nông nghiệp là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá tạo ra những điều kiện và tiền đề cần thiết để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và ngược lại quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn vừa là nội dung, vừa là mục tiêu của công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nhằm công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn là quá trình nhằm thay đổi hẳn cơ cấu kinh tế nông thôn từ độc canh cây lúa đơn ngành sang đa ngành. Đó là quá trình biến đổi từ kiểu kinh tế nông nghiệp thủ công nghiệp sang kiểu kinh tế công nghiệp và dịch vụ, làm cho tỷ trọng GDP trong nông nghiệp ngày càng giảm và tăng nhanh tỷ trọng GDP trong công nghiệp và dịch vụ trong tổng số GDP của đất nước. Việc phân công lại lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó con người giữ vai trò quyết định. Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn là cơ sở điều kiện để phân bố lại cơ cấu Nguồn nhân lực, phân công lại lao động xã hội ở nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn. d) Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ thúc đẩy quá trình phân công và hợp tác lao động ngày càng tốt hơn với quy mô lớn hơn. Sự phân công và hợp tác lao động sẽ mang lại năng suất lao động cao hơn và là một đặc trưng ưu việt của sản xuất lớn so với sản xuất nhỏ. Thực tế sản xuất nông nghiệp cho thấy, tổ chức tốt việc phân công và hợp tác lao động sẽ tạo ra một năng lực sản xuất mới và tạo ra năng suất lao động cao. Nó không những thúc đẩy nhanh quá trình chuyên môn hoá, hợp tác hoá lao động ở trình độ cao mà còn tạo điều kiện để nâng cao trình độ mọi mặt của người lao động. e) Sử dụng hợp lý và phát triển Nguồn nhân lực nông thôn sẽ giải quyết được những vấn đề bức xúc của chính sách xã hội ở nông thôn hiện nay. ở nông thôn hiện nay do năng suất lao động thấp, diện tích đất canh tác ngày càng giảm do nhiều nguyên nhân, điều kiện cơ sở hạ tầng thấp, đời sống dân cư nông thôn và nông dân còn thấp xa so với thành thị, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm vẫn tiềm tàng ở nông thôn đặc biệt là các vùng chậm phát triển, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người dẫn đến tình trạng đói nghèo khá phổ biến ở khu vực nông thôn. Một bộ phận dân cư nông thôn di chuyển từ nông thôn ra thành thị làm thuê, gây sức ép rất lớn cho khu vực thành thị, làm nảy sinh nhiều tiêu cực xã hội. Do vậy, phát triển Nguồn nhân lực nông thôn, phát triển toàn diện nền kinh tế nông thôn không chỉ là vấn đề trọng tâm của chiến lược phát triển kinh tế mà còn là giải pháp kinh tế-xã hội đem lại sự thay đổi cho số đông dân cư để thu hút họ vào sản xuất nông nghiệp hàng hoá, công nghiệp và dịch vụ nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng Nguồn nhân lực. II/ nội dung của phát triển Nguồn nhân lực . Phát triển Nguồn nhân lực được xem xét trên giác độ phát triển về số lượng và chất lượng Nguồn nhân lực. Số lượng Nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng Nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến quy mô và tốc độ tăng Nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại.Tuy nhiên, mối quan hệ dân số và Nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian nhất định ( vì đến lúc đó con người mới phát triển đầy đủ, mới có khả năng lao động ). Về chất lượng, Nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt : trình độ sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, năng lực phẩm chất… Cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng Nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Số lượng Nguồn nhân lực Quy mô Nguồn nhân lực phản ánh quy mô cơ cấu dân số, phát triển Nguồn nhân lực cũng có nghĩa là làm tăng số lượng Nguồn nhân lực lên một cách phù hợp. Nguồn nhân lực đông, dồi dào biểu hiện của một dân số với quy mô lớn và cơ cấu trẻ. Là tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh tế- xã hội .Về mặt số lượng cần xem xét các quan hệ của nguồn nhân lực với hệ thống các nhân tố sau:tình hình dân số, tốc độ tăng tự nhiên của dân số, của lao động số lượng cơ cấu dân số, lao động theo lứa tuổi, theo giới, theo ngành nghề, theo thành phần kinh tế, theo khu vực (thành thị- nông thôn) có việc làm và không có việc làm, cuối cùng là nhân tố di dân, đây là nhân tố có ảnh hưởng phức tạp hơn cả do tính chất tự phát, năng động, linh hoạt, không kiểm soát được của nó. Khi các ngành công nghiệp dịch vụ, các thành phố ở nước ta chưa phát triển, một tỷ lệ lớn về dân số lao động còn nằm ở nông thôn thì sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị trong cơ chế kinh tế thị trường sẽ là tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Giữa kinh tế và Nguồn nhân lực luôn có mối quan hệ chặt chẽ, chịu sự tác động lẫn nhau. Tuy nhiên, người ta quan sát thấy: những nước kinh tế chậm phát triển có tốc độ tăng Nguồn nhân lực cao hơn cả. Các nhà kinh tế học cho rằng, tốc độ tăng Nguồn nhân lực hàng năm quá cao tại các nước chậm phát triển là thách thức lớn cho họ trong quá trình phát triển, đặc biệt ở giai đoạn đầu. chất lượng Nguồn nhân lực. Phân tích về sự phát triển chất lượng Nguồn nhân lực trước hết phải xem xét trình độ dân trí, trình độ học vấn của dân số nói chung và của lực lượng lao động, cơ cấu trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ đào tạo của dân cư, lao động theo nhóm tuổi, khu vực, vùng. Khi xem xét nguồn nhân lực nói chung và cho vùng kinh tế động lực, cần xem xét khả năng đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Đó là thói quen và phong cách công nghiệp hoá, trình độ và cơ cấu ngành nghề; về sự hiều biết luật pháp... của người lao động. Hiện nay liên hợp quốc đã đưa ra cách tính (HDI) “chỉ số phát triển con người” nhằm phản ánh trình độ phát triển của các nước. Đây là một khái niệm tổng hợp bao hàm nhiều mặt: kinh