MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
***
Để phát triển kinh tế đất nước thì việc huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài là những điều kiện cần thiết và có ý nghĩa quyết định, song đây cũng là những vấn đề khó khăn mà các nước đang phát triển gặp phải. Một trong những giải pháp mà các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam lựa chọn là xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất (gọi chung là KCN).
Mục tiêu phát triển các KCN là tạo đà cho tăng trưởng
64 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp phát triển khu công nghiệp Bỉm Sơn đến năm 2010 và những năm tiếp theo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nghiệp, tạo nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng bước phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Phát triển các KCN cũng để thúc đẩy các cơ sở sản xuất dịch vụ cùng phát triển, làm cơ sở cho việc phát triển các khu đô thị, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất. Thông qua phát triển KCN mà một hệ thống kết cấu hạ tầng mới, hiện đại đã nhanh chóng được hình thành. Kết cấu hạ tầng về kinh tế- kỹ thuật đã tác động quyết định đến quá trình hình thành và phát triển hạ tầng xã hội. Phát trriển các KCN đóng góp vào quá trình tăng trưởng còn thể hiện qua việc sử dụng một lực lượng lớn lao động tại chỗ, tạo thêm nhiều việc làm mới. Ngoài ra với việc ứng dụng công nghệ cao, mô hình sản xuất, quản lý ngày càng khoa học sẽ tạo ra một thế hệ những người lao động mới bản lĩnh, năng động, sáng tạo và có tác phong của người lao động công nghiệp. Họ là những lực lượng lao động luôn tiếp cận với những phương thức khoa học công nghệ, quản lý hiện đại tạo đà cho đất nước chủ động hội nhập.
Thực hiện theo đường lối của Đảng và Nhà nước, nhận thức được những đóng góp của KCN đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và đối với thị xã Bỉm Sơn nói riêng. Thời gian qua thị xã đã quy hoạch KCN Bỉm Sơn, sự ra đời của KCN là một bước đi đúng đắn cho chúng ta trên con đường xây dựng và phát triển kinh tế. Trên cơ sở kế thừa những kết quả đã đạt được. Tôi xin trình bày: "Một số giải pháp phát triển KCN Bỉm Sơn đến năm 2010 và những năm tiếp theo”.
Chuyên đề thưc tập gồm 3 chương:
Chương I: Sự cần thiết khách quan phải phát triển khu công nghiệp.
Chương II: Thực trạng phát triển khu công nghiệp trên địa bàn
Thị xã Bỉm Sơn.
Chương III: Một số định hướng và giải pháp nhằm phát triển
khu công nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn Th.s: Bùi Thị Lan đã hướng dẫn tôi hoàn thành chuyên đề này.
Sinh viên thực hiện: Đào Trung Thành
CHƯƠNG I.
SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI PHÁT TRIỂN
KHU CÔNG NGHIỆP.
1. Một số lý luận chung về khu công nghiệp.
1.1. Khái niệm về khu công nghiệp.
1.1.1. Khái niệm về Công nghiệp.
Công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất- một bộ phận cấu thành nên sản xuất vật chất của xã hội. Công nghiệp bao gồm ba loại hoạt động chủ yếu: Khai thác tài nguyên thiên tạo ra nguồn nguyên liệu, nguyên thủy, sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu khác nhau của xã hội, khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản xuất và trong sinh hoạt.
Để thực hiện ở hoạt động cơ bản đó, dưới sự tác động của phân công lao động xã hội trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công nghệ, trong nền kinh tế quốc dân hình thành hệ thống các ngành công nghiệp, khai thác tài nguyên khoáng sản, động thực vật, các ngành sản xuất và chế biến sản phẩm và các ngành công nghiệp dịch vụ sửa chữa.
Công nghiệp còn được hiểu là một ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, bao gồm một hệ thống các ngành sản xuất chuyên môn hóa hẹp, mỗi ngành sản xuất chuyên môn hóa hẹp đó lại bao gồm nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc loại hình khác nhau. Trên góc độ kỹ thuật và hình thức tổ chức sản xuất, công nghiệp còn được cụ thể hóa bằng các khái niệm khác như: Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp lớn và công nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp nằm trong nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, công nghiệp quốc doanh và công nghiệp ngoài quốc doanh.
1.1.2. Khái niệm về khu công nghiệp.
Hình thành và phát triển khu công nghiệp trên lãnh thổ của đất nước là một tất yếu. Trong điều kiện sự vận động của nền sản xuất xã hội và tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ ngày càng cao đòi hỏi phải cải tạo, xây dựng mới và phát triển khu công nghiệp sao cho đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất, thích ứng với từng thời kỳ nhất định.
Các khu công nghiệp với tình hình KT- XH khác nhau thì có những nội dung hoạt động kinh tế khác nhau.
Khu công nghiệp là một khu vực tập trung công nghiệp trên một lãnh thổ nhất định, nó là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều hình thức phát triển và thành phần kinh tế khác nhau cùng song song tồn tại.
Việt Nam hiện nay đã xuất hiện nhiều khu công nghiệp mới và đầu tư vào các khu công nghiệp dưới nhiều hình thức khác nhau. Theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, có đề cập đến một khái niệm sau:
Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất.
Khu chế xuất: Là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập
Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ bao gồm nghiên cứu - triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới địa lí xác định do Chính phủ hoặc Thủ tướng quyết định thành lập. trong khu vực công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất.
1.2. Mục tiêu của khu công nghiệp.
1.2.1. Mục tiêu của nước thành lập khu công nghiệp.
Ở mổi quốc gia các KCN được thành lập trong những điều kiện khác nhau, với những thời điểm và tính chất khác nhau, các KCN đều có mục tiêu gắn với sự phát triển của quốc gia. Mục tiêu chung của các nước khi thành lập KCN:
+ Tạo công ăn việc làm cho người lao động: Ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam với dân số phần lớn đang ở độ tuổi lao động và đặc biệt trình độ người lao động còn thấp thì viêc phát triển các KCN là điều tất yếu nhằm giải quyết việc làm cho đa số lao động. Từ đó tạo động lực thúc đẩy phát triển KT- XH.
+ Sự phát triển của các KCN được coi là bước đệm nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập của đất nước với nền kinh tế thế giới. Từ đó tiếp thu được các công nghệ hiện đại, phương pháp làm việc và quản lý có tổ chức của nước ngoài.
+ Tiếp cận công nghệ tiên tiến trên thế giới. Do Việt Nam là nước có trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ còn thấp so với các nước trên thế giới. Bởi thế để phát triển nền kinh tế của Việt Nam, việc thành lập các KCN sẽ tạo điều kiện hấp thụ trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của các nước tư bản trên thế giới nhằm tạo điều kiện phát triển đất nước một cách nhanh chóng và hiệu quả.
+ Đẩy nhanh việc hội nhập nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới. KCN là bộ phận quan trọng của nền kinh tế trong đất nước, thu hút đầu tư nước ngoài lớn, tăng cường các quan hệ xuất nhập khẩu với các nước trên thế giới.
Việc thành lập các KCN sẽ tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận với trình độ sản xuất, công nghiệp tiên tiến và giải quyết việc làm cho người lao động sẽ thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển.
1.2.2. Mục tiêu của nhà thầu đầu tư nước ngoài.
+ Tránh hàng rào thuế quan được chính phủ bảo hộ tại nước sở tại, là mục đích của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm tăng cường lợi nhuận cho mình. Việc các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước sở tại có thể được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế của nước đó.
+ Tận dụng các yếu tố sản xuất rẻ để giảm chi phí sản xuất sản phẩm ở các nước đang phát triển. Ở các nước có nền kinh tế phát triển nguồn lực đòi hỏi chi phí cao, còn ở các nước đang phát triển thuê lao động rẻ, chi phí xã hội thấp, đã làm cho các nhà đầu tư xuyên quốc gia nhanh chóng chuyển ngành công nghiệp có hàm lượng lao động sống cao ở mước mình sang các nước đang phát triển. Điều này làm tăng lợi nhuận của các nhà đầu tư, đồng thời họ lại có khả năng xuất khẩu hàng hóa mình làm ra sang các nước khác với sức cạnh tranh cao.
+ Giảm được các vấn đề về ô nhiễm môi trường tại các nước phát triển. Do Ngành sản xuất công nghiệp tạo ra nhiều chất thải ở những mức chưa xử lý hoặc chưa xử lý hết đã gây ra sự ô nhiễm môi trường, điều này sẽ làm các doanh nghiệp bi phạt nặng ở các nước phát triển. Vì vậy các nhà đầu tư có xu hướng chuyển các ngành sản xuất công nghiệp sang nước đang phát triển nhằm bảo vệ môi trường của nước họ và giảm chi phí trong sản xuất.