tế, xã hội, chính trị, môi trường đồng thời thể hiện sự phân phối công bằng thành quả của sự phát triển.Chỉ số này liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của người lao động và đến mặt thể lực của nguồn nhân lực.. quan hệ giữa chỉ số này và dân số là: để tăng được chỉ tiêu GDP trên đầu người thì tổng sản phẩm quốc nội phải tăng nhanh hơn tỷ lệ gia tăng dân số; hoặc việc hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số (nếu không làm GDP giảm sút) cũng sẽ làm tăng GDP trên đầu người. Do ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tích luỹ và tiêu dùng của dân số nói chung và người lao động nói riêng, quan hệ giữa chỉ số này với NNL được cụ thể hoá trong một loại các chỉ số như: điều kiện dinh dưỡng (số lượng thực phẩm/người; số clo/người/ngày; số protêin/người/ngày…) Điều kiện nhà ở (diện tích bình quân/người, chất lượng nhà…) mức tiêu dùng điện năng.v.v. Đây là những chỉ tiêu liên quan và phản ánh trực tiếp tình trạng thể lực, trình độ phát triển, mức độ tiêu dùng của nguồn nhân lực. + NNL và chỉ số trình độ dân trí: Đây là chỉ tiêu phản ánh và liên quan trực tiếp đến mặt trí lực của NNL Chỉ tiêu này được tính thông qua 2 chỉ tiêu: tỷ lệ người biết chữ (thường chỉ tính từ 15 tuổi trở lên) và số năm đi học bình quân. Tuy nhiên, để phân tích được đầy đủ hơn quan hệ của NNL với chỉ số trình độ dân trí này, cần xem xét thêm các chỉ tiêu cụ thể sau: tỷ lệ biết chữ hoặc trình độ học vấn theo nhóm tuổi, giới tính; tình hình giáo dục phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng đại học và đào tạo công nhân kỹ thuật. Trình độ dân trí của NNL của mỗi vùng, mỗi quốc gia chịu tác động của các chỉ tiêu trên, mặt khác phụ thuộc rất lớn vào chính sách của Nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay để phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước, cần thiết phải tạo ra những động lực mạnh mẽ nhằm phát huy sức mạnh nội sinh của dân tộc. Khai thác mọi tiềm năng của đất nước; Điều đó càng cho thấy ý nghĩa cấp bách của việc nâng cao trình độ dân trí đối với việc phát triển trí lực của NNL. Trong giao đoạn tới, NNL phải đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao về tay nghề, trình độ chuyên môn, ssự phát triển của từng ngành, sự đổi mới, thay đổi cơ cấu của các ngành, nghề. Nâng cao chất lượng nguồn lao động có thể đạt được nhờ hệ thống giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầi về số lượng, chất lượng và cơ cấu trình độ hợp lý. Những nước đang phát triển thường có số lao động lớn, nhưng có thể chất lượng lao động thấ, ở những nước này thường thiếu những lao động lỹ thuật, có kỹ năng đặc biệt… đây là một trong những nguyên nhân làm đình trệ sản xuất và hạn chế khả năng mở rộng của nền kinh tế. + Nguồn nhân lực và chỉ số về tuổi thọ bình quân: Chỉ tiêu tuổi thọ bình quân chịu ảnh hưởng của các chỉ số liên quan đến vấn đề sức khoẻ, Y tế, dịch vụ, vệ sinh như: số người được phục vụ / một thầy thuốc, tình hình cung cấp nước sạch; khả năng sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, chữa bệnh của dân cư... ngày nay, các yếu tố y tế, dịch vụ, vệ sinh can thiệp trực tiếp vào toàn bộ quá trình tái sản xuất dân số. Mối quan hệ giữa dân số, nguồn nhân lực và các điều kiện y tế, vệ sinh có tính chất tương hỗ: y tế tác động đến toàn bộ quá trình tái sản xuất dân số; mặt khác sự bùng nổ dân số cũng đang tạo nên sức ép mạnh mẽ với ngành y tế. Tóm lại, Số lượng và chất lượng Nguồn nhân lực phản ánh sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Khi một quốc gia có Nguồn nhân lực có chất lượng cao thì quốc gia đó có một nền kinh tế xã hội phát triển. Ngược lại, khi chất lượng đội ngũ nhân lực ở mức thấp thì nền kinh tế xã hội không thể phát triển cao. Mặt khác, chính sự phát triển kinh tế xã hội lại tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển một Nguồn nhân lực có trình độ cao. Thực tế trên thế giới, các nước chậm phát triển và đang phát triển thường có một Nguồn nhân lực với qui mô lớn nhưng chất lượng không cao. Còn các nước đã phát triển thì có một Nguồn nhân lực không mấy dồi dào nhưng có một trình độ cao. Những năm 50 và 60, tăng trưởng kinh tế chủ yếu là do công nghiệp hoá; thiếu vốn và nghèo nàn về cơ sở vật chất là không chủ yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu trắc lượng gần đây cho thấy chỉ một phần nhỏ của sự tăng trưởng kinh tế có thể được giải thích bởi khía cạnh đầu vào và nguồn vốn. Phần rất quan trọng của sản phẩm thặng dư gắn liền với chất lượng của lực lượng lao động (giáo dục, sức khoẻ và mức sống). Lịch sử các nền kinh tế thế giới cho thấy không có một nước giàu có nào đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao trước khi đạt được mức phổ cập phổ thông. Cách thức để thúc đẩy sản xuất, đến lượt nó thúc đẩy cạnh tranh, là phải tăng hiệu quả của giáo dục. Các nước và các lãnh thổ công nghiệp hoá mới thành công nhất như Singapo, Hồng Kông… có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong những thập kỷ 70 và 80 thường đạt mức phổ cập tiểu học trước khi các nền kinh tế đó cất cánh. Mặc dù vậy, các nghiên cứu cũng cho thấy thành công của Nhật Bản trong kinh tế không chỉ do phần đông dân cư có học vấn cao mà còn do các chính sách kinh tế, trình độ quản lý hiện đại của họ. Kết quả của đào tạo cùng với sự cạnh tranh trong đào tạo sẽ thúc đẩy các ngành công nghiệp và kinh doanh của các nước phát triển thu hút những nhà khoa học sáng giá nhất của họ và của nước ngoài. Khi cân bằng về sức mạnh khoa học kỹ thuật trên từng khu vực được thiết lập, những ước vọng và ý đồ đổi mới kỹ thuật công nghệ của các nước đang phát triển sẽ được thực hiện ngay trên đất nước của mình. Gần đây, nhiều sản phẩm của các nước châu á sản xuất ra không cần phải theo giấy phép và mang nhãn của công ty nước ngoài, hàng hoá do châu á sản xuất đã tràn ngập khắp thị trường thế giới. Con người hay nói chính xác hơn là Nguồn nhân lực đã tạo ra sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Con người trong quá trình lao động sản xuất và nghiên cứu đã tìm ra phát minh khoa học. Đồng thời, cũng chính họ đã áp dụng những thành tựu khoa học đó vào trong sản xuất và làm xuất hiện một hệ thống sản xuất linh hoạt đủ khả năng làm thay đổi nhanh chóng qui trình sản xuất, tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Như vậy, con người- với trí tuệ của mình trở thành động lực cho toàn bộ tương lai của nhân loại, thúc đẩy sự tiến vừa rộng vừa sâu của xã hội trên nền tảng khoa học – công nghệ để tạo ra bước tăng trưởng kinh tế mới. Cách mạng khoa học- kỹ thuật- công nghệ làm thay đổi tính chất và nội dung lao động nghề nghiệp của người lao động; đấy là việc sử dụng những công cụ, phương tiện hiện đại, phức tạp nên lao động trí óc đã dần dần thay thế lao động chân tay. Sự phát triển của khoa học-kỹ thuật-công nghệ đã làm xuất hiện những ngành nghề mới có hàm lượng khoa học cao; trong nội dung lao động của mỗi nghề đòi hỏi người lao động phải có tri thức, kỹ năng và kỹ xảo nghề nghiệp. Và đến một bước phát triển cao hơn thì người công nhân cần phải được trang bị kiến thức và chức năng mà trước đây chỉ có chuyên gia mới cần. Tiến bộ khoa học-công nghệ làm ảnh hưởng sâu sắc đến các ngành sản xuất nông, lâm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp truyền thống đặc biệt là tiến bộ công nghệ sinh học. Người nông dân, người thợ thủ công, các nhà chuyên môn và cán bộ quản lý cũng phải luôn đổi mới, bổ sung kiến thức mới tiến kịp sự thay đổi nhanh chóng của kỹ thuật canh tác, cây trồng, vật nuôi… Cùng với tiến bộ của công nghệ, tỷ lệ giữa các thành phần cần cho sản xuất cũng thường xuyên thay đổi: các nhà phát minh và đổi mới công nghệ, các nhà quản lý, các nhà kỹ thuật và công nghệ, công nhân lành nghề, công nhân bán lành nghề, lao động giản đơn. Bởi vậy cơ cấu, chất lượng Nguồn nhân lực cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của công nghệ. Nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ là nguồn để xuất khẩu lao động sang các khu vực, các quốc gia phát triển hơn. Lao động xuất khẩu đem lại một khối lượng lớn ngoại tệ; đồng thời, thực hiện sự phân công lao động giữa các khu vực, các quốc gia. Như vậy, Nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó là một nhân tố đầu vào quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là chủ thể vận hành sản xuất và các hoạt động xã hội. Một sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia trong tương lai được quyết định bởi sự phát triển của chính Nguồn nhân lực cuả quốc gia đó II.các nhân tố tác động đến phát triển Nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá 1. Đường lối công nghiệp hoá- hiện đại hoá của Đảng Sự nghiệp đổi mới của dân tộc ta đang đứng trước một giai đoạn có tính chất bước ngoặt quyết định sự phát triển của đất nước để bước vào thế kỷ XXI một cách tự tin. Bởi vậy cần có một cách nhìn, một sự nhận thức đúng đắn về những động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nói riêng. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta hiện nay đòi hỏi tiếp thu một cách có hiệu quả những tri thức hiện đại của thế giới. Đồng thời phải phát huy được sức mạnh nội sinh của dân tộc, phát huy được mọi tiềm năng của đất nước, tiềm năng của các vùng từ miền xuôi đến miền núi… nhằm bảo đảm cho nền kinh tế nước ta phát triển cân đối và vững chắc, từng bước giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh. 2.Thực trạng tình hình kinh tế xã hội Nguồn nhân lực (số lượng, chất lượng, cơ cấu quản lý, sử dụng) của địa phương, vùng. Thực trạng tình hình kinh tế xã hội và tình hình Nguồn nhân lực giúp cho việc nắm được những thông số về tình hình thực tế, nhằm bảo đảm tính khoa học cho quy hoạch Nguồn nhân lực, từ đó phát triển Nguồn nhân lực một cách toàn diện. 3. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương, vùng Quá trình phát._. triển Nguồn nhân lực phải căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương, vùng vì Nguồn nhân lực là một yếu tố sản xuất của nền kinh tế. Hơn nữa đây cũng là cơ sở để quá trình phát triển Nguồn nhân lực bảo đảm tính khoa học, tính hệ thống của nó. 4) Quan hệ cung cầu về lao động Hình thành một thị trường lao động là quá trình tất yếu đi liền với nền kinh tế thị trường. Muốn phát triển Nguồn nhân lực cần thấy được xu hướng phát triển của quá trình này, nghiên cứu nắm bắt những biến động của quan hệ cung cầu về lao động phục vụ kịp thời nhu cầu phát triển của vùng. Đặc điểm chung của nước ta nguồn lao động trong độ tuổi khá dồi dào, song lao động có thể sử dụng lại rất nghèo nàn, đặc biệt là các thành phố các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế động lực lại đang rất thiếu lao động, bởi ở đó đòi hỏi lao động có chuyên môn kỹ thuật, lao động đã được đào tạo. Đây là một yếu tố quá trình khi tính toán quan hệ cung cầu về lao động. Phần II: Đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta I/ Những đặc điểm của nông thôn Việt Nam ảnh hưởng đến quá trình phát triển Nguồn nhân lực Nông thôn Việt Nam gồm nhiều vùng rộng lớn và trãi rộng khắp ba miền Bắc Trung Nam của đất nước. Vùng có tỷ lệ dân số nông thôn lớn nhất là Bắc Trung Bộ ( 89,2%) tiếp đến là miền núi và trung du Bắc Bộ (85,7%, đồng bằng sông Cửu Long (83,4%), đồng bằng sông Hồng (80,1%), thấp hơn khá nhiều là Tây Nguyên (76,6%), Duyên hải miền trung (75,8%) và thấp nhất là Đông Nam Bộ (51,6%). Hoạt động kinh tế chủ yếu ở nông thôn là sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp chiếm 35% trong tổng sản phẩm quốc nội của cả nước và thu hút trên 72% lực lượng lao động ở nông thôn.Trong nông nghiệp ,giá trị sản lượng chiếm 75,7% tổng sản lượng ( chủ yếu là cây lương thực). Sản lượng lương thực