1.3. Những đặc trưng cơ bản của khu công nghiệp.
Về bản chất KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ công nghiệp, có những đặc trưng cơ bản như:
+ Các KCN đều có đặc trưng cơ bản chung nhất là được nước sở tại thực thi các chính sách ưu đãi về thuế, hải quan, giá thuê đất, áp dụng những thủ tục hành chính đơn giản... nhằm tạo môi trường pháp lý và kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư và công nghệ kỹ thuật mới, hiện đại từ nước ngoài. Hỗ trợ các nhà đầu tư trong và ngoài nước các thủ tục hành chính và triển khai thực hiện các dự án đầu tư, hướng dẫn các doanh nghiệp cấp phép đầu tư.
+ KCN thực chất là hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp trên lãnh thổ nhất định, có hàng rào ngăn cách với phần lãnh thổ còn lại, nó được xây dựng với cơ sở hạ tầng, tiện ích công cộng (điện, nước, bưu điện, giao thông...) hiện đại và thuận lợi nhất với mục đích tạo ra sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Kinh nghiệm được rút ra từ các KCN trên thế giới cho thấy diện tích hợp lý đối với một KCN khoảng từ 10(ha) đến 300(ha). Thường thì một công ty xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng đảm nhiệm phần phát triển cơ sở hạ tầng của KCN. Các công ty này có thể là doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước... Các công ty phát triển cơ sở hạ tầng này khi xây dựng song phần kết cấu hạ tầng thì có quyền cho các doanh nghiệp, công ty khác thuê lại.
+ Các KCN đều phải thành lập hệ thống Ban quản lý KCN cấp tỉnh tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để trực tiếp thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN. Mặt khác tham gia vào công tác quản lý tại các KCN tập trung còn có nhiều Bộ như: Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ thương mại, Bộ xây dựng... Ban quản lý các KCN thực hiện quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp trong KCN theo cơ chế "một cửa, tại chỗ" và các văn bản có liên quan đã tạo môi trường và hành lang pháp lý thông thoáng, cởi mở đối với các nhà đầu tư.
+ KCN có những điều kiện tăng nhanh tốc độ phát triển khoa học- công nghệ, ứng dụng các thành tựu vào sản xuất, có khả năng và điều kiện sản xuất hoàn thiện. Do đó đòi hỏi lực lượng lao động trong các KCN phải có tay nghề cao để thích ứng với các công việc ngày càng hiện đại.
1.4. Phân loại khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Ở Việt Nam hiện nay các KCN được chia thành những loại sau:
Thứ nhất: các KCN được hình thành nhằm đáp ứng yêu cầu cho việc di dời các nhà máy xí nghiệp đang ở trong nội thành các đô thị lớn. Do nhu cầu chỉnh trang đô thị, bảo vệ môi trường mà phải di chuyển các KCN đến nơi khác. Phát triển các KCN trong nội thành các thành phố sẽ gặp nhiều hạn chế khi việc mở mang diện tích sẽ khó thực hiện và tốn nhiều tiền của, ảnh hưởng tới môi trường sống trong thành phố, gây mất cảnh quan đô thị... Do đó quá trình di dời KCN trong nội thành các thành phố là tất yếu, bắt buộc.
Thứ hai, các KCN được thành lập trên khuôn viên đã có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động, nhằm phát triển các KCN theo đúng quy họach do Chính phủ đặt ra, đồng thời tiến hành việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại để phát triển các KCN. Điều kiện cần đối với các KCN loại này là tăng cường đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngày càng hiện đại, có hệ thống xử lý chất thải tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong KCN hoạt động một cách thuận lợi nhất.
Thứ ba, Các KCN có quy mô nhỏ. Các KCN loại này hoạt động chủ yếu dưới hình thức chế biến nông, lâm, thủy sản...Chủ yếu có ở các vùng ven biển và khu có nguyên liệu công nghiệp lớn.
Thứ tư, Các KCN được xây dựng mới toàn bộ, có quy mô lớn và hiện đại. Đây là những KCN được các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các KCN loai này được xây dựng với quy mô lớn, tốc độ nhanh với các công trình về cơ sở hạ tầng hiện đại, công nghệ tiên tiến...
Các KCN nói trên được xây dựng, phát triển tùy theo từng điều kiện và mục đích khác nhau của từng vùng, địa phương trong cả nước.
1.5. Vai trò của khu công nghiệp.
1.5.1. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong quá trình thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được coi là một trong những chiến lược quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Thời gian qua, khu vực có vốn FDI đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển kinh tế, và ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước. Tính đến năm 2005 cả nước đã cấp giấy phép đầu tư cho hơn 6.000 dự án đầu tư nước ngoài trong đó có 6.030 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký là 51,018 tỷ USD, vốn thực hiện là 27,986 tỷ USD. Điều đáng chú ý là có tới trên 1/3 số vốn đăng ký(17,6 tỷ USD) và 1/3 số dự án(2.202 dự án) đang được thực hiện trong các KCN và KCX.
Có được kết quả như trên, có sự đóng góp to lớn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN ở Việt Nam. Phát triển các KCN đã trở thành một trong những chiến lựơc huy động và khai thác hiệu quả các nguồn vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ, trình độ tổ chức quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Qua thời gian xây dựng, phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam đã trở thành nhân tố quan trọng trong công cuộc thu hút vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn FDI. Lợi ích to lớn mang lại là thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư cân thiết từ bên ngoài để phát triển quá trình sản xuất, tăng giá trị sản xuất hàng công nghiệp của Việt Nam. Do cơ sở hạ tầng của các KCN, KCX được chuẩn bị kỹ lưỡng cùng với nhiều ưu đãi đặc biệt đối với các nhà đầu tư nên các nhà đầu tư rất hài lòng, ưng ý khi đầu tư ở các KCN.
1.5.2. Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
KCN được xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh về giao thông, điện, nước... cùng các chính sách ưu đãi, khuyến khích của Nhà nước đối với các nhà đầu tư. Điều này đã tạo ra sức thu hút lớn với nhiều dự án đầu tư tập trung cho các ngành công nghiệp và dịch vụ công nghiệp cũng như khuyến khích xuất khẩu. Các KCN này được ví như một thế giới thu nhỏ phản ánh các tiềm năng phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia.
Bên cạnh đó: các KCN đã góp phần tạo ra những vùng kinh tế trọng điểm làm phát huy lợi thế so sánh và tiềm lực hiện có của đất nước. Sự hình thành các KCN ở những vùng có tiềm lực phát triển thì thu hút nhiều dự án đầu tư đã làm cho đất nước có sự phân bổ địa lý kinh tế khá rõ rệt. Sự phát triển các KCN đã và đang đóng góp vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu vùng, ngành, lãnh thổ theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
1.5.3. Tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Trong tiến trình phát triển các KCN đã tạo thêm nhiều cơ hội và việc làm mới, đặc biệt là lao động dư thừa ở nông thôn. Theo số liệu điều tra, hiện nay 1 ha đất KCN và KCX tạo ra 150 chỗ lam việc kể cả lao động trực tiếp và gián tiếp (trong đó lao động trực tiếp bình quân khoảng 81 người/1ha). Cũng năm 2005, các KCN đã thu hút thêm gần 60 nghìn lao động trực tiếp, tăng 50% so với năm 2004, đưa tổng số lao động trực tiếp trong các KCN lên hơn 10 người, chưa kể gần 2 triệu lao động gián tiếp khác. Như vậy, việc hình thành các KCN ở các tỉnh đã và đang biến chủ trương "ly nông bất ly hương" thành hiện thực, góp phần giải quyết sự quá tải về cơ sở hạ tầng các thành phố lớn do chuyển dich lao động từ nông thôn ra thành thị.
Sự di dân từ các vùng nông nghiệp về các thành phố lớn và tỉnh có KCN tập trung đã tác động làm giảm lao động dư thừa trong nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây là sự chuyển biến hợp lý trong lao động phù hợp với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
Các KCN luôn đòi hỏi có một lực lượng lớn lao động tay nghề cao, chuyên môn giỏi. Do vậy việc đào tạo nghề cho công nhân đáp ứng nhu cầu cho các KCN cũng chính là điều kiện quan trọng để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công.
1.5.4. Nâng cao năng lực công nghệ sản xuất và quản lý cho đất nước.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại KCN là có vai trò tưong đối quan trọng trong việc tiếp thu công nghệ mới và hiện đại.
Bảng 1: Phân loại trình độ công nghệ của các doanh nghiệp trong KCN Việt Nam năm 2004.
Thành phần kinh tế
Trình độ công nghệ so với thế giới.
Hiện đại
Trung bình
Lạc hậu
Doanh nghiệp trong nước.
11%
35,6%
53,4%
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
45,4%
54,6%
0%
Nguồn: Vụ KCN, KCX- Bộ KH&ĐT năm 2004.
Có thể nói thông qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các KCN mà nước ta có thể nhanh chóng tiếp thu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa hoc, kỹ thuật và công nghệ. Việc tiếp thu công nghệ và kỹ năng, kinh nghiệm quản lý rất có ích cho sự phát triển kinh tế của nước, với việc nâng cao chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của nhiều mặt hàng, đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu. Các KCN tập trung cũng có thể được coi là các khu công nghệ cao với những ngành công nghiệp được áp dụng các thiết bị công nghệ khoa học kỹ thuật vào bậc nhất trên thế giới.