chủ yếu là lúa. Ngoài cây lúa, cây công nghiệp có: cao su, cà phê, chè, quế, điều, thuốc lá, tơ tằm…Tiềm năng về lâm nghiệp cũng rất lớn. Trong tổng số 9 triệu héc ta đất rừng khoảng 6 triệu ha được coi là rừng có giá trị thơng mại . Mặc dù có nguồn lao động dồi dào và nhiều tiềm năng phát triển phong phú đa dạng , nhưng trước yêu cầu đổi mới và phát triển nông thôn Việt Nam cũng đang nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế xã hội vĩ mô rất đáng quan tâm. Trong đó nổi bật nhất là: mức tích luỹ và đầu tư còn rất thấp, cơ sở hạ tầng cơ bản chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển , hệ thống y tế đang xuống cấp nhanh chóng, chất lượng phục vụ y tế giảm sút rõ rệt,tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em ngày càng tăng. Cũng như hệ thống y tế, hệ thống giáo dục ở nông thôn Việt Nam cũng kém phát triển và có nhiều bất cập. Trung bình hàng năm có khoảng 10% số học sinh bỏ học, trong đó có hơn 50% là do kinh tế gia đình quá khó khăn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến trình độ học vấn của Nguồn nhân lực trong khu vực nông thôn thấp, ngoài lý do thu nhập thấp, đa số các hộ gia đình đều đông con nên người nông dân chỉ đủ chi phí trang trãi cho con em mình đi học trong những năm đầu còn sau đó tình nguyện cho con mình nghĩ học. Vì vậy hiện tượng mù chẽ và tái mù chữ trở nên khá phổ biến. Nhà nước chưa có chính sách giáo dục phù hợp với mức sống của dân cư nông thôn , kinh phí của Nhà nước cho việc giáo dục ,đào tạo còn eo hẹp, phân tán. Số lượng các trường học ở khu vực nông thôn đều rất thấp , hầu hết cơ sở trường lớp quá thiếu thốn, chất lượng xấu, lớp học đa số là nhà cấp 4 đã xuống cấp, bàn ghế hư hỏng nhiều nhưng không được bổ sung sửa chữa hàng năm, sách vở, đồ dùng học tập, các dụng cụ thí nghiệm…cho học sinh tham khảo thêm gần như không có. Hiện nay do đời sống của phần đông cán bộ giáo viên còn khó khăn, chế độ đãi ngộ với tri thức còn kém hấp dẫn, đa số giáo viên phải lo chạy theo yêu cầu đảm bảo cuộc sống của bản thân họ nên chưa chú tâm nhieèu vào công tác giảng dạy. Tâm lý họ chỉ muốn ở lại giảng dạy trong các thành phố hoặc đồng bằng, nơi điều kiện sinh hoạt và làm việc tốt hơn nên xảy ra hiện tượng thưà giáo viên ở thành thị và đồng bằng, song ở vùng sâu, vùng xa lại thiếu giáo viên trầm trọng . Một nguyên nhân nữa là do tư tưởng của người nông dân . Họ thường quan niệm rằng, học chẳng để làm gì vì trước sau họ cũng quay lại với nghề nông thuần tuý. Vì thế họ chỉ cần học đủ biết đọc, biếy viết, và làm tính đơn giản là đủ, còn học lên cấp II, cấp III, là điều không cần thiết và hoang phí tiền bạc. Mặt khác, cơ sở hạ tầng ở nông thôn còn rất yếu kém, hiện nay ở nông thôn , đặc biệt một số vùng như Đồng bằng sông Cửu Long, vùng núi, việc đi lại gặp nhiều khó khăn đã ảnh hưởng đến việc học hành, khả năng giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các vùng, đến khả năng tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Như vậy, nông thôn Việt Nam đang tồn tại rất nhiều yếu kém, làm cản trở và giật lùi quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta. Muón phát triển nông thôn, công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn việc trước tiên cần phải làm là giải phóng và phát triển Nguồn nhân lực, đây chính là mấu chốt của vấn đề . Phát triển Nguồn nhân lực nông thôn tức là sử dụng có hiệu quả nguồn lao động dồi dào ở nông thôn , làm đòn bẩy để phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nông thôn. II/ Phân tích Thực trạng Nguồn nhân lực nông thôn nước ta khi bước vào thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá . Nông thôn nước ta chiếm 80% dân số, 72% nguồn lao động xã hội . Tuy nhiên, tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế-xã hội- văn hoá ( bình quân GDP đầu người, GDP tính theo sức mua(PPP), số calo hấp thụ bình quân ngày/ người, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tỉ lệ người dùng nước sạch..) thì sự phát triển của nông thôn Việt Nam chậm hơn gấp nhiều so với các quốc gia châu á, chưa kể tới các quốc gia phát triển ở Âu, Mỹ. Theo số liệu thống kê trên tạp chí Cộng Sản số 15 (8-2001) nông thôn mới tạo ra khoảng 1/3 tổng sản phẩm quốc dân. Tỉ trọng công nghiệp mới chiếm 13,8%, dịch vụ 14,7%, còn nông nghiệp 71,45% trong tổng giá trị sản xuất. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu thu nhập của nông dân vùng đồng bằng Sông Cửu Long là 5,18% và 14,13%; đồng bằng Sông Hồng 7,65% và 9,05%, chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn trên 2 lần và có khả năng tăng. Hộ giàu ít, 90% hộ nghèo của cả nước là nông thôn. Trong khi đó, khả năng mở rộng diện tích đất nông nghiệp có hạn .Tỷ lệ tăng dân số còn khá cao. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn chiếm tới 35% tổng quỹ thời gian lao động. Lao động dư thừa nhiều nhưng tốc độ giải phóng lao động nông nghiệp còn chậm, sức hút của công nghiệp và dịch vụ tới lao động nông nghiệp còn yếu. Trình độ cơ giới hoá, điện khí hoá ở nông thôn vẫn còn thấp và cách xa các nước trong khu vực. Lao động thủ công năng suất thấp. Mức độ đầu tư trang bị tài sản cố định chậm, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào nông thôn và nông nghiệp ít (khoảng 3,6%), trong đó công nghiệp nông thôn lại càng ít hơn. 1/ Nguồn nhân lực nông thôn chiếm tỉ trọng lớn và tăng nhanh Tại thời điểm 01/7/2001 ( theo tạp chí Con Số và Sự Kiện/ tháng 12/ năm 2001) dân số nước ta là 78,7 triệu người, tăng 1 triệu người so với năm 2000, trong đó thành thị là 19.2 triệu người, chiếm khoảng 24,4%, nông thôn 59,5 triệu người chiếm 75,6%. Dân số thành thị già hơn thành thị nông thôn: Tỷ lệ nhân khẩu dưới tuổi lao động ở thành thị chỉ có 24,4% trong khi tỷ lệ này ở khu vực nông thôn tới 32,6%. Số người dưới tuổi lao động chiếm 30,35%, trong tuổi lao động (nam từ 15-60, nữ từ 15 - 55) chiếm 59,25%, trên tuổi lao động chiếm 10,4%. Cũng tại thời điểm này, cả nước có 39.489 nghìn người từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên trong mười hai tháng trước thời điểm điều tra, trong đó nữ 19.505 nghìn người, chiếm 49,9%. Khu vực thành thị có 9.182 nghìn người chiếm 23,3%, khu vực nông thôn có 30.307 nghìn người chiếm 76,7%. Tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế của dân số từ đủ 15 tuổi trở lên thay đổi theo độ tuổi : Các nhóm tuổi có tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế cao nhất là 35-39; tiếp đến là nhóm 25-29; 30-34; 40-44 và 45-49. Các nhóm 20-24 trở xuống và 50-54 trở lên, tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế giảm dần. Sự thay đổi mạnh mẽ cơ cấu tuổi Nguồn nhân lực khu vực nông thôn theo chiều hướng tiến bộ này chứng tỏ trong những năm gần đây chúng ta đã thực hiện tốt chương trình dân số- kế hoạch hoá gia đình. Với một cơ cấu Nguồn nhân lực trẻ thì đây là một lợi thế về tiềm năng lao động cho phát triển kinh tế xã hội nông thôn, đồng thời cũng đặt ra vấn đề cho sự nghiệp đào tạo Nguồn nhân lực. Cơ cấu giới tính không có sự thay đổi nhiều. Tỷ lệ nữ vẫn cao hơn nam trong tổng số người hoạt động kinh tế, tỷ lệ nữ ở khu vực nông thôn cũng cao hơn so với nữ khu vực thành thị ( nữ nông thôn là 50,36%, nữ thành thị là 48,8%). Có xu hướng tăng tỷ trọng lao động nữ ở khu vực nông thôn và giảm dần tỷ trọng nữ tham gia hoạt động kinh tế ở thành thị. Điều này phản ánh sự phát triển chênh lệch giữa thành thị và nông thôn. Cả nước hiện có 22.812,9 nghìn người làm việc trong nhóm ngành nông lâm, ngư nghiệp… chiếm 60,54% tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân; 5.428 nghìn người làm việc trong nhóm nghành công nghiệp và xây dựng chiếm 14,41%; 9.436,5 nghìn người làm việc trong nhóm ngành dịch vụ, chiếm 25,05%. Biểu 1: Tình hình dân số và lao động nông thôn qua các năm (đơn vị: triệu người) Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Dân số cả nước 74 75,36 76,71 77,05 76,33 77,5 78,7 Dân số nông thôn 51,8 51,9 49,9 53,8 52,5 53,8 54,2 Thành thị 22,2 23,46 26,81 23,25 23,83 23,7 24,5 Dân số trong độ tuổi lao động ở nông thôn 29 29,03 28,96 29,76 29,36 29,92 31,5 Nguồn : Báo cáo về lao động , việc làm và thu nhập 2001 của viện kinh tế học – Hà Nội Sự dư thừa sức lao động ở nông thôn không phải là đặc trưng riêng của kinh tế thị trường mà là một thực tế tồn tại ngay từ thời kỳ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp. Tuy nhiên, có thể nói chưa bao giờ sự dư thừa lao động, vấn đề giải quyết lao động và việc làm trong cả nước nói chung, ở nông thôn nói riêng lại bộc lộ một cách gay gắt và cấp bách như hiện nay. Việt Nam là nước đông dân thứ hai ở Đông Nam á (chỉ sau Inđônêxia). Tốc độ tăng dân số bình quân khoảng 1,7% và tỷ lệ tăng dân số đã giảm từ 2,31% (năm 1991) xuống còn 1,8% (năm 1995) và 1,54% (năm 2001). Bình quân mỗi năm lực lượng lao động xã hội tăng thêm 1,2 triệu người, năm 2000 lực lượng lao động xã hội so vơi năm 1999 đã tăng thêm 1.170 nghìn người, thấp hơn số lao động tăng bình quân hàng năm. Lao động xã hội chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn. Năm 1999 khu vực nông thôn chiếm 77,7% lực lượng lao động xã hội, năm 2000 tỷ lệ này đã giảm xuống còn 77,44% Dân số nông thôn chiếm trung bình gần 70% dân số cả nước, trong đó dân số trong độ tuổi lao động ở nông thôn chiếm 56% dân số nông thôn. Biểu2.1:Tỉ lệ lao động xã hội ở nông thôn (1976-1995) Năm 1976 1980 1985 1990 1995 Tỉ lệ lao động xã hội nông thôn 68 69,9 72,2 75,6 81,2 Nguồn: Theo số liệu thống kê lao động –xã hội của Viện Kinh Tế Học –Hà Nội(1995) Lao động xã hội chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn , tỉ lệ lao động xã hội ở nông thôn có xu hướng tăng lên từ 68% ( năm 1976), tăng lên 81,2% (năm 1995) rồi bắt đầu giảm xuống còn 77,2% (năm 2001) Biểu 2.2: Tỷ lệ lao động xã hội ở nông thôn qua các năm 1995-2001 Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Lao động xã hội cả nước (triệu người) 35,71 35,87 36,29 37,41 37,78 38,64 40,8 Khu vực nông thông (triệu người) 29 29,03 28,96 29,76 29,36 29,92 31,5 Tỷ lệ lao động xã hội ở nông thôn (%) 81,2 80,9 79,8 79,6 77,7 77,4 7,77,2 Nguồn: Dân số- lao động-việc làm: Vấn đề, giải pháp và số liệu thống kê lao động-xã hội, 1999 Tạp chí: Con số và sự kiện (số 1,2/2002) Sỡ dĩ có sự thay đổi về tỉ lệ lao động xã hội như vậy là vì cơ cấu lao động xã hội đã có sự thay đổi theo định hướng ; lao động trong ngành lao động nông nghiệp giảm xuống, lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng, ngành dịch vụ tăng lên. Sự thay đổi này rất tốt, làm chuyển dịch cơ cấu lao động , phát triển nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. 2/ Nguồn nhân lực nông thôn phân bố không đều giữa các ngành và các vùng Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới , sản xuất nông nghiệp đã phát triển tương đối toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá và đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân 4,3%/ năm . Tuy nhiên, Nguồn nhân lực vẫn chủ yếu tập trung ở nông nghiệp , lao động thuần nông chiếm phần lớn . Để đạt được các mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ,cơ cấu lao động , giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn khoảng 50% vào năm 2010 và để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn trở thành mối quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Biểu 3: Cơ cấu phân công lao động nông thôn theo 3 nhóm ngành chính qua các năm (1992-2001) Năm 1992 1996 2000 2001 Nông lâm nghiệp 81,6 81,64 76,66 60,54 Công nghiệp và Xây dựng 7,45 6,83 8,86 14,41 Dịch vụ 10,95 11,53 14,48 25,05 Nguồn: Tổng hợp: Tạp chí Kinh Tế- Xã Hội Nông Thôn ngày nay 9/1993 Tổng Cục Thống Kê 1994 Thị Trường Lao Động (10/2001) Kết quả một số cuộc điều tra