1.5.6. Đẩy mạnh xuất khẩu và thu ngoại tệ.
Các KCN, còn góp phần tạo ra một bước nhảy vọt về sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao thay thế hàng nhập khẩu, chẳng những đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn cho cả nhu cầu sản xuất trong nước nhằm tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu; đồng thời nâng cao kim ngạch xuất khẩu nhằm tăng thu ngoại tệ cho nền kinh tế nước ta
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2002 đến năm 2005.
Đơn vị: Tr.USD.
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
Kim Ngạch XK
16.705,8
20,149,3
26.504,2
32.233,0
Tốc độ tăng (%)
11,2
20,6
31,5
21,6
Nguồn: Kinh tế 2005 - 2006 Thời báo Kinh tế Việt Nam trang 69.
Nhờ vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu nên chúng ta có thể có thêm nguồn ngoại tệ nhập khẩu máy - thiết bị hiện đại để tiếp tục thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế kinh tế vững chắc, đồng thời thu hẹp dần tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế để nhanh chóng tiến tới thời kỳ thặng dư cán cân thanh toán quốc tế, tăng dự trữ ngoại hối, giúp cho đồng tiền nước ta ngày càng ổn định theo hướng trở thành đồng tiền tệ trong khu vực và trên thế giới.
2. Điều kiện hình thành và các yếu tố tạo ra sự thành công của khu công nghiệp.
2.1. Điều kiện hình thành khu công nghiệp.
Sự hình thành KCN phải phù hợp với quy hoạch phát triển hệ thống KCN trong phạm vi cả nước, kế hoạch phát triển ngành kinh tế kỹ thuật cũng như quy họach phát triển kinh tế xã hội của địa phương đó, dựa trên đường lối của Đảng và Nhà nước. Trường hợp muốn hình thành các KCN đã có trong quy họach tổng thể thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trưng ương chỉ đạo việc lập báo cáo nghiên cứu khả thi thành lập KCN và trình duyệt theo quy định hiện hành. Trường hợp muốn hình thành KCN chưa có trong quy hoạch tổng thể thì Bộ kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ công nghiệp, Bộ xây dựng, ban quản lý các KCN Việt Nam và các cơ quan liên quan đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định, hình thành KCN đó.
Điều kiện quan trọng khi thành lập KCN là cần phải xác định nhu cầu thành lập KCN và phải có kế họach vận động các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào KCN. Cần phải có chính sách khuyến khích đầu tư vào KCN thông qua cơ chế hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư.
Thực tế cho thấy, một số KCN đã được thành lập, đã xây dựng kết cấu hạ tầng tương đối hoàn chỉnh đồng bộ và tương đối hiện đại song đang gặp khó khăn trong việc thu hút đầu tư, do đó không đạt được mục tiêu đề ra. Do vậy, khi xem xét thành lập KCN cần cân nhắc kỹ lưỡng nhu cầu thành lập KCN, khả năng kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào KCN, coi đó là một trong những điều kiện quan trọng của việc thành lập KCN.
Việc đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN, có tính đến các đầu mối kỹ thuật ngoài KCN, khu dân cư phục vụ công nhân, lao động làm việc tại KCN, các trường học, cơ sở khám và chữa bệnh phục vụ KCN.
Việc hình thành các KCN cần phải có các giải pháp về vốn, cấp điện, cấp thoát nước, giao thông, thông tin, môi trường, lao động để đảm bảo tính khả thi của KCN.
Xây dựng quy họach cụ thể về mặt bằng KCN. Xác định diện tích KCN bao gồm khu sản xuất, khu thương mại, khu làm việc, số lượng các doanh nghiệp và ngành nghề chủ yếu. Từ đó xác định phương hướng mặt hàng, sản phẩm chủ yếu trong KCN đó có phù hợp với định hướng phát triển kinh tế kỹ thuật, tương ứng hay không, kể cả định hướng tiêu thụ sản phẩm, vấn đề xuất khẩu sản phẩm.
2.2. Các yếu tố tạo ra sự thành công của khu công nghiệp.
Sự thành công của một KCN đòi hỏi cần có đồng thời các yếu tố sau:
2.2.1. Xác định rõ nhu cầu và mục tiêu của khu công nghiệp được xây dựng.
Khu công nghiệp được xây dựng phải là kết quả của nhu cầu hết sức cần thiết vì việc tìm kiếm một khu đất, khai thác nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng cho một KCN là điều không đơn giản. Đối với các KCN-KCX việc xác định đúng đắn mục tiêu là rất quan trọng. Mỗi KCN được xây dựng với mục tiêu trước mắt và lâu dài khác nhau. Vì thế cần xác định rõ mục tiêu để có những quy định thích hợp. Mục tiêu ban đầu ngắn hạn của các KCN là thu hút vốn đầu tư và tạo việc làm thì trước tiên phải khuyếch trương cho việc xây dựng KCN để các nhà đầu tư biết đến, từ đó cho họ cơ hội tìm hiểu về KCN để có quyết định đầu tư.
2.2.2. Địa điểm xây dựng hợp lý.
Khu công nghiệp có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống. Vì vậy tìm địa điểm phù hợp để xây dựng KCN là điều rất quan trọng. Thông thường các KCN thường được xây dựng ở vùng ngoại thành nhưng đồng thời cũng phải thuận tiện về giao thông, cơ sở hạ tầng để có thể tiết kiệm chi phí triển khai. Măt khác việc xác định địa điểm còn giảm thiểu những ảnh hưởng về môi trường do KCN tạo ra.
2.2.3. Hệ thống dịch vụ thuận lợi.
Xây dựng hệ thống dịch vụ như dịch vụ thông tin liên lạc, y tế, khách sạn, vui chơi giải trí... để cho việc ra vào KCN được dễ dàng, không gây phiền hà cho nhà đầu tư. Đồng thời phải đảm bảo an ninh trật tự, đảm bảo về an toàn về người và tài sản trong KCN, không để xảy ra các hiện tượng trộm cắp tài sản trong KCN gây mất niềm tin cho các nhà đầu tư.
2.2.4. Hệ thống kết cấu hạ tầng đầy đủ.
Hệ thống kết cấu hạ tầng là yếu tố không thể thiếu, nó bao gồm: hệ thống xử lý chất thải, hệ thống điện, nước, thông tin liên lạc, phòng làm việc của Ban quản lý KCN... chính phần cứng(hệ thống cơ sở hạ tầng) này sẽ quyết định chủ yếu đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN.
2.2.5. Hệ thống các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các nhà đầu tư vào khu công nghiệp.
Xây dựng hệ thống dịch vụ thuận lợi và hệ thống kết cấu hạ tầng đầy đủ là một trong những yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư. Nhưng nếu chỉ có như vậy thì chưa đủ mạnh để hấp dẫn họ. Bên cạnh đó cũng cần phải có những ưu đãi hỗ trợ đối với các nhà đầu tư vào KCN. Điều này là rất cần thiết vì việc xây dựng một KCN đã khó nhưng thu hút đủ các công ty trong và ngoài nước vào xây dựng xí nghiệp để hoạt động trong KCN còn khó hơn nhiều và đó mới chính là điều quyết định sự thành bại của KCN.
2.2.6. Bộ máy quản lý hoạt động với hiệu quả cao.
Bộ máy quản lý KCN phải hoạt động tích cực, hiệu quả và tránh các thủ tục gây phiền hà cho các nhà đầu tư. Cố gắng thực hiện cơ chế một cửa, tại chỗ để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư tiết kiệm được cả thời gian và chi phí.
2.3. Vai trò của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Ở nhiều nước đang phát triển, mô hình KCN đã và đang trở thành mô hình phát triển kinh tế quan trọng. Mặc dù ở các nước khác nhau, mức độ thành công các KCN không giống nhau, tuy nhiên, nhiều ý kiến thống nhất cho rằng: KCN là đầu mối quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); tạo động lực lớn cho quá trình tiếp thu công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh hàng xuất khẩu, thúc đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển kết cấu hạ tầng công nghiệp, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, mở rộng quan hệ thương mại quốc tế. KCN là mô hình mang lại lợi ích cho các bên tham gia. Đối với các nhà đầu tư đó là con đường thâm nhập hiệu quả vào thị trường nước sở tại, sử dụng nguyên liệu, nguồn nhân công rẻ tại chỗ. Đối với nước sở tại, là thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh, học hỏi kinh nghiệm quản lý, tác phong công nghiệp, tạo hiệu ứng lan tỏa, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa.