trong những năm qua cho thấy trên phạm vi cả nước, tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ tăng còn tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm, mặc dù xu thế này diễn ra chậm, tỉ lệ lao động ở nông thôn trong khu vực sản xuất nông lâm nghiệp tăng không đáng kể từ 81,6% năm 1992 lên 81,64% năm 1996 và giảm xuống còn 76,66% năm 2000, 60,4% năm 2001. Từ năm 2000-2001, chỉ trong thời gian 1 năm tỷ lệ lao động trong ngành nông lâm nghiệp giảm 16,2%, trong khi từ 1996-2001 tỷ lệ trung bình mỗi năm giảm 2%. Tỷ lệ lao động trong khu vực sản xuất công nghiệp , xây dựng và dịch vụ tăng từ 18,4% năm 1992 lên 23,34% năm 2000 và lên 39,46% năm 2001, như vậy, trong thời kỳ 1992-2001 , tỷ lệ lao động trong ngành công nghiệp – xây dựng- dịch vụ tăng lên 21,06%, trung bình mỗi năm chỉ tăng 2%, nhưng từ năm 2000-2001, tỷ lệ này tăng lại lên đến 16,12% . Các chỉ tiêu về cơ cấu lao động xã hội trên phản ánh trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực. Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp của Thái Lan chỉ chiếm 49,37% trong tổng lực lượng lao động xã hội năm 1998, tương tự chỉ tiêu này của Philippin là 36%, Mianma là 51,11% (năm 1997), Mailaixia 15,7% và Inđônêxia 42,5% ( Niên giám thống kê 1999 trang 429, 430). Cơ cấu lao động này cũng phản ánh trình độ công nghiệp hoá- hiện đại hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động Việt Nam còn ở mức thấp kể từ năm 2000 trở về trước , tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá còn rất chậm, riêng năm 2001 sự chuyển dịch này tăng lên mạnh mẽ, báo hiệu tốc độ công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta nói chung và nông thôn nói riêng đang ngày càng phát triển và có lợi cho đất nước Biểu 4: cơ cấu lao động nông thôn theo ngành và theo vùng kinh tế ( đơn vị: %) Vùng kinh tế 1996 2000 Nông lâm ngư nghiệp Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ Nông lâm ngư nghiệp Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ Toàn quốc 81,64 6,83 11,53 76,66 8,86 14,48 Đồng Bằng Sông Hồng 85,21 6,29 8,5 75,00 11,08 13,92 Đông Bắc 92,42 2,41 5,17 90,23 3,51 6,26 Tây Bắc 97,84 0,1 2,06 95,68 0,88 3,45 Bắc Trung Bộ 86,3 5,51 8,19 78,76 9,03 12,22 Duyên hải miền Trung 80,28 7,28 12,44 74,96 9,7 15,35 Tây Nguyên 89,65 2,99 7,36 90,24 2,08 7,68 Đông Nam Bộ 63,43 16,32 20,25 60,50 15,94 23,56 Đồng bằng Sông Cửu Long 73,21 8,19 18,6 70,01 9,36 20,63 Nguồn: Tổng hợp từ Tạp chí lao động và xã hội( số12/2001) vàTạp Chí Con Sốvà Sự Kiện số5 , 6/ 2000 Như vậy, sau 5 năm, cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch theo xu hướng tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp, giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp. Mặc dù vậy, sự chuyển dịch này diễn ra với tốc độ chậm và có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng. Đồng bằng Sông Hồng có sự chuyển dịch nhanh nhất, sau 5 năm tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm hơn 10 % , trung bình mỗi năm giảm 2% trong khi cả nước chỉ giảm khoảng 1%. Điều này thể hiện phần nào lợi thế của vùng trong việc khôi phục và phát triển làng, phát triển ngành nghề phi nông nghiệp. Các vùng Đông Bắc và Tây Bắc có sự chuyển biến chậm , ở Tây Nguyên có sự có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo chiều hướng ngược lại , hoặc có thể coi như không có sự thay đổi. Sau 5 năm tỷ trọng lao động nông nghiệp của vùng tăng từ 89,65% năm 1996 lên 90,24 năm 2000, tỷ trọng này tuy tăng không nhiều song đây là dấu hiệu không mấy khả quan so với xu thế chung cuả cả nước. Vùng Đông Nam Bộ có tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng là 16,32%, dịch vụ là 20,25% (năm 1996) , tỷ lệ này tăng lên ở năm 2000 là 15,94% và 23,56%. Đây là vùng có tỷ lệ lao động tham gia vào các ngành công nghiệp , xây dựng, dịch vụ lớn nhất so với các vùng khác. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn như vậy chứng tỏ mức độ công nghiệp hoá nông thôn còn chậm và chưa tạo được sự chuyển dịch lao động. Nói cách khác, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế chung của cả nước mà còn phụ thuộc đáng kể vào sự phát triển của khu vực phi nông nghiệp ngay tại các vùng nông thôn , mức độ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, khả năng mở mang và phát triển các khu công nghiệp , đô thị mới… 3/ Nguồn nhân lực nông thôn còn thiếu việc làm và thu nhập thấp Biểu 5 : Tỷ lệ lao động thất nghiệp ở nông thôn qua các năm ( 1996 – 2000) Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Tỉ lệ lao động thất nghiệp(%) 0,6 2,2 3,1 4,2 4,8 Nguồn: Tạp chí Lao động xã hội ( 19/4/2000) Nguồn lao động thất nghiệp nông thôn tăng nhanh , gây cản trở cho quá trình giải quyết công ăn việc làm , là mối quan tâm hàng đầu của xã hội. Năm 1996, tỷ lệ lao động thất nghiệp ở nông thôn chỉ có 0,6% , năm 1997 tăng lên 2,2%, năm 1998 đã lên tới 3,1% , năm 1999 là 4,2% và năm 2000 là 4,8%. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu khiến cho dòng lao động nông thôn tràn vào các thành phố( nhất là các thành phố lớn) ngày càng mạnh và càng làm cho vấn đề lao động, thất nghiệp trở nên bức xúc hơn .Với phương châm sẵn sàng làm bất cứ việc gì để có thu nhập cho bản thân, gia đình, người lao động di dân từ nông thôn ra thành thị chấp nhận sinh sống trong những điều kiện môi trường ô nhiễm, chui rúc, làm phát sinh bệnh tật, ảnh hưởng trầm trọng đến sức khoẻ và đồng thời cũng làm phát sinh ra các tệ nạn xã hội , gây nên những bất ổn về tình hình an ninh trật tự xã hội cho các đô thị. Biểu 6 : Tỷ lệ thời gian lao động sử dụng ở nông thôn qua các năm (1996-2000) Năm Khu vực 1996 1997 1998 1999 2000 Đồng Bằng Sông Hồng 75,69 72,46 72,01 73,98 74,98 Đông Bắc 79,01 74,12 66,83 71,4 73,23 Tây Bắc 72,09 72,55 66,35 72,62 72,67 Bắc Trung Bộ 73,53 72,57 68,96 72,28 71,87 Duyên Hải Nam Trung Bộ 70,69 71,40 72,24 74,02 73,5 Tây Nguyên 74,98 73,8 76,97 78,65 76,74 Đông Nam Bộ 61,35 74,42 74,46 76,20 76,44 Đồng Bằng Sông Cửu Long 68,16 71,47 71,32 73,16 73,10 Tổng số 72,11 72,9 70,88 73,49 73,86 Nguồn : Tạp chí lao động xã hội (19/ 4/ 2000 ) Thời gian nông nhàn ở nông thôn đã tăng từ 27, 89 % ( năm 1996 ) lên 29,12 ( năm 2000 ), và giảm xuống còn 26,51% ( năm 1999 ) và 26, 14% ( năm 2000). Tuy thời gian nông nhàn ở nông thôn đã có xu hướng giảm xuống nhưng không đáng kể . Tính chung trong cả nước , tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn (năm 2000) là 73,86%, tăng hơn năm 1999 là 0,37%. Trong 8 vùng lãnh thổ của cả nước chỉ có 2 vùng có tỷ lệ này đạt cao hơn mức 75% là vùng Tây Nguyên 76,74% và vùng Đông Nam Bộ 76,44%. Năm 2001 khu vực nông thôn có hơn 30 triệu lao động , trong số đó, lao động thường xuyên thiếu việc làm khoảng 9 triệu người. Chính đặc điểm này của Nguồn nhân lực nông thôn đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có các chính sách giải quyết việc làm , tạo ra việc làm mới , chuyển dịch cơ cấu lao động để phát triển Nguồn nhân lực nông thôn. Năm 2000 , cả nước đã giải quyết được việc làm cho khoảng 1 triệu lao động . Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm đã có 55 vạn chỗ làm mới được tạo ra . Các trọng điểm thu hút được nhiều lao động mới là các dự án trồng rừng , dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh , xây dựng cơ sở hạ tầng và xuất khẩu lao động . Trong 6 tháng đầu năm thành phố Hà Nội đã giải quyết việc làm cho 26.000 lao động , tăng 11,7% so với cùng kỳ năm 1999 . Tại Bình Dương , do một số dự án mới được cấp giấy phép đi vào hoạt động và các dự án cũ mở rộng sản xuất nên 6 tháng đầu năm 2000 đã giải quyết được việc làm cho 13.837 lao động . Tại Vĩnh Phúc tính đến tháng 9/ 2000 đã giải quyết được việc làm cho khoảng 7000 lao động ở khu vực nông thôn và 8000 lao động ở nghành công nghiệp và xây dựng , gần 2000 lao động ở nghành dịch vụ . Trong khu vực kinh tế nhà nước , số lao động đã tăng thêm 1,7% ( trong 6 tháng đầu năm 2000) so với cùng kỳ năm 1999 Năm 2000 , mặc dù nền kinh tế đă có dấu hiệu khởi sắc , giải quyết việc làm cho người lao động đã đạt được những kết quả khả quan hơn năm 1999 , song lao động –việc làm vẫn đang là vấn đề hết sức bức xúc . Chính từ thực tế đó , tại cuộc họp thông lệ hàng năm giữa Thủ tướng Chính phủ và các doanh nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh vào giữa tháng 3/2000 vừa qua , Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã nhấn mạnh một trong năm vấn đề cần phải tháo gỡ hiện nay là “số người thất nghiệp và không có công ăn việc làm ngày càng tăng đang là vấn đề hết sức nghiêm trọng . ở thành phố có tới 7% số người thất nghiệp , còn ở nông thôn 10 triệu người , mỗi năm chỉ làm có 80 đến 100 ngày công . Không rút ra 50% số người ở nông thôn sẽ không không giải quyết được vấn đề lao động và thu nhập của nông dân “ Vấn đề là ở chỗ làm cách nào để thu hút được 50% số lao động ở nông thôn sang làm các ngành nghề phi nông nghiệp ?”. Theo báo cáo của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội ( Bộ LĐ- TB& XH) tại Hội nghị Chính phủ mở rộng vừa diễn ra, mặc dù năm 2001, cả nước đã tạo ra được 1,4 triệu chỗ làm việc mới, nhưng bức tranh lao động- việc làm hiện nay còn nhiều gam màu tối và chưa thể có bước đột phá quan trọng trong năm 2002. Kết quả điều tra lao động- việc làm năm 2001, do Bộ LĐ- TB & XH thực hiện cho thấy, mặc dù năm 2001 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị có giảm hơn so với năm 2000, nhưng giảm không đáng kể. Tính chung cả nước, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn còn 6,28%. Một số địa phương như TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng..tỷ lệ thất nghiệp còn cao hơn nhiều. Tại Hà Nội, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 7,39%, Hải Phòng 7.11% và TP.HCM 6,04%. Cuộc điều tra cho thấy trong 61 tỉnh, thành vẫn còn tới 9 tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp trên 7%, 11 tỉnh có tỷ lệ từ 6,5%-7%, 10 tỉnh từ 6%-6,5%. Ngoài ra, vẫn còn 67% số tỉnh có tỷ lệ sử dụng thời gian lao động tại khu vực nông thôn dưới 75%. Theo bình luận của các chuyên gia, dẫu năm 2002 có đạt được mục tiêu về lao động việc làm ( tạo việc làm mới cho 1,4 triệu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 6,2% và nâng tỷ lệ thời gian sử dụng ở nông thôn lên 76%) thì bức tranh về việc làm của nước ta vẫn chưa đưọc cải thiện đáng kể, vì trung bình mỗi năm lại thêm 1,1 triệu người bước vào độ tuổi lao động cần có việc làm. Cộng thêm vào đó là gần 1,5 triệu người thất nghiệp “ tồn dư” từ năm 2001, khoảng 10.000 người rời quân ngũ hàng năm, chưa kể số lao động thuộc diện dôi dư trong các doanh nghiệp Nhà nước sẽ diễn ra ngày càng mạnh trong thời gian tới. Dự kiến năm 2002 Việt Nam sẽ có 50.000 lao động xuất khẩu ( con số này năm 2001 là 35.000 người ). Bộ LĐ-TB& XH đã đề xuất một số giải pháp cần thiết để đạt mục tiêu giải quyết việc làm của năm 2002, trong đó đáng chú ý nhất là hoàn thiện chính sách cho vay vốn từ Quỹ quốc gia hỗ trợ, giải quyết việc làm. Trong năm 2002, sẽ tập trung ưu tiên cho các đối tượng lao động thuộc diện dôi dư trong các doanh nghiệp Nhà nước , lao động bị mất việc làm tại các vùng đô thị hoá và lao động trở về sau khi làm việc ở nước ngoài. Trong suốt một thập niên qua , sự phát triển kinh tế Việt Nam đã cho thấy : Những năm nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao , việc làm tạo ra nhiều , tỷ lệ lao động xã hội thất nghiệp giảm, đời sống dân cư được cải thiện , những năm kinh tế tăng trưởng giảm sút , sản xuất đình trệ , việc làm giảm và lao động thất nghiệp và thiếu việc làm tăng lên . Thời kỳ trước khi nền kinh tế chịu tác động của khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định, việc làm cho người