Trong gần 20 năm thực hiện cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế thế giới, nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng. Tỷ lệ tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm (trung bình giai đoạn 2001 -2005 đạt 7,5%), cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ lệ tiết kiệm tăng nhanh ( gấp 3 lần, từ 11% GDP năm 1986 lên 39% năm 2005). Tổng kim ngạch ngoại thương ở Việt Nam tăng 40 lần trong 25 năm qau; số mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt giá trị từ 1 tỉ USD trở lên tăng từ 0 mặt hàng năm 1981 lên 5 mặt hàng năm 2005. FDI và ODA ngày càng đóng vai trò quan trọng phát triển kinh tế , góp phần cung cấp vốn, cải thiện công nghệ, phương thức quản lý tiên tiến, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, thị trường xuất khẩu lớn hơn, đa dạng hơn, tăng tính cạnh tranh và việc làm cho người lao động. Tỷ suất FDI/ GDP bắt đầu tăng từ cuối thập kỷ 1980 lên 6,41% năm 1994, đạt 15,5%. năm 2005 với tổng giá trị 6 tỉ USD, tổng lượng vốn ODA đạt 30 tỉ USD trong vòng 13 năm qua.
Trong bức tranh kinh tế chung đó của đất nước, KCN là điểm sáng, có những đóng góp không nhỏ cho tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tiếp nhận công nghệ hiện dại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu... ĐIều này được thể hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau:
+ Trong năm 2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp các KCN đạt khoảng 14 tỉ USD, chiếm tỷ trọng gần 30% tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp và tăng 25% so với năm 2004. Năm 2005 kim ngạch xuất và nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước, trong đó riêng xuất khẩu đạt khoảng 6 tỷ USD, chiếm khoảng 21,5% tổng kim ngạch và nhập khẩu của cả nước. Tại Hà nội, vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN chiếm tỷ trọng lớn, đạt tới 98% tổng vốn đầu tư. Nguồn vốn này đóng góp 7,5% vào tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và được coi là động lực, tạo sự đột phá cho sự tăng trưởng kinh tế của Hà Nội. Chỉ tính riêng 9 tháng đầu năm 2005 có 67 doanh nghiệp hoạt động trong 3 KCN tập trung đã đạt tổng doanh thu 795,4 triệu USD, xuất khẩu 550,52 triệu USD, nộp ngân sách nhà nước 25,48 triệu USD và tạo thêm 28.160 việc làm cho người lao động. Mặc dù các KCN của Hà Nội chỉ chiếm 16% tổng số dự án và 18% tổng vốn đăng ký của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn nhưng lại chiếm tới 43% tổng doanh thu, 88% tổng kim ngạch xuất khẩu và 8% tổng mức nộp ngân sách Nhà nước và đã tạo được 35% số việc làm mà các dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn tạo ra.
+ Thu hút khá lớn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Riêng đầu tư trực tiếp nước ngoài, năm 2005, các KCN đã thu hút hơn 300 dự án với tổng số vốn đăng ký trên 1,8 tỷ USD, chiếm gần một nửa tổng vốn đầu tư nước ngoài mới cấp giấy phép của cả nước. Đồng thời, các KCN còn khoảng 60% tổng vốn bổ sung các dự án trong cả nước.
+ Tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp. Các KCN đã thu hút thêm gần 60.000 lao động trực tiếp, tăng 50% so với năm trước. Các doanh nghiệp có vốn FDI góp phần làm tăng chất lượng nguồn nhân lực, kể cả lao động quản lý và kỹ năng lao động.
+ Thúc đẩy đổi mới và hoàn thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Các doanh nghiệp trong các KCN đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế, hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính, nhất là thể chế tiền tệ và tín dụng, ngoại hối của các địa phương và cả nước nói chung.
+ Tạo điều kiện cho các địa phương phát huy thế mạnh đặc thù của mình, đồng thời hình thành mối liên hệ, hỗ trợ phát triển trong vùng, miền và cả nước.
+ Các KCN góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới và công nghệ mới, làm cho cơ cấu kinh tế của nhiều tỉnh, thành phố và khu vực toàn tuyến hành lang kinh tế nói chung từng bước chuyển biến theo hướng một nền kinh tế công nghiệp hóa, thị trường, hiện đại.
+ Góp phần quan trọng vào mở rộng thị trường, đẩy nhanh kinh tế đối ngoại và tăng kim ngạch xuất khẩu cho khu vực hành lang kinh tế. Do đa dạng hóa thị trường, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngọai, nên các doanh nghiệp trong các KCN đã đẩy mạnh được xuất khẩu hàng hóa. Các doanh nghiệp trong các KCN còn góp phần làm thay đổi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu và cơ cấu nhập khẩu, mở rộng thị trương tiêu thụ trong khu vưc và trên thế giới.
Tóm lai:
Việc phát triển KCN là nhân tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Đó là những tụ điểm tập trung các xí nghiệp sản xuất, chế biến công nghiệp nhằm thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài; đưa nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất, thuc đẩy quá trình tiến bộ khoa học công nghệ, đảm bảo tốc độ tăng trưởng bền vững, tạo nhiều việc làm cho người lao động.... Sự phát triển của KCN là một yếu tố có tính quyết định để thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa toàn bộ nền kinht tế quốc dân
Các KCN đã góp phần tạo ra nhiều công việc cho người lao động, từ đó làm thay đổi cơ cấu lao động ._.xét cả về ngành nghề lẫn phân bổ theo vùng, ngoài ra làm cho thu nhập của người lao động ở đây cũng không ngừng tăng lên. Điều này đã nâng cao mức sống của người lao động, điều kiện sinh hoạt của người dân không ngừng tăng lên. Góp phần nâng cao dân trí của cộng đồng dân cư xung quanh.
Không những thế các KCN đã tạo điều kiện thuận lợi để thị trường nước ta hội nhập với thị trường thế giới. Sự hình thành và phát triển các KCN cũng như hoạt động đầu tư nước ngoài khác trong những năm qua đã tạo ra những đối trọng đáng kể thúc đẩy chúng ta kiên quyết cải cách hành chính, đổi mới cơ chế quản lý, giảm bớt tệ quan liêu, tham nhũng, tạo niềm tin thu hút, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài mạnh dạn bỏ vốn kinh doanh trong các KCN.
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KCN TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BỈM SƠN.
1. Đặc điểm tự nhiên Kinh tế- Xã hội của thị xã Bỉm Sơn ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển của khu công nghiệp.
1.1. Vị trí địa lý của Thị xã Bỉm Sơn.
Bỉm Sơn là thị xã nằm ở phía bắc tỉnh Thanh Hóa (được tái lập từ ngày Ngày 18 tháng12 năm 1981), nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của tỉnh Thanh Hóa, tiếp giáp với Thị xã Tam Điệp, cách Thành phố Ninh Bình 30km, cách Thành phố Thanh Hoá 34km và cách Thủ đô Hà Nội 120km.
Diện tích tự nhiên 6.688,1ha, trong đó đất xây dựng đô thị là 803,34 ha, Bỉm Sơn có khí hậu nhiệt đới rất thích hợp cho sinh trưởng và phát triển loại cây con có giá trị cao như: dứa, mía, táo, cây cảnh, cây dược liệu, chăn nuôi gia súc gia cầm v v…
Bỉm Sơn có địa hình tương đối hỗn hợp giữa đồng bằng và đồi núi. Có tuyến giao thông quốc lộ 1A quan trọng chạy qua nối Hà Nội với các tinh miên trung, tuyến đường sắt Hà Nội-Thanh Hoá. Các tuyến đường giao thông liên tỉnh, nội thị, liên thông được phân bố tương đối đồng đều và hợp lý trên địa bàn tỉnh, đến nay đã nhựa hoá gần 73%. Tất cả các tuyến giao thông kể trên tạo thành một mạng lưới giao thông tương đối thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội của thị xã. Hệ thống lưới điện trên địa bàn tỉnh tương đối phát triển, đảm bảo đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp. Trong quy hoạch phát triển khu vực kinh tế trọng điểm của tỉnh và khu vực bắc miền trung đã được Chính phủ phê duyệt, dọc trục đường 1A từ Hà Nội đi TP Hồ Chí Minh là khu vực ưu tiên bố trí các KCN, tập trung phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, điện tử, chế biến…
1.2. Dân số và nguồn nhân lực của Thị xã Bỉm Sơn.
Bỉm Sơn là thị xã có dân số tương đối đông, tính đến hêt năm 2006 dân số thị xã Bỉm Sơn có khoảng 57.373 người, mật độ trung bình 857,85 người/km2, lực lượng lao động trên trong tuổi có trên 20 nghìn người, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 62,3%, bao gồm: đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật, hàng năm tạo việc làm cho gần 1 nghìn người bước vào tuổi lao động. Người dân Thị xã Bỉm Sơn có truyền thống hiếu học khả năng tiếp thu nghề khi được đào tạo nhanh đặc biệt họ dễ được chấp nhận tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đặt trên địa bàn Thị xã Bỉm Sơn.
1.3. Nguồn tài nguyên thiên nhiên của Thị xã.
Ở Bỉm Sơn tài nguyên khoáng sản hầu như không có gì ngoài núi đá vôi, đất đồi, đất sét, đất nông nghiệp và nước ngầm. Quỹ đất nông nghiệp của Bỉm Sơn còn nhiều tiềm năng để khai thác đặc biệt là tăng vụ, tăng diện tích reo trồng cây vụ đông, đặc biệt là tăng diện tích cũng như năng suất trồng cây công nghiệp.
1.4. Tình hình Kinh tế của Thị xã Bỉm Sơn.
Nền kinh tế thị xã tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng cao. Các thành phần kinh tế phát triển đồng đều. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân thời kỳ 2001-2005 đạt 17,3% cao hơn so với cả nước.
- Cơ cấu Kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001-2005 trên địa bàn:
+ Công nghiệp-Xây dựng 89,5 %.
+ Thương mại- Dịch vụ 8%
+ Nông lâm nghiệp 2,5%.
- Tổng giá trị sản xuất địa bàn năm 2005 tăng 2,2 lần so so với năm 2000.
- GDP bình quân đầu người 1.083 USD, tăng bình quân 12.8% so với năm 2000.
(Nguồn: Báo cáo tình hình Kinh tế Xã hội của Thị xã Bỉm Sơn giai đoạn 2001-2005)
Trong năm 2006 tình hình kinh tế thị xã tiếp tục phát triển ổn định, tốc độ tăng trưởng khá cao đạt 16,5%, giá trị sản xuất địa bàn đạt 3.375.867 Triệu đồng = 98,4% KH; Trong đó công nghiệp- xây dựng (CN- XD) tăng 15,1% so với cùng kỳ, thương mại- dịch vụ (TM- DV) tăng 36,1% so cùng kỳ, Nông lâm nghiệp tăng 3,3 % so cùng kỳ; GDP bình quân đầu người đạt 1.466 USD tăng 225 USD so với cùng kỳ; Thu ngân sách địa bàn đạt 175 tỷ đồng tăng 109,1% so với cùng kỳ; Thu ngân sách địa phương đạt 28.553 Triệu đồng tăng 150 % so kế hoạch tỉnh giao; Thu ngân sách thị xã đạt 49.783 Triệu đồng đạt 154% KH tỉnh giao; chi ngân sách thị xã đạt 46.633 Tr.đ tăng 145 % so kế hoạch tỉnh giao; giá trị xuất khẩu địa bàn đạt 6.065 nghìn USD đạt 101% KH, tăng 139,7 % so với cùng kỳ. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 792.339 Triệu đồng; Cơ cấu kinh tế thị xã tiếp tục phát triển đúng định hướng trong đó CN- XD chiếm 75,2%, TM- DV chiếm 20,5%, Nông lâm nghiệp chiếm 4,3%.
(Nguồn: Báo cáo tình hình Kinh tế Xã hội của Thị xã Bỉm Sơn năm 2006)
1.4.1. Công nghiệp - Xây dựng :
Giá trị sản xuất Công nghiệp- Xây dựng thời kỳ 2001-2005 tăng bình quân 17,1% . Sản suất Công nghiệp phát triển, năng lực sản xuất kinh doanh ngày càng cao, đã hình thành khu công nghiệp tập trung. Các doanh nghiệp được tổ chức sắp xếp lại sản xuất, tăng cường đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ. Một số đơn vị đã thực hiện cổ phần hoá; tạo thêm nguồn lực mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, chủ động hội nhập kinh tế, giải quyết việc làm ổn định và cải thiện đời sống người lao động, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển với tốc độ nhanh, loại hình phong phú và đa dạng, giá trị sản xuất kinh doanh năm 2005 chiếm 16,6% tỷ trọng kinh tế địa bàn. Đến năm 2005 có 188 doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập có 105 doanh nghiệp đi vào hoạt động sản suất kinh doanh đạt hiệu quả, trong đó 25 doanh nghiệp có ngành nghề sản xuất công nghiệp là chủ yếu.
Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp năm 2005 tăng cao so với năm 2000; Xi măng tăng 1,8 lần, bao bì PP tăng gấp 1,7 lần, gạch nung các loại tăng gấp 2 lần, đá xẻ tăng gấp 15 lần; sản phẩm may gấp 8 lần, tăm tinh bột ngô xuất khẩu 20.000 thùng, sơn mài xuất khẩu 20.000 sản phẩm.
Khu công nghiêp của thị xã đã được quy hoạch bước đầu thu hút 34 doanh nghiệp vào đầu tư tổng số vốn đăng ký là 5.973 tỷ đồng. Đến nay đã có nhiều dự án được thực hiện: Nhà máy lắp ráp ô tô tải nhẹ công suất 33.000 xe/năm; nhà máy chế biến rác thải rắn và sản xuất vi sinh công suất 15.000 tấn/ năm; nhà máy chế biến thức ăn gia súc. Dây chuyền sản xuất xi măng mới có công xuất 2 triệu tấn/ năm của Công ty Xi măng chuẩn bị đầu tư.
(Nguồn: Báo cáo tình hình Kinh tế Xã hội của Thị xã Bỉm Sơn giai đoạn 2001-2005)
Năm 2006 tiếp tục phát triển bền vững ở tất cả các thành phần kinh tế; tiểu thủ công nghiệp du nhập thêm một số ngành nghề mới vào địa bàn; các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh; doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tiến hành cổ phần hoá theo đúng quy định của Chính phủ, chủ động xây dựng kế hoạch, lộ trình của doanh nghiệp khi nước ta ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp thị xã đang đẩy nhanh tiến độ thực hiện như dự án Nhà máy Ô tô VEAM, Dây chuyền 2 của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn; một số dự án đã hoàn thành và đi vào sản xuất kinh doanh thu hút lao động cao như công ty TNHH TAEIL BEAUTY, Công ty May Đông Hải...
Giá trị sản xuất CN- XD địa bàn đạt 2.966.842 Triệu đồng = 97,7% KH, tăng 15,1% so với cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước chiếm 2.458.201 triệu đồng đạt 110% KH và chiếm 82% giá trị CN- XD. Một số ngành có sản lượng tăng cao như Tăm tinh bột, Gỗ mỹ nghệ xuất khẩu, Đá xẻ thô, May mặc; tuy nhiên có một số ngành nghề có sản lượng giảm so cùng kỳ như xi măng địa phương, thức ăn gia súc... Thị xã tiếp tục thu hút các doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh đến nay đã có hơn 200 doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh trên địa bàn, trong đó có 140 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tiếp tục duy trì và phát triển như: nghề khâu bóng, mây giang xiên; du nhập thêm một số ngành nghề mới như nghề móc sợi, nghề đan bẹ chuối xuất khẩu góp phần tăng thu nhập nâng cao đời sống nhân dân.
(Nguồn: Báo cáo tình hình Kinh tế Xã hội của Thị xã Bỉm Sơn năm 2006)
1.4.2. Thương mại- Dịch vụ.
Hoạt động Dịch vụ- Thương mại phát triển đa dạng phong phú, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Tốc độ tăng trưởng DV- TM tăng bình quân hàng năm 21,6 % . Tổng mức bán lẻ hàng hoá năm 2005 tăng gấp 2 lần so với năm 2000.
Các ngân hàng, quỹ tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển sản xuất, bảo tồn và phát triển hiệu quả vốn đầu tư. Mức huy động vốn đến năm 2005 là 635.000 triệu đồng tăng 3,1% so với năm 2000. Dư nợ năm 2005 đạt 740.000 triệu đồng tăng 5,7% so với năm 2000.
Bưu điện đảm bảo thông tin thông suốt kịp thời, được đầu tư hiện đại hoá với tốc độ nhanh cung cấp nhiều dịch vụ chất lượng cao; phát hành báo chí, lưu chuyển thư tín, bưu kiện tăng. Tổng số máy điện thoại trên mạng năm 2005 là 9.000 máy bình quân 16 máy/100 dân. Phát triển thuê bao Internet giúp cho cán bộ, nhân dân khai thác thông tin phục vụ công tác, học tập và sản xuất kinh doanh.
Ngành điện được đầu tư nâng cấp phát triển lưới điện đồng bộ, đáp ứng ngày càng cao phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân trên địa bàn. Thực hiện chương trình xoá bán điện qua công tơ tổng đưa số hộ dùng điện trực tiếp lên 7.665 hộ = 62% tổng số hộ toàn thị xã.
Xí nghiệp nước tiếp tục đầu tư tuyến ống nước cấp 2 kết hợp khuyến khích nhân dân đóng góp vốn lắp đặt mở rộng diện cấp nước nâng số hộ dùng nước qua xí nghiệp năm 2005 là 4.536 hộ = 43% số hộ nội thị.
Dịch vụ vận tải, sửa chữa ô tô, cơ khí tăng nhanh cả về số lượng và loại hình. Năng lực vận tải phát triển nhanh về phương tiện, khối lượng hàng hoá xếp dỡ, vận tải hành khách tăng bình quân 10,9% năm.