lao động được tạo ra ngang với tốc độ tăng lao động tự nhiên hàng năm, thu nhập và mức sống dân cư được cải thiện một cách sâu sắc. Biểu hiện rõ nhất là tỷ lệ nghèo đói đã giảm rõ rệt trong một thời gian ngắn. Từ chỗ dân cả nước thiếu lương thực , phải nhập lương thực của nước ngoài, đến nay Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Theo ước tính của ngân hàng thế giới, vào giữa những năm 80 cứ 10 người dân Việt Nam thì có 7 người sống trong tình trạng nghèo đói, chỉ sau một thập niên của tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam đã giảm xuống còn một nữa, giảm từ 58% (1993) xuống còn 37% (1998) . Từ năm 1993-1998 là những năm nền kinh tế có mức tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% xuống còn 37% và số người sống dưới “ ngưỡng nghèo lương thực”- mức thấp hơn- đã giảm từ 25% xuống còn 15%. Điều đó có nghĩa là, trong giai đoạn này , ngay cả những người nghèo nhất cũng đã được cải thiện mức sống, giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống. Tỷ lệ hộ đói nghèo trên tổng số hộ trong cả nước, theo tiêu chuẩn hiện nay đã giảm từ 20% (1995) xuống còn 11% ( năm 2000). Mức tiêu dùng bình quân đầu người tính theo giá hiện hành tăng từ 2,6 triệu đồng ( năm 1995) lên 4,3 triệu đồng ( năm 2000). Tuy nhiên, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm xuống không đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Biểu7: Các nguồn thu nhập của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam (ĐV: % Các nguồn thu nhập Thu nhập bình quân của hộ gia đình( quy theo thời giá năm 1998, ĐV:1000 đồng Tốc độ tăng giảm trong vòng 5 năm(%) Tỷ trọng thu nhập hộ gia đình Năm 1993 1998 1993-1998 1993 1998 Nông nghiệp 2867 4606 60,6 37,2 46,8 Hoạt động phi nông nghiệp 1443 1884 30,5 18,7 19,2 Thu nhập từ Lương 1687 1685 -0,1 21,9 17,1 Các nguồn khác 1710 1663 -2,8 22,2 16,9 Tổng cộng 7707 9838 27,6 100,0 100,0 Nguồn: Báo cáo việc làm- thu nhập của Viện Kinh tế học( năm 1999) Có thể thấy, thu nhập chính của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam từ 1993-1998 là từ hoạt động nông nghiệp , nguồn thu này đã tăng lên rất nhanh 60,6% trong vòng 5 năm, và chiếm tỷ trọng lớn trong các nguồn thu của hộ nông dân. Thu nhập giữa các vùng dân cư có sự khác nhau, và thu nhập của lao động trong các ngành, các khu vực kinh tế cũng khá chênh lệch nhau. Nhìn chung, thu nhập của lao động thành thị cao hơn lao động nông thôn, lao động thuộc khu vực chính thức cao và ổn định hơn khu vực phi kết cấu. Theo số liệu năm 1998, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp là 46,8% , từ các hoạt động phi nông nghiệp là 19,2%, từ tiền công, tiền lương là 17,1%, các nguồn khác là 16,9%. Trong năm 2000, tỷ lệ này đã biến đổi là 41,6%; 25%; 22%; 11,4% . Theo điều tra của cục thống kê năm 2000 thì mức thu nhập của dân cư ở nông thôn là 225.000 đồng/ người/tháng tăng so với năm 1996 là 63,4%, tỷ lệ tăng bình quân hàng năm từ 1996-2000 là 17,8%. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn trong tổng số hộ cả nước là 17,73% . Trên phạm vi toàn quốc, nguồn thu từ sản xuất nông lâm ngư nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ trọng lớn nhất và vẫn còn tăng lên. Nếu năm 1996 tỷ trọng đó là 40,7% thì năm 1999 đã tăng lên 41,6%. ở khu vực nông thôn , tỷ trọng này còn cao hơn nữa: 57,3%(năm 1996) và 58,5% (năm 1999). Nguồn thu lớn thứ hai là tiền công tiền lương, tính trên phạm vi toàn quốc, từ 1996-1999 nguồn thu này đã tăng từ 20,6% lên 22,5%. Trong đó, khu vực thành thị vẫn tăng từ 14,9% lên 16,6%, tiền công của lao động thành thị cao hơn lao động nông thôn khoảng 44% và tăng khoảng 91% so với 1992- 1993. Tiền công của lao động nam cao hơn lao động nữ khoảng 21% và tăng khoảng 60% so với 1992- 1993. Tiền công và các khoản phụ cấp khác bình quân một tháng của lao động thành thị cao hơn 3 lần so với lao động nông thôn . Lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có mức tiền công cao nhất, thấp nhất là tiền công của lao động làm việc trong khu vực kinh tế tập thể. Nguồn thu lớn thứ ba là thu từ các hoạt động dịch vụ . Tính chung trong cả nước, nguồn thu này có hiện tượng thụt giảm, từ 17,9% (1996) xuống 15,9% (1999). Trong đó, khu vực thành thị vẫn tăng từ 28% lên 29,7%, khu vực nông thôn giảm từ 11,9% xuống 9,8%. Nguồn thu thứ tư là nguồn thu từ sản xuất công nghiệp – xây dựng. Tính chung cả nước, tỷ trọng của nguồn này tăng từ 7,8% (1996) lên 8,5% (1999). Trong đó , khu vực thành thị tăng từ 10,9% lên 11,8%. Khu vực nông thôn từ 4,7% tăng lên 5%. . Tóm lại, tăng trưởng- việc làm- thu nhập và mức sống luôn luôn đi đồng hành với nhau. Thất nghiệp tăng lên làm cho thu nhập và mức sống giảm xuống từ đó ảnh hưởng đến chất lượng Nguồn nhân lực gây ra hạn chế về mặt sức khoẻ, kìm hãm quá trình phát triển Nguồn nhân lực ở nông thôn . 4/ Chất lượng Nguồn nhân lực nông thôn . Việt Nam có một Nguồn nhân lực đông, dồi dào, cơ cấu trẻ và có khả năng tiếp thu kiến thức Khoa học kỹ thuật nhanh, cơ động cao và có truyền thống cần cù chịu khó. Nhưng chất lượng Nguồn nhân lực nước ta còn nhiều bất cập đặc biệt là chất lượng Nguồn nhân lực nông thôn . Thực tế, có khoảng cách lớn về chất lượng lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn . Theo kết quả điều tra lao động việc làm đăng trên tạp chí “Lao động xã hội” số 12 năm 2001 , đã chỉ ra rằng năm 2000 trên phạm vi toàn quốc, tỷ lệ lao động biết chữ là 96% tương đương với một số nước phát triển trong khu vực Singapo, Malaysia. Đối với khu vực nông thôn , tỷ lệ lao động biết chữ là 95% , chỉ thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước 1%. Lao động nông thôn chưa từng đến trường là11% cao gấp hai tại các đô thị, lao động nông thôn chưa tốt nghiệp cấp một xấp xỉ 28,5% gấp 1,6 lần tại các đô thị.._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0099.doc