(Nguồn: Báo cáo tình hình Kinh tế Xã hội của Thị xã Bỉm Sơn giai đoạn 2001-2005)
Trong năm 2006 hoạt động TM- DV phát triển đa dạng; thị trường hàng hoá trên địa bàn phong phú, sức mua tăng, giá cả hàng hoá tương đối ổn định, lưu thông hàng hoá đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân; Giá trị TM- DV đạt 326.025 triệu đồng = 105% KH, tăng 36,1% so với năm 2005, trong đó giá trị sản xuất thuộc khu vực Nhà nước đạt: 257.559 triệu đồng = 99.5% KH, chiếm 78.9 % tổng giá trị TM- DV. Tổng mức bán lẻ hàng hoá trên địa bàn đạt 395 tỷ đồng = 103% KH; tăng 23,4% so với năm 2005. Giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt 6.065 nghìn USD đạt 101% KH, tăng 139,7% so cùng kỳ.
Các Ngân hàng Thương mại và Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động có hiệu quả huy động vốn đạt 792.126 tr.đ tăng 17% (so với cùng kỳ) và tăng 14% so với KH, dư nợ cho vay đạt 744.853 triệu đồng = 100% KH tăng 7.2 % (so với cùng kỳ). Ngành kinh doanh vận tải tiếp tục phát triển năng lực xếp dỡ đạt 930.000 tấn tăng 16% so KH và 57% so với năm 2005. Lắp đặt mới 2.221 máy điện thoại nâng tỷ lệ sử dụng điện thoại đạt 20.9 máy/100 dân (Trong đó Bưu điện: 1621 máy; Điện lực 600 máy) nâng tỷ lệ sử dụng điện thoại đạt 20.9 máy/100 dân. Số hộ dùng điện trực tiếp với chi nhánh đạt 11.040 hộ. Xí nghiệp nước cung cấp nước cho 5.829 hộ = 57% số hộ nội thị; đồng thời đang tiến hành đầu tư hạ tầng phục vụ nước cho gần 1.000 hộ dân ở xã Quang Trung.
(Nguồn: Báo cáo tình hình Kinh tế Xã hội của Thị xã Bỉm Sơn năm 2006)
1.4.3. Nông lâm ngư nghiệp:
Sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Giá trị sản xuất Nông lâm nghiệp năm 2005 tăng 1,5 lần so với năm 2000, tăng bình quân 12,8%/năm . Cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã và đang chuyển đổi sang cây, con có giá trị kinh tế cao theo hình thức trang trại tâp trung. Đã chuyển đổi một số diện tích trồng lúa không ăn chắc sang nuôi tôm cá. Sản lượng thuỷ sản năm 2005 đạt 357 tấn tăng gấp 4 lần so với năm 2000.
Chăn nuôi tiếp tục phát triển mạnh sang hình thức chăn nuôi trang trại tập trung, chủ yếu phát triển đàn bò lai sin, lợn hướng nạc và gà vịt siêu trứng . Đã triển khai chương trình nuôi tôm càng xanh và cá rô phi đơn tính bước đầu đạt kết quả.
Năng suất một số cây trồng tăng cao năng xuất lúa bình quân đạt 54 tạ/ha tăng 12,3 tạ/ha. Sản lượng lương thực đạt 9428 tấn tăng 1.700 tấn so với năm 2000. Trồng mía nguyên liệu đạt 1.184 ha, năng xuất 63 tấn/ha.
Tiếp tục khoanh nuôi, chăm sóc bảo vệ 700 ha rừng đến năm 2005. Trồng cây tập trung theo chương trình dự án 661và cây phân tán đạt kế hoạch.
(Nguồn: Báo cáo tình hình Kinh tế Xã hội của Thị xã Bỉm Sơn giai đoạn 2001-2005)
Đến năm 2006 nông nghiệp đạt nhiều tiến bộ, thị xã đang tiến hành chỉ đạo đổi điền dồn thửa; quy hoạch vùng chuyên canh trong sản xuất nông nghiệp, tiếp tục chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, mùa vụ; xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha. Trong năm tổng diện tích gieo trồng đạt 3.400 ha = 97% KH. Trong đó diện tích lúa đạt 1.601,84 ha = 101 % KH; năng suất đạt 59 tạ/ 1 ha, tăng 13% so với cùng kỳ; Tổng sản lượng lương thực đạt 9.710,0 tấn = 103% KH và 109% so với cùng kỳ; Giá trị sản xuất Nông- Lâm nghiệp đạt 83 tỷ đồng = 100% KH, tăng 3,3% so năm 2005.
Mặc dù chịu ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm và dịch LM ở gia súc, song đàn gia súc gia cầm thị xã vẫn phát triển ổn định: tổng đàn bò 4.165 con đạt 148% so với cùng kỳ; đàn trâu 560 con = 83.8% KH; đàn lợn 10.000 con =100% so với cùng kỳ; đàn dê 1.500 con = 125% so với cùng kỳ; đàn gia cầm 75.000 con = 93% so với cùng kỳ ; nuôi trồng thuỷ sản ước đạt 350 tấn sản phẩm .
Thị xã tiếp tục thực hiện tốt công tác chăm sóc và bảo vệ rừng, tiến hành trồng mới được 36,7 ha rừng . Kinh tế trang trại phát triển ổn định theo hướng sản xuất hàng hoá, có 80 hộ đã được cấp giấy chứng nhận trang trại; sản phẩm một số loại cây chính: Mía cây đạt 61.140 tấn; Dứa quả 11.900 tấn; sản phẩm cây ăn quả các loại 800 tấn, mủ cao su đạt 84 tấn.
(Nguồn: Báo cáo tình hình Kinh tế Xã hội của Thị xã Bỉm Sơn năm 2006)
2. Thực trạng phát triển khu công nghiệp ở thị xã Bỉm Sơn.
2.1. Quy hoạch phát triển khu công nghiệp.
Năm 2001-2005, thị xã Bỉm Sơn đã tập trung lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của thị xã đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; trong đó quy hoạch phát triển KCN có quy mô tổng diện tích đất quy hoạch 540 ha đã được Bộ KH&ĐT chủ trì cùng các bộ, ngành địa phương thẩm định, chấp thuận và giao cho UBND tỉnh Thanh Hóa quyết định phê duyệt quy hoạch, làm căn cứ quy hoạch phát triển ngành lĩnh vực trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn.
Thực tế những năm qua các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến thị xã Bỉm Sơn đều lựa chọn các vị trí thuận tiện đường giao thông, quanh quốc lộ 1A để thuận tiện cho công việc thông thương hàng hóa. Trước yêu cầu đó thị xã đã lập quy hoạch KCN thuận lợi về giao thông, cơ sở hạ tầng và dân cư đô thị.
Trong KCN của thị xã Bỉm Sơn được quy hoạch phát triển thành 2 KCN nhỏ là Khu A và Khu B, các Khu này đã có chủ trương đầu tư cơ sở hạ tầng, được thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập, UBND tỉnh đã quyết định thành lập và phê duyệt dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng tại KCN.
* KCN Bỉm Sơn là KCN tập trung đa ngành: Công nghiệp vật liệu xây dựng; Công nghiệp cơ khí, sửa chữa, lắp ráp ô tô, máy nông nghiệp, chế tạo kết cấu xây dựng; Công nghiệp hàng tiêu dùng; các ngành Công nghiệp và tiểu thủ Công nghiệp vừa và nhỏ.
* Vị trí KCN Bỉm Sơn nằm ngay trên quốc lộ 1A trong phạm vi quy hoạch chung của đô thị Bỉm Sơn, cách Hà Nội 120 km.
* Tổng diện tích quy hoạch tới năm 2010 là 540 ha.
* Vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khoảng 329,5 tỷ đồng.
* Lao động có thể thu hút lên tới 20.000 người và được phân bổ tại các khu dân cư đô thị của thị xã trong tương lai gần.
Bảng 3: Quy hoạch về quy mô và cơ cấu đất của khu công nghiệp Bỉm Sơn đến năm 2006.
TTT
Lọai đất
KCN
KHU A
KHU B
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
1
Đất xây dựng CN
-Đất xây dựng CN mới
-Đất CN hiên trạng
-Đất kho bãi hiện trạng
378,9
302,4
72,6
3,9
70,16
56
13,44
0,72
208,7
208,7
0
0
67,32
67,32
0
0
70,2
93,7
72,6
3,9
74
40,74
31,57
1,70
2
Đất dịch vụ CN
17
3,15
11,5
3,71
5,5
2,4
3
Đất trung tâm điều hành
10,7
1,98
5
1,6
5,7
2,48
4
Đất hạ tầng kỹ thuật
7,1
1,31
5
1,6
2,1
0,51
5
Đất sông hồ, cây xanh
60,8
11,27
45,7
14,75
15,1
6,57
6
Đất giao thong
65,5
12,13
34,1
11
31,4
13,65
Tổng
540
100
310
100
230
100
Nguồn: Bản quy hoạch KCN Bỉm Sơn2005.
Trong quy hoạch KCN thì đất xây dựng công nghiệp mới chiếm 1 tỷ lệ khá cao (302,4 ha nâng tổng diện tích quy hoạch lên 378,9 ha trong tổng số diện tích toàn KCN là 540 ha) điều này chứng tỏ KCN Bỉm Sơn đang dần hình thành và phát triển trên quy mô công nghiệp cũ là 76,5 ha. Bên cạnh đó quy hoạch về đất giao thông, đất hạ tầng kỹ thuật... được phân bố theo tỷ lệ thích hợp. Giữa 2 khu A và khu B đã có sự chênh lệch trong quy hoạch, diện tích khu A gấp 1,5 lần của khu B tuy nhiên đất xây dựng công nghiệp của khu A lại gấp khoảng 3 lần khu B, có thể thấy quy hoạch của 2 khu đã có sự khác nhau khá lớn.
2.2. Thực trạng sử dụng dất và đầu tư xây dựng cơ bản của khu công nghiệp thời gian qua.
2.2.1. Thực trạng sử dụng đẩt trong khu công nghiệp Thị xã Bỉm Sơn trong thời gian vừa qua.
Bảng 4 : Tình hình sử dụng đất cho các lô đất xây dựng trong khu công nghiệp đến năm 2006.
Đơn vị : ha
TT
Loai đất
Diện tích
Tỷ lệ (%)
Hsố sử dụng
1
Đất XN-CN nhỏ
71,9
25
0,6-0,7
2
Đất XN-CN TB
86,5
30,06
0,6-0,7
3
Đất XN-CN lớn
129,3
44,94
0,7
4
Tổng
287,7
100
Nguồn : Báo cáo về quy hoạch KCN Bỉm Sơn năm 2006.
Trong 378,9 ha đất được quy hoạch cho đất xây dựng các xí nghiệp công nghiệp trong KCN thì đến năm 2006 mới chỉ có 288,7 ha được xây dựng. Trong đó được chia thành 3 loại đất : Đất XN- CN nhỏ chiếm 25%; Đất XN- CN trung bình chiếm 30,06%; Đất XN- CN lớn chiếm 49,94%. Điều này chứng tỏ KCN đang hình thành với các XN- CN lớn. Hệ số sử dụng đất của KCN là không cao, đất trong KCN mới chỉ được sử dụng từ 60%- 70%, trong 287,7 ha thì mới chỉ sử dụng có 172,62 ha và tối đa là 201,39 ha.
2.2.2. Thực trạng vốn đầu tư xây dựng cơ bản vào khu công nghiệp ở Thị xã Bỉm Sơn thời gian qua.
Đến năm 2006 thì tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản vào KCN của thị xã Bỉm Sơn đạt 795,09 tỷ đồng. Trong đó đã thực hiện được 678,05 tỷ đồng chiếm 85,28% tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản vào KCN. Điều này đã thúc đẩy quá trình phát triển KCN.
2.2.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng.
Xây dựng KCN đúng tiến độ, tập trung xây dựng có trọng điểm, tổ chức thi công hợp lý, chú trọng đảm bảo sự đồng bộ, cân đối giữa cầu đầu tư và khả năng huy động vốn vào KCN; đảm bảo cân đối hợp lý trong và ngoài KCN. Trong đó vừa đảm bảo việc xây dựng các công trình sản xuất, vừa lo giải quyết nhà ở của người lao động, hệ thống chất thải, ô nhiễm môi trường... Giải quyết nhanh các vấn đề trong công tác giải phóng mặt bằng để giao đất đúng cam kết cho các nhà đầu tư để họ xây dựng.
2.2.4. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng.
Ban quản lý KCN phối hợp với công ty đâu tư phát triển hạ tầng tiến hành thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, ước tinh đến năm 2006 là 235,6 ha. Đồng thời hoàn thành việc bồi thường đất thoả đáng và hợp lý cho người dân.
3. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp ở Thị xã Bỉm Sơn đến năm 2006.
KCN được hình thành đã có nhiều dự án đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy nhiên có những dự án đã đăng ký nhưng chưa đầu tư vào, bên cạnh đó thì mức vốn đầu tư của các doanh nghiệp còn chênh lệch nhiều.
3.1. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp Bỉm Sơn .
Bảng 5: Các dự án đầu tư vào KCN Bỉm Sơn tính đến năm 2006.
STT
Tên dự án
Diện tích (m2)
Tổng mức VĐT ĐK
( tỷ đồng)
Đã TH (tỷđồng)
Chưa TH (tỷ đồng)
1
Xưởng nấu cán thépCT thương mại Thái Sơn
5.254
4,75
4,2
0,55
2
CT TNHH Sơn Hà
6.199
5,9
4,5
1,4
3
Xưỏng cán kéo thép CT TNHH Quyết Cường
8.008
5,3
5,3
0
4
Xưởng gia công cơ khí CT TNHH Thanh Xuân
1.364
1,5
1
0,5
5
DN Hoàng Bình
5.500
4,5
2,5
2
6
Xưởng SC ô tô Doanh nghiệp Đình Thiện
2.675
3,3
2,3
1
7
CT cổ phần Hoa Phượng
2.824
5,3
3,5
1,8
8
Khách sạn HTX Toàn Thắng
1.200
3,1
3,1
0
9
Xưởng sửa chữa ô tô XN sửa chữa ô tô Bắc Sơn
1.500
2,5
2,5
0
10
DN Sao Sáng
1.862
5,1
5,1
0
11
XN gia công kết cấu thép CT lắp máy và XD số 5
26.880
30
30
0
12
Xưởng SC ô tô Bắc Sơn
2.000
2,5
2,5
0
13
Nhà máy chế biến thức ăn gia súc
12.885
25
20
5
14
Nhà máy ô tô - Tổng cty máy động lực - Bộ CN
286.450
599,5
459
140
15
CT DV- TM Thăng Long
450
45
0
45
16
KS Cty Tiên Sơn
2.987,5
8
0,5
7,5
17
Xưởng SX đồ mỹ nghệ Cty Tiên Sơn
16.532
20
20
0
18
Nhà máy bia Sơn Hà
1.040
1,5
1,5
0
19
Cty TNHH Hà Thành
6.689
14,5
4,5
10
20
DN Hồng Phượng
1.200
1,37
1,37
0
21
Cty TNHH Quang Vinh
3.000
5,4
5,4
0
22
Cty QL và SC đường bộ 472
2.025
0,55
0,55
0
23
Cty DVTM Tiến Hà
1.800
3,565
2,5
1,065
24
Cty Thiên Thành
2.700
2,92
2,5
0,42
25
Cty TNHH Toàn Yến
5.000
3,565
2,5
1,065
26
HTX DV Hoàng Long
4.900
1,16
0
1,16
27
Cty DV- TM Thanh Hoá
4.900
0,87
0,87
0
28
HTX Quế Sơn
39.737
4,5
4,5
0
29
HTX Tam Sơn
1.587,5
0,76
0,76
0
30
Cty Thanh Bình
2.000
2,1
1,7
0,4
31
XN Thành Công
12.400
18,7
18,7
0
32
Cty Thái Sơn
5.994
4,75
4,5
0,25
33
Cty may Thanh Hoá
2.550
8
0
8
34
Cty may 40
40.000
12,7
1,7
11
35
Cty Thanh Xuân
1.200
1,5
1
0,5
36
Cty Hoàng Bình
5.500
4,5
2,5
2
37
Cty TM BBì HN
20.000
4,98
0
4,98
38
Cty máy động lưc Bộ CN
5.000
4,5
0
4,5
39
DN Huê Lương
2.675
3,3
3
0,3
40
Cty ĐT-XD và XNK Phục Hưng
8.915
5,55
0
5,55
41
Cty TAEIL BEAUTY (HQ)
6.493
8,64
5,5
3,14
42
Cty may Đông Hải
10.000
6,8
0
6,8
43
HTX NN Bắc Sơn
17.000
3,828
0
3,828
44
DN Tuấn Đạt
7.000
3,418
0
3,418
45
Tổng
605.876
905,176
631,55
273,626
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của KCN
Dựa vào bảng 5 ta thấy có 9 doanh nghiệp (CT DV- TM Thăng Long, HTX DV Hoàng Long, Cty may Thanh Hoá, Cty TM BBì HN, Cty máy động lưc Bộ CN, Cty ĐT-XD và XNK Phục Hưng, Cty may Đông Hải, HTX NN Bắc Sơn, DN Tuấn Đạt) đã đăng ký đầu tư nhưng chưa đầu tư vào KCN với tổng mức vốn của các doanh nghiệp này là 83,236 tỷ đồng chiếm 9,2% trong tổng mưc đầu tư của các doanh nghiệp vào KCN. Bên cạnh đó là 35 doanh nghiệp đã đầu tư vào với tổng mức vốn đầu tư là 821,94 tỷ đồng, đã đầu tư để sản xuất kinh doanh là 631,55 tỷ đồng, chiếm 76,836% mức đầu tư của 35 doanh nghiệp đầu tư này và đạt 69,77% trong tổng các dự án đầu tư vào KCN. Quy mô các doanh nghiệp nhỏ bé chỉ có mức vốn đầu tư khoảng 5 tỷ đồng, chỉ có Nhà máy ô tô - Tổng cty máy động lực - Bộ CN cao nhất với 599,5 tỷ đồng.
3.2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khu công nghiệp Bỉm Sơn trong thời gian qua.
Doanh thu của các doanh nghiệp trong KCN Bỉm Sơn trong giai đoạn 2003 - 2006.
Bảng 6: Doanh thu của các doanh nghiệp trong KCN Thị xã Bỉm Sơn từ năm 2003 đến năm 2006.
Tỷ đồng : tỷ đồng.
Năm
2003
2004
2005
2006
Doanh thu của KCN
137,161
172,823
193,029
237,426
Tốc độ tăng %
26
11,69
23
Nguồn: Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN.
Doanh thu của các doanh nghiệp trong KCN tăng dần qua các năm và đóng góp vào giá trị công nghiệp của Bỉm Sơn ngày càng tăng. Năm 2004 tăng 26% so với năm 2003, đạt 172,823 tỷ đồng. Năm 2005 đạt 193,029 tỷ đồng và tăng 11.69% so với năm 2004. Năm 2006, doanh thu của KCN là 237,426 tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2005.
Như vậy, các dự án đầu tư vào KCN đã làm cho doanh thu của KCN ngày càng tăng và góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Đánh giá tình hình phát triển khu công nghiệp Bỉm Sơn thời gian qua.
4.1. Những kết quả đạt được của các doanh nghiệp.
4.1.1. Tăng giá trị sản xuất công nghiệp góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Giá trị sản xuất (so với năm 94) của các doanh nghiệp trong KCN tăng dần qua các năm và đóng góp vào giá trị công nghiệp của Bỉm Sơn ngày càng tăng.
Bảng 7: Tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các Doanh nghiệp trong KCN.
đơn v ị: tr.đồng
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng gía trị sản xuất
987,2
959,2
1172
1654
1841,4
2277,3
Tốc độ tăng (%)
-2,8
22,19
41,13
11,33
23,67
Nguồn: Tình hình sản xuất của các DN trong KCN.
Từ năm 2001 đến năm 2006 tình hình sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp có nhiều biến động đáng kể. Năm 2002 giá trị sản xuất đạt 959,2 triệu đồng thấp hơn so với năm 2001 là 28 triệu đồng, điều này làm cho tốc độ của ngành công nghiệp giảm đi 2,8%. Nhưng đến năm 2003 thì tăng 22,19% so với năm 2002 và giá trị sản xuất đạt 1172 triệu đồng. Năm 2004 gía trị sản xuất đạt 1654 triệu đồng, tăng 41,13% so với năm 2003. Năm 2005 giá trị sản xuất đạt 1841,4 triệu đồng, tăng 11,33% so với năm 2004. Năm 2006 giá trị sản xuất đạt 2277,3 triệu đồng, tăng 23,67% so với năm 2005.
Sự ra đời của KCN đã thúc đẩy việc thay đổi tỷ trọng cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế của thị xã, làm tăng cơ cấu thành phần công nghiêp từ 58,7% của năm 2005 lên 69,5% trong năm 2006. Thị xã chuyển dần lên nền kinh tế có trình độ công nghiệp cao, điều này đã tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển về kinh tế- văn hoá- xã hội của Bỉm Sơn.
Như vậy, các dự án đầu tư vào KCN đã góp phần làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp cũng đồng thời làm tăng tỷ trọng của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4.1.2. Góp phần đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng hoá.
Trong số các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư vào KCN thì số doanh nghiệp xuất khẩu trên 20% sản phẩm (chủ yếu là các doanh nghiệp trong nước), 8 doanh nghiệp xuất khẩu 50% sản phẩm trở lên và có 12 doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50% sản phẩm. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh qua các năm cả về số tuyệt đối lẫn tương đối. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu là 0,12 (triệu USD), năm 2003 kim ngạch xuất khẩu tăng 615,611% so với năm 2002, và đạt 0,859 (triệu USD). Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu là 1,544 (triệu USD) tăng 79,82% so với năm 2003. Năm 2005 kim ngạch xuất khẩu đạt 1,701 (triệu USD) tăng 10,18% so với năm 2004. Đến năm 2006 thì kim ngạch xuất khẩu đã tăng lên mức 4,370 (triệu USD) tăng 156,88% so với năm 2005. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng. Năm 2002, 2003 thị trường xuất khẩu chủ yếu là một số nước thuộc khối ASEAN, thị trường Trung Quốc, Nhật Bản và Mỹ hay các nước Châu Âu hâu như không có. Sang năm 2004, 2005 và đặc biệt là năm 2006 thị trường được mở rộng hơn sang các nước Châu Á khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và cũng đã sang các nước Châu Âu và Mỹ. Các loại mặt hàng xuất khẩu cũng được đa dạng hoá. Những năm đầu chủ yếu là các mặt hàng tiêu dùng, hàng may mặc. Năm 2005, 2006 mặt hàng xuất khẩu được tăng lên cả về chủng loại lẫn số lượng như các sản phẩm về văn phòng, đồ điện dân dụng, các sản phẩm chế biến chất lượng cao…
Sự tăng trưởng trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong KCN là một nhân tố góp phần phát triển kinh tế của thị xã, và nó ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.
Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu của KCN thị xã Bỉm Sơn đến năm 2006.
Đơn vị : Tr. USD
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
Kim ngạch XK
1.800
12.881
23.162
25.520
65.555
Tốc độ tăng kim ngạch XK (%)
615,611
79,82
10,18
156,88
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động của KCN đến năm 2006.
Qua bảng trên ta có thể năm 2005 tốc độ kim xuất khẩu của KCN đã giảm nhanh từ 79,82% năm 2004 xuống 10,18% năm 2005, trong năm này KCN đã có đang đần hình thành nên những doanh nghiệp có thiên hướng xuất khẩu hàng hoá. Nhưng đến năm 2006 thì một số doanh nghiệp có thiên hướng xuất khẩu đã được hình thành và tìm được thị trường xuất khẩu làm tăng ngạch xuất khẩu một cách đột biến lên đến 156,88% và đạt 65.555 tr.USD.
4.1.3. Thúc đẩy việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và đổi mới công nghệ.
Cùng với tăng trưởng về giá trị, các dự án đầu tư vào KCN cũng là nguồn chính để bổ sung công nghệ tiên tiến, trang thiết bị hiện đại cho công nghiệp của thị xã. Các dự án này đều là các dự án đầu tư mới, thực hiện đầu tư trước và sau khi nước ta ra nhập WTO. Nhận thức được sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt trong quá trình hội nhập kinh tế với nền thế giới nên các nhà đầu tư đều phải tính đến việc đầu tư máy móc thiết bị, đảm bảo đủ sức cạnh tranh lâu dài. Trên thực tế, phần lớn các máy móc thiết bị chính của các dự án là máy móc thiết bị nhập khẩu cùng với chuyển giao công nghệ vận hành, chỉ một số ít được gia công lắp ráp tại Việt Nam, đảm bảo về yêu cầu về môi trường và sức cạnh tranh của sản phẩm. Điều này rất thuận lợi cho việc học hỏi các kỹ thuật mới, cải tiến công nghệ lạc hậu của thị xã Bỉm Sơn.
4.1.4. Giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng lao động của địa phương.
Các dự án đầu tư trong nước, ngoài nước thời gian qua đã góp phần tích cực vào việc tạo thêm việc làm cho người lao động. Hàng năm đã tạo được hàng nghìn công việc, giải quyết một số lượng lớn lao động cho thị xã, từ đó nâng cao mức sống của người dân, tác phong lao động công nghiệp, nề nếp làm việc của lãnh đạo cũng như người lao động, nâng cao trình độ điều hành, quản lý trong các doanh nghiệp KCN.
Bảng 9: Tình hình thu hút lao động trong KCN của thị xã Bỉm Sơn.
Đơn vị: người lao động.
KCN
Nhu cầu lao động
Lao động sử dụng
Khu A
3.427
2.854
Khu B
2.644
2.091
Tổng
6.071
5.945
Nguồn: Ban quản lý các KCN Bỉm Sơn
KCN của thị xã đã giải quyết việc làm cho khoảng 4.954 người lao động. Trong đó đã góp phần giải quyết lao động nhàn rỗi, làm tăng thu nhập cho người dân trong thị xã. Đồng thời góp phần làm giảm tiêu cực trong xã hội do đã giải quyết đươc một số lượng lớn lao động.
Thật vậy qua bảng trên ta có thể thấy được nhu cầu lao động trong KCN là tương đối (4.945người), trong đó số lao động sử dụng ở Khu A chiếm 51,84% tổng số lao động sử dụng, với mức sử dụng lao động ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31909.doc